Thứ Sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024

Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bình Chánh lần thứ VII (1996 – 2000)

PHẦN THỨ NHẤT: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ HUYỆN LẦN THỨ VI (1991 – 1995)

I. VỀ KINH TẾ:

1/ Nông nghiệp:

Trong 5 năm (1991 - 1995), nhất là từ khi có nghị quyết Trung ương 5 (khóa VII) về "tiếp tục đổi mới kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới", Ban Chấp hành đã cụ thể hoá thành 6 chuyên đề: "Đó là chuyên đề cải tạo vườn tạp, phát triển đàn bò sữa, đưa KHKT vào cây trồng, vật nuôi (chú trọng việc tiếp nhận và sử dụng các loại giống mới). Chuyên đề cơ khí hoá nông nghiệp và thủy lợi ngọt hoá đồng ruộng v.v... Về vốn, Huyện đã tranh thủ các nguồn từ Trung ương và Thành phố cùng với khả năng của Huyện, tập trung đầu tư cho sản xuất (đến cuối năm 1995 có 12.898 hộ được vay 43 tỷ đồng, tăng gấp 30 lần so với năm 1991). Ngoài ra, kinh tế gia đình còn sử dụng nguồn vốn xóa đói giảm nghèo và chương trình giải quyết việc làm của Chính phủ. Về thủy lợi đã tập trung sức thực hiện các công trình: Đó là: thủy lợi Hóc Môn - Bắc Bình Chánh, các công trình khu tam giác xã Tân Nhựt, tập đoàn 2 Hóc Hưu xã Qui Đức, khu đông xã Đa Phước, kênh nội đồng 2 xã Tân Quí Tây và Bình Chánh, cánh đồng Hưng Thái xã Tân Kiên v.v... một số nơi làm thủy lợi gắn với giải quyết giao thông nông thôn khá tốt. Tính chung tổng kinh phí đầu tư cho thủy lợi đến 52,5 tỷ đồng (trong đó ngân sách Huyện chi 4 tỷ 6, tăng nhiều lần so năm 1991). Hằng năm đều có tăng kinh phí để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn khuyến nông, nhằm tạo thành phong trào đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng. Kết quả sản lượng lúa năm 1995 tăng 18%, rau các loại tăng trên 30%, đậu tăng 1,7 lần, đàn heo tăng 6%, thủy sản tăng trên 20% (so năm 1991). Từ những con số tăng vượt các chỉ tiêu. Chứng tỏ cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá phù hợp cơ chế thị trường đưa giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng bình quân 5,70%/năm, vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra (3,5% - 4%/năm).

Đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất phát triển, chúng ta tiếp tục giải quyết tranh chấp ruộng đất, thanh lý các tập đoàn sản xuất và các hợp tác xã nông nghiệp; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân. Đến nay cơ bản giải quyết dứt điểm những vụ nổi cộm, dây dưa kéo dài, đã ổn định tình hình về ruộng đất, đạt yêu cầu Đại hội đề ra (tuy vẫn còn tồn tại một số vụ mới phát sinh hoặc đã được giải quyết, nhưng cơ sở chậm thực hiện). Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đạt 69% / 95,8% số hộ nông nghiệp đã đăng ký (18.887 giấy / 27.611 hộ đăng ký (đạt thấp và chậm so NQ).

Nhìn chung sản xuất nông nghiệp tăng trưởng đều, đời sống nhân dân có bước cải thiện, ổn định.

Tuy nhiên, đối với sản xuất nông nghiệp vẫn còn lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Giá cả đầu vào còn cao, đầu ra sản phẩm còn bấp bênh. Thiếu vốn đầu tư cho sản xuất. Có thay đổi cơ cấu giống, nhưng còn ở mức độ nhỏ, qui mô hẹp. Việc quản lý và sử dụng các công trình thủy lợi chưa tốt, để hư hỏng xuống cấp.

Việc đưa khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, nhất là công nghệ chế biến chưa được chú trọng đúng mức, chậm triển khai đề án cơ giới hoá nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất và giải quyết tình hình thiếu lao động, trong những cao điểm của thời vụ, do một phần lực lượng lao động chuyển sang công nghiệp dịch vụ.

Những khó khăn nói trên đã tác động làm hạn chế đến quá trình phát triển sản xuất, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

2/ Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ:

Tốc độ tăng trưởng của sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mỗi năm đều tăng, bình quân 11,6% năm (1991 - 1995), vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra (6 - 7%).

Có được thành tựu trên, Ban Chấp hành và Ban thường vụ đã tập trung chỉ đạo, tạo những điều kiện thuận lợi thu hút các cơ sở từ nội thành ra, các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Khuyến khích các doanh nghiệp, huy động nhiều nguồn vốn để mở rộng phát triển sản xuất, nhằm khai thác thế mạnh của Huyện về mặt bằng đất đai, và lao động. So với năm 1991, tổng số cơ sở sản xuất tăng 66%, trang thiết bị, công nghệ mới đã có được ở nhiều cơ sở sản xuất, cả qui mô vừa và tương đối lớn; ngành hàng đa dạng, mẫu mã, chất lượng có sức cạnh tranh trên thị trường, nhất là các mặt hàng nông sản thực phẩm, may mặc, cơ khí, hoá chất... tạo ra những giá trị sản lượng lớn và giải quyết nhiều lao động có việc làm.

Những khó khăn và tồn tại của 5 năm qua và hiện nay là:

Kinh tế quốc doanh của Huyện không cạnh tranh nổi với các thành phần kinh tế khác, thiếu vốn, thua lỗ, đình chỉ hoặc giải thể hay đang sát nhập hình thành đơn vị kinh tế mới. Hoạt động Công ty xuất nhập khẩu sa sút, công nợ lớn, lúng túng, chưa có hướng tốt ra. Hàng ngoại nhập tràn lan cạnh tranh gay gắt, tác động xấu đến sản xuất nội địa. Nhiều cơ sở thiếu vốn, thiết bị, máy móc già cổi chưa được thay mới, cơ sở hạ tầng chưa đủ đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất; cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, chồng chéo, thủ tục về đất đai, xây dựng, còn nhiều phiền hà, không ổn định. Đó là những cản trở lớn cho đầu tư phát triển.

- Về thương mại - dịch vụ: Trong 5 năm qua, hành lang thương mại dịch vụ được bố trí hợp lý và khai thác khá tốt (tập trung theo trục quốc lộ 1A và đường Hùng Vương nối dài) tốc độ phát triển nhanh nhất là ở các chợ đầu mối: An Lạc, Bình Chánh, Cầu Xáng v.v... khối lượng hàng hoá ngày càng tăng chủng loại đa dạng phục vụ tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của nhân dân địa phương và khu vực.

- Trong đó kinh tế tư nhân, tiểu thương, tiểu chủ phát triển mạnh, chi phối bán buôn và bán lẻ, kinh tế HTX bị xem nhẹ, một số HTX tồn tại hình thức.

3/ Thực hiện qui hoạch tổng thể, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng:

Tổng số vốn đầu tư xây dựng trên địa bàn (1991 - 1995) trên 150 tỷ (trong đó ngân sác Huyện 28 tỷ 850 triệu đồng) bao gồm: thủy lợi 16,19%, dạy nghề 0,43%, Y tế 0,56% giao thông 30,40%, điện nước 45,25% v.v...

Đã tập trung cho các chương trình kinh tế trọng điểm, và những vấn đề xã hội bức xúc. Cụ thể là: Làm mới đường Tân Kiên - Bình Lợi, An Phú Tây, Tân Quí Tây, Hưng Long, Qui Đức, mở rộng nâng cấp, trãi nhựa các tuyến đường Hương lộ 11, 80, 5, 13... Xây mới các cầu trên các trục giao thông chính như: Cầu Ông Thoàn, Bà Bóng, Bà Tiếng, 4 cầu trên hương lộ 4; thay nhiều cầu khỉ bằng cầu bê-tông. Thực hiện điện khí hoá xã Bình Hưng Hòa, Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc B, cải tạo hệ thống lưới điện hạ thế ở các xã; khoan được 1.820 giếng nước phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất. Hoàn thành xây dựng mới khang trang trung tâm y tế Huyện, trung tâm dạy nghề, 6 trung tâm dân số kế hoạch hoá, xây dựng và sửa chữa trên 200 phòng học, trùng tu nâng cấp đình Tân Túc, xây dựng khu di tích truyền thống Láng Le - Bàu Cò, nâng cấp nghĩa trang liệt sĩ của Huyện, xây dựng các bia tưởng niệm: Vĩnh Lộc, Bình Lợi, Bình Hưng Hòa...

Qui hoạch tổng thể của Huyện đã được thành phố thông qua, đang xúc tiến việc qui hoạch chi tiết và kêu gọi đầu tư ở các khu vực trọng điểm (Tân Tạo, Bình Điền, Bình Hưng Hòa - Vĩnh Lộc, An Lạc - Bình Trị Đông v.v...).

Những tồn tại là việc xây dựng cơ sở sản xuất, nhà ở, không được gắn chặt với hệ thống thoát nước, môi sinh môi trường, đã xuất hiện những hậu quả xấu chưa được khắc phục (nước bẩn tràn ngập, sạt lỡ đường sá gây nhiều tai nạn giao thông...). Tình trạng ô nhiễm nặng nề môi trường ở xã Bình Hưng Hòa chưa được giải quyết đến nơi đến chốn. Quản lý nhà nước lỏng lẽo, nhất là trong lĩnh vực mua bán, sang nhượng đất, đào ao bán đất, sang lắp mặt bằng tùy tiện. Tuy có nhiều lần chấn chỉnh, nhưng vẫn tiếp tục vi phạm chủ trương, qui định, vượt quá thẩm quyền. Một số trường hợp lợi dụng chức quyền làm sai nguyên tắc về tài chánh, tự thu, tự chi, xâm phạm tài sản nhà nước và lợi ích công dân, nghiêm trọng là những người sai phạm là cán bộ chủ chốt của Đảng và chính quyền ở địa phương, đã bị xử lý kỷ luật và pháp luật. Những sai phạm trên có nhiều nguyên nhân, nhưng nổi lên là từ lợi ích cục bộ, địa phương và lợi ích cá nhân chi phối, không được phát hiện đấu tranh ngăn chặn ngay từ đầu và ngay tại cơ sở.

4/ Tài chánh - ngân sách:

Từ năm 1993 Huyện đã cân đối được những khoản chi thường xuyên và dành một phần cho đầu tư xây dựng cơ bản. Công tác quản lý thu chi tài chánh được chặt chẽ hơn, hạn chế việc chi ngoài kế hoạch đảm bảo thực hiện tiết kiệm đúng qui định.

- Yêu cầu chi ngày càng lớn, cân đối được là do tập trung thực hiện tích cực chống thất thu, khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh, nên nguồn thu hàng năm đều tng, góp phần đáng kể để giải quyết tốt hơn việc xây dựng Huyện và những vấn đề xã hội... (năm 1995 thu 28 tỷ 500 triệu đồng, chi 26 tỷ 800 triệu đồng, cả hai chỉ tiêu này đều tăng gấp 4 lần so năm 1991).

II. VỀ VĂN HOÁ XÃ HỘI:

Các nhiệm vụ văn hoá xã hội được xác định là mục tiêu ưu tiên và đã phấn đấu liên tục. Kết quả đạt được cụ thể trên các mặt như sau:

1/ Giáo dục - Đào tạo:

Trong nhiệm kỳ, ngành giáo dục và đào tạo đã triển khai thực hiện chủ trương đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo, phù hợp phương hướng đổi mới kinh tế. Hoàn thành tích giữa cấp 1 và cấp 2, xây dựng mới và sửa chữa trên 200 phòng học, số phòng bằng tre lá được xây mới khang trang hơn, đã chấm dứt tình trạng học ca ba. Chú ý tốt hơn việc bồi dưỡng, chăm sóc đội ngũ thầy cô giáo. Nhìn chung với sự nổ lực tổng hợp đã có tác dụng tích cực trong việc nâng cao hiệu quả dạy và học.

