BÁO CÁO CHÍNH TRỊ
CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN BÌNH CHÁNH (KHÓA V)
*
Nhiệm kỳ V của Đảng bộ Huyện Bình Chánh (1989 – 1990) là hai năm tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Nghị quyết Đại hội Đảng tòan quốc lần thứ VII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IV và các Nghị quyết, chỉ thị khác của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Thành ủy đã đạt được một số kết quả ban đầu rất quan trọng. Gần đây thành công của Đại hội Đảng các cấp đã tạo được một tinh thần: cởi mở, dân chủ, đòan kết và tin tưởng.
Hai năm qua trong bối cảnh chung Đảng bộ ta cũng chịu sự tác động phức tạp của tình hình Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu các thế lực phản động bên trong, bên ngoài tập trung đánh phá hòng làm suy yếu và lật đổ chúng ta, trong khi thực trạng đất nước vẫn chưa thóat khỏi sự khủng hỏang về kinh tế và xã hội. Thành phố và Huyện ta đang đứng trước những thử thách về nhiều mặt của quá trình chuyển đổi từ cơ chế quan liêu bao cấp sang hạch tóan trong sản xuất kinh doanh, chịu sức ép của cạnh tranh theo cơ chế thị trường và thiên tai còn ảnh hưởng lớn đối với sản xuất nông nghiệp. Tình hình tiêu cực trong nội bộ và ngòai xã hội chưa được ngăn chặn và giải quyết có hiệu quả. Nhìn chung ở mức độ khác nhau, trong đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong Huyện còn đó những tâm trạng ưu tư đối với hiện tại cũng như tiền đồ của ngày mai. Tình hình tổng quát trên đã chi phối trực tiếp, mạnh mẽ đến quá trình thực hiện nhiệm vụ của chúng ta. Để đánh giá sự lãnh đạo của Đảng bộ trong nhiệm kỳ V, Ban chấp hành kiểm điểm tập trung vào những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
PHẦN THỨ NHẤT
KIỂM ĐIỂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI V CỦA ĐẢNG BỘ
I/ TRÊN LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP:
Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Huyện Đảng bộ xác định Nông nghiệp – Dịch vụ - Thương nghiệp – Công nghiệp (tiểu thủ công nghiệp) xuất khẩu. Khi đi vào cuộc sống cụ thể thì cơ cấu kinh tế ấy diễn ra rất phong phú và cũng rất phức tạp, có mặt cần phải tập trung đẩy mạnh như sản xuất nông nghiệp, có mặt phải thu hẹp như thương nghiệp – xuất khẩu, không hòan toàn như dự kiến ban đầu. Nhưng nhìn lại từ họat động thực tiễn của các ngành kinh tế khác nhau của Huyện thì cơ cấu kinh tế được xác địnhlà đúng đắn.
1/ Sản xuất nông nghiệp:
Đảng bộ nhận thức đây là ngành kinh tế quan trọng hàng đầu, tinh thần này được quán triệt xuyên suốt. Trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện đã kiên quyết xóa bỏ những ràng buộc của cơ chế cũ, mở ra quyền tự chủ đối với nông dân từ sản xuất đến phân phối, phát huy không hạn chế năng lực sản xuất hộ gia đình.
Mức đầu tư cho nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn hơn các ngành khác. Tuy một số chỉ tiêu lương thực và chăn nuôi chưa đạt được mức đề ra, nhưng sản xuất nông nghiệp tương đối ổn định, vượt qua được những thử thách về thiên tai, dịch bệnh. Tạo được sự chuyển động theo hướng sản xuất hàng hóa, xuất hiện những mô hình mới trong nông nghiệp, một bộ phận nông dân đạt mức thu nhập khá, đời sống được cải thiện.
Trong nhiệm kỳ đã tập trung đầu tư các công trình thủy lợi trọng điểm: An Phú Tây, Phong Phú, Đa Phước, Quy Đức, vận dụng phương thức vận động nhân dân hợp tác vay ngân hàng và ngân sách Huyện hỗ trợ một phần để cùng làm, giải tỏa được sự trông chờ, ỷ lại theo kiểu bao cấp từ trước, nông dân trực tiếp quản lý đầu tư và có trách nhiệm cả quá trình sử dụng và bảo vệ. Từ kết quả của thủy lợi đã tăng vụ được 400 ha và năng suất cũng có sự thay đổi. Về điện đã được tăng cường đáng kể, có chú ý đến vùng sâu. Đã kéo được 46,7 km đường dây trung và hạ thế cới 1.850 KVA, phục vụ cho sản xuất và đời sống, sinh họat vật chất và văn hóa ở nông thôn có được nâng lên. Về mạng lưới dịch vụ kỹ thuật được củng cố từ Huyện đến tận cơ sở xã, ấp đã có họat động tích cực phục vụ có hiệu quả đối với sản xuất nông nghiệp, thông qua nhiều công trình thực nghiệm từng bước đã đưa được một lượng đáng kể giống mới vào đồng ruộng, được nông dân chấp nhận, gầy đây Huyện đã chỉ đạo đầu tư thêm và tiến hành khẩn trương mạnh mẽ hơn vấn đề này.
Trong hai năm 1990 – 1991 đồng ruộng của Huyện nhà bị dịch rầy nâu phá họai rất nặng, gần tòan bộ diện tích với mật độ rất cao. Trước tình hình đó Huyện ủy nhanh chóng xác định là nhiệm vụ đột xuất, cấp bách, tổ chức huy động lực lượng tổng hợp và chỉ đạo thường xuyên chặt chẽ, bằng nhiều biện pháp tích cực đã kịp thời dập tắt những ổ dịch, làm giảm thiệt hại đến mức thấp nhất…
Bảo đảm phân bón cho nhu cầu sản xuất cũng là một yêu cầu lớn, đặc biệt khi nguồn cung cấp từ Liên Xô có sự thay đổi đột ngột, thì tình hình khan hiếm dẫn đến mức gay gắt. Huyện ủy, ủy ban đã chủ trương thương mại hóa vật tự nông nghiệp, chỉ đạo các đơn vị kinh tế quốc doanh tập trung nguồn phân bón phục vụ sản xuất… Với sự năng nổ và trách nhiệm cao của Công ty Cây trồng và Phòng Nông nghiệp, chúng ta đã vượt qua và giành được kết quả tốt.
Để phát triển sản xuất phù hợp với đặc điểm sinh thái của từng khu vực, theo định hướng đã xác định là cánh Bắc phát triển cây công nghiệp ngắn ngày và rau đậu các lọai thu hẹp diện tích lúa hiệu quả thấp, cánh Trung đẩy mạnh thâm canh vùng lúa năng suất cao và thay đổi cơ cấu giống để xuất khẩu làm tăng giá trị kinh tế, cánh Nam tập trung cải thiện môi trường thông qua thủy lợi để tăng diện tích và tăng vụ gắn với kinh tế giống, kinh tế vườn và nuôi tôm.
Qua thực tiễn họat động của sản xuất định hướng đúng đi dần vào thế ổn định, nhiều lọai cây con đứng vững và phát triển được trên từng vùng như cây đậu phộng ở Vĩnh Lộc, cây mía ở Lê Minh Xuân, Bình Lợi. Riêng khu vực Phạm Văn Hai có triển vọng phát triển cây chuối xuất khẩu.
Chủ trương cho nông dân vay vốn ngân hàng được tổ chức làm thí điểm từ năm 1990 đã có kết quả tốt, tạo được mối quan hệ tin cậy giữa ngân hàng với nông dân. Đến nay đã có trên 1.000 hộ vay trên 600 triệu đồng.
Tình hình tranh chấp ruộng đất là hết sức phức tạp, có ảnh hưởng đến sản xuất và đòan kết nông thôn. Quan điểm xuyên suốt của Đảng bộ là kiên quyết giữ vững thành quả cách mạng, điều chỉnh sửa chữa những sai sót trước đây. Từ những quan điểm trên, Huyện đã vận dụng các chủ trương của Trung ương và Thành phố vào tình hình thực tiễn của địa phương với tinh thần tập trung cao, huy động cán bộ Đảng, chính quyền, đòan thể và một số ban ngành từ Huyện đến xã-ấp, giải quyết bằng những giải pháp chính trị, kinh tế, hành chính và pháp luật. Đến nay ta đã giải quyết được nhiều vụ việc căn bản giữ được sự ổn định trong đại bộ phận nông dân về ruộng đất ở nông thôn.
+ Về lãnh đạo trong sản xuất nông nghiệp còn có những mặt chưa làm được cụ thể như sau:
Trong lãnh đạo, chỉ đạo chưa chú ý đầu tư đúng mức cho khoa học kỹ thuật, chưa giải quyết được tốt khâu chế biến và tiêu thụ sản phẩm nhằm ổn định sản xuất và nâng cao giá trị hàng hóa. Người sản xuất luôn bị đọng với giá cả thị trường, sản xuất nông nghiệp chưa được bảo hiểm, nông dân chưa thực sự yên tâm để mạnh dạng đầu tư sản xuất.
Một bộ phận trong nông dân còn nghèo, có nhiều gia đình chính sách, nhiều hộ sống dưới mức trung bình, hàng năm phải giải quyết trợ cấp thường xuyên hoặc trợ cấp đột xuất, lao động thiếu việc làm ngày càng tăng, ta chưa tạo ra các điều kiện để mở ra ngành nghề ở nông thôn thu hút lao động giải quyết đời sống.
Vốn đầu tư cho thủy lợi chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc lớn vào thiên nhiên. Những công trình thủy lợi đã làm sự dụng còn hạn chế, hệ thống thủy lợi nội đồng bị xuống cấp, không được củng cố, sửa chữa.
Chuyển sang cơ chế khóan 10, thực tế tập đòan, hợp tác xã không còn, nhưng đến nay giải quyết những tồn đọng chậm, kéo dài gây mất lòng tin trong nông dân. Những đòi hỏi của sản xuất cần phải được tổ chức tập thể như thủy lợi, giao thông và những kết cấu cơ sở hạ tầng khác… thì chưa được đặt ra kịp thời.
Về ruộng đất vẫn còn là vấn đề phức tạp, số vụ tranh chấp còn lớn, hầu hết các xã đều có những vụ tranh chấp điển hình, nhiều vụ phát triển đến đất thổ cư, đền chùa và tranh chấp trong nội bộ thân tộc, gia đình. Sự chỉ đạo giải quyết còn thiếu nhất quán, thiếu kiên quyết. Về chủ trương thì với những quyết định, chỉ thị đã có, chưa đủ để giải quyết được tình hình. Số vụ việc phức tạp còn kéo dài, có nơi chính quyền cơ sở không phát huy được hiệu lực, cán bộ thực hiện bộc lộ tâm lý ngán ngại, buông trôi. Trong nông dân xuất hiện tình trạng coi thường kỷ cương pháp luật.
2/ Về thương mại:
Hai năm qua cơ sở kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ tăng gấp đôi, chủ yếu là cơ sở kinh doanh nhỏ. Hành lang dịch vụ đã hình thành và phát triển tương đối nhanh ở Quốc lộ 1 và xa lộ Đại hàn. Các Trung tâm dịch vụ thương mại, các chợ đầu mối, chợ khu vực được xây dựng mới và cải tạo nâng cấp, tạo thuận lợi thúc đẩy giao lưu hàng hóa phong phú, đa dạng với những qui mô khác nhau như: An Lạc, Bình Chánh, Quy Đức, Tân Túc, Cầu Xáng, Vĩnh Lộc… có tác dụng kích thích sản xuất hàng hóa trên địa bàn.
