Thứ Hai, ngày 25 tháng 11 năm 2024

Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ huyện khóa VIII tại Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX - Nhiệm kỳ 2005-2010

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VIII, các Nghị quyết, chương trình hành động của Trung ương và Thành ủy. Năm năm qua, luôn được sự quan tâm, tập trung đầu tư mạnh mẽ, kịp thời của Thành phố, Đảng bộ và nhân dân huyện Cần Giờ đã nỗ lực khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, kiên trì triển khai nhiều giải pháp tích cực để thực hiện các mục tiêu, chương trình, công trình trọng điểm do Đại hội đề ra đạt được kết quả cao, tạo những biến đổi quan trọng trên lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng, an ninh ở địa phương.

Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VIII và quyết định nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh, xây dựng hệ thống chính trị, khối đại đoàn kết toàn dân và những giải pháp cơ bản nhằm thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn 2005 – 2010.

PHẦN THỨ NHẤT

KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI

ĐẢNG BỘ HUYỆN LẦN THỨ VIII ( NĂM 2000 – 2005 )

I/ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG 5 NĂM QUA :

- Tổng giá trị sản xuất : (GCĐ.1994) tăng bình quân 41%/năm (chỉ tiêu 13 - 15%).

- Tổng giá trị tăng thêm : tăng bình quân 31,15%/năm (chỉ tiêu12 - 14%)

- Tổng sản phẩm nội địa bình quân đầu người vào năm 2005 : đạt xấp xỉ 1.190 USD, tương ứng 18,9 triệu đồng (chỉ tiêu 400 USD).

- Mặt bằng học vấn dân cư : lớp 7,5 (chỉ tiêu lớp 7).

- Hoàn thành phổ cập trung học cơ sở: vào năm 2002 (trước 3 năm).

- Giảm tỷ lệ hộ nghèo : còn dưới 10% theo chuẩn 4 triệu/người/năm

(chỉ tiêu giảm còn dưới 10% theo chuẩn 2,5 triệu/người/năm).

- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên : 1,268% (chỉ tiêu 1,014%).

1/ Kinh tế của huyện tiếp tục tăng trưởng khá, đến năm 2005, bản đã thực hiện đầu tư phát triển kinh tế theo cơ cấu ngư – nông – lâm nghiệp - dịch vụ, trong đó thủy sản và dịch vụ du lịch sinh thái trở thành hai ngành kinhtếtrọngđiểm; lâm nghiệp với toàn bộ diện tích rừng ngập mặn được xác định là Khu Bảo tồn thiên nhiên và Khu Dự trữ sinh quyển thế giới được bảo vệ, chăm sóc tốt tạo môi trườngphát triển bền vững các ngành kinh tế khác, góp phần ổn định đời sống xã hội ở địa phương.

- Tổng giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm tăng hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng của 5 năm trước (1996 – 2000). Trong đó :

- Các ngành ngư, nông, lâm nghiệp (khu vực 1) chiếm tỷ trọng 32,3%, tăng bình quân 28,35%/năm.

- Các ngành công nghiệp, xây dựng (khu vực 2) chiếm tỷ trọng 54,36%, tăng bình quân 62%/năm.

- Các ngành dịch vụ (khu vực 3) chiếm tỷ trọng 13,3%, tăng bình quân 28,7%/năm.

Ngư nghiệp đã có sự chuyển biến rõ nét, sản lượng thủy sản tăng 37%, giá trị sản lượng tăng gần 4 lần. Nghề nuôi thủy sản, trước hết làtôm sú ở 4 xã phía bắc và nhuyễn thể ở các xã phía nam đã nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, bãi bồi ven sông, ven biển. Lần đầu tiên kể từ năm 2002, giá trị ngành nuôi trồngthủysảnđạtcaohơn nghề khai thác đánh bắt và đến năm 2005 cao trên 6 lần, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, giảm nghèo đạt kết quả. Hiện nay, có 4.640 ha đất nông nghiệp trồng lúa, cói, dừa nước năng suất thấp chuyển sang nuôi tôm sú và các loài thuỷ sản thích hợp (đạt trên 80% diện tích quy hoạch), đặc biệt mô hình nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp đem lại hiệu quả kinh tế cao, bình quân 1ha đất nông nghiệp sau khi chuyển đổi đã tăng giá trị sản xuất lên 20 lần và lợi nhuận đạt trên 80 lần so với trồng lúa, cói trước đây. Nghề nuôi thủy sản đã thúc đẩy các ngành nghề thương mại, dịch vụ, vận tải, cơ khí, tín dụng, khoa học kỹ thuật ở nông thôn cùng phát triển, buớc đầu đã xuất hiện một số mô hình quản lý, tổ chức sản xuất mới như: kinh tế trang trại, Hội Nghề cá, Tổ hợp tác ... Nghề khai thác hải sản, tương đối ổn định đối với các phương tiện đánh bắt gần bờ và ven bờ, phương tiện khai thác cố định (đáy các loại) giảm 44% (-235 khẩu), riêng nghề đánh bắt xa bờ vẫn còn nhiều khó khăn, hoạt động kém hiệu quả.

Nông nghiệp có nhịp độ giảm giá trị sản xuất bình quân –11,6%/năm, do diện tích trồng lúa và một số cây nông nghiệp khác chuyển sang nuôi trồng thủy sản và dịch vụ, chăn nuôi chưa phát triển; trong đó, giảm mạnh diện tích trồng lúa 1 vụ (năng suất trung bình 2 tấn/ha) từ 3.143 ha vào năm 2000 xuống còn 600 ha vào năm 2005 (giảm bình quân 28,2%/năm); nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm còn nhỏ lẽ, 2 năm gần đây do tác động của dịch cúm gia cầm nên giá trị tạo ra rất thấp. Vườn cây ăn trái được đầu tư cải tạo ở khu vực ven biển và bước đầu hình thành tại các xã phía bắc tạo hạ tầng cho hoạt động kinh doanh du lịch –nhà vườn.

Nghề muối duy trì diện tích sản xuất khoảng 1300 ha, nhờ được hỗ trợ tín dụng và bù một phần lãi suất vay, đầu tư giao thông, thủy lợi, giải quyếttiêu thụ sản phẩm; đồng thời, thời tiết tương đốithuậnvụ nên năng suất, sản lượng tăng cao, bình quân tăng 22,42%/năm. Việc luân canh nuôi thủy sản trên ruộng muối trong mùa mưa như tôm sú, cá … mang lại hiệu quả.

Lâm nghiệp, rừng ngập mặn Cần Giờ đã được UNESCO công nhận là Khu Dự trữ sinh quyển thế giới đầu tiên ở Việt Nam, tài nguyên rừng tiếp tục được chăm sóc, bảo tồn và phát triển tốt, ý thức chấp hành và tham gia bảo vệ rừng trong nhân dân đã có sự chuyển biến tích cực,đến nay cơ bản chấm dứt được tệ nạn phá rừng. Nguồn lợi thủy sản dưới tán rừngkhôngngừng tăng lên, rừng phát triển đã góp phần làm sạch môi trường ven biển vốn phải thường xuyên tiếp nhận nguồn chất thải từ thượng nguồn và từ vùng nuôi tôm tập trung của huyện. Trong 5 nămđã trồng mới và mua lại rừng sản xuất của dân để bổ sung vào quỹ rừng và đất rừng phòng hộ trên 1130 ha, nâng tổng diện tích đất rừng phòng hộ lên trên 37.635 ha, trong đó có 30.506 ha rừng được bảo vệ, chăm sóc. Duy trì ổn định việcgiaokhoánrừngđấtrừngcho các đơn vị, hộ dân trực tiếp bảo vệ, nâng định mức tiền công bảo vệ rừng từ bình quân 185.000 đ/ha/năm lên 316.000 đ/ha/năm, đồng thời cho vay phát triển sản xuất, hỗ trợ các điều kiện sinh hoạt, phương tiện đi lại, từ đó các hộ dân giữ rừng có được thu nhập ổn định và vượt chuẩn nghèo của thành phố từnăm 2001.

Thương mại – dịch vụ du lịch sinh thái được xác định là một trong hai ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, các thành phần kinh tế được khuyến khích đầu tư xây dựng hạ tầng và phát triển hoạt động kinh doanh, đạt tốc độ tăng trưỏng bình quân 22,52%/năm. Số doanh nghiệp, hộ cá thể hoạt động trên lĩnh vực dịch vụ du lịch cũng tăng bình quân 21%/năm, góp phần tạo ra việc làm tại chỗ cho hàng ngàn lao động. Trong 5 năm đã triển khai 15 dự án du lịch, có tổng vốn đầu tư đăng ký thực hiện trên 500 tỷ đồng, trong đó 8 dự án (trên 91 tỷ đồng) đã đưa vào khai thác. Dự án lấn biển Cần Giờ khẩn trương chuẩn bị đầu tư giai đoạn 1 (600 ha) từ năm 2005 đến năm 2010 nhằm tạo ra hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị - du lịch sinh thái biển theo hướng hiện đại .

Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 19,5%/năm, chủ yếu tăng cao trong ngành chế biến thủy hải sản, điện. Công nghiệp hậu cần nghề cá chưa phát triển do đầu tư hạ tầng chưa đồng bộ. Ngành điện tiếp tục được đầu tư phát triển, đã mở rộng lưới điện trung và hạ thế thêm 58,5 km, nâng quy mô lưới điện trãi rộng trên địa bàn đạt 251 km, đã thực hiện trợ giúp gắn điện kế trả góp cho 812 hộ nghèo, nâng tỷ lệ hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia lên 88% (chưa tính 1.150 hộ dân sử dụng điện diézel và pin năng lượng mặt trời), điện năng tiêu thụ đạt 400 kwh/người/năm, tăng bình quân 19,4%/năm.

Quy hoạch, đã cơ bản hoàn thành nội dung điều chỉnh quy hoạch chung, lập 45 đồ án quy hoạch chi tiết 1/2000 trên tổng diện tích 5.007 ha và các quy hoạch phát triển ngành (Khu Bảo tồn thiên nhiên rừng ngập mặn, Khu nuôi trồng thủy sản và hệ thống thủy lợi, Khu du lịch sinh thái quốc gia, Khu đô thị lấn biển, Khu thương mại – dịch vụ – chợ, …), tăng cường công tác quản lý tài nguyên đất đai, đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp đạt 96%, nhà ở – đất ở trên 50%, chú trọng quản lý, phát triển đô thị, thực hiện chỉnh trang, nâng cấp các khu dân cư hiện hữu, xây dựng 12 khu dân cư mới phục vụ chương trình di dời, bố trí lại nhà ở trong dân. Giao thông vận tải tiếp tục được đầu tư phát triển, tăng các tuyến, số lượng phương tiện và năng lực, tần suất vận chuyển, mở rộng xã hội hóa các dịch vụ công ích như vận tải, phân phối nước sạch, thu gom, xử lý rác … góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và cải thiện vệ sinh môi trường nông thôn.

Xây dựng kết cấu hạ tầng được chú trọng, đầu tư toàn xã hội tăng bình quân 71,59%/năm (1996 – 2000 tăng bình quân 27,35%/năm). Mỗi năm đạt giá trị đầu tư570 tỷ đồng (bằng 2,8 lần mức phấn đấu đề ra), trong đó, vốn ngân sách chiếm 50,5%, vốn viện trợ và ngành dọc chiếm 22,8%, vốn vay và tự có của các thành phần kinh tế chiếm 26,7%. Từ đó, đã tạo nên sự biến đổi sâu sắc bộ mặt kinh tế – xã hội ở nông thôn. Đặc biệt các công trình giao thông (cầu, đường bộ, bến phà, bến đò …) điện, nước sạch, nhà ở dân cư, hệ thống thủy lợi – giao thông nội đồng, trường học, bệnh viện – trạm xá, điểm sinh hoạt văn hóa – thể thao, chợ nông thôn được đầu tư xây dựng, tạo tiền đề cho quá trình đầu tư, khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế của huyện trong giai đoạn tiếp theo.

Một số công trình trọng điểm về kinh tế – xã hội do Đại hội đề ra đã cơ bản hoàn thành như :công trình nâng cấp bến phà Bình Khánh, khởi công đường và cầu trên tuyến Rừng Sác, công trình Nghĩa trang Liệt sĩ, đền thờ liệt sĩ và Quảng trường Rừng Sác, Nhà Thiếu nhi, Trung tâm sinh hoạt dã ngoại thanh thiếu nhi Thành phố, bê tông hóa đường giao thông nông thôn, cầu Dần Xây, hai Trường phổ thông trung học…

Thu - Chi ngân sách đảm bảo cho kế hoạch đầu tư phát triển hàng năm, trong đó thu ngân sách nhà nước tăng bình quân 16%/năm, thu ngân sách huyện tăng bình quân 17,72%/năm và chi ngân sách huyện tăng bình quân 18,52%/năm. Thực hiện khoán chi, tiết kiệm chi ngân sách đúng quy định, đạt hiệu quả.

2/ Văn hóa – xã hội – đời sống có nhiều tiến bộ :

Chương trình nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực được tập trung triển khai liên tục trong 5 năm qua. Thông qua việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường lớp, tăng cường đào tạo chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, quản lý, giáo viên, chăm lo, trợ cấp học bổng, phương tiện cho học sinh nghèo, hiếu học, chú trọng đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho thanh niên, giảm tỉ lệ học sinh bỏ học, lưu ban, nâng cao hiệu suất đào tạo. Huyện đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở trước 3 năm, nâng mặt bằng học vấn dân cư lên lớp 7,5 vào năm 2005.

Chương trình giảm nghèo, cải thiện cuộc sống nhân dân mang lại kết quả thiết thực. Đảng bộ, chính quyền các cấp đã tập trung sức chăm lo cho hộ nghèo thông qua đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng tại các xã nghèo (gần 100 tỷ đồng ), xâydựngchuyểngiaocáchìnhsản xuất, kinh doanh, dịch vụ phù hợp, tích cực trợ giúp vốn vay, đẩy mạnh đào tạo nghề và giải quyết việc làm; 5 năm đã giới thiệu cho trên 21.700 lượt lao động có việc làm, qua đó đã giúp cho trên 6.200 hộ thoát nghèo theo tiêu chuẩn giai đoạn một vào cuối năm 2003 (còn 2,2%) và hiện nay, hộ nghèo có thu nhập dưới 6 triệu/người/năm giảm còn 34,8%, trong đó hộ thu nhập dưới 4 triệu/người/năm còn dưới 10%. Chương trình Vì người nghèo đã huy động được nhiều nguồn đóng góp trong xã hội, xây dựng 50 nhà tình nghĩa, 900 nhà tình thương, sửa chữa trên 300 nhà diện chính sách, có công, cấp đất và trợ giúp kinh phí cho 1.280 hộ dân nghèo có nhà ở sạt lở ven sông, ven biển và vùng trũng thấp vào nơi định cư an toàn; 812 hộ nghèo được gắn điện kế, trên 350 hộ được lắp đặt pin năng lượng mặt trời, hàng ngàn hộ nghèo được lắp thủy lượng kế, xây hố xí tự hoại,.. trả góp, góp phần nâng tỷ lệ hộ dân sử dụng điện lên 96% (trong đó 88% sử dụng điện lưới quốc gia, 8% sử dụng diézel và pin năng lượng mặt trời), sử dụng nước sạch lên 95% với định mức bình quân 60 lít/người/ngày (gấp 6 lần năm 2000). Thu nhập dân cư tăng bình quân 20,7%/năm, gấp 2,5 lần năm 2000.

Chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống y tế tại huyện và cơ sở được xây dựng, nâng cấp, các xã đều có bác sĩ và nữ hộ sinh trung cấp, xây dựng mạng lưới nhân viên y tế ấp và nhân viên sức khỏe cộng đồng, đến 2005 đạt 2.000 dân có 1 bác sĩ, đã khốngchếđượcdịchbệnh sốt xuất huyết, sốt rét, bạch hầu, chú trọng chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ và trẻ em, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng từ 24% xuống còn 11,3%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2005 là 1,268%, dân số tham gia luyện tập thể dục thường xuyên đạt 16%.

Văn hóa thông tin - thể thao tiếp tục phát triển, duy trì và nâng cao chất lượng thông tin tuyên truyền trên hệ thống phát thanh – truyền thanh và Tờ tin. Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư được triển khai rộng, gương người tốt việc tốt, gia đình văn hóa, khu dân cư tiên tiến, xuất sắc không ngừng tăng lên. Đến năm 2005, toàn huyện có 11 ấp đạt chuẩn ấp Văn hóa trên tổng số 13 ấp và 1 xã Văn hóa Lý Nhơntổ chức ra mắt Ban chủ nhiệm. Hầu hết các hộ dân đều có phương tiện nghe nhìn, các xã, thị trấn đều có điểm sinh hoạt văn hóa -thể thao cho thanh thiếu nhi. Trung tâm Sinh hoạt dã ngoại Thanh thiếu nhi Thành phố, Nhà Thiếu nhi huyện đã đi vào hoạt động, phong trào thể thao đạt nhiều thành tích cấp Thành phố.

3/ Đảm bảo an ninh quốc phòng, thực hiện chương trình mục tiêu 3 giảm đạt kết quả.

