Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VI diễn ra trong bối cảnh vừa có nhiều thuận lợi, vừa không ít khó khăn phức tạp. Biểu hiện tập trung và rõ nét nhất là thời gian đầu sau đại hội: Sự nghiệp đổi mới của Đảng đã đem lại những thành tựu bước đầu rất quan trọng nhưng khủng hoảng KT - XH vẫn diễn ra trong phạm vi cả nước; sự sụp đổ của Liên Xô, và các nước XHCN Đông Âu, đã ảnh hưởng đến tư tưởng tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Ở Huyện, sản xuất đã được phục hồi sau những năm mất mùa, những yếu tố thúc đẩy cho sự phát triển mới được xây dựng có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn thấp kém; tình trạng ô nhiễm môi trường tự nhiên, nguồn lợi thủy sản bị giảm sút; nghèo đói, dịch bệnh, thất học còn ở mức cao luôn là những trở lực lớn nhất trong quá trình xây dựng phát triển Huyện. Tuy nhiên, Đảng bộ và nhân dân Huyện đã kiên trì phấn đấu vượt qua khó khăn thử thách, tích cực khai thác các điều kiện thuận lợi để thực hiện các nhiệm vụ mục tiêu; đến nay, mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng phần lớn đã đạt và vượt so với chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VI đề ra.
Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VII có nhiệm vụ tổng kết toàn diện việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VI (1991 - 1995) và đề ra phương hướng nhiệm vụ 5 năm (1996 - 2000).
PHẦN THỨ NHẤT
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ HUYỆN LẦN THỨ VI
I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN BA CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ HUYỆN LẦN THỨ VI
Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VI đã đề ra nhiệm vụ mục tiêu hàng đầu là XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO, XÓA MÙ CHỮ - PHỔ CẬP CẤP I, PHÒNG CHỐNG DỊCH BỆNH. Đây là chủ trương đúng đắn, thể hiện sự sâu sát của Đảng bộ Huyện đối với đời sống nhân dân, đã phát hiện những vấn đề bức xúc nhất để tập trung giải quyết. Vì thế, ngay sau khi triển khai thực hiện, các chương trình này đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng. Với sự chỉ đạo tập trung, liên tục của toàn Đảng bộ, 5 năm qua đã thu được những kết quả quan trọng:
Chương trình xóa đói giảm nghèo, đã hoàn thành mục tiêu "Xóa hộ đói" vào thời điểm 30/4/1995. Đến cuối năm 1995 có 2551 hộ/2795 hộ thuộc diện đói nghèo của Huyện đã được trợ giúp 2.417 triệu đồng và nhiều phương tiện khác như cấp đất nông nghiệp, giao đất giao rừng... Qua khảo sát trên 2.300 hộ, có 105 hộ (4,56%) sau một thời gian được trợ giúp có cuộc sống khá, ổn định; 600 hộ (26%) đủ ăn; 1295 hộ (56,3%) vượt khó nhưng chưa ổn định; 300 hộ (13,14%) đời sống vẫn như cũ.
Chương trình xóa mù chữ - phổ cập cấp I, đã có 2/7 xã là Cần Thạnh và Thạnh An được công nhận đạt tiêu chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ; hai xã Bình Khánh, Lý Nhơn đạt tiêu chuẩn XMC. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi từ 6 - 14 được huy động ra lớp tăng lên đáng kể, từ 65% ở năm học 1990 - 1991 tăng lên 79,8% trong năm học 1994 - 1995, đồng thời cũng hạ thấp số trẻ em thất học trong độ tuổi từ 4.348 em xuống còn 2.532 em (giảm 58%). Đến nay, trừ xã Tam Thôn Hiệp, các xã còn lại đều đạt tỷ lệ 90% trẻ trong độ tuổi 6 - 11 đang học ở trường Phổ thông.
Chương trình phòng chống dịch bệnh đã đạt được mục tiêu chung là: "Không để bệnh sốt rét phát triển thành dịch, giảm dần tỷ lệ người nhiễm ký sinh trùng sốt rét", kiểm soát được các ổ dịch sốt rét vào cuối năm 1992, kéo tỷ lệ số người mắc ký sinh trùng sốt rét từ 22% năm 1991 xuống còn 6,5% năm 1995.