Xuất nhập khẩu có cố gắng mở rộng họat động, nhưng khi tình hình chung đã chuyển mạnh sang cơ chế thị trường thì không đủ sức vượt qua. Các ngành kinh tế tổng hợp như: Kế họach, Tài chính, Thuế… đã có những nỗ lực lớn, tập trung nguồn thu từ các ngành sản xuất kinh doanh, công nông nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là nguồn thu từ buôn chuyến phi mậu dịch, góp phần đáng kể cho ngân sách, bảo đảm yêu cầu chi tối thiểu cho nhiệm vụ chung của Huyện.
+ Về tồn tại khuyết điểm trong họat động thương mại của Huyện là: Các công ty, xí nghiệp thua lỗ nặng đến mức phải đình chỉ giải thể chiếm tỷ trọng lớn, có đơn vị mất hàng tỷ đồng (nghiêm trọng nhất là xí nghiệp Xi măng vôi mất trên 5 tỷ đồng) nhiều dư luận phê phán gay gắt và nghi ngờ tiêu cực. Tình hình trên có trách nhiệm lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của chính quyền và trực tiếp là các giám đốc đã kinh doanh sai chức năng, thiếu trách nhiệm quản lý và sử dụng đồng vốn vi phạm nguyên tắc tài chính kế tóan đã gây hậu quả lớn và ảnh hưởng xấu về nhiều mặt, tồn tại còn phải tiếp tục giải quyết hết sức khó khăn. Các giám đốc trên đã được kiểm điểm và bị xử lý kỷ luật, có đồng chí bị khai trừ ra khỏi Đảng.
3/ Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp:
Một số ngành nghề phát triển được ở qui mô vừa và nhỏ như vật liệu xây dựng, sửa chữa ô tô và một số nghề truyền thống như gia công trang sức, mỹ nghệ, trạm gỗ xuất khẩu…thu hút được nhiều lao động.
Tuy nhiên sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn Huyện còn nhiều yếu kémlà: vốn thiếu, trang thiết bị lạc hậu, thuế chưa hợp lý, giá cả thị trường không ổn định… do đó có một số cơ sở phải đóng cửa vì không cạnh tranh nổi với sự cạnh tranh của kinh tế thị trường, một số cơ sở có cố gắng tồn tại, nhưng chỉ họat động ở mức cầm chừng, số ngành then chốt chưa được đầu tư đúng mức để phát triển cho nên giá trị tổng sản lượng năm 1991 chỉ đạt 80% kế họach.
Giao thông vận tải: Trong nhiệm kỳ qua đã đầu tư với tổng kinh phí trên một tỷ đồng, duy tu và sửa chữa được một số cầu đường như: nâng cấp đọan đường kinh C - Ủy ban nhân dân xã Tân Nhựt, đường Bình Chánh, Tân Quý, Hưng Long, Tỉnh lộ 10 đường vào nông trường Láng Le, đường đất đỏ Vĩnh Lộc và dặm vánhiều đọan đường hư hại nặng, làm mới cầu Tân Nhựt, sửa chữa cầu Tân Kiên, thay được nhiều cầu khỉ.
Mặt tồn tại là việc sửa chữa tạm thời, không đảm bảo được độ vững chắc, hầu hết cầu đường lại tái xuống cấp, tình trạng hư hỏng càng nặng hơn, ảnh hưởng lớn đến vận chuyển lưu thông hàng hóa và đi lại của nhân dân. Chưa tổ chức tốt việc quản lý cầu đường, chưa huy động được sức dân để tu bổ sửa chữa cầu, đường nhỏ trong xóm ấp.
Xây dựng cơ bản: Khối lượng xây dựng vượt kế họach, chuyển 63 ha đất trồng trọt sang xây dựng cơ bản với trên 350 cơ sở sản xuất kinh doanh và nhà ở mới được xây dựng, tập trung phát triển mạnh ở Quốc lộ 1 từ An Lạc đến Bình Chánh và Xa lộ Đại Hàn.
Mặt hạn chế trong xây dựng cơ bản là công tác quản lý nhà nước còn nhiều sơ hở, sự phối hợp giữa Huyện và xã chưa chặt chẽ, để nhiều trường hợp mua bán đất đai và xây dựng trái phép, thiếu qui họach cụ thể cho cơ sở hạ tầng như đường bộ, cống thóat nước, hệ thống điện… làm ảnh hưởng phức tạp đến sự phát triển đô thị hóa sau này.
II/ TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA XÃ HỘI:
Đã tập trung đầu tư cho ngành giáo dục tổng kinh phí trên 2 tỷ đồng, xây dựng mới 94 phòng học, sửa chữa 225 phòng, xóa ca 3, tăng thêm một khối lượng lớn về trang thiết bị vật chất phục vụ yêu cầu dạy và học. Chất lượng giáo dục có được nâng lên. Tuy nhiên so với yêu cầu vẫn còn thấp, cả văn hóa và đạo đức. Chưa có kế họach bồi dưỡng nhân tài, còn 20% các em ở độ tuổi cấp 1 chưa được đi học, phong trào xóa mù chữ còn yếu. Mối quan hệ giữa nhà trường với cấp ủy, chính quyền đòan thể và gia đình chưa chặt chẽ.
Trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng chống dịch bệnh có chú ý đến vùng sâu, có nhiều cố gắng trong khám và điều trị. Trang thiết bị y tế có được tăng cường thêm, triển khai tốt việc phòng chống được các đợt dịch bệnh. Mặt yếu công tác y tế là phong trào chăm sóc bảo vệ sức khỏe chưa rộng khắp, môi trường vệ sinh kém, tỷ lệ tăng dân số còn cao.
Chính sách xã hội, nổi bật trong nhiệm kỳ là kết quả chăm lo các gia đình chính sách được nhiều hơn. Huy động được trên 1,3 tỷ đồng, xây dựng 366 căn nhà tình nghĩa (trong đó Huyện có một phần, còn lại phần lớn là do sự hỗ trợ của các ban ngành, đơn vị kinh tế của Thành phố và Trung ương) sửa chữa hàng trăm nhà, nhiều gia đình nhận sổ tiết kiệm, cấp phát trợ cấp đúng, đủ và kịp thời, giải quyết cứu trợ cho nhiều trường hợp khó khăn đột xuất, tổ chức dạy nghề, giới thiệu việc làm đã giải quyết được một phần lao động cho một số thuộc diện chính sách và anh em bộ đội xuất ngũ. Tồn tại là lao động không việc làm ngày càng tăng, phần lớn các gia đình chính sách còn khó khăn về nhà ở và đời sống, trị bệnh và học hành của con cháu, nhà nước chưa có chính sách ưu tiên về kinh tế cho các đối tượng này.
Các họat động văn hóa thông tin, thể thao đã vận dụng nhiều lọai hình hướng vào những công tác trọng tâm cổ vũ động viên thúc đẩy được sự nỗ lực chung để hòan thành nhiệm vụ. Có nhiều cố gắng trong quản lý ngành, phát hiện đấu tranh xử lý tích cực những sai trái vi phạm, giữ được tương đối trật tự ổn định về văn hóa trên địa bàn.
Mặt tồn tại là các tệ nạn mê tín, cờ bạc, ruợu chè, trong quan hệ ứng xử kém văn hóa có chiều hướng phát triển nhất là trong thanh thiếu niên. Chưa có những hình thức tổ chức thích hợp để thu hút tuổi trẻ nông thôn hướng vào những sinh họat văn hóa, thể thao lành mạnh tiến bộ.
III/ VỀ AN NINH QUỐC PHÒNG, TRẬT TỰ XÃ HỘI VÀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA:
- An ninh chính trị: Trong nhiệm kỳ Ban chấp hành Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo thực hiện: “xây dựng kế họach chuyên đề về an ninh trật tự thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa, kiên quyết tấn công địch và các lọai tội phạm, nhằm thực hiện mục tiêu hàng đầu là bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn Huyện”.
Bằng những chương trình công tác cụ thể đi sâu các nhiệm vụ: chống xâm nhập, chống vượt biên, quản lý đối tượng, xây dựng hệ thống trinh sát, phương án chống bạo lọan và tổ chức diễn tập…
Với kết quả tổng hợp của các nhiệm vụ đề ra chúng ta giữ được sự ổn định chung, nắm được tình hình, quản lý được địa bàn, giám sát được đối tượng.
Trong công tác bảo vệ nội bộ có đi sâu thêm một bước rà sóat phát hiện ra một số trường hợp để xem xét xử lý.
Về trật tự an tòan xã hội: đã thành lập được Ban chỉ huy thống nhất và tổ chức liên tục các đợt truy quét, phá được nhiều băng nhóm, giải tỏa được những tụ điểm phức tạp, vận động tự thú có kết quả, phát động được quần chúng bảo vệ được trật tự an tòan xóm ấp.
Tuy nhiên tình hình còn diễn biến phức tạp trên các lĩnh vực: kinh tế, tư tưởng, văn hóa, chính trị nội bộ… trong quản lý còn nhiều sơ hở, lỏng lẻo, phát hiện và đấu tranh không kịp thời, thiếu kiên quyết, mất cảnh giác, ở cơ sở lực lượng nồng cốt chưa sâu rộng và chất lượng còn thấp. Trình độ năng lực, bản lĩnh của đội ngũ cán bộ chưa tương ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
- Về quốc phòng: đã tập trung vào nhiệm vụ chủ yếu là nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu trên cơ sở xây dựng kế họach phòng thủ cơ bản sát với thực tiễn mọi mặt của địa phương, thực hiện diễn tập và bổ sung để kế họach ngày càng hòan chỉnh. Tổ chức lực lượng dân quân tự vệ và quân dự bị, thường xuyên kiện toàn củng cố, huấn luyện để nâng cao chất lượng, công tác tuyển quân đạt chỉ tiêu kế họach và có cố gắng thực hiện chính sách hậu phương quân đội. Gắn với lực lượng công an làm tốt nhiệm vụ giữ gìn trật tự an tòan trên địa bàn và kết hợp với các cơ sở, đòan thể tiến hành giáo dục quốc phòng tòan dân cho các tầng lớp nhân dân nhất là thanh niên.
Kết quả đạt được tương đối đều và có độ vững chắc. Nhưng cũng còn nhiều yếu kém là: chất lượng dân quân tự vệ và quân dự bị còn thấp, tổ chức không chặt chẽ, ý thức trách nhiệm, năng lực quân sự, trình độ sẵn sàng chiến đấu còn hạn chế, chưa có lực lượng nồng cốt tin cậy, chưa giải quyết tốt thanh niên ba chống, về chính sách hậu phương quân đội chưa có biện pháp giải quyết tốt hơn, việc làm cho quân nhân xuất ngũ, đời sống cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang còn nhiều khó khăn. Trong cấp ủy và chính quyền cơ sở chưa có nhận thức đầy đủ sâu sắcvề ý nghĩa quan trọngcủa nhiệm vụ an ninh quốc phòng trong tình hình mới. Chưa xác định rõ trách nhiệm và nội dung cụ thể về công tác quốc phòng và an ninh trong phạm vi phụ trách của ngành, đơn vị và địa phương.