Đảng bộ luôn nhận thức đúng đắn và đầy đủ vị trí, tính chất quốc phòng an ninh vùng ven biển của thành phố và các tỉnh giáp ranh trong khu vực. 5 năm qua, Huyện ủy đã tập trung triển khai các kế hoạch giáo dục quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Triển khai phương án diễn tập, phòng thủ chống xâm nhập, biểu tình, bạo loạn. Củng cố hệ thống phòng thủ ven biển, thực hiện hiệp đồng chiến đấu tốt giữa các đơn vị vũ trang và lực lượng vũ trang huyện với các địa phương giáp ranh, thường xuyên huấn luyện lực lượng dân quân tập trung, dân quân tự vệ và dự bị động viên. Hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân hàng năm, làm tốt công tác hậu phương quân đội. Phát huy dân chủ cơ sở, xây dựng lực lượng nòng cốt chính trị, nòng cốt phong trào, dựa vào dân để chủ động phát hiện, kịp thời đấu tranhxử lý các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, không để xảy ra các “điểm nóng” về tội phạm, từng bước tạo môi trường xã hội lành mạnh, an toàn ở nông thôn,là địa bàn không có tụ điểm ma túy và mại dâm. Luôn chú trọng tăng cường công tác phòng chống lụt bão, phòng chống cháy - nổ, đảm bảo an toàn giao thông… góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

4/ Hệ thống chính trị cơ sở được củng cố, kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX), Đảng bộ chú trọng đổi mới phương thức hoạt động để nâng cao chất lượng lãnh đạo. Thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, đề cao ý thức trách nhiệm, tinh thần thái độ phục vụ nhân dân. Thường xuyên xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở xã, thị trấn. Các cấp ủy luôn bám sát yêu cầu nhiệm vụ trọng tâm, những vấn đề bức xúc trong sản xuất và đời sống của dân để lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết mang lại hiệu quả. Đảm bảo giới thiệu đảng viên về sinh hoạt tại nơi cư trú, đa số cán bộ, đảng viên đều ý thức giữ gìn đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, xây dựng gia đình gương mẫu, chấp hành tốt pháp luật và chủ trương chính sách của chính quyền địa phương.

Toàn Đảng bộ có 45 cơ sở Đảng, 958 đảng viên, số cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh tăng dần. Công tác phát triển đảng viên luôn được quan tâm, tích cực phát triển đảng viên trẻ, đảng viên trên địa bàn dân cư, trong cán bộ công chức, giáo viên, y bác sĩ, phụ nữ và người có đạo. Trong 5 năm đã phát triển được 376 đảng viên, gấp 2 lần so với nhiệm kỳ trước, ngành Giáo dục không còn cơ sở trắng. Công tác kỷ luật, khen thưởng trong Đảng bộ được tiến hành nghiêm túc, thiết thực, đảng viên đủ tư cách được biểu dương tăng hàng năm.

Đã có 309 cán bộ, đảng viên, công chức viên chức được đào tạotheo quy hoạch và chuẩn hóa về chuyên môn, lý luận chính trị ở bậc đại học, sau đại học và gần 500 cán bộ đảng viên tự nâng cao trình độ văn hóa. Huyện ủy chú trọng quy hoạch hoàn chỉnh các chức danh diện Thành ủy và Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý. Thực hiện tốt công tác luân chuyển cán bộ, bố trí cán bộ trẻ về công tác tại xã, thị trấn.

Ban Chỉ đạo Trung ương 6(2) tích cực kiểm tra, đôn đốc việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của đảng viên và nhân dân, kịp thời phát hiện và có những biện pháp đề xuất chấn chỉnh những tồn tại trong quản lý, điều hành trên lĩnh vực đất đai, đầu tư xây dựng, cải cách hành chính, quản lý vốn chương trình xóa đói giảm nghèo… qua đó trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan được nâng lên. Công tác kiểm tra, thanh tra được đề cao, kỷ luật, kỷ cương được giữ vững, từng bước làm trong sạch bộ máy chính quyền,nâng cao năng lực và hiệu qủa quản lý nhà nước về nhiều mặt. Qua 2 năm triển khai Chỉ thị 15 – CT/TU của Thành ủy về cuộc vận động tu dưỡng đạo đức, xây dựng lối sống lành mạnh trong cán bộ, đảng viên đã có tác động tích cực đến nhận thức tư tưởng và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên trên địa bàn.

Huyện ủy đã hoàn thành biên tập và xuất bản Lịch sử Đảng bộ huyện Cần Giờ qua 2 thời kỳ 1930 – 1975 và 1975 – 2000.

Hội đồng nhân dân hoạt động có nhiều tiến bộ, đặc biệt trong công tác kiểm tra, giám sát, góp phần giải quyết kịp thời các vấn đề bức xúc, quan tâm của người dân. Ủy ban nhân dân huyện có nhiều cố gắng trong cải cách hành chánh, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, hoàn thành các nhiệm vụ, lĩnh vực do Thành phố phân cấp, thực hiện cơ chế “một cửa" tại huyện và các xã, thị trấn, nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm Dịch vụ hành chánh nhà đất đảm bảo sự liên thông trong tiếp nhận, luân chuyển và xử lý hồ sơ, thủ tục từ xã, thị trấn đến huyện và ngược lại. Từ năm 2004, cải tiến quy trình, thực hiện nghiêm túc việc công khai hóa hồ sơ, thủ tục hành chánh, giảm phiền hà, nhũng nhiễu, được nhân dân đồng tình, khen ngợi.

Huyện ủy luôn chú trọng tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng các đoàn thể vững mạnh. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có những cải tiến về nội dung và phương thức hoạt động, làm tốt vai trò nòng cốt trong công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục quần chúng nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn bó sâu sát cơ sở, chăm lo thiết thực đến sản xuất, đời sống, việc làm, thu nhập của người dân, tìm hiểu, giải quyết và đề xuất đến cấp thẩm quyền giải quyết kịp thời tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; các tầng lớp nhân dân lao động trong huyện không ngừng phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết, năng động, sáng tạo, cần cù trong lao động sản xuất. Nông, ngư dân đã tích cực, hưởng ứng phong trào xây dựng nông thôn mới, nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa, tham gia thực hiện chương trình mục tiêu 3 giảm, bảo vệ, chăm sóc tài nguyên thiên nhiên, giữ gìn môi trường tự nhiên và xã hội lành mạnh trên địa bàn dân cư, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Đại bộ phận nhân dân thực hiện quyết tâm, vươn lên thoát nghèo, đồng bào có đạo, các giới nhân sĩ, trí thức, doanh nhân cùng nhân dân trong huyện cần cù lao động sản xuất, kinh doanh, tương thân, tương ái, đóng góp công sức vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển huyện, chăm lo cho người nghèo và gia đình chính sách, có công.

Nhìn chung, 5 năm qua Cần Giờ đã đạt được nhiều chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, ổn định xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững an ninh quốc phòng, tạo nên những đổi thay căn bản trong đời sống chính trị – xã hội ở địa phương, có được những kết quả đó, là do Cần Giờ luôn được sự quan tâm lãnh đạo và đầu tư mạnh mẽ của Trung ương, Thành phố, Đảng bộ và nhân dân trong huyện luôn thể hiện quyết tâm đoàn kết, tin tưởng và kiên trì thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phát huy vai trò của các tầng lớp nhân dân, huy động và trân trọng các nguồn lực đóng góp trong xã hội, sử dụng và khai thác đúng mức lợi thế về tiềmnăng kinh tế, văn hóa, lịch sử truyền thống và môi trường thiên nhiên, bám sát cơ sở, kịp thời phát hiện, tổng kết từ thực tiễn những nhân tố, điển hình mới để khuyến khích, nhân rộng. Đặc biệt, nguồn lực đầu tư kịp thời Trung ương, Thành phố giúp cho việc xây dựng hạ tầng, phát triển sản xuất, chăm lo đời sống nhân dân đạt được nhiều tiến bộ.

II/ NHỮNG TỒN TẠI YẾU KÉM – NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM :

Bên cạnh những kết quả đạt được tương đối toàn diện và mang tính tích cực, vẫn còn một số mặt tồn tại, yếu kém, đó là :

Tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao so với thời kỳ 1996 – 2000 nhưng mức tăng mạnh chỉ ở khu vực 2 (xây dựng, công nghiệp) mà chủ yếu được thực hiện từ nguồn vốn ngân sách, hai khu vực còn lại với hai ngành kinh tế mũi nhọn của huyện là thủy sản và dịch vụ du lịch sinh thái chiếm tỷ trọng thấp, phát triển chưa đồng đều, thiếu bền vững. Công tác quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết, nhất là quy hoạch ngành kinh tế – xã hội thiếu đồng bộ, quản lý đất đai, xây dựng, đền bù giải tỏa còn nhiều bất cập, đánh bắt xa bờ chưa thoát khỏi những khó khăn, yếu kém và trì trệ kéo dài trong quản lý cũng như phát triển lực lượng sản xuất, nghề nuôi thủy sản tuy đang phát triển đạt hiệu quả cao nhưng chưa đảm bảo yếu tố bền vững, ổn định, còn tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường, chất lượng đầu tư các công trình thủy lợi chưa cao, kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, chưa đảm bảo con giống cho chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản, phương tiện, công cụ khai thác ven bờ lạc hậu, lạm sát nguồn lợi thủy sản trong tự nhiên chưa được ngăn chặn triệt để. Một số công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, đặc biệt về giao thông do Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VIII đề ra thực hiện chưa đạt, hạ tầngkỹ thuật phục vụ mục tiêu phát triển sản xuất, đời sống ở nông thôn còn yếu kém, thiếu đồng bộ. Các năm qua chưa có cơ chế, chính sách thực sự hấp dẫn để thu hút các nguồn lực đầu tư tương xứng nhằm khai thác đúng mức lợi thế và tiềm năng kinh tế biển hiện có của huyện. Kinh tế tập thể chưa phát triển, kinh tế tư nhân chưa được phát huy đúng mức.