Tuy nhiên, trong mỗi chương trình cũng còn một số mặt hạn chế: Chương trình XĐGN đạt kết quả chưa toàn diện trên các mặt hiệu quả của chương trình, số hộ khó khăn vươn lên khá còn quá ít, số hộ nghèo còn khá đông và còn đến 13,14% số hộ được trợ giúp nhưng chưa có chuyển biến so với ban đầu; tỷ lệ thu hồi vốn thấp trên dưới 40%, vốn không có khả năng hoàn trả chiếm gần 3%; một số hộ được trợ vốn có tư tưởng ỷ lại, xem đó là khoản trợ cấp của Nhà nước nên không tích cực tổ chức làm ăn; công tác quản lý vốn ở một vài xã còn lỏng lẻo; nguồn vốn của chương trình chủ yếu từ ngân sách Nhà nước, các nguồn lực của từng nơi huy động được rất ít. Chương trình XMC - PCCI, còn 5/7 xã chưa được công nhận hoàn thành giáo dục tiểu học; tỷ lệ trẻ từ 6 - 14 tuổi huy động ra lớp tuy tăng khá nhưng chưa đạt chỉ tiêu đề ra (90%); tỷ lệ trẻ từ 12 - 14 tuổi chưa học hết cấp I còn trên 30%; nhiệm vụ xóa mù chữ, nhất là cho người lớn chưa được đầu tư đúng mức, toàn Huyện hiện còn trên 18% số người trong độ tuổi từ 15 - 35 mù chữ (kể cả số người chưa học hết lớp 2). Chương trình PCDB, được tổ chức thực hiện chủ yếu bằng các hoạt động của ngành y tế và các tổ chức y tế từ thiện, chưa lan tỏa thành một chương trình mang tính xã hội hoá. Cả chương trình XĐGN và XMC - PCCI cũng chưa tạo thành một phong trào hành động cách mạng sâu rộng trong quần chúng; chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan, đơn vị trong Huyện; trên thực tế các ngành chuyên môn vẫn ở trong tình trạng đơn độc; sự lãnh đạo của một số cấp ủy cơ sở chưa đúng mức, có khuynh hướng khoán trắng việc thực hiện cho các Ban chỉ đạo.
II. TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ
Kinh tế Huyện trong 5 năm qua có mức tăng trưởng khá bình quân hàng năm về tổng sản lượng xã hội là 16%. Tổng sản phẩm xã hội bình quân đầu người năm 1995 tăng 1,6 lần so với năm 1991. Giá trị tổng sản lượng ngư nghiệp tăng 21%; Nông - lâm nghiệp tăng 19,4%; Công nghiệp - TTCN tăng 2,7%.
Công tác xây dựng cơ sở hạ tầng được Đảng bộ Huyện tập trung lãnh đạo thực hiện, là một trong những lĩnh vực có sự chuyển biến mạnh mẽ nhất, góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội của Huyện phát triển. Tổng mức vốn đầu tư trên địa bàn trong năm năm qua ước đạt 165 tỷ đồng, tốc độ đầu tư tăng bình quân 80%/năm. Lĩnh vực đầu tư chủ yếu trong các năm qua là tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật và xã hội. Đã xây mới 34 km đường nhánh ở 3 xã nối liền với tuyến đường chính, nâng số xã có giao thông đường bộ lên 6/7 xã, mở rộng và nâng cấp 50 km đường nông thôn, hoàn thành xây dựng cầu đò cho 7 xã, cải tạo 50 cầu khỉ trên địa bàn Huyện, trong đó có 23 cầu được bê tông hoá. Điện lưới quốc gia được đưa về 6/7 xã (riêng xã Thạnh An được đầu tư hệ thống điện bằng nguồn điện Diezel, năng lượng mặt trời, quạt gió). Các công trình thủy lợi cũng được đầu tư khá tập trung cho các xã nông nghiệp, kè đá chắn sóng được 10/20 km toàn tuyến biển Cần Thạnh - Long Hòa. Bệnh viện miễn phí, hệ thống trạm y tế, trường học được xây dựng và nâng cấp thường xuyên. Hệ thống viễn thông tiếp tục phát triển, thông tin liên lạc thông suốt cơ sở - Huyện - Thành phố - trong cả nước và ngoài nước... Huyện cũng đã tiến hành qui hoạch tổng mặt bằng, qui hoạch chi tiết một số khu vực dân cư và ngành sản xuất. Tuy nhiên còn một số công trình trọng điểm do Nghị quyết Đại hội và Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đảng bộ Huyện (khóa VI) đề ra chưa thực hiện được như công trình cấp nước, cầu Dần Xây; một số công trình tiến độ thực hiện chậm; Các dự án đầu tư chủ yếu là từ ngân sách Nhà nước, chưa huy động được các nguồn khác.