-Về tăng cường pháp luật, pháp chếxã hội chủ nghĩa: Huyện đã chú trọng việc củng cố các ngành thuộc khối nội chính về các mặt: Tổ chức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sự phối hợp giữa các ngành trong khối với các đòan thể quần chúng và các cơ sở. Phấn đấu đưa dần họat động các ngành: Tư pháp, Kiểm sát, Thanh tra, Tòa án, Công an, Quân sự theo chức năng và đúng pháp luật. Việc tuyên truyền pháp luật trong các cơ quan nhà nước, trong các đơn vị kinh tế và các tổ chức xã hội có cố gắng thực hiện nhưng kết quả thấp. Tình trạng vi phạm pháp luật trong nhân dân, thực hiện các chế độ, qui định trong các cơ quan nhà nước vẫn còn nhiều mặt yếu. Sự công bằng xã hội bình đẳng trước pháp luật đang là vấn đề còn nhiều tâm tư trong Đảng cũng như ngòai nhân dân.
Vừa qua kết quả đạt được của từng ngành và chung của các ngành trong khối là sự đóng góp tích cực có hiệu quả cho sự ổn định, cho việc ngăn chặn một mức đối với tiêu cực tham nhũng trên các lĩnh vực. Nhưng mặt yếu là chưa chủ động phối hợp chặt chẽ, nhiều vụ việc kéo dài mất tính thời sự và yêu cầu chính trị của vụ án, một số vụ đã xử nhưng không được chấp hành, công tác thi hành án chậm. Nhìn chung đội ngũ cán bộ hiện tại trong khối chưa đủ sức để ngăn chặn, đẩy lùi mọi lọai tiêu cực, giữ nghiêm pháp luật kỷ cương trong đời sống xã hội.
IV/ NÂNG CAO HIỆU LỰC QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC:
Đã lãnh đạo tổ chức tốt bầu cử HĐND và UBNDhai cấp Huyện – xã.
Họat động của HĐND đi dần vào nề nếp và chất lượng ngày được nâng lên thể hiện dân chủ và tính thiết thực, thông qua các kỳ họp của HĐND, nội dung chuẩn bị trước, thảo luận và nghị quyết đúng nguyên tắc. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các ban, các tổ đại biểu, quy chế tiếp xúc với cử tri, trách nhiệm của đại biểu, chất vấn, kiểm tra, thẩm định họat động của UBND…
Họat động của UBND Huyện, xã chuẩn dần theo hướng tập trung quản lý nhà nước về mọi mặt trên địa bàn phụ trách. Đã kiện tòan tổ chức bộ máy gọn nhẹ hơn, sắp xếp lại và từng bước làm rõ dần chức năng của phòng ban, chức trách nhiệm vụ quyền hạn cụ thể của từng chức danh, mối quan hệ giữa các ngành, giảm nhân sự 20% trong năm 1991. Ủy ban nhân dân điều hành mọi họat động theo luật và các văn bản dưới luật nghiêm chỉnh, chặt chẽ, không tùy tiện. Các văn bản có tính pháp quy của địa phương được biên sọan và xem xét thận trọng trước khi ban hành. Nhìn chung là đúng đắn chưa có gì sai sót lớn.
Xây dựng kế họach kinh tế xã hội và tổ chức hướng dẫn thực hiện kế họach tháng, quí, năm có sơ tổng kết. Quá trình điều hành nhà nước có tập trung đi sâu trọng tâm trọng điểm có kiểm tra phát hiện và giải quyết tháo gỡ kịp thời những khó khăn đối với sản xuất và công tác của nhiều ngành nhiều địa phương và cơ sở.
Đánh giá chung là công tác quản lý nhà nước có được nâng lên một mức về chất.
Về những hạn chế khuyết điểm là: Cán bộ trong bộ máy nhà nước huyện, xã chưa được đào tạo hệ thống, đầy đủ, chưa đủ trình độ kiến thức theo yêu cầu mới.
Trong quản lý điều hành đã bộc lộ nhiều sơ hở, lỏng lẻo, thiếu những biện pháp kiểm tra, kiểm sóat chặt chẽ các họat động, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế.
Nhiều đơn vị kinh tế quốc doanh kinh doanh sai chức năng, không chấp hành đúng nguyên tắc tài chính kế tóan, tùy tiện sử dụng vốn sai mục đích không được phát hiện sớm để ngăn chặn từ đầu, đến khi quyết định đình chỉ hoặc giải thể thì phải chấp nhận thiệt hại lớn, nhiều giám đốc phải bị xử lý kỷ luật.
Các phòng ban có chức năng làm tham mưu cho Ủy ban nhân dân đồng thời quản lý ngành về mặt nhà nước như: Tài chính, Thuế, Nhà đất, xây dựng, thương nghiệp… chưa đủ sức so với khối lượng và tính chất công việc thuộc ngành phụ trách.
Tổ chức tiếp dân và giải quyết khiếu tố khiếu nại về đất đai và nhiều vấn đề tranh chấp trong nhân dân chưa hợp lý, nhiều vụ việc chậm trễ, lòng vòng và kéo dài, gây phiền hà cho dân. Tuy có nhiều cố gắng nhưng cách làm hiện nay không đủ sức và cũng không đủ thời gian so với khối lượng lớn đơn từ vụ việc và tính chất thì nhiều vụ hết sức phức tạp.
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã-thị trấn, ở mức độ khác nhau duy trì được sự họat động, có nhiều cố gắng trong quản lý điều hành mọi mặt sản xuất và đời sống ở địa phương. Nhưng mặt yếu chung là chưa đủ kiến thức về quản lý nhà nước, còn nhiều lúng tíng, sai sót trong những công việc cụ thể.
V/ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG:
Trong nhiệm kỳ, nhất là từ khi có nghị quyết 8B của Trung ương (khóa VI) đã tạo được sự chuyển biến nhận thức trong đảng bộ về tầm quan trọng và ý nghĩa quyết định sự tồn tại và thắng lợi của Đảng, là nhiệm vụ cơ bản chiến lược đồng thời còn là nhiệm vụ cấp bách trước mắt trong tình hình mới. Trong thực tiễn cũng tạo ra được sự chuyển động một bước là Mặt trận tổ quốc và các đòan thể được kiện tòan củng cố, đòan viên, hội viên cũng được chấn chỉnh, sắp xếp lại theo hướng nâng cao chất lượng. Tổ chức Câu lạc bộ Hưu trí và Hội Cựu chiến binh được thành lập và đi vào họat động.
Vận dụng phương thức họat động đòan thể phải gắn với cuộc sống. Hội Nông dân, Hội Phụ nữ đã đi sâu vào quần chúng hội viên, hướng dẫn, tổ chức, giúp đỡ tạo nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất có kết quả. Nhiều việc làm cụ thể, có tác dụng thiết thực về kinh tế và xã hội như: giới thiệu nông dân sản xuất giỏi, phổ biến kinh nghiệm tốt trong nuôi trồng, vay vốn ngân hàng, tổ phụ nữ đòan kết sản xuất, chăm sóc sức khỏe trẻ em… Mặt trận tổ quốc đã mở rộng diện tiếp xúc với các chức sắc tôn giáo nhiều đối tượng khác, tạo được không khí cởi mở, hiểu biết, xóa dần sự cách biệt mặc cảm, tổ chức tốt các cuộc vận động ủng hộ đồng bào bị bão lụt ở Sơn La – Lai Châu và đồng bằng Sông Cửu Long.
Đoàn thanh niên đã cố gắng giữ vững chương trình họat động trong nhà trường, cùng với Hội Nông dân xây dựng được một số điển hình thanh niên sản xuất giỏi. Liên đòan Lao động sau khi được chấn chỉnh có tổ chức một số họat động như phong trào thi đua, mở hội nghị công nhân viên chức và xây dựng một số công đòan cơ sở khá.
Mặt yếu kém trong công tác quần chúng là:
- Chưa có chính sách phù hợp đối với công tác đòan thể, cấp ủy Đảng, chính quyền và tổ chức kinh tế xã hội chưa nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ vận động quần chúng trong hoàn cảnh mới, chưa xác định rõ nhiệm vụ và nội dung cụ thể về công tác quần chúng ngay trong địa phương, đơn vị mình.
- Kinh phí của đòan thể rất hạn chế chủ yếu dựa vào sự hỗ trợ của cấp ủy Đảng và ngân sách nhà nước.
- Đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác đòan thể huyện, xã đại đa số hụt hẫng về trình độ, kiến thức, hạn chế về năng lực họat động theo kinh nghiệm và quen việc, thiếu nhiệt tình gắn bó với nhiệm vụ.
- Thực trạngcác đòan thể ở cơ sở tổ chức rời rạc sinh họat không có nội dung thực tiễn, đòan thể chưa tạo được sự hấp dẫn có sức thuyết phục.
VI/ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG:
Trước bối cảnh phức tạp của thế giới và những tồn tại khó khăn kéo dài của đất nước. Ban chấp hành đã sớm nhận được ý nghĩa quan trọng đặc biệt của công tác tư tưởng trong thời điểm hiện tại.
Huyện ủy đã tổ chức những đợt sinh họat chính trị lớn nối tiếp nhau để quán triệt nghị quyết 7, nghị quyết 8 của Trung ương, các dự thảo văn kiện đại hội 7. Ban chấp hành ra được nghị quyết 01 đi sâu vào công tác tư tưởng kịp thời.
Tổ chức nghiên cứu các văn kiện của Đảng đi sâu từng cụm, từng đảng bộ, chi bộ cơ sở. Đa số cán bộ đảng viên và công nhân viên chức ngòai Đảng đều được tiếp xúc học tập, nhận thức được nâng lên, đánh giá đúng tình hình, phân tích rõ những nguyên nhân, tạo được sự thống nhất về quan điểm đường lối, khẳng định mục tiêu chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo duy nhất của Đảng, giữ vững được sự ổn định về tư tưởng trong đảng bộ.
Ngòai ra Huyện ủy còn quan tâm tổ chức khai thác tốt các lọai hình họat động phong phú trên các lĩnh vực, nhằm tác động bằng các khía cạnh khác nhau đi vào chiều sâu để nâng cao nhận thức và củng cố tư tưởng cho nhiều đối tượng như:
- Tổ chức kỷ niệm những ngày lễ lớn, họp mặt truyền thống, họat động của báo chí, truyền thanh, sinh họat hội thảo, nói chuyện thời sự…
- Đã tổ chức được nhiều lớp bồi dưỡng cho quần chúng là đối tượng đảng, bồi dưỡng cho cấp ủy viên và bí thư cơ sở, đã cử được nhiều cán bộ đi học các lớp sơ cấp, trung cấp, cao cấp về chính trị, quản lý nhà nước, kinh tế, nghiệp vụ và pháp luật.
Nói chung, số đông cán bộ đảng viên, kể cả đảng viên hưu trí đều thể hiện sự vững vàng, kiên định, nêu cao trách nhiệm, khắc phục khó khăn để hòan thành nhiệm vụ, giữ được phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh, khiêm tốn, giản dị, được quần chúng tín nhiệm.