Việc làm, thu nhập và mức sống của hộ nghèo còn bấp bênh, ngành nghề ở nông thôn chưa phát triển đa dạng, phù hợp để giải quyết việc làm tại chỗ, ổn định thu nhập cho lao động nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinhtế, trướchếtlaođộngnữ, laođộng phổ thông, trình độ dân trí còn thấp, công tác phổ cập giáo dục còn nhiều khó khăn, đào tạo nghề chưa đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng lao động, họat động hướng nghiệp cho học sinh chưa chuyển biến. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn cao, nhà ở, vệ sinh môi trường sống của người dân tại các khu vực xa trung tâm chưa được cải thiện đúng mức. Trật tự an toàn xã hội chưa được tăng cường, kỷ cương, kỷ luật trong quản lý đất đai, xây dựng còn lỏng lẻo, chưa xử lý triệt để các vi phạm an toàn giao thông, xâm hại tài nguyên thiên nhiên và nguồn lợi thủy sản trong tựnhiên.

Tổ chức cơ sở Đảng trong một số cơ quan, đơn vị chưa thể hiện được vai trò hạt nhân lãnh đạo, hoạt động thuần về chuyên môn, một số cấp ủy chưa chú trọng đến công tác kiểm tra đảng viên chấp hành chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy, chưa chủ động phát hiện sai phạm để xử lý kịp thời, vẫn còn đảng viên, cán bộ công chức vi phạm chính sách, pháp luật, chưa thực hành tiết kiệm, thiếu gương mẫu. Năng lực, trìnhđộ cán bộ mộtsố cơ quan chuyên môn cấp huyện, đoàn thể chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới đặt ra, còn tình trạng cán bộ được đào tạo nhưng bố trí chưa theo quy hoạch, một số cán bộ đầu ngành chưa chuyên sâu, thiếu tâm huyết, không dám làm hoặc làm ít, nói nhiều, không dám chịu trách nhiệm, công tác dân vận trong cán bộ, đảng viên nhất là ở các cơ quan chính quyền còn yếu, tuyên truyền, vận động quần chúng chưa đi vào chiều sâu. Vai trò của Hội đồng nhân dân cấp xã, thị trấn chưa phát huy đúng mức, trật tự kỷ cương, ý thức chấp hành kỷ luật trong bộ máy nhà nước còn lỏng lẻo, vai trò chỉ huy, trách nhiệm cá nhân chưa được đề cao, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ phối hợp của các phòng, ban, giữa phòng ban với mặt trận, đoàn thể và cơ sở chưa rõ ràng, còn chồng chéo, đùn đẩy cho nhau, nắm bắt dư luận xã hội chưa kịp thời.

Những yếu kém, tồn tại trên là do trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thiếu tập trung, thiếu những giải pháp quyết liệt để xử lý những vấn đề mới, phát sinh, còn hiện tượng trông chờ, ỷ lại vào cấp trên, bằng lòng với kết quả đạt được, chưa chủ động khắc phục khó khăn, phát huy nội lực. Bộ máy quản lý và tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập, trình độ cán bộ còn yếu, năng lực triển khai và tổ chức thực hiện một số chủ trương, chính sách chậm, không đồng bộ, thiếu nhất quán và quyết tâm cao.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần VIII, một số kinh nghiệm đươc rút ra cho những năm tiếp theo, như sau :

* Với vai trò, vị trí của huyện, cần phải phát huy đúng mức nội lực đồng thời với việc huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực hỗ trợ, chi viện đầu tư từ bên ngoài. Kinh nghiệm thực tế đã cho thấy kết quả cao khi thực hiện các chủ trương, chính sách trên địa bàn huyện là do Đảng bộ biết phát huy tính cần cù, năng động, sáng tạo và tập hợp sự đồng thuận, hưởng ứng của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới, xây dựng mô hình mới để phát triển sản xuất, kinh doanh bằng nguồn lực đất đai, lao động, kinh nghiệm từ thực tiễn, đồng thời phải trân trọng, tạothiện chí trong việc mời gọi các thành phần kinh tế trong và ngoài huyện đến đầu tư, khai thác tiềm năng, lợi thế sẵn có của địa phương. Lãnh đạo, định hướng sử dụng có hiệu quả mọi nhân tố, mọi nguồn lực đầu tư để phát triển hạ tầng, nhờ đó đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế đạt hiệu quả, phổ cập giáo dục, nâng cao trình độ dân trí, giảm hộ nghèo đạt kết quả. Đây là ưu điểm cần được phát huy, mở rộng ra nhiều lĩnh vực.

* Cán bộ phải kịp thời cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ, năng lực, bộ máy phải được tổ chức và vận hành thích ứng với yêu cầu, nhiệm vụ mới trong quá trình xây dựng và phát triển huyện. Thực trạng ở một huyện nghèo, còn nhiều khó khăn, để đáp ứng yêu cầucao của thành phố và cuộc sống bức bách của nhân dân đặt ra, đòi hỏi bộ máy trong hệ thống chính trị mà trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức phải thực sự tâm huyết, có năng lực chuyên môn và bản lĩnh chính trị. Cán bộ, đảng viên cần phát huy truyền thống anh hùng, dám nghĩ, biết làm, dám chịu trách nhiệm, hoạt động với tác phong công nghiệp và chuyên nghiệp vì lợi ích của nhân dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư nhờ đó đã mang lại thành công ở một số công trình, chương trình trọng điểm về kinh tế – xã hội.

* Công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải trực tiếp, cụ thể, quyết liệt và sâu sát cơ sở, gần dân, công tác kiểm tra phải tiến hành thường xuyên và toàn diện, từ đó mới giải quyết tốt các vướng mắc, khó khăn ngay khi phát sinh cho cơ sở, kịp thời phát hiện những trì trệ, bất cập để điều chỉnh chủ trương, chính sách, giải pháp cho phù hợp với thực tế tình hình, hạn chế thiếu sót, tồn đọng kéo dài.

Những khó khăn, tồn tại và yếu kém nói trên, Đảng bộ nghiêm túc rút ra để quyết tâm khắc phục trong thời gian tới. Với thành quả nổi bật trong 5 năm qua cùng thành tích cải tạo, xây dựng, bảo vệ và phát triển huyện từ năm 1995 đến nay, nhân dân và cán bộ huyện đã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới nhân kỷ niệm 60 năm ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 vào năm 2005.

Được vinh dự đó càng đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và cán bộ, chiến sĩ huyện Cần Giờ phải luôn gìn giữ và quyết tâm nỗ lực không ngừng, đề cao tinh thần và ý chí tiến công, vượt qua mọi khó khăn, thách thức tiếp tục xây dựng Cần Giờ thật sự giàu mạnh, chăm lo cuộc sống cho nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, đảm bảo quốc phòng và an ninh vùng ven biển của thành phố và đất nước được giữ vững. Trước mắt phải huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để tạo ra sự đột phá trong xây dựng và phát triển huyện giai đoạn 2005 – 2010 .

PHẦN THỨ HAI

NHIỆM VỤ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI

VÀ ĐẢM BẢO QUỐC PHÒNG - AN NINH 5 NĂM 2005 – 2010

Giai đoạn 2005 – 2010, huyện Cần Giờ có những thuận lợi cơ bản, đó là : luôn được Trung ương và Thành phố quan tâm đầu tư xây dựng toàn diện, đặc biệt là kết cấu hạ tầng để khai thác thế mạnh tiềm năng về kinh tế biển; nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng tại địa phương được chăm sóc, bảo vệ tốt đang thu hút nhiều nguồn lực đầu tư; các mô hình kinh tế qua thời gian thực hiện chuyển dịch cơ cấu đã định hình, đạt hiệu quả; truyền thống anh hùng Cách mạng tiếp tục là nguồn động viên tinh thần, ý chí quyết tâm vươn lên trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân hướng tới xây dựng đời sống kinh tế – xã hội ngày càng phát triển. Đồng thời, khó khăn cũng không nhỏ, như : hộ nghèo theo tiêu chí mới còn cao, đời sống nhân dân vẫn còn khó khăn, thiếu thốn, áp lực giải quyết việc làm cho lao động phổ thông dôi dư trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng tăng; kết cấu hạ tầng còn yếu kém, chưa đồng bộ. Bên cạnh đó, huyện lại đang đứng trước những thách thức lớn, đó là: vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái bền vững đồng thời với việc phải thúc đẩy kinh tế – xã hội tăng trưởng và phát triển nhanh; vấn đề phân hóa giàu nghèo ở nông thôn khi hội nhập, mở rộng, thu hút đầu tư; tổ chức bộ máy, trình độ, năng lực cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao trong quá trình thực hiện mời gọi, tiếp nhận, khai thác, sử dụng các nguồn lực đầu tư; không gian địa lý phục vụ cho nhu cầu phát triển huyện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn hạn hẹp.