Khối mầm non đều có trường lớp khắp 20 xã, thị trấn, hàng năm đều có từ 70% - 80% trẻ 5 tuổi ra lớp mẫu giáo. Bậc tiểu học và trung học phổ thông có bước phát triển khá, tỷ lệ tốt nghiệp của học sinh hai cấp học này đạt từ 90% trở lên, (đạt chỉ tiêu Đại hội đề ra là 90%). Đặc biệt là số học sinh giỏi hàng năm đều có tỷ lệ tăng, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, quan tâm chăm lo tốt hơn số học sinh giỏi và có năng khiếu.

Huyện được công nhận đạt tiêu chuẩn phổ cập tiểu học, bước đầu thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục có kết quả.

Trung tâm dạy nghề đã phát huy tác dụng, đáp ứng được nhu cầu đào tạo nghề nghiệp cho thanh niên. Đã thu nhận và đào tạo thành nghề cho 2.337 người, trong đó có 77 bộ đội xuất ngũ, giới thiệu 1.444 người có việc làm ổn định.

Hạn chế:

- Chất lượng về chuyên môn nghiệp vụ của một bộ phận giáo viên có mức hạn chế, nhất là lớp giáo viên mới được đào tạo gấp sau này.

- Trang thiết bị còn thiếu nhiều so với yêu cầu giáo dục, đào tạo và dạy nghề.

2/ Văn hoá thông tin - thể dục thể thao:

Hoạt động văn hoá văn nghệ, thông tin tuyên truyền có nhiều cố gắng phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị, các công tác trọng tâm, đáp ứng một phần hưởng thụ văn hoá lành mạnh của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa và các xã anh hùng. Duy trì được phong trào văn hoá quần chúng, hội diễn công nhân viên chức, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa.

Bảo vệ và phát huy những loại hình văn hoá dân tộc truyền thống, các di tích lịch sử đã được chú ý khôi phục, giữ gìn; phát động được phong trào về nguồn có sức cuốn hút mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là lớp trẻ, đoàn viên, hội viên và thanh thiếu niên.

Tiến hành đấu tranh liên tục, ngăn chặn một mức các hoạt động văn hoá độc hại, mê tín dị đoan, đội ngũ làm công tác văn hóa có bước trưởng thành, đã góp phần hạn chế các mặt tiêu cực trong lĩnh vực văn hoá trên địa bàn.

Hệ thống truyền thanh, bản tin, thông tin lưu động v.v... đã có phần đóng góp tích cực nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân trong sản xuất đời sống, pháp luật.

Hoạt động thể dục thể thao đã tạo được sự chuyển biến tiến bộ, đạt những thành tích đáng kể, có: 79421 lượt người tập luyện thể dục thể thao thường xuyên, 114 đơn vị thể dục thể thao tiên tiến, 50 lượt xã loại A, 29 loại B, 15 loại C. Có 1763 lượt vận động viên năng khiếu tập luyện, có 12 vận động viên năng khiếu cấp thành phố, đạt 218 huy chương cấp thành và 11 huy chương cấp toàn quốc.

Những hạn chế và tồn tại của ngành, chính là thiếu tập trung quản lý Nhà nước trên mặt trận văn hoá nóng bỏng hiện nay, chưa đủ sức ngăn chặn có hiệu quả đối với hoạt động văn hoá độc hại. Địa bàn rộng, lực lượng làm công tác mỏng, kinh phí có hạn, không đủ điều kiện để hoàn thành tốt nhiệm vụ với yêu cầu ngày càng cao. Phong trào thể thao duy trì được ở Huyện, chưa có phong trào quần chúng rộng rãi ở các xã, thị trấn, chưa có chính sách phát hiện và bồi dưỡng tài năng thể dục thể thao phù hợp, thiếu sân bãi, trang bị phương tiện và những nhu cầu về tài chánh, vật chất cần thiết để duy trì và đẩy mạnh phong trào cả chiều rộng và chiều sâu.

3/ Y tế:

Tập trung đầu tư, đã hoàn thành trung tâm y tế của Huyện, tăng thêm số giường điều trị và cơ sở vật chất kỹ thuật, có một số thiết bị hiện đại và phương tiện phục vụ tốt. Chăm lo xây dựng và phát huy hệ thống y tế ở cơ sở. Đến nay đã có 20/20 xã, thị trấn có Trạm y tế, có 6 trung tâm y tế kế hoạch hoá liên xã, đã đáp ứng nhu cầu khám và điều trị cho nhân dân tốt hơn, số lượng khám và điều trị bệnh hàng năm đều tăng, phát huy đầy đủ các chuyên khoa, cấp cứu kịp thời và điều trị được nhiều bệnh trạng phức tạp. Đẩy mạnh hoạt động phòng chống các dịch bệnh không để xảy ra hoặc xảy ra cũng không lây lan, nghiêm trọng. Quan tâm phục vụ đối tượng chính sách và người nghèo, bước đầu đã giải quyết cho 20.000 người có sổ khám bệnh miễn phí.

- Thực hiện tốt tiêm chủng phòng bại liệt và uốn ván cho trẻ em trong độ tuổi quy định. Công tác vận động kế hoạch hoá gia đình đạt kết quả bước đầu, giảm tỷ lệ phát triển dân số, từ 1,9% đến cuối năm 1995 là 1,5% (Đại hội đề ra là 1,5%).

4/ Lao động - thương binh xã hội:

Huyện có nhiều cố gắng, tạo mọi điều kiện để giải quyết việc làm, bình quân mỗi năm tạo được việc làm cho 3186 người (tổng số đến nay là 15928/14210 đạt 112,16% kế hoạch) trong đó giải quyết việc làm ổn định cho 4.014/3.610 đạt 111,5% kế hoạch. (Đại hội đề ra là giải quyết 50% số lao động có việc làm).

Chương trình xóa đói giảm nghèo thật sự hợp lòng dân, mang lại hiệu quả chính trị - xã hội sâu sắc. Năm 1995, đã huy động được 4 tỷ đồng trợ giúp cho 3658 hộ, bình quân 1.000.000 đồng/hộ (Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ VI đề ra là 500 ngàn đồng / hộ) đạt 97% số hộ trong chương trình. Kết quả, đã cơ bản xóa hộ đói, giảm một phần hộ nghèo.

Quản lý và thực hiện các chế độ, chính sách có nhiều tiến bộ, đảm bảo chính xác và kịp thời, mặc dù đối tượng quản lý ngày càng tăng (1990 có 3.586 đối tượng, năm 1995 là 5535 đối tượng).

Vận động xây dựng 366/200 căn nhà tình nghĩa, vượt 166 căn với tổng số tiền 4 tỷ 444 triệu đồng, sửa chữa 276 căn với số tiền 690.000.000 đồng (vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra (tặng 136 sổ vàng tiết kiệm là 97.800.000 đồng).

Thấm nhuần quan điểm "uống nước nhớ nguồn" của Đảng và Nhà nước. Huyện đã tổ chức bảo đảm phụng dưỡng suốt đời 72 "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" còn sống.

III. AN NINH QUỐC PHÒNG

a. An ninh:

Từ khi Liên Xô tan rã, các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, cuộc đấu tranh chống âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch diễn ra, liên tục gay gắt và phức tạp trên nhiều lĩnh vực. Từ nhận thức đúng Ban chấp hành và Ban Thường vụ đã ra nghị quyết chuyên đề an ninh quốc phòng, chỉ đạo tổ chức triển khai, chủ động phòng ngừa và đấu tranh kiên quyết với mọi hoạt động phá hoại của địch, bảo đảm tốt trật tự trị an, giữ vững ổn định chính trị và cuộc sống bình yên của nhân dân.

Thời gian qua, trên địa bàn Huyện nổi lên một số tình hình: Đó là dòng người từ các nơi di chuyển đến, cư trú bất hợp pháp ngày càng đông, tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội gia tăng ở một số tụ điểm, có vụ nghiêm trọng, một số người lợi dụng hoạt động tôn giáo, truyền giảng đạo trái phép, xúi giục, kích động đòi lại ruộng đất... Một số khu vực tiếp giáp là cửa ngõ của các đường dây hàng lậu liên tục đổ vào thành phố...

- Nghị quyết chuyên đề xác định đúng trọng tâm an ninh cơ sở, an ninh kinh tế, an ninh văn hóa tư tưởng và an ninh nội bộ. Ta đã nắm bắt kịp thời mọi diễn biến, thường xuyên phát động phong trào BVANTQ, xây dựng lực lượng nòng cốt. Phối hợp chặt chẽ với mặt trận và các đoàn thể, phối kết nhiệm vụ với các Xã giáp ranh của Tỉnh Long An, thực hiện chế độ giao ban định kỳ của thường trực huyện ủy và thường trực UBND Huyện với khối nội chính. Tổng hợp và xử lý nhanh các vụ việc cụ thể.

Tổ chức truy quét liên tục các loại đối tượng phạm pháp, tập trung làm chuyển hoá các địa bàn trọng điểm, trấn áp và phá tan nhiều băng nhóm cướp đường, trộm cắp, giựt dọc tài sản của công dân và các tệ nạn xã hội, kêu gọi tự thú, giao nộp hung khí, giải quyết kịp thời các vụ án xâm phạm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

- Tổ chức chỉ đạo đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu có kết quả. Các cơ quan bảo vệ pháp luật (Thanh tra, Công an, Kiểm soát, Tòa án) có bước tiến bộ về trách nhiệm và năng lực về nghiệp vụ. Đã tập trung hướng vào những trọng tâm từng thời kỳ, đi sâu làm rõ nhiều vấn đề có tác dụng phê phán, giáo dục xử lý ngăn ngừa. Các ngành cũng đã phát huy mối quan hệ tốt để nâng cao chất lượng hoàn thành nhiệm vụ.

b. Quốc phòng:

- Công tác quân sự địa phương có nhiều tiến bộ, hàng năm thông qua diễn tập mà bổ sung hoàn thiện kế hoạch phòng thủ, nâng cao trình độ, năng lực chỉ huy. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ và quân dự bị động viên, chú trọng nâng cao chất lượng chiến đấu. Đến cuối năm 1994, lực lượng dân quân tự vệ chiếm 2,3% dân số, 1,8% Đảng viên và 3,02% đoàn viên thanh niên. Phối hợp với các ngành, mặt trận và các đoàn thể làm tốt chính sách hậu phương quân đội, làm tốt công tác dân vận, giải quyết việc làm cho quân nhân xuất ngũ. Công tác tuyển quân hàng năm đều đạt chỉ tiêu. Tổ chức thực hiện tốt kế hoạch huấn luyện các lực lượng, tham dự hội thi, hội thao đạt thứ hạng cao.

Nhiệm vụ quốc phòng và an ninh được chỉ đạo tập trung, hoạt động đồng bộ, có hiệu quả, giữ vững ổn định chính trị, và trật tự an toàn xã hội, thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự địa phương, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu.

Hạn chế:

- Việc xây dựng hệ thống an ninh nhân dân ở cơ sở, xây dựng lực lượng dân quân ở xã, ấp, lực lượng tự vệ ở cơ quan, xí nghiệp chưa được đều khắp, rộng rãi, lực lượng nòng cốt chất lượng còn thấp, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc ở một số nơi còn yếu.

- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, chiến sĩ so với tình hình phát triển đã bộc lộ sự hạn chế, nhất là cán bộ ở cơ sở.

Chống buôn lậu tuy có nhiều cố gắng và đạt một số kết quả đáng kể, nhưng chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa phát động được phong trào quần chúng tham gia đấu tranh chống buôn lậu.

Một số cán bộ, chiến sĩ trong ngành có những sai phạm về phẩm chất đạo đức làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân. Trang bị phương tiện công tác còn thiếu nhiều, đời sống cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang còn khó khăn.

IV. XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ:

1/ Về xây dựng Đảng:

a/ Công tác tư tưởng:

- Trước tình hình phức tạp của thế giới và những khó khăn trong nước, bên cạnh sự vững vàng chung, một bộ phận Đảng viên bộc lộ sự dao động, mơ hồ, mất niềm tin trước những biến động của thời cuộc, cá biệt có Đảng viên đồng tình với những luận điệu sai trái, muốn đổi tên nước, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường XHCN, hoặc thái độ không rõ ràng trước những xuyên tạc kích động của kẻ thù.