Mặt yếu kém là vẫn còn một bộ phận cán bộ đảng viên giảm sút ý chí chiến đấu, tâm trạng chán nản, thu vén cá nhân, tham ô, hối lộ, gây ảnh hưởng xấu trong quần chúng. Công tác tư tưởng của đảng bộ chưa đi sâu vào các đối tượng ở cơ sở, chưa bắt kịp những diễn biếntư tưởng của cán bộ đảng viên để chủ động đặt ra những nhiệm vụ công tác tư tưởng kịp thời. Trình độ lý luận, năng lực kinh nghiệm, sở trường đội ngũ làm công tác tư tưởng còn có mức hạn chế, chất lượng công tác giáo dục thấp (nhất là ở cơ sở) nhận thức tư tưởng của nhiều cán bộ đảng viên không theo kịp với sự diễn biến của tình hình.
Công tác tổ chức cán bộ sau đại hội đã tập trung kiện tòan củng cố các tổ chức cơ sở Đảng, sắp xếp lại cán bộ chủ chốt trong các cấp ủy, Ủy ban nhân dân và các ngành.
Trong quá trình có điều chỉnh và bố trí lại do có sự biến động như hàng lọat các đơn vị kinh tế thua lỗ, giải thể, xử lý kỷ luật nhiều đảng viên, trong đó có cấp ủy viên, giám đốc, thu hẹp số lượng tổ chức cơ sở đảng từ 67 còn 64.
Tiếp theo các đợt sinh hoạt chính trị, Đảng bộ triển khai thực hiện nghị quyết 11/TU, phát động trong Đảng, trong quần chúng, tiến hành kiểm điểm phân loại đảng viên. Đến nay qua 3 đợt có 52 chi, đảng bộ cơ sở tiến hành kiểm điểm phân tích chất lượng đảng viên với 984/1479 đảng viên được phân loại.
- Đảng viên phấn đấu tốt : 16,2%
- Đủ tư cách:72%
- Phê bình và qui định thời gian sửa chữa:06%
- Kỷ luật chưa đến mức đưa ra khỏi Đảng:2,74%
- Đưa ra khỏi Đảng:2,43%
Vai trò lãnh đạo của cơ sở Đảng được nâng lên, nhiều chi, đảng bộ, cấp ủy giữ được nề nếp sinh hoạt và ra được nghị quyết có phê phán đấu tranh như: An Lạc, Bình Chánh, Qui Đức, Tân Túc… Nhiều đảng viên gương mẫu trong công tác, sinh hoạt, gắn bó với Đảng và hòa mình trong quần chúng. Tổ chức đào tạo bồi dưỡng nhiều loại cán bộ đáp ứng được một phần yêu cầu trước mắt, đồng thời chuẩn bị cho sựkế thừa tiếp theo. Giữ vững nguyên tắc tập thể trong công tác cán bộ từ nhận xét đánh giá, sắp xếp bổ nhiệm, đề bạt, nâng lương cũng như xử lý kỷ luật cán bộ.
Về yếu kém trong công tác tổ chức cán bộ:
- Chưa đủ sức làm chuyển biến mạnh mẽ tình hình đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng, nhất là chi bộ nhỏ. Nhiều chi bộ tổ chức sinh hoạt không thường thường, nhiều đảng viên không sinh hoạt, không công tác, không thể hiện được sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở nhất là ở ấp. Ở các đơn vị kinh tế, vai trò lãnh đạo của Đảng bị giảm sút, nội dung và phương thức của cấp ủy thiếu tính thực tiễn, chưa làm rõ mối quan hệ giữa cấp ủy và ban giám đốc.
- Chưa có qui hoạch cán bộ cụ thể, chưa bố trí được lực lượng kế thừa cho từng chức danh, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng không theo định hướng phát triển, công tác cán bộ vẫn còn tình trạng chắp vá gặp nhiều lúng túng khi có nhu cầu. Trong bố trí cán bộ vừa qua một số trường hợp chưa đánh giá đúng về phẩm chất năng lực và sở trường dẫn đến những sai lầm tổn thất.
VII/ NHẬN XÉT CHUNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Sau hai năm thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ lần thứ V và các nghị quyết của cấp trên, trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn phức tạp, Đảng bộ đã nổ lực phấn đấu và đạt được những kết quả tổng quát như sau:
1/ Trước hết là giữ được sự ổn định tư tưởng trong Đảng bộ và bảo đảm được tình hình ổn định chung trên địa bàn Huyện, tạo được môi trường thuận lợi cho mọi hoạt động của đời sống xã hội.
Giữ được sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ, từ Ban Thường vụ, Ban chấp hành cho đến từng tổ chức cơ sở Đảng. Tuy còn có những ý kiến khác nhau, còn có những sự bất đồng cụ thể, nhưng căn bản là nhất trí cao về quan điểm đường lối và nhiệm vụ. Đảm bảo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nghị quyết theo đa số.
2/ Lãnh đạo kinh tế xã hội: Đã có nhiều cố gắng tập trung cho nông nghiệp, đầu tư đáng kể cho thủy lợi, điện, phân bón, chống dịch bệnh, thay đổi cơ cấu giống, vay vốn ngân hàng… Giữ được diện tích, sản lượng, năng suất ở mức khá, nhiều mô hình mới xuất hiện được chăm sóc phát triển. Trên lĩnh vực công thương nghiệp, dịch vụ đã mạnh dạn mở ra và thu hút được nhiều thành phần kinh tế từ nội thành và các nơi khác, đã triển khai với tốc độ nhanh, trải dài cặp quốc lộ 1 và Xa lộ Đại hàn, hình thành một hành lang thương mại công nghiệp. Tuy nhiên cần chấn chỉnh những sai sót và quản lý chặt chẽ hơn thì triển vọng phát triển tốt.
Về văn hóa xã hội, so với nhiệm kỳ trước đã thực hiện được nhiều công việc do nghị quyết đại hội đề ra. Tập trung đầu tư cho ngành giáo dục xây dựng mới và sửa chữa toàn bộ trường lớp bị hư hỏng, xóa ca ba, tăng cường trang thiết bị dạy và học, nâng dần chất lượng học sinh, ổn định được đội ngũ giáo viên. Chăm lo tốt cho diện gia đình chính sách như: xây dựng nhà tình nghĩa, giải quyết lao động. Bộ mặt nông thôn, đời sống văn hóa xã hội đã có thay đổi cải thiện.
3/ Công tác xây dựng Đảng được Đảng bộ đặt ra ở vị trí quan trọng. Qua thực hiện nghị quyết 11, đã chỉ ra rõ hơn về thực trạng của Đảng bộ, chất lượng của từng tổ chức cơ sở và đảng viên. Từ đó rút ra được những kinh nghiệm và nhiều bài học thiết thực làm cơ sở tốt cho nhiệm vụ tiếp tục củng cố xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng theo nghị quyết 11 được đảng viên và quần chúng đồng tình.
4/ Giữ vững được an ninh chính trị trật tự trên địa bàn Huyện, chống tội phạm có hiệu quả. Ngăn chặn được một mức đối với tham nhũng, tiêu cực trên các lĩnh vực.
Những tồn tại, khuyết nhược điểm nổi lên là:
1/ Về kinh tế xã hội trong nhiệm kỳ, hàng loạt các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể nối tiếp nhau đỗ vỡ gây tổn thất lớn về vật chất, mất hàng chục tỷ đồng gây hậu quả nhiều mặt, dư luận phê phán gay gắt.
Việc bán đất, bán nhà, xây dựng và phát triển các cơ sở dọc các trục lộ một cách tùy tiện mất trật tự, tràn lan, vi phạm qui định cơ sở hạ tầng của Huyện và thành phố, là sai lầm khuyết điểm cá nhân của những đảng viên trực tiếp phụ trách, đồng thời là trách nhiệm lãnh đạocủa Ban Thường vụ Huyện ủy và trách nhiệm quản lý nhà nước của Thường trực ủy ban nhân dân.
Sự lãnh đạo giải quyết vấn đề tranh chấp ruộng đất thiếu nhất quán, thiếu kiên quyết ảnh hưởng đến sản xuất và đoàn kết nông thôn. Sự phân hóa giàu nghèo ở nông thôn ngày càng nhanh, phần lớn gia đình thuộc diện chính sách ngày càng khó khăn.
Về giáo dục y tế, cầu đường, điện nước ở nông thôn chất lượng còn ở mức thấp, chưa đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất, văn hóa nhất là những vùng căn cứ kháng chiến cũ.
2/ Tình hình trật tự an ninh, còn những địa bàn chưa thật sự an toàn. Tham nhũng tiêu cực, chưa bị đẩy lùi. Pháp luật kỷ cương trong Đảng cũng như ngoài xã hội không được chấp hành nghiêm chỉnh, người dân chưa thật sự an tâm.
3/ Về Đảng, số đảng viên phải xem xét tư cách còn chiếm tỷ lệ cao, nhiều tổ chức cơ sở đảng chưa thể hiện được vai trò lãnh đạo, nhất là chi bộ nhỏ ở ấp. Trình độ năng lực đội ngũ cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ xây dựng đảng còn nhiều hạn chế, từ bí thư đến cấp ủy, từ huyện, xã đến các ngành chưa tập trung đi sâu công tác xây dựng đảng.
Mối quan hệ giữa chi bộ đảng với nhân dân, đảng viên với quần chúng vẫn còn có khoảng cách. Đảng viên, cán bộ chưa đi sâu vào dân từ trong sản xuất và đời sống, chưa tạo được niềm tin của quần chúng đối với chi bộ và đối với từng đảng viên.
Công tác vận động quần chúng còn nhiều khó khăn, chế độ chính sách không hợp lý, chi phối ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các đoàn thể.
Những nguyên nhân:
a/ Khách quan:
-Khó khăn phức tạp nhiều mặt từ tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội chung của cả nước, hậu quả năng nề của cơ chế quan liêu bao cấp chưa xóa hết được, cơ chế và chính sách mới chưa đồng bộ, còn nhiều sơ hở và bất hợp lý.
-Tác động xấu về chính trị và kinh tế từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, sự tấn công phá hoại của các thế lực phản động từ bên ngoài gắn với các tổ chức nhen nhóm bên trong trên các lĩnh vực tư tưởng chính trị, kinh tế văn hóa và xã hội.
b/ Chủ quan:
- Năng lực lãnh đạo của Đảng bộ chưa đủ sức đáp ứng với nhu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đặc biệt là năng lực lãnh đạo kinh tế của cấp ủy và đảng viên là cán bộ chủ chốt.
- Cán bộ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế chưa được đào tạo có hệ thống, chưa đủ kiến thức điều hành mọi hoạt động xã hội một cách khoa học, chặt chẽ, đúng pháp luật.
- Luật lệ, kỷ cương không được giữ nghiêm, kiểm tra, kiểm soát không được chặt chẽ, phát hiện, chấn chỉnh và xử lý không kịp thời.
Bài học kinh nghiệm:
1/ Trước hết là bài học sự ổn định về chính trị xã hội. Điều quan trọng để bảo đảm được sự ổn định chung là phải tạo cho được sự thống nhất về nhận thức tư tưởng và quan điểm trong đảng mà khâu then chốt là trong cấp ủy, cán bộ chủ chốt, cán bộ hưu trí và cựu chiến binh. Từ nền tảng vững chắc đó mà xây dựng sự ổn định ngoài xã hội và rõ ràng có được sự ổn định thì mới có điều kiện thực hiện sự nghiệp xây dựng và phát triển. Dù cho tình hình diễn biến như thế nào vẫn phải kiên quyết giữ cho được sự ổn định về chính trị xã hội.