Mục tiêu tổng quát trong 5 năm 2005 - 2010 là phát huy truyền thống Anh hùng cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, giữ vững ổn định chính trị – xã hội, nâng cao chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung phát triển thủy sản và dịch vụ du lịch sinh thái, bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng ngập mặn, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư xây dựng, tạo bước đột phá trong phát triển giao thông, tích cực giảm nghèo, giải quyết đồng bộ các vấn đề xã hội, đảm bảo cải thiện và nâng cao rõ rệt mức sống cho nhân dân, thực hiện công bằng, dân chủ, văn minh, giữ vững an ninh quốc phòng.

Năm năm tới, phấn đấu thực hiện 10 chỉ tiêu kinh tế – xã hội quan trọng sau :

- Tổng giá trị sản xuất (GCĐ.1994): tăng bình quân trên 21%/năm.

- Thu nhập dân cư vào năm 2010 :bình quân 25 triệu/người, tăng gần 2 lần năm2005.

- Hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học vào cuối năm 2007; mặt bằng học vấn dân cư : đạt lớp 10 vào năm 2010.

- Tỷ lệ hộ nghèo: giảm còn dưới 1% (chuẩn 6 triệu/người/năm) vào năm 2009.

- Tỷ lệ hộ khá, thu nhập trên 20 triệu/người/năm: chiếm 20-25%hộ dân.

- Hằng năm giải quyết việc làm cho 3.200 lượt lao động và đào tạo mới 600 lao động; tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chiếm 35% vào năm 2010.

- Tỷ lệ kiên cố hóa nhà ở dân cư : trên 50% .

- Hoàn thành bê tông hóa đường giao thông nông thôn và thiết chế văn hóa cơ sở tại các xã, thị trấn .

- Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch đạt: 98%, sử dụng điện lưới quốc gia đạt: 95%.

- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên : giữ mức 1,2 - 1,25%, giảm tỷ lệ sinh con thứ ba n dưới : 5%.

Phương hướng, nhiệm vụ cụ thể :

1/ Về kinh tế : tập trung đầu tư đúng mức để nâng cao chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng khai thác thế mạnh về thủy sản và dịch vụ du lịch sinh thái góp phần thúc đẩy và định hướng cho các ngành kinh tế khác cùng phát triển.

Tăng cường đầu tư bằng các nguồn vốn để mở rộng diện tích và nâng cao chất lượng, hiệu quả nghề nuôi thủy sản trên địa bàn. Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích nôngdâncácthànhphầnkinh tế khai thác, sử dụng hợp lý đất đai, mặt nuớc, bãi bồi ven sông, ven biển để nuôi các loài thủy sản có giá trị kinh tế theo hướng chuyên canh, luân canh, đảm bảo tiêu chuẩn môi trường. Trong 2 năm 2006 - 2007 hoàn thành cơ bản chương trình đầu tư hạ tầng kỹ thuật (thủy lợi, giao thông, điện …) cho vùng nuôi tôm sú tập trung, quy hoạch và phát triển nghề nuôi nghêu, sò trên bãi bồi và nuôi thủy sản lồng, bè trên sông. Quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi chú trọng phát triển các mô hình trang trại đầu tư theo hướng công nghiệp, chuyển dần diện tích nuôi quãng canh sang thâm canh, đồng thời với phát triển kinh tế hộ gia đình, hướng nông dân cùng liên kết sản xuất, hợp đồng bao tiêu sản phẩm, phát huy trách nhiệm cộng đồng, tự quản thông qua hiệp hội ngành nghề. Hình thành các cơ sở sản xuất, thuần dưỡng giống thủy sản tại huyện đảm bảo cung cấp đủ giống sạch cho người nuôi, tăng cường công tác khuyến ngư, kiểm dịch, bảo đảm môi trường sạch trong vùng nuôi thủy sản tập trung. Đẩy mạnh công tác bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thủy sản tự nhiên trong vùng thủy nội địa, thực hiện các chính sách đầu tư cải tiến công cụ, phương tiện, tạo điều kiện cho nghề đánh bắt gần bờ và ven bờ phát triển ổn định. Tổ chức lại nghề khai thác xa bờ gắn với phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá theo hướng cung ứng nhiên liệu, vật tư, bao tiêu sản phẩm. Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng thủy hải sản bình quân 10%/năm.

Nông nghiệp tiếp tục thực hiện chủ trương khuyến khích và đầu tư hỗ trợ cho nông dân chuyển toàn bộ đất trồng lúa, cây nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, lập vườn theo mô hình V.A.D chất lượng cao, trang trại sản xuất – kinh doanh tổng hợp gắn với du lịch sinh thái. Đầu tư, hướng dẫn từng bước để nông dân tham gia chương trình nuôi thuần cá cảnh nước mặn, nước lợ, xây dựng làng nghề nuôi cá sấu theo phương thức nuôi gia công tại hộ gia đình. Tập trung xây dựng vườn cây ăn trái đặc sản tại các xã, thị trấn thích hợp theo quy hoạch.

Nghề muối đầu tư hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng tại đồng muối tập trung trong 2 năm 2006 - 2007, triển khai ứng dụng công nghệ mới để nâng cao năngsuất,chất lượng muối. Phát triển kinh tế hợp tác trong nghề muối, đầu tư và hướng dẫn cho diêm dân nuôi thủy sản luân canh trên ruộng muối, có chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp hợp đồng bao tiêu sản phẩm muối tại ruộng, chế biến muối tại địa phương.

Lâm nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ bảo tồn, phát triển bền vững hệ sinh thái, tài nguyên rừng ngập mặn. Đầu tư chăm sóc, trồng mới chuyển hóa rừng theo hướng đa dạng sinh học. Tiếp tục nâng cao chất lượng Khu Dự trữ sinh quyển thế giới đầu tiên ở Việt Nam, đẩy mạnh quy tập, khoanh nuôi, bảo tồn và phát triển các chủng loài tiêu biểu của hệ sinh thái rừng sác phục vụ việc nghiên cứu, học tập, tham quan, du khảo, du lịch. Quy hoạch sử dụng hợp lý môi trường, cảnh quan thiên nhiên, đảm bảo sự hài hòa giữa nhân tố con người với bảo tồn thiên nhiên, phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường bền vững, khuyến khích đầu tư khai thác thế mạnh tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái trong rừng ngập mặn. Đảm bảo đời sống, thu nhập cho các hộ giữ rừng thoát nghèo (theo chuẩn mới) từ năm 2006. Tăng cường phát triển cây xanh ở các khu dân cư, các trục tuyến giao thông, đẩy mạnh trồng cây chống xói lở bờ sông, tạo đai rừng ven sông, rạch.

Tiếp tục triển khai các dự án đầu tư phát triển du lịch sinh thái theo quy hoạch. Thực hiện các chính sách ưu đãi để trong những năm đầu hoàn thành xây dựng hạ tầng tại các khu, điểm, tuyến du lịch tạo cơ sở phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí, nghiên cứu, học tập cho những năm tiếp theo. Chú trọng giải quyết thỏa đáng các mâu thuẫn nội tại trong quá trình đầu tư phát triển du lịch sinh thái với nhiệm vụ bảo tồn, phát triển bền vững môi trường, cảnh quan thiên nhiên và giữ gìn bản sắc văn hóa, truyền thống cách mạng của địa phương. Phát triển du lịch sinh thái theo hướng mở, đa khu vực, nhiều quy mô và loại hình, đảm bảo thu hút sự tham gia của cộng đồng dân cư nhằm phát huy nguồn lực tại chỗ góp phần giải quyết việc làm, cải thiện đời sống, nâng cao mức sống nhân dân.

Hình thành các trung tâm thương mại tại các khu đô thị hóa và khu đôthị – du lịch sinh thái biển, chú trọng phát triển mạng lưới chợ, các điểm kinh doanh dịch vụ ở nông thôn. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển dịch vụ vận tải đường thủy và đường bộ để khai thác, sử dụng có hiệu quả tiềm năng, lợi thế về sông nước tự nhiên và các công trình hạ tầng kỹ thuật đã được đầu tư. Nghiên cứu triển khai dự án xây dựng kho trung chuyển, kho ngoại quan ở địa điểm thích hợp khi cảng du lịch quốc tế hoàn thành đưa vào sử dụng. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng đầu tư hạ tầng dịch vụ bưu chính – viễn thông. Xây dựng thương hiệu một số sản phẩm đặc sản của địa phương. Ngành dịch vụ phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân trên 33%/năm.

Định hướng phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong những năm tới là mời gọi các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng tại khu vực phía bắc Cần Giờ một số cơ sở công nghiệp sạch không ảnh hưởng đến môi trường, có khả năng thu dụng nhiều lao động địa phương. Thúc đẩy nghề chế biến thủy hải sản, chế tác các sản phẩm thủ công từ nguồn nguyên liệu tại chỗ.

Tiến hành quy hoạch, chấn chỉnh lại công tác quản lý để có kế hoạch khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên và môi trường thiên nhiên. Ứng dụng công nghệ thông tin, đưa công tác quản lý đất đai vào nề nếp, khoa học, xác lập quỹ đất cần thiết để đáp ứngcho nhu cầu đầu tư phát triển đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Chấn chỉnh công tác quản lý, sử dụng đất theo quy định của pháp luật và phù hợp với thực tế tình hình phát triển huyện.