Về kinh tế, số đông Đảng viên đồng tình và phấn khởi trước những chuyển động tích cực bước đầu của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Nhưng do chưa nắm vững những quan điểm cơ bản của Đảng, và tính chất cơ chế của thị trường, nên một số Đảng viên quan niệm đồng nhất cơ chế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Xem nhẹ kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể. Buôn lỏng vai trò quản lý nhà nước, mặt trái của cơ chế thị trường phát triển chi phối làm nảy sinh tư tưởng, thực dụng, chạy theo đồng tiền đã làm cho một số Đảng viên sa sút đạo đức phẩm chất, biểu hiện quan liêu, cửa quyền, kém ý thức tổ chức kỷ luật. Những sai trái đó đã gây bất bình trong dư luận, làm giảm sút sức chiến đấu của Đảng và lòng tin của dân.

Nhận thức được vị trí và ý nghĩa đặc biệt của công tác tư tưởng, trong thời điểm bước ngoặc, Ban chấp hành và Ban Thường vụ đã đặt lên hàng đầu nhiệm vụ tổ chức nghiên cứu quán triệt các nghị quyết quan trọng của Đảng, đó là NQTW 3, 4, 5, 7 và 8 (khóa VII) đã làm cho Đảng viên nhận thức sâu sắc, nhận định, đánh giá đúng tình hình và thông suốt nhất trí với đường lối quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo được sự thống nhất cao về chính trị và tinh thần trong Đảng và trong nhân dân.

Gắn mỗi bước phát triển kinh tế với việc chăm lo tốt các vấn đề xã hội. Đảng bộ đã coi trọng giáo dục phát huy truyền thống cách mạng của dân tộc, của Đảng bộ và nhân dân Huyện nàh, thực hiện có kết quả chính sách đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, chăm lo tốt hơn sự nghiệp y tế, giáo dục, các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, ngăn chặn và từng bước đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tổ chức giáo dục nâng cao nhận thức chính trị cho lớp Đảng viên trẻ và Đảng viên đương chức từ lý luận sơ cấp đến trung cao cấp, bồi dưỡng cấp ủy cơ sở, bổ túc văn hoá, nghiệp vụ từ phổ thông đến đại học và ngoại ngữ v.v...

Từ những kết quả trên, nhận thức tư tưởng của cán bộ, Đảng viên ngày càng được ổn định hơn, khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới và mục tiêu XHCN; kiên định chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

Tuy nhiên, cho đến nay những tồn tại cần được quan tâm, đó là: tư tưởng thực dụng và chủ nghĩa cá nhân xuất hiện dưới nhiều dạng tinh vi khác nhau, nhiều hành động vi phạm nguyên tắc, chủ trương chính sách và pháp luật. Tình trạng lơ là, thiếu nhiệt tình trong sinh hoạt Đảng, học tập chính trị, không quan tâm đến thời cuộc, bàn quan trước những luận điệu sai trái, ngán ngại công tác Đảng, công tác đoàn thể, kèn cựa địa vị. Số đông đảng viên kiên định vững vàn, nhưng lại không đủ sức phản bác lại những luận điệu xuyên tạc, thù địch; chưa hiểu rõ về quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường; nhận thức về 4 nguy cơ, và vai trò cụ thể của Đảng viên góp sức cùng đẩy lùi bốn nguy cơ, ý thức về cuộc đấu tranh chống sự xâm nhập văn hóa phản động của các thế lực thù địch, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, thì trong Đảng và trong nhân dân chưa thể hiện rõ về nhận thức trách nhiệm cũng như hành động. Tâm trạng chung còn băn khoăn, lo lắng nhiều về tệ tham nhũng và buôn lậu, quan liêu gây phiền hà đối với dân.

b/ Công tác tổ chức cán bộ:

Tiếp thu NQTW 3 (khóa VII) "Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng", Ban chấp hành và ban thường vụ đã tập trung dồn sức cụ thể hoá nghị quyết và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, gắn với việc thực hiện các qui định của Ban Bí thư trung ương về các loại hình tổ chức cơ sở Đảng.

Đến nay chất lượng Đảng viên có sự chuyển biến rõ, tỷ lệ Đảng viên loại 1 tăng 25,14% loại 2, giảm 21,36%, Đảng viên loại 3 có mức phấn đấu vươn lên tốt. Nhiều cấp ủy nắm chắc hơn thực trạng tình hình tổ chức cơ sở và Đảng viên. Vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng ở khối hành chánh sự nghiệp, doanh nghiệp, trước đây có thời gian xem nhẹ, nay được xác lập và củng cố. Sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy, công tác quản lý, giáo dục và phân công Đảng viên, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở nhiều cơ sở Đảng có tiến bộ, nhiều tổ chức cơ sở có chương trình hành động, qui chế làm việc, gắn đổi mới chỉnh đốn Đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội tốt hơn. Nhiều Đảng viên, cán bộ, đang công tác nhất là lớp trẻ, đã có ý thức cầu tiến, tự giác rèn luyện, tranh thủ học tập chính trị, nghiệp vụ, văn hoá, ngoại ngữ.

Trong quá trình thực hiện đổi mới và chỉnh đốn Đảng, đã tập trung chỉ đạo phát huy vai trò lãnh đạo của chi bộ ấp. Đồng thời tiến hành kiểm tra, xử lý giải quyết những tồn động kéo dài, chấn chỉnh công tác quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực quan trọng như: đất đai, tài chính, sắp xếp lại bộ máy phòng, ban, xã, thị trấn, giải thể các đơn vị kinh tế làm ăn thua lỗ, thay đổi cán bộ, kiện toàn cấp ủy, giúp đỡ Đảng viên hoàn thành nhiệm vụ.

Nhìn chung, công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ VI, đặc biệt là kết quả thực hiện NQTW 3, đến nay đã có 16 cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh (27,59%), 33 cơ sở Đảng loại khá (56,9%), 8 cơ sở trung bình (13,79%) và 01 cơ sở còn yếu kém (1,72%). Tuy không đạt chỉ tiêu tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh của NQ Đại hội VI đề ra (trên 50%), song chất lượng phản ánh qua phân loại là nghiêm túc, sát thực tế từng cơ sở.

Sự chuyển biến tiến bộ nêu trên chỉ là bước đầu, chưa toàn diện và đồng đều, những nơi có vấn đề nội bộ giải quyết chưa đạt độ vững chắc. Tính chiến đấu ở nhiều tổ chức cơ sở Đảng còn hạn chế, diện cơ sở Đảng trung bình và yếu kém vẫn còn, đội ngũ cán bộ ở một số địa phương và đơn vị còn bị hụt hẩng, lực lượng cán bộ trẻ, kế thừa mỏng. Phương thức Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ nhiều nơi chưa thể hiện rõ. Trình độ, kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý một số cán bộ chủ chốt nhìn chung còn thấp, một số ít cán bộ Đảng viên sa sút về phẩm chất, đạo đức, đã ảnh hưởng không tốt đến uy tín Đảng và nhà nước ở một số nơi. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực chưa được phát hiện bằng con đường đấu tranh từ tổ chức cơ sở Đảng. Tuy vai trò lãnh đạo của cơ sở Đảng khối hành chánh sự nghiệp và doanh nghiệp có được củng cố, nhưng hiệu lực lãnh đạo phát huy chưa rõ. Tình trạng kèn cựa, địa vị, nặng lợi ích cục bộ, lợi ích cá nhân của một số cán bộ Đảng viên đã gây không ít khó khăn trong việc sắp xếp, bố trí cán bộ ở một số nơi. Một số ít Đảng viên còn danh nghĩa nhưng không hoạt động cho Đảng, một số ít không còn vai trò và tác dụng trong quần chúng nhân dân.

Sau 3 năm triển khai thực hiện NQTW 3, công tác phát triển Đảng có khá hơn, cơ cấu Đảng viên mới khá đa dạng về thành phần do chú ý mở rộng đối tượng phát triển Đảng trong các tổ chức quần chúng và những người tiêu biểu trong các Ban ấp, khu phố, tổ nhân dân. Tính từ năm 1991 đến năm 1995, số Đảng viên mới kết nạp là 247 đồng chí.

- Về cán bộ: Việc lựa chọn, sắp xếp, bố trí cán bộ thích hợp, phát huy tác dụng của quy hoạch đào tạo bồi dưỡng, có cơ sở để chuẩn bị nhân sự cho các kỳ Đại hội Đảng, bầu cử HĐND, UBND từ Huyện đến Xã, Thị trấn. Đã kiện toàn các cấp ủy cơ sở và phòng ban cấp huyện, xây dựng được đội ngũ cán bộ chủ chốt trẻ, tin cậy, có triển vọng phát triển tốt.

- Đã đầu tư cho công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ vừa cho trước mắt, vừa có tính kế thừa, được thực hiện khá tốt, đang có sự chuyển biến nhanh về chất, nhận thức chính trị, quan điểm lập trường, kiến thức về kinh tế, về nhà nước, về luật pháp được nâng lên. Từ ngân sách Đảng, ngân sách Nhà nước hổ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cán bộ, Đảng viên tham gia học tập tốt. Qua thử thách của cơ chế thị trường, số đông cán bộ lãnh đạo, quản lý đã có một số kinh nghiệm, thích ứng dần với cơ chế mới, trong đó có một số cán bộ trẻ.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Huyện ủy và Ban Thường vụ, tập trung hướng về cơ sở, xây dựng xã điểm, ấp điểm, xây dựng các điển hình từ các phong trào hành động cách mạng của quần chúng, tổ chức sơ kết nhân rộng các mô hình tiên tiến. Chỉ đạo các cấp ủy cơ sở xây dựng qui chế và làm việc theo qui chế.

Hạn chế:

Về phương pháp và cách làm trong công tác qui hoạch cán bộ, đào tạo và bố trí cán bộ, có một số trường hợp biểu hiện quan điểm đánh giá cán bộ chưa nhất quán, có lúc chủ quan, nên bố trí cán bộ chưa theo đúng qui hoạch, tính thuyết phục không cao. Hội họp nhiều, việc chấp hành giờ giấc và sinh hoạt theo qui chế chưa nghiêm, biểu hiện phổ biến là đi họp không đúng giờ, dự họp không đúng thành phần, vắng mặt không báo trước.

- Tình hình trên kéo dài đó là khuyết điểm của Ban chấp hành và Ban Thường vụ.

c/ Công tác kiểm tra Đảng:

Trước yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới, Ban chấp hành và Ban Thường vụ xác định quá trình thực hiện các Nghị quyết của Đảng phải gắn chặt công tác kiểm tra trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhằm làm cho Đảng bộ thống nhất ý chí và hành động tổ chức Đảng đến Đảng viên. Lấy phương châm ngăn ngừa là chính, xử lý kịp thời và nghiêm minh những người sai phạm.

Đã kiện toàn một mức về tổ chức và cán bộ làm công tác kiểm tra từ Huyện đến cơ sở. Tiến hành bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao năng lực cho cán bộ kiểm tra 2 cấp, tiến hành các hoạt động kiểm tra có kết quả, các cơ sở Đảng được chấn chỉnh, làm việc đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo Điều lệ Đảng qui định, số đông cán bộ kiểm tra thể hiện tốt tinh thần trách nhiệm, đảm đương được nhiệm vụ. Qua thực hiện NQTW 3 trong 62 tổ chức cơ sở Đảng và 1346 Đảng viên (93,39% đảng số), có 1210 Đảng viên (96,26%) được kiểm tra, trong đó có 242 Đảng viên là ủy viên Ban chấp hành các cấp. Xử lý kỷ luật 47 Đảng viên. Tổng số Đảng viên bị kỷ luật tính đến nay là 156 đồng chí (trong đó có 7 cấp ủy viên cơ sở); số bị kỷ luật được công nhận, sửa chữa khuyết điểm là 32 Đảng viên.

Nhờ tăng cường công tác kiểm tra, đã tạo được sự chuyển biến về nhận thức trách nhiệm, về tinh thần tổ chức kỷ luật của đại bộ phận Đảng viên và các cấp ủy. Đã xây dựng và làm việc theo qui chế đi dần vào nề nếp.