2/ Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước: Vấn đề đặt ra là phải nâng cao kiến thức và năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước huyện-xã, ngành; có kế hoạch tập huấn bồi dưỡng ngắn ngày, hoặc học tập tại chức để bảo đảm nhiệm vụ hiện tại. Đồng thời trong qui hoạch cán bộ phải thực hiện công tác đào tạo căn bản để đáp ứng cho lâu dài. Thực tiễn đã làm rõ vai trò cực kỳ quan trọng của công tác quản lý nhà nước.
3/ Trong giai đoạn phát triển mới đòi hỏi khách quan là phải xây dựng Đảng bộ vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của đảng trên các lĩnh vực. Sự giảm sút uy tín và kém trong lãnh đạo của đảng bộ vừa qua là: do hụt hẩng về trình độ và năng lực, từ những tiêu cực thoái hóa về tư tưởng và đạo đức, lối sống của một bộ phận đảng viên. Nhiệm vụ xây dựng Đảng bao gồm nhiều nội dung nhưng thực tiễn chỉ ra cần phải tập trung đi sâu vào những trọng điểm nêu trên.
4/ Trong lãnh đạo đảng cần phải tăng cường công tác vận động quần chúng. Nội dung quan trọng là chỉ thị, nghị quyết của đảng và chủ trương chính sách của nhà nước đều phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Đảng và nhà nước phải có chương trình công tác thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phải quan tâm những yêu cầu nhỏ nhất trong lao động sản xuất, sức khỏe, đi lại và học hành… của quần chúng nhân dân.
Cán bộ đảng viên phải thể hiện quan điểm quần chúng trong hoạt động cụ thể, phải rèn luyện trong cách dân chủ bình đẳng, chống quan liêu cửa quyền gây phiền hà cho dân.
Công tác vận động quần chúng cần phải tiếp tục đổi mới theo nghị quyết 8B, Đảng, chính quyền, đoàn thể và cả hệ thống chính trị đều phải làm công tác vận động quần chúng.
PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ CHỦ YẾU CỦA ĐẢNG BỘ
HUYỆN BÌNH CHÁNH NHIỆM KỲ VI (1991 – 1995).
Trong những năm tới bối cảnh quốc tế vẫn còn diễnbiến phức tạp, tình hình khủng khoảng kinh tế xã hội trong nước chưa thể vượt qua nhanh chóng được, những tồn tại khó khăn của huyện còn nhiều, có mặt nặng nề gay gắt.
Tuy nhiên cũng có nhiều thuận lợi mới đó là quan hệ quốc tế được mở rộng, đẩy nhanh sự hợp tác kinh tế văn hóa, khoa học kỹ thuật, thương mại, đầu tư… với nhiều nước trên thế giới. Thành tựu của đất nước trong sự nghiệp đổi mới, sự đứng vững và phát triển của thành phố và những kết quả của chúng ta đạt được trên các mặt, cùng với những kinh nghiệm của thành công và thất bại vừa qua. Đảng bộ chúng ta có cơ sở phấn đấu khắc phục vượt qua khó khăn, vươn lên đạt mục tiêu ổn định và phát triển.
1/ Tiềmnăng và thế mạnh:
+ Bình Chánh là một huyện nông nghiệp ngoại thành có diện tích nông nghiệp 22.643/30.524 ha và dân số trên 200 ngàn người.
+ Cơ cấu các loại cây con đa dạng phong phú đang phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với các vùng sinh thái khác nhau như cây công nghiệp và các loại rau đậu ở cánh Bắc, cây lúa năng suất cao tập trung ở cánh giữa, kinh tế giồng, kinh tế vườn và nuôi trồng ở các xã cánh Nam, góp phần cải thiện môi trường và thường xuyên trực tiếp cung cấp một khối lượng thực phẩm đáng kể cho thành phố.
+ Bình Chánh có vị trí là cửa ngõ phía tây nam của Thành phố Hồ Chí Minh, một trung tâm công nghiệp, thương mại và giao lưu kinh tế lớn của cả nước. Bình Chánh là địa bàn cầu nối giữa Thành phố với đồng bằng Sông Cửu Long, có Xa cảng Miền Tây, Bến xe vận tải An lạc, có Cảng sông Chợ Đệm rất thuận lợi cho vận chuyển đường bộ và đường thuỷ.
Ngoài Quốc lộ 1 vàXa lộ Đại Hàn, còn có Tỉnh lộ 10 và Tỉnh lộ 50 chạy dài từ Thành phổ thẳng ra biển và từ Thành phố sang Campuchia.
- Theo quy hoạch, trong tương lai Thành phố sẽ mở rộng ra trên hướng Bình Chánh, từng bước triển khai xây dựng đô thị hoá. Tuyến đường Nhà Bè – Bình Chánh đãđược duyệt, Thành phố đang tạo nguồn đầu tư, chương trình xây dựng Cảng sông Bến đá (Phú định) Thành phố sẽ cố gắng thực hiện trong kế hoạch năm 1995. Công trình thủy lợi quan trọng để kéo nước kinh đông qua Hóc Môn về Bình Chánh và khai thông nguồn nước từ Bắc Bến Lức sang, Trung ương và Thành phố đang tập trung chuẩn bị thực hiện. Nhưng trước mặt năm 1992 – 1993 hết sức tranh thủ những cơ sở đã có để tạo điều kiện phát triển, những năm tiếp theo đến năm 1995 và đến năm 2000, cần nhìn thấy trước để chủ động, tiếp nhận kết quả đầu tư xây dựng của Trung ương và Thành phố gắn với nhiệm vụ kinh tế xã hội của địa phương.
+ Lực tượng lao động dồi dào và rất đa dang bao gồm: Lao động nông nghiệp, xây dựng, cơ khí, mộc gỗ, thủ công, mỹ nghệ… do ảnh hưởng trực tiếp nền sản xuất của Thành phố từ nhiều thế hệ, lực lượng trẻ có khả năng tiếp thu và thích ứng nhanh với lao động kỷ luật. Khi được mở mang phát triển với lực lượng lao động tại chỗ được bồi dưỡng thì sẽ phát huy tốt.
2/ Mục tiêu chung:
Nhiệm vụ mục tiêu bao trùm của Huyện những năm 1991 – 1995 là: Giữ vững sự ổn định chính trị, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá gắm vớicơ cấu nhiều thành phần kinh tế, theo định hướng XHCN, tập trung và ưu tiên phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân, xoá hộ đói, giảm số hộ nghèo khổ, đặc biệt là diện chính sách. Làm chuyển biến rõ nét phong trào quần chúng. Phấn đấu xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh.
Để đạt được mục tiêu chung cần tập trung thực hiện tốt các mục tiêu cơ bản thường xuyên.
- Xây dựng Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, coi trọng yêu cầu nâng cao trí tuệ, năng lực, đặc biệt là năng lực lãnh đạo, quản lý kinh tế và làm trong sạch về phẩm chất, đạo đức, đội ngũ cán bộ đảng viên.
- Tăng cường vai trò và hiệu lực quản lý nhà nước, giữ nghiêm pháp luật kỷ cương làm chuyển biến mạnh về trật tự an toàn xã hội. Nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu thâm độc và hành động phá hoại của kẻ thù.
- Mở rộng dân chủ, tăng cường đoàn kết, phát động rộng rãi phong trào quần chúng, phát huy yếu tố con người trên các lĩnh vực (Kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng và xây dựng Đảng)
3/ Những nhiệm vụ chủ yếu và biện pháp lớn:
a/ Nông nghiệp:
Tập trung phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá. Phấn đấu giữ vững có mức phát triển về năng suất và sản lượng đối với cây con chính như: Lúa, rau đậu các loại, gia súc, gia cầm, thủy sản. Cố gắng đưa giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng bình quân hàng năm cho 1992 – 1993 từ 3.5 – 4% và đến năm 1995 tăng 5 - 6%.
Đời sống nhân dân căn bản được ổn định, làm giảm rõ số hộ quá nghèo khổ, đặc biệt là gia đình chính sách. Để đạt được yêu cầu đặt ra đối với nông nghiệp, cần giải quyết có kết quả các vấn đề:
+ Về đất đai: Tổ chức tổng kết đầy đủ tình hình giải quyết tranh chấp ruộng đất, đánh giá đúng những kết quả đạt được và thực chấtcủa tồn tại hiện nay, những ưu điểm, khuyết điểm trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện.
Căn cứ vào những chủ trương, chính sách hiện hành của Đảng và nhà nước, Huyện cần mạnh dạng và dám chịu trách nhiệm để có những chủ trương cụ thể và những biện pháp thích hợp với thực tiển của địa phương. Tiếp tục giải quyết với tinh thần tập trung.
- Năm 1992 tích cực giải quyết cho được những vụ nổi cộm, phức tạp đang làm ảnh hưởng xấu ở xã ấp.
- Năm 1993 – 1995 tiếp tục giải quyết những vụ việc còn lại và phát sinh mới, thực hiện đạt kết quả chắc từng bước đến năm 1995 thì đạt được sự ổn định căn bản về ruộng đất. Quán triệt phương châm kiên trì với những biện pháp tổng hợp: Giáo dục, kinh tế, hành chính và pháp luật.
Trước tình hình thực tế hiện nay, cần chú ý một số ít trường hợp ngang bướng lấn chiếm, bất chấp pháp luật, phá hoại sản xuất, gây thiệt hại cho công dân và xã hội, dư luận bất bình và hiện tượng xấu có dấu hiệu lây lan. Phải ràsoát lại kỹ để xử lý pháp luật nghiêm minh.
- Phần đất các nông trường giao về địa phương, đất mới khai hoang phục hoá cần phải tổ chức quản lý chặt chẽ, tiến hành điều tra rà soát lại cụ thể để thực hiện sự điều chỉnh phân phối sử dụng hợp lý theo chủ trương chung và sự chỉ đạo của Huyện.
Chủ trương tiếp tục kiểm tra, thanh lý tài sản của các tập đoàn, hợp tác xã, cố gắng xong căn bản trong năm 1992
+ Về thủy lợi:
- Trước hết là phải tổ chức quản lý có trách nhiệm đối với tất cả các công trình đã có và bằng nhiều biện pháp khai thác sử dụng có hiệu quả nhất.
- Đối với khu tam giác xã Tân Nhựt cần phải có kế hoạch ngay năm 1992, giải quyết cho được hệ thống thủy lợi nội đồng, tăng vụ cho vài trăm ha còn lại.
- Cần tiếp tục giải quyết tốt và ổn định vững chắc hơn nguồn nước cho sản xuất cây công nghiệp và rau màu ở cánh Bắc.
- Hệ thống cống bộng và các tuyến đê bao ở các xã An Phú Tây, Tân Kiên, An Lạc … cần phải thường xuyên kiểm tra và tăng cường gia cố để bảo đảm an toàn cho sản xuất.
- Cần tổng kết để xác định hiệu quả mô hình cây lúa, con tôm, cây dừa, bảo đảm cho việc phát triển đúng hướng phần diện tích phía đông tỉnh lộ 50. Cần nghiên cứu mở ra công trình thủy lợi nhỏđể cải thiện vùng đất Hốc Hưu xã Quy Đức.
- Tích cực tranh thủ Thành phố và Trung ương để sớm triển khai các công trình thủy lợi lớn quan trọng, trước mắt là công trình Bắc Bến Lức, Huyện phải có kế hoạch chuẩn bị để cộng đồng trách nhiệm khi công trình được triển khai và tổ chức tiếp nhận sử dụng sau cho hiệu quả cao nhất.