Tiếp tục chỉnh trang các khu dân cưhiện hữu ổn định, khẩn trương thực hiện chương trình đầu tư xây dựng các khu đô thị, khu dân cư – nhà vườn. Triển khai chính sách ưu đãi đầu tư để các doanh nghiệp cùng tham gia thực hiện các dự án phát triển quỹ đất ở, cung ứng nhà ở cho người có thu nhập thấp. Thực hiện chính sách cho vay trả góp, xã hội hóa chương trình xây dựng nhà chothuê … tạo điều kiện về đất đai, giá nhà – đất tại các khu dân cư mới phù hợp với thu nhập, khả năng tích luỹ của người lao động để thực hiện chương trìnhbố trí lại dân cư trên địa bàn. Phấn đấu đến năm 2010, sửa chữa, nâng cấp 3.000 căn hộ, xây dựng mới 5.000 căn hộ, đảm bảo 50% nhà ở của người dân được kiên cố, cơ bản hoàn thành xóa nhà ở tạm bợ.Hoàn chỉnh nền hạ các trục tuyến giao thông đường bộ theo quy hoạch định hình vào năm 2010, 100% các tuyến đường liên xã được nâng cấp nhựa, đường liên ấp và giao thông nội ấp được bê tông hóa, nâng cấp các bến đò, hoàn thành công trình kè chống sạt lở các khu dân cư đã quy hoạch ổn định, mở rộng lưới điện hạ thế, bưu điện, điện thoại tại các khu dân cư mới, đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực cung cấp nước sạch, thu gom, xử lý rác, duy tu bảo dưỡng công trình phúc lợi, mở rộng các tuyến giao thông và năng lực vận tải thủy, bộ. Hoàn thành quy hoạch cốt nền xây dựng và hệ thống thoát nước trên địa bàn. Các khu dân cư đô thị sinh thái phải có hệ thống xử lý nước thải trước khi thoát ra sông rạch tự nhiên, xóa tình trạng xây dựng cầu xí trên sông rạch. Đầu tư chăm sóc và phát triển cây xanh trên các tuyến đường giao thông, lát vỉa hè trên các tuyến đường trong khu dân cư tập trung, khuyến khích nhân dân trồng cây xanh, cây kiểng, cây ăn trái trong khuôn viên nhà ở.

Huy động các nguồn lực, ưu tiên đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, trước hết là giao thông, thủy lợi, điện, cấp nước, thoát nước để phục vụ chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất – kinh doanh, xây dựng các dự án khu dân cư, khu đô thị mới, các công trình giáo dục, y tế, văn hóa – thể thao, nhà ở cho người lao động ... Triển khai chính sách ưu đãi nhằm huy động nhiều nguồn vốn với nhiều hình thức đầu tư, mở rộng xã hội hóa để khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia, phấn đấu tăng tỷ trọng vốn đầu tư ngoài ngân sách chiếm 75% trong tổng vốn đầu tư xã hội. Chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư, đảm bảo chất lượng, tiến độ xây dựng các công trình bằng nguồn vốn ngân sách. Hoàn thành và công bố rộng rãicác quy hoạch chi tiết ngay từ năm 2006, làm tốt công tác đền bù giải tỏa, tái định cư, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, công bằng đối với người bị giải tỏa, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao trong các tầng lớp nhân dân, chuẩn bị đầy đủ quỹ đất để mời gọi đầu tư phát triển.

Tăng cường năng lực quản lý, điều hành và trách nhiệm chi tiêu ngân sách ở các cấp, các ngành. Huy động đúng, đủ các nguồn thu trên địa bàn, nỗ lực khai thác quỹ đất để tạo nguồn thu cho ngân sách, đảm bảo mục tiêu chi cho những công trình trọng điểm, những lĩnh vực bức bách của huyện. Phấn đấu thu, chi ngân sách hằng năm tăng bình quân 9 – 10%. Tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại triển khai chương trình tín dụng, cho vay vốn ngắn hạn, trung và dài hạn để đẩy nhanh tốc độ đầu tưxây dựng hạ tầng, mở rộng sản xuất – kinh doanh, phát triển ngành nghề, giải quyết việc làm và chăm lo nhà ở cho nhân dân trong huyện.

2/ Về văn hóa – xã hội – đời sống :

Đầu tư đúng mức cho ngành giáo dục về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, đảm bảo tỷ lệ huy động học sinh ra lớp hằng năm, hạ thấp tỷ lệ lưu ban, bỏ học. Phổ cập giáo dục đúng độ tuổi : bậc tiểu học đạt trên 95%, trung học cơ sở đạt trên 85%, hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học vào năm 2007. Phấn đấu đến năm 2010,50% số trường đạt chuẩn quốc gia, nâng mặt bằng học vấn dân cư lên lớp 10, nâng cao chất lượng và hiệu suất đào tạo ở các cấp học. Chú trọng công tác hướng nghiệp cho học sinh từ bậc trung học phổ thông. Đẩy mạnh hoạt động dạy nghề, giáo dục thường xuyên, mở rộng xã hội hoá giáo dục (nhà trẻ, mẫu giáo) tại các xã, thị trấn. Triển khai chương trình đào tạo nguồn nhân lực cung cấp lao động theo nhu cầu tuyển dụng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện.

Tiếp tục thực hiện chương trình nâng cao chất lượng khám và điều trị của ngành Y tế. Nâng cấp Bệnh viện huyện và các Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, đầu tư đúng mức cho tuyến y tế cơ sở, hoàn thành xây dựng bệnh viện Bình Khánh, đảm bảo duy trì các xã, thị trấn đều có bác sĩ và nữ hộ sinh trung cấp, phát triển mạng lưới nhân viên sức khỏe cộng đồng. Đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu, cải thiện vệ sinh môi trường ở khu dân cư, phòng chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ và trẻ em, khuyến khích xây dựng các cơ sở dịch vụ điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe người dân và mở rộng bảo hiểm y tế tự nguyện trong nhân dân, phấn đấu đến năm 2010, cơ bản thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân. Tăng cường vận động kế hoạch hóa gia đình, giảm tỷ lệ sinh con thứ ba còn 5%, bình quân 1.500 dân có 1 bác sĩ, giữ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở mức 1,2 – 1,25%.

Đầu tư hoàn chỉnh thiết chế văn hóa cơ sở, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế xây dựng các điểm văn hóa – thể thao kết hợp kinh doanh các dịch vụ vui chơi – giải trí – nghỉ dưỡng. Nâng cao chất lượng hoạt động của Tờ tin, hệ thống phát thanh, truyền thanh, Bưu điện Văn hóa xã, Tủ Sách báo pháp luật, nghiên cứu phát triển các trò chơi dân gian, truyền thống. Đẩy mạnhcuộc vậnđộng Toàn dân đoàn kếtxây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, đến năm 2010, toàn huyện có 70% số ấp và 3 xã đạt chuẩn văn hóa, xây dựng 3 làng nghề, trong đó đầu tư xây dựng xã đảo Thạnh An thành xã đảo Văn hóa kiểu mẫu với kinh tế phát triển, đời sống xã hội ổn định, an ninh quốc phòng vững chắc. Có Nghị quyết chuyên đề để phát triển toàn diện xã Lý Nhơn. Hoàn thành và đưa vào hoạt động Khu Văn hóa – Thể thao liên hợp tại huyện, đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao trong trường học, trên địa bàn dân cư, nâng tỷ lệ số dân tham gia luyện tập thể dục thường xuyên trên 20%. Đầu tư tôn tạo các di tích văn hóa, lịch sử cách mạng, hoàn thành công trình Quảng trường Rừng Sác, Khu Di tích lịch sử Căn cứ Rừng Sác, Khu Di tích lịch sử Gò Chùa, Khu Di chỉ khảo cổ giồng Cá Vồ. Chú trọng giáo dục lịch sử, truyền thống, văn hóa dân tộc trong nhân dân và các tầng lớp thanh thiếu nhi.

Triển khai chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển ngành nghề để giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động, tăng cường đào tạo nghề cho lao động trẻ. Hằng năm giải quyết việc làm cho khoảng 3.200 lượt lao động, đến năm 2010, 95% lao động có việc làm ổn định, trong đó, 35% lao động đã qua đào tạo. Đầu tư đúng mức cho chương trình giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh hạ tầng các xã nghèo, mở rộng và nâng mức vốn vay cho hộ nghèo phát triển kinh tế hộ, thực hiện tốt các chính sách xã hội chăm lo cho hộ nghèo có điều kiện vươn lên. Phấn đấu đến năm 2009, giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 1%, đến năm 2010, có từ 20 – 25% hộ gia đình có thu nhập bình quân trên 20 triệu/người/năm. Chú trọng đầu tư cải thiện cuộc sống các hộ dân tại các khu tái định cư, hoàn thành chương trình di dời 1.400 hộ dân có nhà ở ven biển, ven sông, vùng trũng thấp và trong rừng phòng hộ. Đảm bảo trên 98% hộ dân được cung cấp nước sạch cho tiêu dùng, 95% hộ dân được mắc điện kế sử dụng lưới điện quốc gia, 5% hộ dân sử dụng điện diezel và năng lượng mặt trời, 95% hộ dân có nhà vệ sinh hợp quy cách. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm lo cho gia đình chính sách, có công, phấn đấu đến năm 2008, hộ chính sách, có công không còn nghèo. Thu nhậpdân cư vào năm 2010 tăng xấp xỉ 2 lần năm 2005.