Mặt yếu còn tồn tại là: một số tổ chức cơ sở Đảng chưa thực hiện đúng qui chế, nguyên tắc tập trung dân chủ bị vi phạm, mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý chưa thể hiện rõ. Một số cán bộ làm công tác kiểm tra chưa có trình độ và năng lực ngang tầm nhiệm vụ mới, còn kiêm nhiệm nhiều. Chưa có quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra.

2/ Tổ chức, hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước:

Bộ máy Nhà nước từ Huyện đến xã, thị trấn được kiện toàn củng cố theo quyết định 1852 của UBND Thành phố, tăng cường chế độ trách nhiệm; tách quản lý nhà nước ra khỏi hoạt động sản xuất kinh doanh. Đội ngũ cán bộ qua đào tạo, bồi dưỡng, kiến thức và năng lực có được nâng lên.

HĐND, UBND từ Huyện đến các cơ sở có nhiều cố gắng cụ thể hoá nghị quyết của Ban chấp hành, Ban Thường vụ, tổ chức chỉ đạo thực hiện có kết quả.

Tuy nhiên, trình độ và năng lực của đội ngũ công chức chưa ngang tầm nhiệm vụ mới, nhất là đòi hỏi phát triển nhanh của nền kinh tế và hướng mở rộng đô thị hoá sắp tới của Huyện. Phong cách làm việc còn tùy tiện, chấp hành chế độ sinh hoạt, hội họp, giờ giấc chưa nghiêm. Ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ nhân dân của một bộ phận công chức chưa được đề cao, còn gây phiền hà đối với dân, giải quyết công việc còn đùn đẩy kéo dài. Quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực còn lỏng lẽo. Một số ít cán bộ, công chức đã bộc lộ tư tưởng, thực dụng, cục bộ, cá nhân, đã vi phạm khuyết điểm, sai lầm.

3/ Công tác vận động nhân dân:

Mặt trận và các đoàn thể thực hiện đổi mới phương thức hoạt động đi vào chiều sâu. Hướng nội dung nhiệm vụ vào các phong trào: ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi, ngành nghề, phát huy dân chủ, chăm lo lợi ích thiết thân hằng ngày của các tầng lớp nhân dân, bám sát các chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phong trào giúp nhau làm kinh tế gia đình, khuyến học, khuyến nông, phong trào mưu sinh lập nghiệp, gia đình văn hoá mới, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Thông qua đó, củng cố và mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, xây dựng lực lường nòng cốt ở cơ sở.

Công tác Tôn giáo được quan tâm, vận động người Hoa được chú ý hơn, thường xuyên tổ chức sinh hoạt tuyên truyền vận động các giới đồng bào và tín đồ phật tử thực hiện các chương trình cứu trợ, từ thiện đạt kết quả tốt.

Phát triển mối quan hệ tốt với chức sắc các Tôn giáo theo đúng chính sách của Đảng và Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống bọn phản động đội lốt tôn giáo, hoạt động chia rẽ, gây tổn hại đến Đại đoàn kết dân tộc.

Đã hình thành Ban Dân vận Huyện ủy. Thường trực huyện ủy và UBND Huyện định kỳ làm việc với Ban Dân vận và mặt trận, các đoàn thể, để lắng nghe, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp, các giới. Chú trọng công tác thanh niên và hoạt động của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Qua đó cho ý kiến chỉ đạo cụ thể, chỉ ra các biện pháp tháo gỡ hoặc giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quần chúng nhân dân và bản thân công tác dân vận.

Những yếu kém của mặt trận và các đoàn thể:

Chưa làm tốt chức năng kiểm tra, giám sát, quản lý các hoạt động của chính quyền với tư cách là người đại diện các tầng lớp nhân dân, nhất là đoàn thể ở cơ sở đối với chính quyền Xã, Thị trấn.

Lực lượng các đoàn thể còn mỏng, nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, phát triển đoàn viên, hội viên chậm. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tuy đã ngăn chặn được đà xuống dốc và có mức vươn lên, nhưng số lượng và chất lượng nhiều nơi vẫn còn thấp, hoạt động của Đoàn ở nhiều cơ sở còn yếu kém.

Cấp ủy một số nơi thiếu quan tâm lãnh đạo các đoàn thể, nhất là Đoàn thanh niên. Hệ thống tổ chức và bộ máy hoạt động của mặt trận và các đoàn thể tuy có được củng cố khá hơn trước, vẫn chưa đủ sức đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Thu nhập, đời sống cán bộ còn nhiều khó khăn, chế độ chính sách chưa thỏa đáng.

V. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT:

A/ Thành tựu:

1. Nền kinh tế của Huyện đã vượt qua được thời kỳ khó khăn nhất, đang trên đà phát triển và giữ được tốc độ tăng trưởng hàng năm. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu các thành phần kinh tế phù hợp, đã làm chuyển dịch sự phân công lao động xã hội, từ nông nghiệp sang công nghiệp và các loại hình dịch vụ phát triển thu hút nhiều lao động có công ăn việc làm, tăng thu nhập: nông nghiệp (1991 - 1995) tăng bình quân 5,7% năm, công nghiệp, dịch vụ, thương mại mở rộng và phát triển mạnh, tăng bình quân 11,6% năm, đời sống nhân dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn được đổi mới. Tuy vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng trong Đảng và trong nhân dân phấn khởi, yên tâm sản xuất, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đội ngũ cán bộ đã trưởng thành một bước.

2. Gắn liền mỗi bước phát triển kinh tế, Huyện chăm lo tốt việc xây dựng cơ sở hạ tầng và những vấn đề xã hội, đề ra nhiều chủ trương và biện pháp tổ chức thực hiện có kết quả. Đường sá, cầu cống, điện nước, trường học, trạm y tế được sửa chữa, mở rộng và làm mới. Làm tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, chăm sóc nuôi dưỡng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng v.v... Thành công có ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, thể hiện quan điểm: uống nước nhớ nguồn, trước sau như một của Đảng ta, với quyết tâm đồng bộ của cả hệ thống chính trị; trong đó có vai trò rất to lớn của quảng đại quần chúng nhân dân có truyền thống Cách mạng của Huyện nhà.

3. Nhận thức đúng tình hình quốc tế diễn biến phức tạp và chiến lược "diễn biến hoà bình" nguy hiểm của các thế lực thù địch. Đồng thời ý thức được chỉ có ổn định chính trị mới thực hiện được nhiệm vụ xây dựng phát triển. Ban chấp hành đã có Nghị quyết chuyên đề về An ninh Quốc phòng, tổ chức triển khai, đi sâu vào cơ sở, xây dựng các kế hoạch, chỉ động tiến công toàn diện, phát động phong trào quần chúng bảo vệ ANTQ. Bằng các hoạt động tổng hợp, dưới sự chỉ đạo tập trung thống nhất của các cấp ủy, chúng ta đã giữ vững được tình hình ANTT trên địa bàn, làm chuyển hoá một số khu vực trọng điểm.

4. Đã kiên trì thực hiện có kết quả công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và xây dựng đội ngũ Đảng viên. Qua thực hiện Nghị quyết 11 của Thành ủy (khóa V) và NQTW 3 (khóa VII) tổ chức cơ sở Đảng được kiện toàn, củng cố và nâng lên, thể hiện được vai trò hạt nhân lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương và đơn vị. Huyện ủy và các cấp ủy nắm chắc hơn thực trạng tình hình tổ chức Đảng và Đảng viên trong Đảng bộ mình, làm cơ sở cho quá trình tiếp tục đi sâu vào nhiệm vụ xây dựng Đảng toàn diện, nâng trình độ năng lực và phẩm chất của cán bộ, Đảng viên ngang tầm với tình hình và nhiệm vụ mới.

B/ Những khó khăn thiếu sót:

1. Kinh tế tăng trưởng nhanh, nhưng bộc lộ tính tự phát, thiếu căn cơ vững chắc, xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực của kinh tế thị trường. Lúng túng trong việc củng cố kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác, nhất là hợp tác trong nông nghiệp.

2. Quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường. Trong bộ máy nhà nước còn thiếu những cán bộ, công chức có kiến thức rộng, có năng lực giỏi và toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Tình trạng quan liêu, cửa quyền, thái độ phong cách không tốt khi tiếp xúc với dân vẫn còn, kỹ cương phép nước không được duy trì nghiêm túc trên nhiều mặt đời sống xã hội.

3. Tình trạng mất cảnh giác đối với âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch với những mức độ khác nhau, nhưng còn khá phổ biến trong nội bộ Đảng và trong nhân dân, biểu hiện trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong các quan hệ đối ngoại, các hoạt động kinh tế, Văn hoá - Xã hội.

4. Tính chiến đấu trong Đảng chưa sạch, bộc lộ nể nang, hữu khuynh, không duy trì chặt chẽ nguyên tắc phê bình và tự phê bình trong sinh hoạt Đảng. Một số Đảng viên, kể cả Đảng viên là cấp ủy, không tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo. Bị tác động bởi mặt trái của cơ chế thị trường đã làm một số cán bộ, Đảng viên, thiếu rèn luyện, chạy theo lợi ích cá nhân, cục bộ đã vi phạm nguyên tắc, vi phạm kỷ luật và pháp luật.

VI. MỘT SỐ KINH NGHIỆM:

1. Sự vững vàng kiên định của Đảng trước tình hình bước ngoặc là cực kỳ quan trọng, mà trước hết là cấp ủy và bí thư. Nắm vững nguyên tắc tập thể lãnh đạo. Đi sâu những nội dung chủ yếu của các Nghị quyết quan trọng của Đảng, chỉ đạo tập trung nghiên cứu làm chuyển biến nhận thức tư tưởng cho cán bộ - Đảng viên mà trước hết là cán bộ chủ chốt. Phát huy vai trò MTTQ và đoàn thể, đi sâu vào quần chúng làm chuyển hoá nhận thức đoàn viên, hội viên, chăm lo thiết thực quyền lợi vật chất tinh thần của quần chúng giữ vững niềm tin của các tầng lớp QC đối với Đảng và sự nghiệp đổi mới.

2. Các vấn đề chính sách xã hội được gắn chặt với từng bước của quá trình phát triển kinh tế, được đông đảo các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ, khơi dậy mạnh mẽ tiềm lực của con người, tác động thúc đẩy cho sự phát triển toàn diện của xã hội.

3. Đầu tư cho đào tạo bồi dưỡng cán bộ, mạnh dạn đề bạc bố trí cán bộ trẻ, tăng cường cán bộ cho cơ sở, đã hình thành được một đội ngũ cán bộ mới tương đối đồng bộ, đủ sức đảm đương nhiệm vụ hiện tại và có khả năng đảm bảo kịp theo nhịp độ phát triển tương lai.

4. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát của Đảng và nhà nước, kịp thời phát hiện ngăn ngừa và điều chỉnh những sai trái lệch lạc. Tổ chức sơ kết, nhân điển hình và rút kinh nghiệm để nâng cao chất lượng chỉ đạo trong quá trình đưa nghị quyết vào cuộc sống.


PHẦN THỨ HAI

PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ MỤC TIÊU KINH TẾ - XÃ HỘI NHIỀM KỲ VII (1996 - 2000)

*****

Thuận lợi:

- Với những cơ sở vật chất và tinh thần đã kiến tạo được trong nhiệm kỳ qua, công trình thủy lợi Hóc Môn - Bắc Bình Chánh sẽ tiếp tục hoàn thành đồng bộ, tuyến đường Bắc Nhà Bè - Nam Bình Chánh sẽ triển khai và Hồ Sinh Thái ở Vĩnh Lộc sẽ được mở ra. Những công trình quan trọng này sẽ tác động tích cực mạnh mẽ đến sự phát triển nhiều mặt đối với Huyện nhà.