- Làm rõ quyền lợi vàtrách nhiệm đối với sự nghiệp thủy lợi cho trước mắt cũng như lâu dài. Tự đào đắp, xây dựng tu bổ, sửa chữa đến sử dụng, bảo quản là của nhân dân tại chỗ với sự hướng dẫn, hỗ trợ của Nhà nước.
+ Về công tác khuyến nông và dịch vụ kỹ thuật:
- Trước mắt cần phải nhanh chóng thay đổi cơ cấu giống đối với những cây con chính, trước nhất là cây lúa, nhằm đạt được những yêu cầu, năng suất phẩm chất, kháng sâu bệnh và thích hợp với đồng ruộng của Huyện.
- Chủ động bảo đảm nhu cầu về phân bón, xăng dầu và các loại thuốc trừ sâu cho cây trồng và vật nuôi, chú trọng tổ chức giải quyết tốt hơn về phân rác cho cánh Bắc.
- Bằng nhiều biện pháp với nhiều loại hình sinh động khẩn trương nâng cao kiến thức khoa học kỹ thuật cho nông dân, làm cơ sở cho việc tiếp nhận tốt những tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp.
- Tích cực tranh thủ các nguồn vốn của Thành phố để tiếp tục phát triển mạng lưới điện phục vụ cho sản xuất và đời sống, trước mắt cho Vĩnh Lộc, Bình Lợi, Quy Đức và mở rộng mạng lưới cho những năm tiếp theo. Đề nghị Thành phố triển khai chi nhánh điện Bình Chánh cùng với ngành điện nhanh chóng chỉnh đốn và cải tạo lại lưới điện ở nông thôn, quản lý chặt chẽ và an toàn.
- Công tác bảo vệ động thực vật, cần phối hợp với Thành phố kiện toàn củng cố, bồi dưỡng đểnâng cao trách nhiệm và năng lực chuyên môn, đặc biệt là ở cơ sở xã, ấp và hệ thống này cần được ổn định để đi sâu và cần có chính sách hợp lý.
- Về chăn nuôi hướng tập trung phát triển là hộ gia đình củng cố và phát triển toàn diện trại chăn nuôi quốc đoanh, nhà nước tích cực tạo những điều kiện tốt như: Giống, vốn, khoa học kỹ thuật… từng bước xây dựng và phát tiển phong trào chăn nuôi trên khắp địa bàn Huyện.
+ Về chế biến và tiên thụ sản phẩm:
- Trong những năm tới phấn đấu sau để có được một cơ sở chế biến đường có trình độ cao để cho vừng mía phát triển, đồng thời đẩy mạnh phương thức hiện nay là có đơn vị công nghiệp đường đầu tư và bao tiêu sản phẩm.
- Với hoa màu và rau đậu các loại cần xây dựng nhiều phương thức để hàng hoá lưu thông tốt nhất như bao tiêu sản phẩm, giao thông thuận lợi, hạn chế đến mức thấp nhất việc đầu nậu con buôn ép giá, để nông dân có lợi và yên tâm sản xuất.
- Về chính sách giá, thuế đối với sản xuất nông nghiệp. Cần phải tiến hành, điều tra khảo sát cụ thể để có những tư liệu chính xác có sức thuyết phục, kiến nghị với Thành phố và Trung ương về các vấn đề giá đầu vào và đầu ra cho những sản phẩm cây con chủ yếu, bảo đảm mức lãi cần thiết cho nông dân. Về thuế nên đề đạt theo hướng thu hẹp diện chiụ thuế từ người sản xuất, và hạ thấp mức thuế so với hiện nay. Mặt khác cần nghiên cứu để đề xuất kiến nghị về chính sách đối với sản xuất nông nghiệp.
- Tiếp tục mở rộng và nâng cao việc nông dân vay vốn của Ngân hàng để phát triển sản xuất. Rút kinh nghiệm về thủ tục nhanh gọn, nhưng bảo đảm chặt chẽ. bảo đảm đồng vốn sử dụng đúng mục đích và giữ được sự tin cậy giữa hai bên. Từ như cầu thực tế, có thể tổ chức tín dụng với quy mô thích hợp nhằm phục vụ sản xuất nông nghiệp.
- Theo định hướng trước đây đối với 4 vùng có đặc điểm sinh thái khác nhau và qua thực tiển sản xuất đã hình thành ngày càng rõ là: Rau màu vàcây công nghiệp ngắn ngày cho cánh bắc như cây đậu phọng vàgần đây đang thực nghiệm cây thuốc lá sợi vàng. Vùng lúa năng suất cao ở cánh giữa và cánh nam là cây lúa gắn với kinh tế giồng, kinh tế vườn và nuôi trồng. Chúng ta còn vùng chuyên canh cây mía đường bao gồm: Lê Minh Xuân và Bình Lợi, Nông trường Láng Le của Huyện, giành một diện tích đáng kể cho vùng môi sinh, phần diện tích lớn hơn có thể hợp tác liên doanh trồng chuối xuất khẩu theo mô hình của Nông trường Phạm Văn Hai. Theo hướng đó, trong những năm tới chúng ta có cơ sở khoa học và thực tiễn để đi sâu đầu tư có hiệu quả hơn cho sự phát triển. Trong quá trình chỉ đạo sản xuất nông nghiệp cần phải nắm bắt những diễn biến bão trắc để có chủ trương, xử lý kịp thời như: Thời tiết mưa bão, nắng hạn, dịch sâu bệnh hoặc sự khang hiếm vật tư …. nhằm hạn chế thấp nhất sự thiệt hại. Mặt khác cần coi trọng việc tổng kết và nhân rộng những mô hình mới, những tập thể mới tiến bộ.
b/ Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp:
- Trước mắt 1992 phải kiên quyết chấn chỉnh những sai trái, vi phạm về xây dựng, lập lại trật tự đúng quy định trên tuyến Quốc lộ 1 và Xa lộ Đại hàn. Tích cực thực hiện quy hoạch để xác lập kế hoạch xây dựng cho năm tiếp theo đặc biệt là những khu vực trọng điểm.
- Tạo những điều kiện thuận lợi để phát huy hiệu quả các đơn vị kinh tế có lãi (Công ty xây dựng và phát triển nhà, công ty cây trồng …) quan tâm tháo gỡ cho xí nghiệp Đông Lạnh, cơ khí, chế biến nông sảnđồng thời ràsoát, sắp xếp và củng cố các xí nghiệp còn lại theo hướng lấy hiệu quả làm chính.
- Hướng tới Huyện chủ trương tạo mọi điều kiện thuận lợi và ưu tiên để các thành phần kinh tế tham gia hoạt động trên lĩnh vực cơ khí nông nghiệp, tích cực xây dựng phong trào cơ khí hoá sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là phục vụ cho các cây con chính: Lúa, mía, đậu, heo, gà….
c/ Thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu:
- Tăng cường mạnh mẽ công tác quản lý nhà nước trong hoạt động thương nghiệp dịch vụ đối với các đơn vị quốc doanh cũng như các thành phần kinh tế khác trênđịa bàn, phát hiện đấu tranh ngăn chặn kịp thời có hiệu quả tất cả những sai trái vi phạm, bảo đảm hoạt động của mọi tổ chức và cá nhân đúng theo pháp luật.
- Đổi mới và làm rõ vai trò chức năng lãnh đạo của tổ chức Đảng trong các đơn vị kinh tế, bảo đảm trách nhiệm điều hành và quyền của Thủ trưởng, giám đốc nhưng đồi thời cũng giữ vững và đề cao sự lãnh đạo của Đảng.
- Tiếp tục giải quyết tồn tại hậu quả 12 đợn vị đã giải thể đúng chủ trương và sự chỉ đạo của Trung ương và Thành phố.
-Thương nghiệp quốc doanh chỉ nên có cơ sở trung tâm, đầu mối không trải đều. Phát huy thương nghiệp dịch vụ nhân dân rộng rãi, phong phú, đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu rất đa dạng của xã hội.
- Bằng nhiều biện pháp mềm dẻo, khuyến khích thể hiện cho được vai trò đầu mối kinh tế giữa thành phố Hồ Chí Minh với đồng bằng sông Cửu Long, thu hút lại cho được các ngành hàng truyền thống: Gạo, thịt (heo, bò) mỡ, trứng… tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia hoạt động dịch vụ trên các hành lang (quốc lộ 1, tỉnh lộ 10, 50). Kinh tế của Huyện phải phát triển đúng quy hoạch và kế hoạch của nhà nước.
- Tổ chức quản lý và khai thác tốt chức năng giao lưu hàng hoá ở các chợ trên địa bàn nhằm đáp ứng yêu cầu tiêu dùng và kích thích thúc đẩy sản xuất.
- Tiếp tục nghiên cứu sắp xếp lại các công ty quốc doanh hàng hoá ở các chợ trên cơ sở thật cần thiết, tổ chức gọn nhẹ, hợp lý và quan trọng hơn là chọn và bố trí đúng cán bộ. Công ty lấy phương châm hoạt động kinh doanh gắn với yêu cầu phục vụ cho sản xuất và đời sống, không chạy theo lợi nhận bằng bất cứ giá nào, không mua bán lòng vòng sai chức năng.
- Cần đánh giá lại đầy đủ tình hình hoạt động xuất nhập khẩu vừa qua, kiện toàn củng cố tổ chức tháo gở những khó khăn tồn tại, tạo thế ổn định, chủ động khai thác nguồn hàng đa dạng từ nhiều hướng coi trọng nguồn hàng phong phú sản xuất tại địa phương, làm cơ sở để đi lên từ những bước thấp vững chắc.
- Tích cực năng động mở rộng quan hệ, tìm đối tác liên kết, tranh thủ thời cơ thuận lợi tiếp nhận sự đầu tư của nước ngoài với nhiều phương thức linh hoạt nhằm đạt hiệu quả tốt nhất.
d/ Văn hoá xã hội:
1/ Văn hoá: Ổn định đội ngũ giáo viên, cọi trọng việc nâng cao nhận thức chính trị, bảo đảm thầy cô giáo nhất trí căn bản với đường lối, quan điểm của Đảng. Nâng cao trách nhiệm và nhiệt tình đi sâu nghề nghiệp, gắn bó với học sinh không ngừng nâng cao chất lượng, giảng dạy, nâng cao tỉ lệ thi đậu, lên lớp, chuyển cấp. Hết sức coi trọng việc giáo dục, rèn luyện toàn diện trong nhà trường.
- Trong những năm trước mắt, niên khoá 1992 – 1993 phấn đấu để giảm mạnh tỉ lệ học sinh bỏ học ở cấp 2. Có kế hoạch để những năm 1995 trẻ em đến tuổi đều đến lớp. Tổ chức thực hiện tốt công tác bổ túc văn hoá phổ cập cấp 1 và xoá mù chữ theo nhà nước quy định. Huyện chủ trương miễn các hình thức thu đối với học sinh cấp 1, có chế độ miễn giảm hợp lý đối với học sinh cấp 2 là con Liệt sĩ, thương binh và cán bộ hưu trí, phục viên.
- Hết sức chú trọng việc xây dựng và phát triển các lớp mẫu giáo ở cơ sở từng xã, liên xã có từ 1-2 nhà mẫu giáo từng bước xây dựng khang trang và đẹp.