3/ Về quốc phòng an ninh và thực hiện chương trình 3 giảm :

Tiếp tục phát huy truyền thống Anh hùng lực lượng vũ trang trong nhân dân và cán bộ, đảng viên, tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Hằng năm, hoàn thành tốt nhiệm vụ tuyển quân, huấn luyện, nâng cao ý thức sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu hiệu quả cho lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ và dự bị động viên. Thường xuyên bổ sung hoàn chỉnh kế hoạch, phương án chủ động phòng thủ, đánh trả, chống xâm nhập, biểu tình, bạo loạn, hiệp đồng tác chiến giữa các đơn vị vũ trang trong huyện và các địa phương giáp ranh. Quan tâm đầu tư hợp lý hơn các phương tiện, công cụ, thiết bị cần thiết cho lực lượng vũ trang đảm bảo hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao. Thực hiện tốt công tác hậu phương quân đội, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ.

Đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, củng cố, phát triển lực lượng nòng cốt chính trị, nòng cốt phong trào ở cơ sở. Tiếp tục thực hiện thắng lợi chương trình 3 giảm, chú trọng lĩnh vực an ninh kinh tế, tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm, các tệ nạn xã hội, kiên quyết không để xảy ra tụ điểm ma túy, mại dâm, các “ điểm nóng” gây bất ổn chính trị – xã hội trên địa bàn. Nổ lực đảm bảo an toàn giao thông, chủ động phòng, chống cháy – nổ, phòng, chống dịch, phòng, chống lụt bão đạt hiệu quả trong mọi tình huống, nỗ lực xây dựng và giữ gìn môi trường xã hội văn minh, lành mạnh, an toàn ở nông thôn.

4/ Từ những nhiệm vụ nêu trên, trong 5 năm tới, Đảng bộ tập trung huy động mọi nguồn lực, ra sức thực hiện đạt kết quả 7 chương trình kinh tế – xã hội và 10 công trình hạ tầng, phục vụ dân sinh trọng điểm sau :

* Bảy chương trình trọng điểm về kinh tế – xã hội :

1/ Chương trình phát triển thủy sản;

2/ Chương trình phát triển du lịch sinh thái;

3/ Chương trình bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát triển tài nguyên thiên nhiên rừng ngập mặn;

4/ Chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng;

5/ Chương trình nhà ở và bố trí lại dân cư;

6/ Chương trình giải quyết việc làm, giảm hộ nghèo, tăng hộ khá và giàu;

7/ Chương trình nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực.

* Mười công trình trọng điểm về hạ tầng và phục vụ dân sinh :

a) Các công trình đã khởi công, hoàn thành và đưa vào sử dụng trong nhiệm kỳ :

- Công trình nâng cấp, mở rộng đường Rừng Sác và các cầu trên tuyến đường Rừng Sác.

b) Các công trình khởi công mới và hoàn thành trong nhiệm kỳ :

- Công trình nâng cấp nhựa các tuyến đường đến trung tâm 3 xã An Thới Đông, Tam Thôn Hiệp và Lý Nhơn;

- Công trình đường ống dẫn nước ngọt từ thành phố về huyện và đường ống nhánh kết nối đến trung tâm các xã Bình Khánh, An Thới Đông, Lý Nhơn, Tam Thôn Hiệp;

- Công trình Quảng trường Rừng Sác, Khu di tích lịch sử Căn cứ Rừng Sác, Khu di tích lịch sử Gò Chùa, Khu Di chỉ khảo cổ giồng Cá Vồ;

- Công trình đường dọc biển Cần Thạnh và đường vành đai ven sông giai đoạn 1 nối liền 4 xã Lý Nhơn, An Thới Đông, Bình Khánh, Tam Thôn Hiệp;

- Công trình điện khí hóa và bê tông hóa giao thông nông thôn tại các xã, thị trấn;

- Công trình xây dựng mới 5.000 căn nhà ở;

- Công trình mở rộng khu dân cư Thạnh An và xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu đô thị sinh thái Bình Khánh – An Thới Đông;

c) Các công trình khởi công mới :

- Công trình cầu Bình Khánh;

- Công trình Khu đô thị lấn biển Cần Giờ và khu đô thị – du lịchsinh thái biển Cần Thạnh – Long Hòa (giai đoạn 1).

PHẦN THỨ BA

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ,

TĂNG CƯỜNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN

Tiếp tục củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị đủ mạnh, tăng cường công tác xây dựng Đảng, cải tiến phương thức, nâng cao năng lực, chất lượng lãnh đạo của cấp ủy Đảng, xây dựng bộ máy chính quyền trong sạch, vững mạnh để triển khai Nghị quyết của Đảng đạt hiệu quả, giữ vững kỷ cương, kỷ luật; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, mở rộng sinh họat dân chủ trong nhân dân .

Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực và chất lượng lãnh đạo của các cấp ủy Đảng. Chú trọng thực chất của việc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt của các chi, đảng bộ cơ sở. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, của từng cấp ủy viên trong tổ chức triển khai, thực hiện và kiểm tra việc chấp hành Điều lệ Đảng, các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng. Chú trọng phân công người đứng đầu chỉ huy và chịu trách nhiệm trước cấp ủy về thực hiện các chương trình trọng điểm, nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ.

Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng,chú trọng công tác giáo dục, học tập quán triệt chủ nghĩa Mác – Lênin vàtư tưởng Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên, vận động cán bộ, đảng viên phải tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống lành mạnh, trong sạch, nâng cao bản lĩnh chính trị, nêu cao tinh thần trách nhiệm, tận tâm với công việc được giao, tận tụy phục vụ nhân dân, năng động, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn, thường xuyên hiến kế cho cấp ủy, chính quyền những biện pháp, giải pháp hoạt động mang lại ích nước, lợi dân. Tăng cường công tác kiểm tra của Huyện ủy, chỉ đạo tháo gỡ những tồn tại, khó khăn, vướng mắc tại cơ sở, nâng cao chất lượng, hiệu quả thiết thực các cuộc họp, hội nghị,kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm tệ nạn tham nhũng, quan liêu, lãng phí, cửa quyền.

Tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng các chi, đảng bộ trong sạch, vững mạnh, phấn đấu hàng năm có trên 80% cơ sở đảng "trong sạch vững mạnh", không có cơ sở Đảng yếu kém 2 năm liền. Tập trung thực hiện công tác quy hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trung thành, trung thực, có năng lực, trình độ lý luận và thực tiễn, gần dân đáp ứng yêu cầu phát triển huyện theo hướng công nghiệp hóa và đô thị hóa. Tiếp tục thực hiện luân chuyển cán bộ giữa các xã, thị trấn và các ngành, bố trí cán bộ trẻ về cơ sở, rèn luyện trong thực tiễn. Xây dựng tiêu chí quản lý, phương pháp đánh giá cán bộ khoa học và thực chất. Chú trọng phát triển đảng trong thanh niên, lực lượng quần chúng tại các cơ sở sản xuất, địa bàn dân cư, trong các giới, các ngành... phấn đấu kết nạp 500 đảng viên mới. Xây dựng phát triển tổ chức đảng, đoàn thể chính trị trong các doanh nghiệp, cơ sở kinh tế tư nhân .

Nâng cao vai trò, vị trí của Hội đồng nhân dân, bảo đảm cho Hội đồng nhân dân, Đại biểu Hội đồng nhân dân thực hiện đầy đủ chức trách, nhiệm vụ của mình, nhất là các hoạt động giám sát, tiếp xúc và giải quyết các kiến nghị của cử tri, tuyên truyền, giải thích các chủ trương, chính sách, thể chế hóa các Nghị quyết của cấp ủy Đảng, kêu gọi, vận động các tầng lớp nhân dân, các giới, các ngành chấp hành pháp luật, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng trên địa bàn.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” tại xã, thị trấn, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong sạch, công tâm và tận tụy với công việc. Nâng cao năng lực quản lý, điều hành của Ủy ban nhân dân, thực hiện phân công, phân cấp, phân định trách nhiệm cụ thể, rõ ràng trong bộ máy hành chính, giữ vững kỷ cương, kỷ luật hành chính, chuẩn hóa các chức danh cán bộ, công chức, mở rộng cơ chế khoán chi hành chính, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật trong nội bộ Đảng và trong nhân dân. Củng cố, kiện toàn vững mạnh các cơ quan Tòa án, Viện Kiểm sát, Thanh tra, Tư pháp. Nghiên cứu thực trạng địa giới hành chính các xã, thị trấn để đề xuất điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế, bố trí dân cư, bảo đảm quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội.

Đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, củng cố mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với dân, nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, lãnh đạo chính quyền trong công tác tiếp dân, giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân theo đúng pháp luật. Dũng cảm sửa sai nhưng cũng kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng khiếu nại, tố cáo gây xáo trộn đời sống chính trị – xã hội ở địa phương. Thườngxuyêncủngcốmối quan hệ mật thiết giữa chính quyền với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể. Thực hiện nghiêm túc chế độ lấy ý kiến của dân thông qua Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể trước khi ban hành những quyết định có liên quan đến quyền và lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân. Chú trọng công tác dân vận, bồi dưỡng kỹ năng tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục quần chúng nhân dân trong bộ máy chính quyền, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhà nước và cán bộ các đoàn thể.

Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị từ cơ sở đến huyện để tham gia giải quyết tốt các yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, chăm lo đời sống, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn .

Thực hiện đầy đủ vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị. Các cấp ủy Đảng, từng đảng viên phải trực tiếp tham gia làm tốt công tác vận động quần chúng, giữ vị trí nòng cốt tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, vận động nhân dân sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật, thường xuyên thực hiện nhiệm vụ củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa.

Mặt trận Tổ quốc tiếp tục phát huy vai trò trung tâm cùng các đoàn thể đẩy mạnh cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư và cuộc vận động Vì người nghèo. Tuyên truyền, vận động nhân dân nỗ lực lao động sản xuất kinh doanh, phấn đấu giảm nghèo, vươn lên khá giả, kịp thời tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội. Tăng cường đoàn kết rộng rãi đồng bào các giới, các tôn giáo, các dân tộc, động viên tinh thần, tình cảm cách mạng, khơi dậy mọi tiềm lực trong nhân dân, phát huy truyền thống anh hùng để cùng góp sức xây dựng huyện không ngừng phát triển. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, tạo điều kiện cho khối Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể hoạt động đạt hiệu quả.

Chăm lo xây dựng Đoàn Thanh niên vững mạnh, tạo điều kiện và giao nhiệm vụ cho Đoàn Thanh niên xung kích đi đầu trong việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, chương trình, công trình trọng điểm của Đảng bộ và Chính quyền địa phương, thực hiện thắng lợi mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng các ngành kinh tế mũi nhọn. Mở rộng mặt trận tập hợp thanh niên qua các phong trào học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh, vươn lênthoátnghèo, làmgiàuchính đáng. Vận động và tổ chức cho thanh niên tham gia phong trào rèn luyện thân thể, bảo vệ an ninh tổ quốc, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Đầu tư xây dựng hoàn chỉnh các điểm văn hóa – thể thao, tạo môi trường lành mạnh, an toàn cho thanh thiếu nhi sinh hoạt,vui chơi, giải trí . Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng và truyền thống văn hóa, lịch sử, bảo vệ môi trường sinh thái cho lực lượng đoàn viên, thanh niên và thiếu niên, nhi đồng.

Liên đoàn Lao động chú trọng bồi dưỡng nhận thức lý luận chính trị, văn hóa và chuyên môn cho lực lượng công nhân, tập trung xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, phát triển đoàn viên, thành lập các nghiệp đoàn trong doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, thực hiện tốt vai trò đại diện và bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của người lao động.

Hội Nông dân làm nòng cốt vận động, tổ chức cho nông dân tham gia thực hiện thắng lợi chương trình mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quản lý, sử dụng có hiệu quả diện tích đất đai, mặt nước của gia đình, xây dựng các mô hình phát triển kinh tế trang trại, kinh tế hộ, phối hợp với các ngành, đoàn thể để tạo việc làm ổn định, tăng thu nhập, giảm hộ nghèo, xây dựng câu lạc bộ nông dân khá và giàu. Chủ động nắm bắt nhu cầu, tổ chức chuyển đổi ngành nghề cho nông dân phù hợp với quá trình đô thị hóa và xây dựng nông thôn mới, làm tốt vai trò đại diện để giải quyết tốt các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nông dân.

Hội Liên hiệp Phụ nữ đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục giới, thực hiện chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nhận thức của phụ nữ, hỗ trợ vốn, tạo việc làm, giúp phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe phụ nữ và trẻ em, cải thiện điều kiện lao động cho giới nữ.

Hội Cựu chiến binh, cán bộ hưu trí, kháng chiến tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt chính trị, làm tốt nhiệm vụ giáo dục truyền thống cách mạng, khơi dậy niềm tự hào trong thế hệ trẻ , nỗ lực phấn đấu, cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, phát triển địa phương… Tăng cường đoàn kết, giúp nhau và vận động giúp đỡ đồng bào phát triển sản xuất, ổn định đời sống.

PHẦN THỨ TƯ

CÁC NHÓM GIẢI PHÁP LỚN

1/ Hệ thống lại các chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư để chủ động đề xuất Thành phố ban hành cơ chế đặc biệt cho huyện nhằm thu hút cácthànhphầnkinhtếđầutư vào địa bàn Cần Giờ, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh về thủy sản và du lịch sinh thái, lợi thế về đất đai, mặt nước và môi trường, cảnh quan. Quyết tâm thực hiện có hiệu quả cơ chế “một cửa” trong đầu tư phát triển huyện, tăng cường quảng bá, tổ chức các hình thức xúc tiến đầu tư để huy động nhiều nguồn vốn để triển khai các dự án đầu tư theo quy hoạch, kế hoạch.

Khẩn trương hoàn thành điều chỉnh quy hoạch tổng thể và các quy hoạch chi tiết 1/2000, công bố rộng rãi giúp nhân dân và các thành phần kinh tế tìm hiểu, quyết định thực hiện đầu tư theo quy hoạch. Ngay từ năm 2006, tiến hành việc xác lập quỹ đất cần thiết cho kế hoạch đầu tư phát triển trong 5 – 10 năm tới. Tập trung và chủ động triển khai các biện pháp sát hợp với thực tế tình hình để giải quyết hài hòa lợi ích của cộng đồng dân cư địa phương và nhà đầu tư.

Trong phát triển sản xuất, nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ về vốn, lãi suất, giống, bảo hiểm rũi ro, thông tin thị trường, tiêu thụ sản phẩm chuyển giao kỹ thuật, đầu tư hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng giúp nhân dân an tâm và nỗ lực tham gia chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đạt kết quả cao.

2/ Đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ công ích, nhà nước trợ giúp một phần cho các đơn vị, cá nhân đầu tư vào các công trình phục vụ dân sinh, có chính sách khen thưởng để khuyến khích các mô hình, các cơ sở sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có giá trị kinh tế cao cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu, tạo nhiều chỗ làm và thu dụng lao động địa phương có việc làm ổn định, tăng thu nhập, giảm nghèo và từng bước khá giả.

3/ Tăng cường đầu tư đúng mức về cơ sở vật chất, kinh phí, đồng thời ban hành chính sách ưu đãi cho công tác đào tạo nghề để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển và tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội trong 5 năm tới. Từng bước xây dựng lực lượng lao động có tay nghề, trình độ kỹ thuật và chuyên môn. Cán bộ, công chức phải thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức chuyên ngành, nâng cao trình độ nghiệp vụ để thích ứng với đòi hỏi ngày càng cao của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Luôn chú trọng công tác bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc văn hóadân tộc, truyền thống lịch sử, cách mạng của địa phương trong các tầng lớp nhân dân, trước hết là lực lượng thanh thiếu nhi tạo nền tảng vững chắc cho quá trình phát triển huyện.

4/ Tiếp tục cải tiến phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Xây dựng và thực hiện quy chế định kỳ cấp ủy làm việc với lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Phát huy vai trò, trách nhiệm triển khai đầy đủ, kịp thời chủ trương, Nghị quyết của cấp ủy Đảng trong bộ máy chính quyền, tính chủ động, sáng tạo và nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể trong việc tập hợp, giáo dục, vận động quần chúng, xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, phát triển phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Tập trung chăm lo xây dựng Đoàn Thanh niên vững mạnh, kiện toàn các ban của Huyện ủy, cải tiến, nâng cao chất lượng các cuộc họp của cấp ủy, tăng cường làm việc, kiểm tra cơ sở, phát huy vai trò các Ủy viên Thường vụ, cấp ủy viên phụ trách từng lĩnh vực, địa bàn để góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy.

Nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý, điều hành của hệ thống các cơ quan nhà nước, xây dựng bộ máy hành chính đủ mạnh, kiện toàn các cơ quan kinh tế tổng hợp, giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong quản lý, điều hành, đồng thời với việc phát huy tính năng động, sáng tạo có tính đột phá trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.

*

**

Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX nhận thức rõ trách nhiệm của mình trước những thời cơ, thuận lợi cũng như những thách thức, khó khăn. Đại hội tin tưởng rằng với truyền thống anh hùng và đoàn kết, Đảng bộ và nhân dân Cần Giờ sẽ ra sức khắc phục những yếu kém, tồn tại, xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân, phát huy nội lực, tinh thần năng động, sáng tạo, thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX đề ra, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển ổn định và bền vững trong những năm tiếp theo, luôn xứng đáng là huyện Anh hùng lực lượng vũ trang và Anh hùng lao động trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thông báo