- Quy hoạch tổng thể đã được Thành phố phê duyệt, thế mạnh của Huyện là đất đai còn nhiều, mặt bằng còn lớn, là nhu cầu bức xúc của hướng bung ra, mở rộng, phát triển của các thành phần kinh tế từ nội thành cũng như của nhiều đối tác nước ngoài. Với những thắng lợi của đường lối đối ngoại của Đảng, vị trí quốc tế của nước ta được nâng cao, quan hệ hữu nghị với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là quan hệ về kinh tế và khoa học kỹ thuật, tạo thuận lợi cho sự phát triển nhanh, thành phố chúng ta gắn với khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam là địa bàn thu hút sự quan tâm đầu tư của nhiều nước.

- Vị trí Huyện Bình Chánh là cửa ngõ phía Tây - Nam của Thành phố Hồ Chí Minh, có hệ thống giao thông thủy bộ, nối liền thành phố với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, mở rộng giao lưu kinh tế với quy mô ngày càng lớn giữa công nghiệp và nông nghiệp. Một khối lượng lớn sản phẩm nông nghiệp từ miền Tây cung cấp cho Thành phố và xuất khẩu, đồng thời đồng bằng sông Cửu Long cũng là thị trường trực tiếp của thành phố về hàng công nghiệp và tiêu dùng. Tất cả hàng hoá vào ra, xuôi ngược đều dừng chân tập kết ở Bình Chánh để chuyển tiếp. Như vậy, nhu cầu về dịch vụ là rất lớn mà Bình Chánh phải hứng đón, đó là: kho tàng, bến bãi, bảo quản, bao bì, đóng gói v.v...

- Những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về đầu tư phát triển sẽ được bổ sung và hoàn thiện. Đội ngũ cán bộ của Huyện qua thực tiễn có kinh nghiệm và trưởng thành. Đảng bộ và nhân dân có truyền thống cách mạng, là địa phương anh hùng, dũng cảm hy sinh trong chiến đấu, cần cù trong lao động, sáng tạo và có niềm tin mạnh mẽ. Một số đề án qua quá trình đàm phán đã đi vào giai đoạn kết thúc như: khu công nghiệp Tân Tạo, khu dân cư đô thị hoá An Lạc - Bình Trị, khu sản xuất dược phẩm ở Bình Chánh v.v...

Khó khăn:

- Về cơ sở hạ tầng những năm qua đã làm được một khối lượng lớn: cầu cống, đường sá, điện nước được sửa chữa, nâng cấp, làm mới, có tác dụng thúc đẩy sản xuất và cải thiện đời sống. Nhưng so với yêu cầu phát triển thì còn thiếu nghiêm trọng, về môi sinh, môi trường còn tồn tại nhiều vấn đề hết sức khó khăn, gây cản ngại đáng kể.

- Trình độ dân trí thấp, lực lượng lao động lớn, nhưng lao động có văn hoá có tay nghề, và kỹ thuật còn quá ít, chưa đáp ứng kịp với nhu cầu phát triển ngày càng cao với tốc độ ngày càng nhanh.

- Cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý nhà nước và cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh tuy có được nâng lên nhưng chưa đủ sức với đòi hỏi của thời kỳ phát triển mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

**

*

Xuất phát từ tình hình trên, xác định nhiệm vụ chính trị nhiệm kỳ VII (1996 - 2000) và những năm đầu thế kỷ 21. Mục tiêu tổng quát của 5 năm tới là:

- Ra sức phát huy những thuận lợi, khắc phục những khó khăn, yếu kém, kịp thời nắm bắt thời cơ, tích cực khai thác tiềm năng, thế mạnh của Huyện.

+ Tập trung sức đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp, tạo sự phát triển toàn diện vững chắc, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

+ Giải quyết tốt các vấn đề Văn hoá - Xã hội.

+ Nâng cao cảnh giác chống: "diễn biến hoà bình" đảm bảo chắc về quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn.

+ Tiếp tục xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, quy hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, nâng cao năng lực và bản lĩnh cán bộ Đảng viên đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ trong tình hình mới.

NHIỆM VỤ CỤ THỂ

I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ:

Từ nay đến năm 2000, xác định cơ cấu kinh tế vẫn là nông, công nghiệp - thương mại - dịch vụ. Nhưng tập trung thúc đẩy tốc độ chuyển dịch theo hướng công - nông nghiệp. Trước mắt ra sức đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp và hướng vào những khâu trọng tâm: làm đất, giống, chế biến, vận chuyển v.v...

1. Về nông nghiệp:

Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hoá nông nghiệp, động viên khai thác tối đa nguồn lực về sức lao động, đất đai, điện, nước, để mở rộng, nâng cao năng lực sản xuất và hiệu quả kinh tế. Tăng vòng quay của đất, hiện nay tiềm năng còn rất lớn.

- Tổ chức xây dựng các hình thức hợp tác thích hợp trong nông nghiệp và từng bước mở rộng các loại hình hợp tác ra các ngành kinh tế khác.

- Đầu tư đúng mức cho khâu chọn giống (giống cây, giống con), tổ chức thực nghiệm và nhân rộng, nhằm vươn tới đạt giá trị kinh tế cao gấp nhiều lần so với trước. Hướng các hoạt động sản xuất nông nghiệp làm ra sản phẩm sạch, chất lượng tốt.

- Tiếp tục đi sâu các chuyên đề: cải tạo vườn tạp - cơ khí hoá nông nghiệp, vùng lúa đặc sản, thủy ngọt hoá đồng ruộng... Chú trọng việc áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp.

- Đến năm 2000: (phấn đấu đạt)

Giá trị sản phẩm nông nghiệp tăng trưởng bình quân hàng năm từ 4 - 5%.

- Hoàn thành việc cấp giấy quyền sử dụng ruộng đất cho nông dân trong năm 1996 và ổn định tình hình ruộng đất đến cuối năm 1997.

Một số giải pháp:

- Tiếp tục phấn đấu hoàn thành các công trình thủy lợi: Hóc Môn - Bình Chánh, Rạch Cầu Già, củng cố và nâng cấp mở rộng hệ thống thủy lợi nội đồng, khép kín, phát huy hiệu quả từng khu vực, từng vùng trọng điểm.

- Tiếp tục khảo sát để xác định bố trí từng loại cây trồng, vật nuôi phù hợp với từng vùng sinh thái. Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, nâng chăn nuôi trở thành ngành sản xuất quan trọng. Tiếp tục phát triển đàn bò sữa, phát triển số lượng và nâng cao chất lượng đàn heo, gà, vịt, cá... Nâng trình độ chăn nuôi theo hướng công nghiệp.

Tăng cường cho nông dân vay vốn để đầu tư mở rộng phát triển sản xuất, tiếp tục giải quyết tốt đầu vào, đầu ra cho sản phẩm, tạo cho hàng hoá nông nghiệp có thị trường ổn định. Đấu tranh loại trừ thương lái ép giá, lũng đoạn thị trường nông thôn.

2. Về công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ:

Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, tiếp tục phát triển theo hướng mở rộng và ngày càng có vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của Huyện.

Khuyến khích phát triển hơn nữa các ngành sẵn có như: chế biến lương thực, thực phẩm, may thêu xuất khẩu, cơ khí, mỹ nghệ, vật liệu xây dựng, da giày, bao bì... và các ngành sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động.

Động viên, giúp đỡ các thành phần kinh tế tiếp tục đổi mới công nghệ, nâng cao giá trị sản phẩm, có sức cạnh tranh trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Kết hợp hài hoà giữa phát triển các khu công nghiệp tập trung có quy mô lớn, công nghệ hiện đại với công nghiệp nhỏ và vừa xen kẽ trong dân cư, nhằm giải quyết tốt lao động và việc làm trực tiếp trên từng địa bàn. Trước mắt, cần tập trung triển khai hình thành các khu công nghiệp: Tân Tạo, An Hạ, Bình Điền, Bình Hưng Hòa, Vĩnh Lộc.

Phấn đấu đến năm 2000, đưa tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm từ 15 - 16%, giải quyết thêm 7300 lao động có việc làm.

- Về dịch vụ và thương mại, cần tập trung triển khai xây dựng trung tâm thương mại tổng hợp Tân Túc, Chợ Cầu Xáng, Chợ Da Sà và tổ chức khai thác tốt hành lang thương mại, dịch vụ dọc Quốc lộ 1A, Quốc lộ 50 và Tỉnh lộ 10.

Tăng cường kiểm tra, kiểm soát đối với các loại doanh nghiệp để phát hiện sớm và xử lý kịp thời những vấn đề về môi trường, về thuế và những phát sinh mới trong quá trình sản xuất, bảo đảm cho doanh nghiệp phát triển bình thường, đúng pháp luật.

Tập trung kiện toàn củng cố các doanh nghiệp, Quốc doanh tổ chức xây dựng các hình thức hợp tác thích hợp trong công nghiệp và dịch vụ.

3. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng:

Tiến hành quy hoạch cho địa bàn xã, thị trấn, làm cơ sở để kêu gọi đầu tư, làm định hướng cho sự phát triển và nhằm ổn định tâm lý ăn, ở, đi lại, sản xuất và đời sống của nhân dân.

Từ nay đến năm 2000, cần tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt: sản xuất, đời sống, quốc phòng và an ninh, tạo ra bộ mặt mặt mới của Huyện có sức hấp dẫn thuyết phục, thu hút đầu tư.

Ưu tiên xây dựng các công trình giao thông, điện, cấp nước, thoát nước, chú trọng vùng sâu, vùng căn cứ kháng chiến cũ. Đến cuối năm 1996 hoàn thành điện khí hoá các xã anh hùng, đồng thời tiếp tục cải tạo hệ thống lưới điện hạ thế ở các xã đến năm 2000.

Đến năm 2000: (phấn đấu đạt)

* 100% hộ dân có điện sử dụng

* 100% hộ dân sử dụng nước ngọt tiện lợi

- Những năm trước mắt, tập trung hoàn thành các công trình: cầu đường Tân Kiên - Bình Lợi, các hương lộ 4, 6, 7, 8, 9; Cầu Tân Kiên, đường ấp 6 Tân Nhựt - Bình Lợi, bê tông hoá các cầu liên ấp trong nông thôn; giải quyết thoát nước cho tuyến đường Hùng Vương nối dài, Chợ Bình Chánh, cho các khu công nghiệp và các khu dân cư. Nâng cấp trục đường Bắc - Nam, nối hương lộ 80 đoạn từ Bà Lát đến trung tâm Láng Le xã Tân Nhựt và làm xong đường Cầu Xáng - Bình Lợi.

- Thiết lập hệ thống chiếu sáng dọc theo các trục giao thông chính: quốc lộ 1A, Hùng Vương nối dài, quốc lộ 50, tỉnh lộ 10. Xây dựng Bưu điện trung tâm tại xã Tân Túc và 12 bưu cục khác trải đều trên địa bàn Huyện, phục vụ tốt hơn cho sản xuất và đời sống.

Cùng với thành phố thực hiện nhiệm vụ nâng cấp quốc lộ 1A và xây dựng đường Bắc Nhà Bè - Nam Bình Chánh. Trước mắt phấn đấu hoàn thành đúng tiến độ việc đền bù, giải tỏa.

Bằng nhiều biện pháp và quyết tâm cao, từ nay đến năm 2000 phấn đấu hoàn thành căn bản xây dựng trung tâm huyện lỵ mới và trung tâm văn hoá - thể dục thể thao của Huyện, xây dựng khu dân cư tập trung An Lạc - Bình Trị Đông.

Xây dựng công viên tại khu tam giác Quốc lộ 1 - Đường Hùng Vương - Hương lộ 5, tiếp tục đầu tư phát triển Khu văn hoá Láng Le, xây dựng Hồ Sinh Thái - văn hoá - du lịch ở Vĩnh Lộc.

Kiến nghị Trung ương, Thành phố trong năm 1996, thực hiện thống nhất và công khai trên địa bàn Huyện các quy định về: lộ giới đường bộ, đường sông, do Trung ương, Thành phố và Huyện quản lý, khẳng định về mặt pháp lý để người dân được yên tâm. Kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các công trình xây dựng trái với quy hoạch, lấn chiếm lộ giới, vi phạm hành lang an toàn giao thông đường bộ, đường sông trên địa bàn Huyện.

- Tiếp tục kiến nghị Thành phố cần có biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi sinh, môi trường tại xã Bình Hưng Hòa như: kênh nước đen, bãi rác, lò thiêu. Cùng với Thành phố, Huyện phải có kế hoạch biện pháp đến năm 2000 giải tỏa nghĩa địa Bình Hưng Hòa.