- Cần có kế hoạch phát triển, bồi dưỡng năng khiếu đào tạo học sinh giỏi. Ngoài chế độ chung Huyện còn đầu tư thoả đáng cho giáo dục, có chính sách đối với giáo viên.
- Tiếp tục làm rõ vai trò to lớn của giáo dục và trách nhiệm của Đảng, chính quyền và các đoàn thể, tổ chức xã hội đối với sự nghiệp giáo dục.
- Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá mới. Phát huy tốt đẹp truyền thống của dân tộc, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, kiểm tra kiểm soát chặt chẽ các hình thức, nội dung văn hoá ngoại lai, lố lăng. Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa hoạt động văn hoá xuống nông thôn, vùng sâu tạo điều kiện cho nhân dân vùng sâu hưởng thụ văn hoá mới. Phát huy vai trò của truyền thanh báo chí, tăng cường thông tin trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đẩy mạnh TDTT trong nhà trường, nâng cao chất lượng các tổ đội năng khiếu chuyên nghiệp, gắn với cơ sở từng bước hình thành nhiều phong trào văn thể mỹ trên địa bàn Huyện.
2/ Xã hội:
Thường xuyên phát động nhiều phong trào vệ sinh, phòng dịch, sinh đẻ có kế hoạch … Từng bước hình thành phong trào, ăn sạch, ở sạch hết sức chú trọng việc phòng chống và điều trị bệnh, trong đó đặc biệt là bệnh trẻ em và phụ nữ, đẩy mạnh phong trào tiêm phòng (đạt 100%) cho trẻ em. Hạ mức tăng dân số dưới 1.5% (đến năm 1995).
- Nhanh chóng đưa bệnh viện Huyện mới vào hoạt động, tăng cường trang thiết bị, phương tiện, từng bước nâng cao chất lượng điều trị, hết sức chú trọng sức khoẻ bà con vùng sâu, có chế độ miễn giảm trong diện chính sách.
+ Đối với diện chính sách, đặc biệt là gia đình liệt sĩ, thương binh, cán bộ hưu trí và hơn hết là các cán bộ lão thành là tiếp tục lo với tinh thần ưu tiên. Tiếp tục và đẩy mạnh cuộc vận động rộng rãi, giải quyết tiếp cho những nhà ở quá khó khăn. Bảo đảm thực hiện đủ, đúng và kịp thời các chế độ, chính sách hiện hành, thực hiện tốt chế độ trợ cấp đối với những trường hợp đột xuất.
đ/ Về an ninh quốc phòng trật tự an toàn xã hội, tăng cường pháp chế XHCN: Yêu cầu chung là nâng cao cảnh giác cách mạng, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, chủ động trong mọi tình huống, giữ nghiêm pháp luật, kỷ cương, bảo đảm trật tự an toàn xã hội ngày càng vững chắc.
1/ Công tác an ninh - trật tự và an toàn xã hội:
Thừơng xuyên nắm chắc tình hình, đặc biệt là khu vực trọng điểm và đối tượng nguy hiểm. Dự đoán mọi diễn biến để chủ động ngăn ngừa.
- Thông qua thực tiễn mà rà soát và bổ sung các phương án kế hoạch phòng chống biểu tình bạo loạn.
- Tổ chức bảo vệ an toàn các mục tiêu chính trị, kinh tế quan trọng.
- Liên tục mở các đợt tấn công mạnh vào các loại tội phạm. Tập trung chuyển hoá các địa bàn phức tạp phát động mạnh phong trào quần chúng tham gia thực hiện 4 cuộc vận động. Trọng tâm là chống tham nhũng, chống buôn lậu, kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi phạm pháp, đồng thời làm tốt các mặt công tác giáo dục phòng ngừa. Ngăn chặn đẩy lùi có kết quả tình hình phạm tội và các tệ nạn xã hội.
- Năm 1992 tạo được sự chuyển biến tốt hơn về tình hình an ninh trật tự, hạn chế thấp nhất các vụ trọng án.
- Tiến hành chặt chẽ công tác thẩm tra xác minh, thực hiện trong sạch nội bộ và cần chú ý đến các mối quan hệ kinh tế, xã hội với các tổ chức và cá nhân người nước ngoài.
- Tiếp tục đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc. Tổ chức tổng kết, nhân điển hình, đi sâu cơ sở xây dựng nòng cốt, nâng cao chất lượng.
2/ Nhiệm vụ quân sự địa phương:
- Tăng cường giáo dục quốc phòng toàn dân cho tất cả các đối tượng, đặc biệt là thanh niên và học sinh ở các trường.
- Nâng cao nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của nhiệm vụ quốc phòng trong tình hình mới, làm rõ trách nhiệm cấp ủy Đảng, vai trò nhà nước của Ủy ban nhân dân, chức năng của đoàn thể đối với nhiệm vụ quân sự địa phương.
- Tiếp tục hoàn thiện kế hoạch phòng thủ, thông qua diễn tập hàng năm để bổ sung, bảo đảm luôn luôn sẵn sàng chiến đấu.
- Kiện toàn củng cố tổ chức quân dự bị vàdân quân tự vệ, lấy chất lượng làm chính, coi trọng giáo dục chính trị và huấn luyện quân sự, xây dựng lực lượng nòng cốt, tin cậy, hoạt động có hiệu quả trong thời bình và các khả năng chiến đấu trong mọi tình huống.
- Tổ chức thực hiện tốt công tác tuyển quân bảo đảm số lượng và chất lượng, đúng luật, dân chủ và công bằng. Tích cực xử lý tồn tại sau tuyển quân. Các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể tiếp tục giải quyết tốt hơn chính sách hậu phương quân đội.
- Sĩ quan lực lượng vũ trang kể cả quân sự và công an cần phải nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống, trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, luôn kiên định, vững chắc và trung thành tuyệt đối, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong tình hình còn nhiều phức tạp.
- Huyện cần phải có nhiều biện pháp cần thiết, giải quyết từng bước những khó khăn của cán bộ - chiến sĩ trong lực lượng võ trang, trước hết là những sĩ quan đang có những khó khăn bức xúc.
3/ Về pháp luật, pháp chế XHCN:
- Tăng cường pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Phát huy đầy đủ chức năng, trách nhiệm của các cơ quan pháp luật kiên quyết đấu tranh với những hành vi phạm pháp thực hiện sự bình đẳng trước pháp luật.
- Phối hợp chặt chẽ trong ngành, xử lý chính xác và nhanh chóng những vụ án xảy ra, kịp thời đáp ứng yêu cầu chính trị của địa phương.
e/ Quản lý Nhà nước và ngân sách:
Trong nhiệm kỳ này HĐND Huyện – xã vẫn tồn tại đến năm 1994. Huyện vẫn là cấp quản lý nhà nước, quản lý kinh tế là cấp kế hoạch – ngân sách.
1. Về ngân sách:
Hướng xây dựng ngân sách trong những năm tới là: Tổ chức thu tốt mọi nguồn thu trên địa bàn, tập trung vào những nguồn thu chủ yếu. Tăng cường mạnh công tác kiểm tra kiểm soát để mọi thành phần kinh tế làm đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước, chống thất thu. Tranh thủ sự hỗ trợ của ngân sách Thành phố để bảo đảm nhu cầu. Kế hoạch chi gắn với tinh thần tiết kiệm là quốc sách. Phân bổ chi theo thứ tự ưu tiên: Bảo đảm chi lương và hoạt động hàng chánh sự nghiệp, chi cho quân sự, công an, cho văn hoá giáo dục, hỗ trợ một phần cho ngân sách Đaảg và đoàn thể, ngành một tỷ lệ đáng kể cho xây dựng cơ bản phục vụ sản xuất nông nghiệp (Thủy lợi, cầu đường, điện nước…)
2. Quản lý Nhà nước:
Thực hiện đổi mới hoạt động của các cơ quan Nhà nước (HĐND-UBND) nắm chắc luật pháp trong quản lý kinh tế xã hội, khắc phục những khuyết điểm tuỳ tiện, lỏng lẻo trong thời gian qua.
Căn cứ vào Nghị quyết của Đảng, Nhà nước phải xây dựng kế hoạch kinh tế xã hội từng thời kỳ và tổ chức điều hành mọi hoạt động hướng theo kế hoạch đã đề ra. Tiếp tục làm rõ mối quan hệ: “Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ, nhà nước quản lý”. Nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy chức năng của cơ quan Nhà nước được luật pháp quy định.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân Huyện – xã phải tuân thủ các quy định của Luật và quy chế, cần cải tiến nội dung và phương thức hoạt động, phát huy vai trò kiểm tra thẩm định, chất vấn của HĐND đối với UBND trong các kỳ họp. Thực hiện chuyên trách, các tổ đại biểu và từng đại biểu trong công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của Chính quyền.
- Giữ vững nguyên tắc: “Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, bàn bạc dân chủ phát huy sức mạnh tập thể, nhưng phải đề cao trách nhiệm về quyền hạn, từng cá nhân. Tổ chức, phân công, phân cấp xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn xây dựng quy chế làm việc giữa Ủy ban Huyện với các phòng ban, tổ chuyên môn và các xã. Cần làm rõ khái niệm về quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế quốc doanh và quyền cụ thể của Giám đốc. Với sự quản lý Nhà nước của UBND và các ngành chức năng, chấm dứt tình trạng tuỳ tiện, thoát ly sự lãnh đạo quản lý, kiểm tra, kiểm soát của luật pháp.
Thực hiện tinh giảm biên chế và giảm các đầu mối theo hướng gọn nhẹ.
f) Công tác vận động quần chúng:
1. Ủy Ban Mặt Trận Tổ quốc:
- Mở rộng đoàn kết tập hợp tất cả những tổ chức và cá nhân có tinh thần dân tộc, vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, không phân biệt, xoá bỏ mặc cảm định kiến hẹp hòi, xây dựng tình cảm cởi mở gắn bó và tin cậy giữa các thành phần trong tập thể cộng đồng.
- Tăng cường tiếp xúc các bậc chứcsắc trong các tôn giáo, người có uy tín trong bà con người hoa, các nhà công kỹ nghệ gia, các nhân sĩ tri thức… giúp họ hiểu đúng tình hình đất nước và chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước và thông qua họ mà hiểu tâm tư nguyện vọng của các đoàn thể hướng vào mục tiêu chung.
- Quán triệt sâu sắc tinh thần nghị quyết 24 của Bộ chính trị và Nghị định 69 của HĐBT về công tác tôn giáo, tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh sát hợp với tình hình của địa phương.
2. Liên đoàn lao động:
- Kiện toàn củng cố các tổ chức công đoàn cơ sở đang tồn tại và nghiên cứu để hình thành những tổ chức mới trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế khác nhau.
- Tăng cường giáo dục, nâng cao giác ngộ giai cấp cho công nhân viên chức, nâng cao trách nhiệm và ý thức làm chủ trong lao động sản xuất.
- Bảo vệ quyền lợi chính đáng của CNVC theo đúng pháp luật, tạo mọi điều kiện cải thiện đời sống vật chất và văn hoá cho người lao động.
- Tổ chức phát động phong trào thi đua XHCN sâu rộng, động viên năng lực sáng tạo của các tập thể CNVC, nâng cao năngsuất và hiệu quả trong sản xuất và công tác.