Trong từng ngành sản xuất có sự chuyển dịch theo đúng định hướng của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện.
Ngư nghiệp, vẫn là ngành sản xuất mũi nhọn của Huyện, trong đó nghề cào khơi và nuôi thủy sản phát triển khá (đặc biệt nghề nuôi nghêu từ 3 năm nay và gần đây là nghề nuôi sò huyết phát triển mạnh), đã góp phần đưa tổng sản lượng thủy sản năm 1995 đạt 26.450 tấn (chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ Huyện đề ra là 18.000 tấn). Các phương tiện đánh bắt ven bờ giảm 30% do thu nhập thấp, không có tích lũy; số đang hoạt động phần lớn đã thực hiện đa dạng hoá công cụ đánh bắt để có thể sản xuất ở các mùa vụ khác nhau.
Do diễn biến phức tạp của môi trường, khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật và trình độ lao động còn thấp nên sản xuất ngư nghiệp nói chung không ổn định, khả năng xảy ra rủi ro cao, chưa tạo được mô hình đầu tư thích hợp. Riêng nghề nuôi tôm (cả trong khu vực quốc doanh và các hộ gia đình) giảm sút nghiêm trọng, khả năng khôi phục còn nhiều khó khăn do bị ảnh hưởng môi trường nước, dịch bệnh xuất hiện trên tôm ở các đầm nuôi, việc phòng trị chưa mang lại kết quả... Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản tuy có được quan tâm chỉ đạo nhưng vẫn chưa chấm dứt được tình trạng lạm sát trong sông rạch, đáng chú ý là trong năm 1995 số vụ đánh bắt thủy sản bằng cào điện có tăng lên.
Nông - lâm nghiệp, ổn định diện tích lúa mùa ở mức 4.000 ha, nhờ thực hiện một số biện pháp kỹ thuật như xây dựng hệ thống thủy lợi, tăng vụ, áp dụng giống lúa mới nên năng suất tăng 12,6% năm (năm 1991: 1,8 tấn/ha, năm 1995: 2,5 tấn/ha). Diện tích vườn cây ăn trái tăng 19%/năm và đang khôi phục dần các loại cây mãng cầu, xoài... có giá trị kinh tế cao thay cho cây táo, mía, các loại hoa màu đã tỏ ra kém hiệu quả.
Cơ cấu đàn gia súc, gia cầm có thêm vịt siêu thịt, gà công nghiệp, gà lai thả vườn, dê, tăng bình quân 39,7%/năm, góp phần nâng tỷ trọng chăn nuôi từ 14% lên 22,3% trong tổng giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp.
Rừng phòng hộ được bảo vệ tốt, công tác giao đất giao rừng vẫn được tiến hành trong các năm qua. Hệ động, thực vật rừng sác từng bước được khôi phục mở ra khả năng đáp ứng nhu cầu nghiên cứu khoa học, tham quan, du lịch sau này.
Diện tích làm muối ổn định ở mức 440 ha, sản lượng hàng năm đạt 20.000 tấn. Việc thí nghiệm sản xuất Artémia trên ruộng muối chưa đem lại hiệu quả kinh tế.
Công tác cấp quyền sử dụng ruộng đất, hoạt động khuyến nông có nhiều tiến bộ.