4. Về tài chánh ngân sách:

Khuyến khích mở rộng phát triển sản xuất, kinh doanh, để tăng nguồn thu. Tổ chức quản lý chặt các đối tượng chịu thuế, thực hiện thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật. Huy động tối đa các nguồn thu bằng những hình thức thích hợp vào ngân sách.

Bảo đảm chi đúng kế hoạch đã xác định. Thường xuyên kiểm soát chặt chẽ các khoản chi, thực hiện triệt để tiết kiệm. Có kế hoạch tiến hành kiểm kê đăng ký để quản lý thật tốt tài sản công, phân loại, phân hạng tài sản và đề xuất hướng khai thác, sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả.

II. CÁC VẤN ĐỀ VĂN HÓA - XÃ HỘI

1. Về giáo dục - Đào tạo:

Qui hoạch xây dựng trường học cho các xã, cụm xã theo hướng thống nhất. Xây dựng thêm 88 phòng học, 2 điểm bán trú tại Cầu Xáng và khu vực cánh Nam, mở thêm 2 trường cấp 2 - 3 trên cơ sở trường cấp 2 Tân Túc và cấp 2 Vĩnh Lộc. Sửa chữa lớn 40 phòng học các cấp, đầu tư trang thiết bị dạy và học, cố gắng lắp đặt 50% phòng nghe nhìn cho khối tiểu học và trung học cơ sở, 50% trường có máy vi tính để phục vụ cho 80% học sinh trung học.

Phấn đấu hình thành trung tâm vi tính và ngoại ngữ của Huyện, khuyến khích và thu hút nhiều lứa tuổi tham gia học tập.

Tăng cường đào tạo bồi dưỡng giáo viên các hệ, nhằm khẩn trương nâng cao chất lượng đào tạo. Có kế hoạch bổ sung, tăng thêm giáo viên cho các xã cánh Bắc. Đến năm 2000 đạt 100% cán bộ quản lý và giáo viên các cấp học đều đạt tiêu chuẩn qui định (tiêu chuẩn hóa). Có giáo viên giỏi cấp Thành phố và học sinh giỏi cấp Thành phố, cấp Quốc gia.

Ổn định đội ngũ giáo viên, đảm bảo các bộ môn của các cấp học đều có đủ giáo viên, đủ tiêu chuẩn và dạy tốt.

Hoàn thành phổ cập cấp 1 ở một số xã còn lại, phấn đấu thực hiện phổ cập cấp 2 ở những xã có điều kiện. Xây dựng thêm lớp mẫu giáo, huy động 85% trẻ em 5 tuổi ra lớp mẫu giáo; 100% trẻ em 6 tuổi ra lớp 1. Tốt nghiệp cấp 1 đạt 98%, cấp 2 đạt 95% trở lên.

Tiếp tục tăng cường trang bị, phương tiện cho dạy nghề, mở rộng phương thức liên kết và phối hợp hoạt động nhằm nâng cao chất lượng, đào tạo nghề nghiệp góp phần giải quyết lao động và việc làm có kết quả. Trong 5 năm (1996 - 2000) Trung tâm dạy nghề cố gắng đào tạo nghề cho từ 6000 - 8000 lao động.

2. Văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao:

Đẩy mạnh côgn tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực hoạt động văn hoá - văn nghệ. Tập trung phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị, các công tác trọng tâm của huyện, các ngày kỷ niệm lớn.

Bồi dưỡng nâng cao nhận thức trách nhiệm đối với công tác văn hoá văn nghệ cho các cấp ủy Đảng, chính quyền và các đoàn thể. Tập trung chỉ đạo, đấu tranh kiên quyết khắc phục các hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá không lành mạnh trên địa bàn, chống các tệ nạn xã hội, bài trừ mê tín dị đoan và hủ tục lạc hậu, chấn chỉnh những lệch lạc trong các hoạt động từ thiện (có liên quan đến văn hóa), hướng việc tổ chức các ngày lễ hội trong dân gian đúng với phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp.

Đẩy mạnh cuộc vận động "nếp sống văn minh - gia đình văn hoá" xây dựng gia đình Việt Nam: nhân ái, hiếu thảo, lễ nghĩa v.v...

Cần có chương trình giáo dục truyền thống cách mạng và kháng chiến của chiến sĩ, đồng bào ở địa phương. Gìn giữ, tôn tạo các khu di tích lịch sử, nghĩa trang liệt sĩ.

- Toàn bộ hoạt động văn hoá - nghệ thuật đều hướng về cơ sở và ưu tiên cho vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến cũ.

Tiếp tục phát triển và mở rộng sự nghiệp đang có, tập trung xây dựng trung tâm văn hóa thể dục thể thao của Huyện nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho nhân dân, đặc biệt là thanh thiếu niên, rèn luyện về thể chất và nâng mức hưởng thụ văn hoá tinh thần. Đồng thời xây dựng 5 cụm thể dục thể thao tại các xã: Vĩnh Lộc, Hưng Long, Bình Chánh, Phong Phú và Bình Trị Đông (có sàn tập, nhà tập một số bộ môn chủ yếu).

- Kiện toàn tổ chức, tăng cường trang bị phương tiện cho hệ thống văn hoá thể thao ở các xã và thị trấn.

- Phát động phong trào thể dục thể thao rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thanh niên, học sinh. Tổ chức thi đấu giữa các địa phương để thúc đẩy phong trào và tuyển chọn điển hình làm nòng cốt cho quá trình xây dựng và phát triển.

Có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ văn hoá thể dục thể thao, chú ý cán bộ lãnh đạo và quản lý, cán bộ nghiệp vụ, có phẩm chất, đạo đức tốt và giỏi về chuyên môn.

3. Về Y tế:

- Tiếp tục phát triển sự nghiệp Y tế mà trọng tâm là tuyến xã, thị trấn. Xây dựng mới trạm Y tế Tân Túc, Vĩnh Lộc A, Bình Trị Đông, Bình Hưng Hòa, An Lạc. Xây dựng phòng khám khu vực 1 Quy Đức. 100% trạm Y tế xã đều có bác sĩ, bổ sung và trang bị thêm dụng cụ Y tế cho 20 trạm, đảm bảo đủ thuốc phòng và chữa bệnh thông thường cho nhân dân.

- Duy trì tốt công tác giám sát dịch tể, không để nạn dịch xảy ra, mở rộng tuyên truyền, vận động mọi người thực hiện chương trình phòng, chống dịch bệnh.

- Thực hiện ưu tiên trong khám và điều trị đối với đồng bào vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng và diện chính sách. Tổ chức tốt việc bảo hiểm Y tế cho đối tượng chính sách và người nghèo. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động thực hiện kế hoạch hoá gia đình, nâng cao chất lượng chăm sóc thiếu niên và nhi đồng, bảo đảm tỷ lệ tăng dân số từ 1,5% trở xuống.

4. Về lao động - TBXH:

Bảo đảm cấp phát đúng và kịp thời theo chế độ, chính sách hiện hành, thực hiện tốt việc trợ cấp đối với trường hợp đột xuất. Tổ chức chăm sóc các bà mẹ Việt Nam anh hùng và đối tượng thuộc diện ưu đãi (40 tuổi Đảng trở lên). Có kế hoạch sửa chữa nhà cho diện chính sách đã được giải quyết trước đây đến nay đã hư hỏng, xây dựng mới đối với một số trường hợp có nhiều khó khăn, hợp thức hoá sở hữu nhà tình nghĩa, bảo đảm đến năm 2000 ổn định tốt hơn chỗ ở cho các gia đình chính sách.

- Thực hiện xã hội hoá chương trình xoá đói giảm nghèo, có chính sách cho vay với lãi suất ưu đãi, cần có nhiều biện pháp nâng cao hiệu quả đồng vốn, tạo thuận lợi cho hộ gia đình tăng gia sản xuất. Phấn đấu đến năm 2000 đạt từ 70% đến 80% số hộ trong chương trình làm ăn có kết quả, vượt qua mức nghèo. Phát động rộng rãi phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc các đối tượng xã hội, xây dựng "Quỹ tình nghĩa" để chăm lo các đối tượng chính sách.

Tăng cường quản lý Nhà nước trên lĩnh vực lao động, làm tốt công tác tuyên truyền pháp luật, góp phần đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động. Có kế hoạch quản lý lao động trên địa bàn Huyện và có chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho người lao động. Từ nay đến năm 2000 tập trung giải quyết từ 15000 - 18000 lao động có việc làm.

III. AN NINH QUỐC PHÒNG PHÁP CHẾ XHCN

1. An ninh trật tự, an toàn xã hội:

- Có kế hoạch thường xuyên tuyên truyền giáo dục cán bộ, Đảng viên, công nhân viên chức và các tầng lớp nhân dân, đề cao cảnh giác, chống mọi âm mưu thủ đoạn của "diễn biến hoà bình" trên các lĩnh vực tư tưởng, kinh tế, văn hoá - xã hội.

- Điều chỉnh bổ sung nâng cao chất lượng, phương án chống bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, nắm bắt và xử lý kịp thời mọi diễn biến ở địa phương, không để kéo dài và lan rộng. Kiên quyết đấu tranh và giữ vững an ninh trật tự ngay trên từng địa bàn xã, ấp.

- Tổ chức tốt hệ thống nắm bắt tình hình, chú trọng các địa bàn trọng điểm, những đối tượng nguy hiểm, có tiền án, tiền sự. Có kế hoạch bảo vệ tốt an ninh nội bộ. Kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, gây chia rẽ, làm mất đoàn kết. Thực hiện chặt chẽ qui chế quản lý người nước ngoài, đại diện người nước ngoài trên địa bàn Huyện.

Mặt trận tổ quốc và các ngành chức năng, các đoàn thể phối hợp giải quyết có hiệu quả những vụ việc còn tồn đọng trong tôn giáo, ngăn chặn kịp thời các hoạt động lợi dụng tôn giáo nhằm lôi kéo quần chúng kích động, gây chia rẽ khối đoàn kết dân tộc.

Tiếp tục phát huy kết quả phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết hoạt động của các tổ nhân dân, lực lượng dân phòng, nhằm không ngừng củng cố và nâng cao chất lượng phong trào, xây dựng và phát triển lực lượng nòng cốt đều khắp ở địa bàn dân cư và chú trọng các cơ sở trọng điểm. Phát động quần chúng tích cực tham gia tấn công mạnh mẽ bọn tội phạm hình sự, kiên quyết xóa các tụ điểm phức tạp về trật tự an ninh và đấu tranh bài trừ các tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nghiện hút, cờ bạc, mại dâm, nhậu nhẹt đánh nhau gây thương tích.

Tăng cường biện pháp quản lý nhân khẩu, hộ khẩu và sự di biến động dân cư trên địa bàn Huyện, nhất là thị trấn An Lạc và các xã đô thị.

2. Nhiệm vụ quân sự địa phương:

Đưa công tác giáo dục quốc phòng vào chương trình giáo dục chính trị và pháp luật hàng năm của địa phương. Nâng cao nhận thức ngày càng rõ hơn về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình mới cho toàn dân, trước hết là thanh niên và học sinh. Làm rõ trách nhiệm của cấp ủy Đảng, của chính quyền và chức năng của các đoàn thể đối với nhiệm vụ quân sự địa phương.

Tiếp tục bổ sung kế hoạch tác chiến phòng thủ ngày càng phù hợp với tình hình và đặc điểm của Huyện. Bổ sung kế hoạch tác chiến, trị an của xã, thị trấn. Hằng năm tổ chức diễn tập, vận hành theo cơ chế mới, tiếp tục hoàn thiện các kế hoạch, nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang địa phương.