- Vận động CNVC hưởng ứng tích cực 4 cuộc vận động ngay tại các cơ sở, cùng với cấp ủy Đảng và chính quyền chống tham nhũng, chống tiêu cực có kết quả.
3. Hội Nông dân Việt Nam:
- Tiếp tục kiện toàn tổ chức Hội, nâng cao chất lượng hội viên.
- Hội đi sâu vào hội viên bồi dưỡng hướng dẫn bảo đảm cho đông đảo nông dân trung thành với Đảng.
- Giúp đỡ nông dân từ kinh nghiệm lạc hậu vươn tới có kiến thức khoa học tiến bộ trong sản xuất, nâng cao hiệu quả đời sống phát triển.
- Xây dựng đoàn kết trong nông dân, phát huy truyền thống tương thân, tương ái, đảm bảo sự ổn định vững chắc ở nông thôn.
- Hội có trách nhiệm làm rõ trong nông dân về chủ trương chính sách ruộng đất của Đảng và nhà nước. Hội là người tham gia tích cực và có hiệu quả giải quyết tranh chấp ruộng đất trong nội bộ nhân dân.
4. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh:
- Trước hết là tập trung củng cố tổ chức Đoàn ở cơ sở, tập huấn bồi dưỡng để làm rõ nhiệm vụ chức năng, chỉ ra nội dung và phương pháp vận động thanh niên torng tình hình mới.
- Vấn đề nổi bật trong thanh niên hiện nay là: Lý tưởng, đạo đức và lối sống. Đảng và Đoàn cần phải đi sâu làm chuyển biến mạnh mẽ trong thanh niên những nội dung quan trọng này.
- Đoàn cần phối hợp với các ngành hữu quan có kế hoạch tổ chức dạy nghề và từng bước tạo lao động việc làm cho thanh niên.
- Đoàn cần tập hợp những thanh niên tiên tiến hình thành những tổ chức nòng cốt, làm nhiệm vụ xung kích đi đầu trên những lĩnh vực nóng bỏngtrong từng thời kỳ như: Trật tự trị an, làm thủy lợi, chống sâu rầy… qua thực tiễn mà phát hiện những thanh niên ưu tú bổ sung cho Đoàn cho Đảng.
5. Hội Liên hiệp Phụ nữ:
- Cần có kế hoạch củng cố tổ chức hội, bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ bảo đảm cho hội có đủ sức phát triển phong trào phụ nữ trong tình hình mới.
- Phát hiện, lựa chọn những phụ nữ tiên tiến đào tạo nâng cao năng lực cán bộ, bảo đảm cho hội có đủ sức phát triển phong trào phụ nữ trong tình hình mới.
- Phát hiện, lựa chọn những phụ nữ tiên tiến đào tạo nâng cao để đưa phụ nữ tham gia các lĩnh vực chính trị kinh tế xã hội, phát huy vai trò phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển, bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong đời sống xã hội.
- Phối hợp với các ngành, tạo điều kiện để phát huy năng lực và trí tuệ của Phụ nữ trong sản xuất, kinh doanh, văn hoá, y tế, giáo dục… Phụ nữ phải là lực lượng nòng cốt, thực hiện cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá mới, sinh đẻ có kế hoạch, nuôi con khoẻ, dạy con ngoan.
g) Công tác xây dựng Đảng:
Tình hình trong những năm tới còn nhiều phức tạp. Nhiệm vụ 1991 – 1995 rất nặng nề, trong đó nhiệm vụ xây dựng Đảng hết sức quan trọng.
Yêu cầu đạt được là sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng bộ phải được nâng lên ngang tầm với nhiệm vvụ đặt ra:
Nội dung xây dựng Đảng đến 1995 và những năm đầu của nhiệm kỳ 1992 – 1993, tập trung vào những vấn đề chính yếu sau đây:
1. Xây dựng Đảng về chính trị - tư tưởng:
- Trước mắt cần tiếp tục tổ chức nghiên cứu, đi sâu các chuyên đề Nghị quyết Đại hội 7 của Đảng, Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng bộ Thành phố và Nghị quyết Đại hội lần VI của Huyện, làm cho cán bộ đảng viên nhất trí cao về sự đánh giá đúng đắn tình hình mọi mặt, về đường lối quan điểm và những nhiệm vụ chủ yếu trên các lĩnh vực, củng cố niềm tin, nâng cao trách nhiệm và nhiệt tình, khắc phụckhó khăn vượt qua thử thách giành từng thắng lợi, kiên trì thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
- Bằng nhiều hình thức đa dạng, tăng cường thông tin có định hướng, làm cho cán bộ đảng viên nắm bắt kịp mọi diễn biến với nhận thức đúng, không bị kích động, xuyên tác, giữ vững sự ổn định tư tưởng trong Đảng bộ trước mọi tình huống.
- Công tác tư tưởng phải được tiến hành với tinh thần chủ động, thường xuyên ở cơ sở không được lơi lỏng, phải nhận định đánh giá và dự đoán đúng tình hình tư tưởng cán bộ đảng viên trước những bước ngoặt để giáo dục xây dựng hoặc đấu tranh ngăn chặn, không được bỏ qua buông trôi. Đề cao vai trò của chi bộ, cấp ủy trong công tác tư tưởng.
- Tăng cường giáo dục truyền thống để làm rõ sâu sắc của thành quả hiện tại, tôn trọng, tự hào với lịch sử, đề cao trách nhiệm quyết tâm trong xây dựng và phát triển.
Cần phải gia công xem xét, phân tích nghiêm túc các khía cạnh về nhận thức, tâm lý và nhiều hiện tượng khác nhau để có thể hiểu được thực chất tư tưởng của mỗi loại đảng viên, nhằm đi vào chiều sâu của công tác tư tưởng.
2. Công tác tổ chức – cán bộ:
- Tập trung chỉ đạo chặt chẽ Đại hội Đảng cơ sở vòng 2 cả nội dung và nhân sự, thông qua đại hội để kiện toàn củng cố và nâng cao một mức chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng.
- Tổ chức tập huấn bồi dưỡng làm rõ chức trách nhiệm vụ, nội dung lãnh đạo, phương thức hoạt động phong cách làm việc của tổ chức Đảng ở nông thôn, ngành và đơn vị sản xuất … Nâng cao năng lực của Bí thư và cấp ủy cơ sở.
- Đấu tranh duy trì chặt chẽ chế độ sinh hoạt Đảng theo điều lệ quy định đối với tổ chức Đảng và đảng viên. Kiên quyết chấm dứt tình trạng lỏng lẻo trước đây. Nội dung phải được chuẩn bị ngắn gọn và thiết thực, trong sinh hoạt phải có yêu cầu tự phê bình và phê bình, nhằm bảo đảm sựđoàn kết thống nhất trong chi bộ.
- Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh toàn diện. Có chính sách đãi ngộ đối với những đồng chí làm công tác Bí thư cơ sở kể cả các chi bộ cơ quan ban ngành chung quanh Huyện.
- Tất cả Đảng viên đều phải nhận một nhiệm vụ công tác do Chi bộ phân công thích hợp với trình độ, sức khoẻ và hoàn cảnh cụ thể, chỉ trừ Đảng viên được chi bộ thống nhất cho miễn sinh hoạt và miễn công tác. Từng chi bộ nhỏ cần phải kiểm tra lại để thực hiện nghiêm túc nguyên tắc này.
- Trong tình hình phát triển mới, Đảng viên phải học tập để nâng cao hiểu biết, nắm được đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, phải rèn luyện về phẩm chất, đạo đức và lối sống, gương mẫu trong công tác, sản xuất và đời sống được sự tín nhiệm của quần chúng.
- Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 11 của Thành ủy, kiên quyết làm trong sạch đội ngũ đảng viên, đưa ra khỏi Đảng những người không đủ phẩm chất, kết nạp vào Đảng những quần chúng ưu tú tiên tiến. Hai năm đầu của nhiệm kỳ 1992 – 1993 phải tạo một bước chuyển biến quan trọng về chất đối với từng đảng viên, từng chi bộ nhỏ và tiếp tục nâng lên trong những năm tiếp theo.
- Xây dựng quy hoạch cán bộ, trên cơ sở đánh giá toàn diện từng cán bộ để sắp xếp nhân sự dự bị cho từng chức danh, trước mắt là những vị trí chủ chốt của Đảng, chính quyền 2 cấp Huyện – xã. Đồng thời phải có kế hoạch bồi dưỡng đào tạo thật cụ thể nhằm bổ sung những nội dung cần thiết để thay thế đổi mới đúng yêu cầu.
- Xác định trách nhiệm quản lý cán bộ theo phân cấp, phân công và trách nhiệm quản lý trực tiếp của chi bộ, thống nhất nội dung quản lý từng cán bộ và đội ngũ cán bộ. Đảm bảo chặt chẽ nguyên tắc tập thể dân chủ và công khai trong công tác cán bộ từ nhận xét đánh giá, sắp xếp bổ nhiệm đề bạt khen thưởng và kỷ luật, lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao làm thước đo về phẩm chất và năng lực, không được tuỳ tiện, định kiến hẹp hòi, tình cảm cá nhân, địa phương cục bộ.
- Thực hiện sự ổn định cán bộ để có tích luỹ và chuyên sâu, đồng thời cũng mạnh dạn điều chỉnh hợp lý để phát huy khả năng sở trường cán bộ. Kiên quyết thay thế những cán bộ kém phẩm chất và năng lực, chú trọng đề bạt cán bộ trẻ, cán bộ nữ có đủ tiêu chuẩn.
- Để Nghị quyết của Đảng được thực hiện, điều lệ Đảng được chấp hành và giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng, nhất thiết phải tăng cường mạnh mẽ công tác kiểm tra. Cấp ủy là người chịu trách nhiệm về công tác kiểm tra phải chủ động và tiến hành thường xuyên ở chi bộ nhằm giáo dục đấu tranh ngăn chặn hoặc xử lý những sai lầm khuyết điểm được kịp thời.
Trước mắt 1992 tập trung giải quyết những tồn tại và từng bước đưa công tác kiểm tra đi vào nề nếp.
Trong nhiệm kỳ VI của Đảng bộ 1991 – 1995. Trước mắt là 1992 – 1993. Nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ cần hướng vào những nội dung quan trọng như báo cáo chính trị đã thể hiện, không được xem nhẹ một lĩnh vực nào, nhưng nhiệm vụ cần phải tập trung để thực hiện là: Phát triển thì đời sống được cải thệin, xã hội sẽ ổn định, nhân dân tin Đảng, an ninh quốc phòng sẽ được bảo đảm vàxây dựng Đảng trong sạch vững mạnh là để đủ sức lãnh đạo kinh tế vàlãnh đạo toàn xã hội.
Đại hội Đại biểu Đảng bộ Huyện Bình Chánh lần thứ VI (1991 – 1995) khẳng định nhiềm tin vững chắc của toàn Đảng bộ vào mục tiêu XHCN mà Bác Hồ đã chọnvà sự lãnh đạo duy nhất của Đảng. Động viên sự nổ lực của toàn Đảng bộ và các từng lớp nhân dân torng Huyện, ra sức phấn đấu khắc phụ khó khăn, thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội, đẩy mạnh sản xuất, ổn định va 2cải thiện đời sống, đưa sự nghiệp xây dựng Huyện nhà phát triển vững chắc…
BCH ĐẢNG BỘ HUYỆN BÌNH CHÁNH