Sản xuất nông nghiệp ở Huyện sau nhiều năm được tác động bằng các biện pháp kỹ thuật nhưng đến nay vẫn còn lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên; tình trạng độc canh cây lúa vẫn còn phổ biến, năng suất lúa tuy có tăng nhưng vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra (Đại hội đề ra 3 tấn/ha vào năm 1995). Chưa có sự thay đổi lớn về giống cây trồng, vật nuôi; thị trường tiêu thụ sản phẩm của ngành chăn nuôi không ổn định, giá cả thường biến động bất lợi cho người sản xuất; vẫn chưa ngăn chặn được triệt để tình trạng chặt phá rừng; công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tiến hành vẫn còn chậm làm ảnh hưởng đến việc đầu tư sản xuất của nhân dân.
Công nghiệp - TTCN, hoạt động chủ yếu là chế biến thực phẩm và tập trung phần lớn trong khu vực quốc doanh. Do bị hạn chế về thị trường tiêu thụ, thiết bị và công nghệ cũ kỹ, lạc hậu nên nhà máy đông lạnh chỉ hoạt động khoảng 1/2 công suất. Các cơ sở sản xuất nước mắm đều ngưng hoạt động do thiếu nguồn nguyên liệu tại chỗ, giá bán sản phẩm cao nên không cạnh tranh lại các cơ sở sản xuất ở Thành phố. Các cơ sở ngoài quốc doanh tuy nâng được tỷ trọng giá trị tổng sản lượng từ 41,7% năm 1991 lên 53% năm 1995 nhưng phổ biến vẫn còn ở qui mô nhỏ.
Riêng công nghiệp đóng sửa tàu thuyền có mức gia tăng về số lượng sản phẩm gia công cũng như giá trị sản lượng thực hiện (bình quân tăng 94%/năm) nhưng vẫn nhỏ bé, chưa đủ sức vươn lên đáp ứng nhu cầu đầu tư và phát triển ngành kinh tế mũi nhọn của Huyện.
Thương mại - dịch vụ, được điều chỉnh chuyển hướng tập trung vào lĩnh vực cung ứng vật tư, hàng hóa và tiêu thụ sản phẩm sản xuất trên địa bàn Huyện. Nâng tỷ trọng doanh số bán lẻ trên tổng doanh thu tiêu thụ toàn ngành từ 12,6% năm 1991 lên 25% trong năm 1995. Bình quân tăng 12,8%/năm.
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa đạt được yêu cầu đề ra do có khó khăn về tài chính và công tác quản lý ở công ty SXKD XNK & ĐT Huyện (đến nay công ty vẫn chưa xử lý khắc phục được tình trạng thâm hụt nặng về tài chính kéo dài sau nhiều năm).
Kinh tế đối ngoại có nhiều tiến bộ, ngày càng có nhiều tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước đến nghiên cứu, đặt vấn đề đầu tư, liên doanh liên kết sản xuất trên địa bàn Huyện và trợ giúp phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nhưng kết quả đạt được còn rất thấp so với nhu cầu đầu tư và phát triển Huyện do lợi ích của các nhà đầu tư chưa có điều kiện thỏa mãn.
Ngân sách Huyện trong những năm qua được cân đối tích cực, tổng mức thu tăng bình quân hàng năm 42,9% và được phân bổ một cách hợp lý nhằm tác động đến công tác điều hành của bộ máy Nhà nước, đầu tư cho các chương trình mục tiêu và phát triển kinh tế Huyện. Hoạt động cho vay kinh tế hộ đã không ngừng tăng trưởng và hướng vào mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Vốn cho vay tăng 31%/năm, cơ cấu vốn trung hạn cũng tăng từ 6,2% năm 1991 lên 50% năm 1995. Tuy nhiên lĩnh vực tài chánh, tín dụng trên địa bàn Huyện chưa tạo được khả năng cân đối cao cho các nhu cầu chủ yếu, chưa huy động có hiệu quảcác nguồn vốn vay dài hạn, trung hạn, lãi suất ưu đãi để đầu tư cho công nghệ chế biến, đóng mới tàu thuyền công suất lớn và nuôi thủy sản.