Tăng cường các hoạt động tuần tra, kiểm tra, phối hợp chặt chẽ giữa công an và quân sự với các lực lượng đoàn thể ở cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ngay trên từng xóm ấp. Thực hiện tốt chức năng làm nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ tổ chức xây dựng lực lượng dân quân tự vệ. Đảm bảo cuối năm 1996 đạt 2,5% so với tổng số dân và nâng dần đến năm 2000 đạt từ 3% - 3,5%. Tiến hành giáo dục chính trị và huấn luyện quân sự hàng năm để nâng cao chất lượng. Bồi dưỡng xây dựng lực lượng nòng cốt ở địa bàn xã, ấp. Trước mắt, cần tập trung củng cố lực lượng tự vệ trong các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp và các doanh nghiệp nhà nước.

Đổi mới và nâng cao công tác tuyển quân, đảm bảo đạt chỉ tiêu số lượng và chất lượng. Tổ chức đăng ký và quản lý tốt thanh niên trong độ tuổi từ 17 - 27 đạt 100%. Xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với thanh niên không chấp hành luật nghĩa vụ quân sự, đào bỏ ngũ v.v...

Nắm chắc các phương tiện kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân, cả số lượng, chất lượng và chủng loại, nhằm đáp ứng yêu cầu trong mọi tình huống.

Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, quan tâm hơn nữa chăm lo về vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, giải quyết việc làm cho bộ đội xuất ngũ.

3. Về pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa:

Tập trung làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong Đảng, chính quyền, các đoàn thể và rộng rãi trong nhân dân, làm cho mọi người, mọi tổ chức thông hiểu và thực hiện tốt các Luật đã ban hành.

- Các cơ quan bảo vệ pháp luật thường xuyên phối hợp với Mặt trận và các đoàn thể tích cực đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả các loại tội phạm.

- Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung cán bộ có trình độ, có năng lực cho các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đồng thời chú trọng, rèn luyện về phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng cho cán bộ, Đảng viên.

- Quan hệ phối hợp tốt hơn giữa các ngành trong khối, nâng cao kết quả, đấu tranh bảo vệ pháp luật. Khắc phục những hạn chế sai sót trong điều tra, truy tố, xét xử. Xử lý chính xác và nhanh chóng những vụ án xảy ra, kịp thời đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương.

IV. XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

1. Về xây dựng Đảng:

Bước vào nhiệm kỳ VII của Đảng bộ, trong xu thế phát triển của thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tư tưởng trong Đảng và tâm trạng chính trị trong quần chúng là phấn khởi và tin tưởng. Nhưng đồng thời cũng còn đọng lại những suy tư, băn khoăn trước những tồn tại về 4 nguy cơ, nhất là tệ tham nhũng buôn lậu và tình hình lỏng lẽo, mất cảnh giác trước âm mưu "diễn biến hòa bình" của địch.

- Khái quát bối cảnh chung là toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội sẽ vận động phát triển nhanh theo hướng tích cực, những khó khăn tồn tại cũ còn nặng nền cùng nhiều vấn đề phát sinh mới, làm cho cuộc đấu tranh chống mọi loại tiêu cực sẽ phức tạp và quyết liệt hơn.

- Chính vì thế, công tác xây dựng Đảng được đặt ở vị trí đặc biệt quan trọng. Đòi hỏi Đảng bộ chúng ta tập trung thực hiện tốt những nhiệm vụ sau đây:

Về chính trị tư tưởng:

Trước mắt phải tổ chức nghiên cứu quán triệt sâu trong nội bộ và tuyên truyền rộng ra các tầng lớp nhân ân về Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII, NQ Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VI và NQ Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VII, làm cho tất cả Đảng viên, cán bộ và các tổ chức quần chúng, đều nhận thức đúng về những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng, cũng như những khó khăn, thách thức, những nguy cơ tồn tại, nhằm tạo nên sự nhất trí cao về đường lối, quan điểm và những nhiệm vụ chủ yếu trong những nhiệm kỳ mới, tăng thêm niềm tin và trách nhiệm, kiên định vững vàng, quyết tâm thúc đẩy công cuộc đổi mới tiến lên, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hướng tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh".

Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao lý luận chính trị, quan điểm lập trường giai cấp công nhân trong cán bộ, Đảng viên, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng là kim chỉ nam hành động của Đảng và của nhân dân ta. Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng luôn luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của Cách mạng, của sự nghiệp đổi mới. Kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng mơ hồ, hữu khuynh, mất cảnh giác, điều chỉnh, uốn nắn những khuynh hướng lệch lạc dẫn đến chệch hướng XHCN trong kinh tế, chính trị và văn hoá.

Khẳng định độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, chỉ có độc lập thật sự mới có điều kiện xây dựng CNXH và chỉ có CNXH mới giữ được độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc của nhân dân. Từ đó giáo dục động viên mọi cán bộ, Đảng viên, mọi công dân nhận thức đúng và hành động tích cực nhằm thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Tăng cường giáo dục truyền thống yêu nước, tin thần đoàn kết đấu tranh kiên cường bất khuất của Đảng bộ và nhân dân Huyện nhà. Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, chống sự xâm nhập của các loại văn hoá độc hại. Nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, ý thức cần kiệm, xây dựng đất nước, chống lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, để lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ chi phối trái với truyền thống, đạo đức tốt đẹp của nhân dân ta. Phát động mạnh mẽ phong trào "người tốt việc tốt" trong nội bộ Đảng và trong nhân dân.

Công tác tư tưởng phải tiến hành chủ động hướng về cơ sở, bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú và hấp dẫn, động viên lôi kéo mọi người hăng hái tham gia tích cực vào nhiệm vụ đẩy lùi 4 nguy cơ, giữ vững ổn định tư tưởng của Đảng viên trong mọi tình thế.

Trang bị kiến thức, năng lực công tác chính trị tư tưởng cho cán bộ chủ chốt, nhất là cấp ủy cơ sở. Tăng cường phương tiện cần thiết cho các hoạt động của công tác tư tưởng. Tổ chức điều tra nghiên cứu dư luận xã hội, tuyên truyền viên, thực hiện có nề nếp thông tin thời sự, phổ biến kịp thời trong nội bộ Đảng và nhân dân những vấn đề mới về chủ trương, chính sách, pháp luật. Thực hiện tốt quyết định của Ban Bí thưvề tổ chức Trung tâm bồi dưỡng chính trị của Huyện.

Về tổ chức cán bộ:

Tiếp tục thực hiện NQTW 3 (khóa VII) đi vào chiều sâu, tập trung chỉnh đốn Đảng về tổ chức, làm cho mọi Đảng viên bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải thực hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, ngăn chặn và khắc phục tệ lỏng lẽo về ý thức tổ chức kỷ luật, duy trì nghiêm túc chế độ tự phê và phê bình từ trên xuống, trước hết là trong cấp ủy. Thực hiện sự phân công cho tất cả Đảng viên có điều kiện và khả năng công tác.

Nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi bộ và cấp ủy, nhất là Chi bộ và cấp ủy dưới cơ sở (ấp, khu phố). Đổi mới nội dung sinh hoạt Chi bộ ngành, đơn vị hành chánh sự nghiệp, sản xuất kinh doanh, phù hợp với từng loại hình cơ sở theo qui định của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Trước mắt cần xây dựng và hướng dẫn thực hiện quy chế cho từng loại hình tổ chức cơ sở, nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng bộ cơ sở và chi bộ dưới cơ sở. Cần có quy chế làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn, lề lối làm việc của các mối quan hệ của tổ chức Đảng Đoàn, Ban cán sự với người đứng đầu trong HĐND, UBND và các đoàn thể, nhằm phát huy trách nhiệm và nâng cao hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ.

Mỗi cấp ủy, từng Đảng viên phải hoạt động theo quy chế, định kỳ hàng năm gắn việc đánh giá phân loại tổ chức cơ sở Đảng, phải kiểm điểm việc thực hiện quy chế.

Về công tác cán bộ, phải tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ, tập trung xây dựng, quy hoạch cán bộ cho trước mắt và có tính kế thừa lâu dài, theo nguyên tắc tập thể, dân chủ, đồng thời phát huy đầy đủ trách nhiệm cá nhân, nắm vững năm tiêu chuẩn cán bộ đã nêu trong Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII), trong đó cần chú ý về: phẩm chất chính trị vững chắc và đạo đức, lối sống trong sáng. Phải xây dựng quy chế quản lý cán bộ, thể hiện những nội dung cơ bản: nhận xét, đánh giá cán bộ, qui trình đào tạo, bổ nhiệm, đề đạt, điều động, giải quyết chính sách cho cán bộ v.v... Xác định việc phân công, phân cấp quản lý từng chức danh cán bộ giữ Huyện ủy, UBND Huyện và cơ sở. Phải tăng cường lãnh đạo chặt chẽ tổ chức thực hiện qui hoạch. Hướng việc bố trí cán bộ theo yêu cầu chuyên môn hoá, ổn định và chuyên sâu.

Nghiên cứu điều chỉnh, tăng cường cán bộ cho cơ sở, vừa tăng thêm sức mạnh cho cơ sở đồng thời tạo điều kiện cho cán bộ qua thực tiễn toàn diện theo yêu cầu đào tạo.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Huyện ủy: hướng "về cơ sở, tập trung cho cơ sở" nhất là ấp và khu phố. Có đề án củng cố hệ thống chính trị ở xã, ấp, khu phố một cách toàn diện. Đối với phòng, ban, công ty, xí nghiệp, các đoàn thể cần tiếp tục củng cố kiện toàn bộ máy, xây dựng tổ chức, nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng ở cơ sở. Phấn đấu hết nhiệm kỳ có 50% tổ chức cơ sở Đảng đạt "trong sạch vững mạnh", số còn lại đại bộ phận đạt loại khá và một số ít trung bình, không còn yếu kém; 70% Đảng viên loại 1, số đông còn lại là loại 2, hạn chế đến mức thấp nhất loại 3.

Tăng cường chỉ đạo và phát huy hơn nữa chức năng các Ban của Huyện ủy. Tổ chức bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ số cán bộ hiện có, đồng thời tuyển chọn bổ sung cán bộ có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt tình và tâm huyết với công tác Đảng, làm tham mưu tốt hơn cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy.

Làm tốt công tác phát triển Đảng, bảo đảm số lượng, coi trọng chất lượng. Chú trọng các khâu: bồi dưỡng giáo dục, thử thách, nhất là giáo dục lý tưởng cộng sản, tinh thần kiên định cách mạng. Bên cạnh việc phát triển Đảng thường xuyên trong các cơ quan, đơn vị, lực lượng vũ trang..., chú trọng phát triển Đảng ở các lĩnh vực mà lực lượng Đảng viên còn mỏng, lực lượng dân quân tự vệ, Ban chấp hành các đoàn thể, tổ nhân dân, ấp, nông dân sản xuất giỏi.

Công tác kiểm tra:

Thường xuyên tiến hành kiểm tra tổ chức Đảng và Đảng viên (kể cả cấp ủy viên cùng cấp) về chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, trong đó hết sức chú trọng việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, chấp hành kỷ luật Đảng, giữ gìn phẩm chất đạo đức của Đảng viên. Kiểm tra việc thực hiện qui chế làm việc của cấp ủy, chống mọi hành vi tự do, tùy tiện, cục bộ địa phương làm sai đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Ngăn chặn và loại trừ tệ tham nhũng, buôn lậu, quan liêu, lãng phí, lấy phương châm ngăn ngừa là chính, nhưng mọi hành vi vi phạm phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật, nhằm đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng bộ, lãnh đạo thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu Đại hội đề ra.

Để làm tốt công tác kiểm tra, phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật, các ban Đảng, Đoàn thể và Chính quyền các cấp tạo sự đồng bộ trong việc phát hiện, đấu tranh, ngăn ngừa, xử lý các vi phạm.

2. Xây dựng bộ máy Nhà nước:

Tiếp tục đổi mới hoạt động của Hội đồng nhân dân - UBND và các cơ quan quản lý Nhà nước theo tinh thần nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII). Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong quản lý, điều hành công việc của chính quyền. Trước mắt, tập trung đi sâu quản lý Nhà nước của UBND Huyện, các ngành và các xã, thị trấn. Điều chỉnh mọi hoạt động kinh tế xã hội đi vào khuôn khổ pháp luật. Hướng vào những khâu trọng tâm là: Nhà đất, xây dựng, sản xuất kinh doanh và các hoạt động văn hoá, dịch vụ văn hoá.

Xây dựng qui chế về mối quan hệ giữa chính quyền với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các tổ chức xã hội. Nắm bắt tâm tư nguyện vọng và quyền lợi thiết thân của nhân dân (qua mặt trận tổ quốc và đoàn thể) để đề ra chủ trương chính sách đúng đắn, được nhân dân đồng tình ủng hộ, thể hiện chính quyền là của dân, do dân và vì dân.

Cần phân công trách nhiệm thực hiện công việc cụ thể giữa các cơ quan chính quyền, giữa cấp trên và cấp dưới, nhằm đảm bảo hoạt động quản lý Nhà nước được liên tục, thống nhất và đạt hiệu quả cao.

Tiến hành thường xuyên việc kiện toàn tổ chức: bồi dưỡng cán bộ, không ngừng nâng cao năng lực quản lý Nhà nước theo phân công, phân cấp, đúng với tinh thần quyết định 1852 của UBND Thành phố.

Hoạt động của HĐND Huyện, xã, tập trung ở các kỳ họp. Cần chuẩn bị tốt để quyết định đúng những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương, thể hiện đầy đủ là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Phát huy vai trò kiểm tra thẩm định, chất vấn của HĐND đối với UBND và các cơ quan quản lý nhà nước, nhằm thực hiện đầy đủ quyền hạn và trách nhiệm là đại biểu của dân. Các Ban, các tổ đại biểu HĐND phải làm tốt hơn trách nhiệm của mình tại các kỳ họp và tham gia giải quyết có hiệu quả những khiếu nại, tố cáo của công dân.

Thường xuyên thực hiện việc kiện toàn tổ chức, củng cố các phòng ban, đơn vị sự nghiệp theo hướng tinh gọn, tăng cường trách nhiệm cá nhân đối với công việc được giao, chấp hành đúng giờ giấc công tác, sinh hoạt và hội họp.

Nghiên cứu cải tiến thủ tục hành chánh theo mô hình một cửa, chấn chỉnh phong cách làm việc, thái độ tiếp dân của công chức nhà nước, nhất là những bộ phận thường xuyên trực tiếp với dân.

Qui hoạch lại cán bộ chính quyền từ Huyện đến các xã, thị trấn. Có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho phù hợp với yêu cầu công việc. Thực hiện việc thi tuyển công chức và qui chế công chức.

3. Công tác vận động quần chúng:

- Tình hình chung sẽ tiếp tục phát triển với tiến độ nhanh. Xu thế hội nhập, hợp tác, liên doanh liên kết trên địa bàn Huyện sẽ được mở rộng hơn nữa theo hướng công nghiệp hoá, làm biến đổi cơ cấu giai cấp và lao động xã hội; một bộ phận lao động nông nghiệp sẽ chuyển sang công nghiệp, dịch vụ, từ nông dân chuyển thành công nhân, các thành phần trí thức, thương gia tăng lên; trình độ dân trí khá hơn, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.

Trong bối cảnh đó, công tác vận động nhân dân phải được đổi mới về nội dung và phương thức cho phù hợp. Mỗi đoàn thể có những đặc điểm riêng. Nhưng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đều có nhiệm vụ chung là giáo dục động viên, tổ chức quần chúng thành lực lượng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống của các tầng lớp nhân dân.

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc:

Tiếp tục củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân theo Nghị quyết 7/BCT (Khóa VII), tập hợp tất cả những tổ chức và những cá nhân trong các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc, có tinh thần yêu nước, có tâm huyết vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Động viên tất cả hướng vào mục tiêu chung, tích cực đóng góp thiết thực có hiệu quả cho công cuộc đổi mới thắng lợi.

Tăng cường giáo dục giác ngộ đồng bào tín đồ các tôn giáo, các vị chức sắc, đồng bào Hoa, các giới thương gia, nhân sĩ trí thức, những người có thân nhân định cư ở nước ngoài, giúp họ hiểu và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi để mọi người có cơ hội tham gia vào công việc xây dựng phát triển của địa phương.

Mặt trận cần tăng cường các mối quan hệ cần tiếp xúc thường xuyên rộng rãi với các ngành, các giới, các tôn giáo, nâng cao sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, đi sâu tâm tư nguyện vọng của từng đối tượng, để đề bạt với Đảng và chính quyền nghiên cứu giải quyết có lý có tình.

Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

Tập trung củng cố tổ chức Đoàn ở cơ sở, giáo dục tinh thần yêu nước, yêu CNXB, truyền thống của thanh niên qua các thời kỳ. Tiếp tục thực hiện các phong trào lớn như: Thanh niên mưu sinh lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước, chăm lo việc học, việc làm cho thanh niên.

Khơi dậy lý tưởng, đạo đức, lối sống, khát vọng cống hiến và tính hăng hái đi đầu của thanh niên. Đoàn thanh niên cần gắn với các ngành, các tổ chức nhằm giới thiệu học nghề và tạo việc làm cho thanh niên. Tập hợp rộng rãi thanh niên vào các đội nhóm, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đoàn cơ sở.

Tổ chức chăm sóc tốt hơn thiếu niên nhi đồng và Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Phát triển Đoàn viên mới và giới thiệu Đoàn viên ưu tú cho Đảng.

Liên đoàn Lao động:

Tiếp tục củng cố, xây dựng nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức công đoàn cơ sở, nhất là công đoàn trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.

Phát huy vai trò công đoàn trong việc thực hiện chức năng giám sát và tham gia quản lý hoạt động của chính quyền, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng cho công nhân lao động.

Tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm và ý thức làm chủ trong lao động sản xuất, nâng cao trình độ văn hoá, nghề nghiệp và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân viên chức. Xây dựng giai cấp công nhân cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Phát động phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa trong tất cả các đơn vị sản xuất và công tác. Giáo dục động viên công nhân, viên chức và người lao động thực hiện thắng lợi kế hoạch sản xuất hàng năm của đơn vị và tích cực hưởng ứng bốn cuộc vận động lớn ngay tại cơ sở mình.

Hội liên hiệp Phụ nữ:

Có kế hoạch thường xuyên bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ Hội ở cơ sở, đủ sức tổ chức xây dựng phong trào phụ nữ phát triển ngay tại địa bàn xã, ấp.

Tăng cường giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống phụ nữ Việt Nam, những tấm gương mẫu mực của các Bà mẹ Việt Nam anh hùng của Huyện, làm cho Phụ nữ tự hào và khẳng định, quyết tâm vươn tới mạnh mẽ trong sản xuất, công tác và học tập.

Đẩy mạnh các hoạt động giúp nhau làm kinh tế gia đình, tích cực tham gia các chương trình: xóa đói giảm nghèo, xây nhà tình nghĩa, phòng chống các tệ nạn xã hội, làm nòng cốt trong xây dựng gia đình văn hoá mới, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, nuôi con khỏe dạy con ngoan. Thực hiện tốt chức năng người Phụ nữ trong gia đình và tham gia có hiệu quả công tác xã hội, từng bước nâng cao vị trí xứng đáng của Phụ nữ trong chế độ của chúng ta.

Hội Nông dân:

Tiếp tục khai thác, huy động các nguồn vốn giúp nông dân phát triển sản xuất. Phát động phong trào sản xuất giỏi, phong trào văn hoá văn nghệ quần chúng ở nông thôn.

Xây dựng đoàn kết trong nông dân, phát huy truyền thống tình làng nghĩa xóm, tương thân, tương ái. Giúp cho nông dân có kiến thức mới và kinh nghiệm tốt trong sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế cao.

Tổ chức cho nông dân tham gia mạnh mẽ chóng các tiêu cực xã hội, kiểm tra giám sát việc thực hiện Luật đất đai, Luật thuế nông nghiệp, góp phần giải quyết có hiệu quả các tranh chấp trong nội bộ nông dân.

Tập trung củng cố kiện toàn tổ chức Hội, phát triển Hội viên mới, phấn đấu đạt 100% số hộ nông dân là hội viên Hội Nông dân Việt Nam.

Cựu chiến binh:

- Giáo dục, khơi dậy tình nghĩa chiến hữu đã từng gian khổ hi sinh có nhau, tăng cường đoàn kết giúp nhau thiết thực trong cuộc sống hiện tại. Gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, giữ gìn danh hiệu cao quí "Anh bộ đội Cụ Hồ".

Hội phối hợp với Câu lạc bộ Hưu trí, có kế hoạch tổ chức giáo dục lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu dũng cảm, hi sinh quên mình của các bậc cha anh cho thế hệ trẻ.

Tích cực tham gia công tác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và công tác quân sự địa phương. Đóng góp nhiều kinh nghiệm tốt cho xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể. Tham gia tích cực đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác.

Tập trung củng cố tổ chức Hội ở các cơ sở, kết nạp thêm hội viên mới, đưa hoạt động Hội đi vào nề nếp.

V. NHỮNG GIẢI PHÁP LỚN

Để đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu đề ra đến năm 2000 cần phải thực hiện đồng bộ những giải pháp lớn sau đây:

1. Tập trung ưu tiên đầu tư cho cầu đường nông thôn (cầu đường liên xã, liên ấp), nước sinh hoạt và phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; điện cho sản xuất và thắp sáng. Qui hoạch chi tiết ở các xã, thị trấn trên cơ sở qui hoạch tổng thể đã được duyệt để chủ động bố trí sản xuất và thu hút đầu tư, đồng thời là cơ sở cho xây dựng phát triển trước mắt cũng như lâu dài. Tiếp tục mở rộng mạng lưới Y tế, giáo dục, vui chơi giải trí cho từng khu vực, nhằm chăm sóc sức khỏe cho nhân dân tốt hơn và nâng cao trình độ dân trí cho cộng đồng.

2. Về nguồn vốn, cần kết hợp giữa đầu tư của ngân sách nhà nước với huy động năng lực tiềm năng trong nhân dân để thực hiện các khâu như: cơ khí hoá nông nghiệp, xây dựng cầu đường xóm, ấp, lưới điện hạ thế và các công trình văn hoá xã hội trong nông thôn. Từng bước hình thành và phát triển "quỹ tín dụng nhân dân" để phát huy tinh thần đoàn kết tương trợ trong xóm làng, khắc phục tình trạng cho vay nặng lãi, đầu cơ, lũng đoạn thị trường ở nông thôn.

3. Gắn chặt mỗi bước phát triển kinh tế, đi đôi với giải quyết tốt những vấn đề xã hội, giảm tỷ lệ sinh đẻ ở mức từ 1,5% trở lại. Thực hiện cấp giấy quyền sử dụng ruộng đất cho nông dân. Mở rộng kêu gọi, khuyến khích các nhà đầu tư từ các nơi, không phân biệt, trước hết là các quận bạn từ nội thành mở ra. Tạo điều kiện thuận lợi theo hướng thực hiện một cửa để giải quyết các vấn đề thủ tục được nhanh chóng hơn.

4. Tập trung củng cố các tổ chức cơ sở Đảng theo Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) để thực hiện tốt hơn vai trò hạt nhân lãnh đạo mọi lĩnh vực đời sống xã hội trên địa bàn. Tiếp tục thực hiện công cuộc cải cách hành chánh làm cho bộ máy Nhà nước thực sự trong sạch vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả, lập lại trật tự kỷ cương, bài trừ tham nhũng, gây phiền hà, sách nhiễu dân, củng cố và tăng thêm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh công cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình", bảo vệ nội bộ, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

**

*

Đại hội Đại biểu lần thứ VII của Đảng bộ Huyện Bình Chánh, biểu thị quyết tâm, tiến bước mạnh mẽ vào con đường công nghiệp hoá nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Ra sức phát huy những thành tựu đã đạt được, kiên trì phấn đấu vượt qua khó khăn thách thức, những người cộng sản Bình Chánh sát cánh cùng với các tầng lớp đồng bào ruột thịt của mình, dấy lên một phong trào hoạt động cách mạng sôi nổi trên tất cả các lĩnh vực, thi đua hoàn thành xuất sắc kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, thực sự đưa Nghị quyết Đại hội đi vào cuộc sống.

BCH ĐẢNG BỘ HUYỆN BÌNH CHÁNH

Thông báo