Cùng với sự tăng trưởng của các ngành sản xuất, cơ cấu kinh tế của Huyện cũng được chuyển dịch theo hướng ngày càng tăng tỷ trọng của các ngành kinh tế quan trọng trong tổng sản phẩm xã hội. Tuy nhiên mức độ chuyển dịch còn thấp, thiếu vững chắc so với mục tiêu của Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đảng bộ Huyện. (Tỷ trọng một số ngành sản xuất trong cơ cấu kinh tế năm 1995 so với Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ: Ngư nghiệp 28% / 40%, Nông - lâm 12% / 15%, CN - TTCN 7% / 20%).
Cơ cấu các thành phần kinh tế có sự biến đổi trong những năm qua. Kinh tế quốc doanh được sắp xếp và củng cố một bước về tổ chức, tuy còn có một số khó khăn về vốn thị trường... nhưng hoạt động có khởi sắc, phương hướng sản xuất kinh doanh từng bước được xác định rõ ràng hơn phát triển khá trên các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, bán buôn và tham gia một phần thị trường bán lẻ về vật liệu xây dựng, nhiên liệu, dược phẩm... Tuy có những tiến độ nhất định nhưng kinh tế quốc doanh của Huyện vẫn đứng trước những khó khăn gay gắt. Kinh tế tư nhân phát triển rộng rãi trong lĩnh vực khia thác, nuôi thủy sản, sản xuất lúa, muối, chăn nuôi, thương nghiệp bán lẻ. Đã xuất hiện các loại hình kinh tế hợp tác, tự nguyện, tự quản trong nuôi nghêu, nuôi sò, đánh lưới, câu. Doanh nghiệp tư nhân có phát triển nhưng chậm và chỉ mới hình thành trong lĩnh vực đánh bắt xa bờ.
III. TRÊN LĨNH VỰC VĂN HOÁ - XÃ HỘI
Năm năm qua, các hoạt động văn hoá - xã hội đã được tập trung lãnh đạo và tổ chức thực hiện đạt nhiều kết quả khả quan.
Về dân số - lao động - giải quyết việc làm và chăm lo đời sống xã hội.
Chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình có tiến bộ, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 1995 là 1,81% giảm 0,79% so với năm 1991, tỷ lệ tăng cơ học không đáng kể. Nguồn lao động trên địa bàn Huyện tăng bình quân hàng năm là 7%.
Thực hiện chủ trương phát triển các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế hộ gia đình; tranh thủ các nguồn vốn tín dụng, quỹ quốc gia giải quyết việc làm, vốn XĐGN và vốn của các tổ chức đoàn thể xã hội nên tình hình giải quyết việc làm trong các năm qua có chuyển biến tích cực, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho 2.200 lao động, đạt 50% số lao động thất nghiệp như Nghị quyết đề ra. Tuy nhiên do trình độ văn hoá thấp, tay nghề chưa có nên lao động của Huyện chỉ làm được những việc có tính thời vụ, thu nhập thấp; hiện nay số người chưa có việc làm ổn định, nhất là lao động trong khu vực nông nghiệp vẫn còn khá cao.
Công tác chăm lo đời sống đã được Huyện thường xuyên quan tâm trên nhiều lĩnh vực và nhiều đối tượng khác nhau. Đặc biệt, trong 5 năm qua đã xây thêm được 172 căn nhà tình nghĩa, sửa chữa chống dột 88 căn, huy động 272 sổ tiết kiệm (với số dư từ 500.000 - 1.000.000 đồng) tặng cho các gia đình chính sách, có công với cách mạng. 6 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống cũng được các đơn vị ở Huyện nhận trợ cấp nuôi dưỡng suốt đời. Một bộ phận trẻ khuyết tật (27/148 em) được nuôi dạy tập trung, bước đầu có 7 người già neo đơn được các nhà từ thiện tổ chức nuôi dưỡng. Trong những năm qua Huyện cũng đã cho 150 CB.CNV mượn tiền trả chậm để xây cất nhà ở.
Trên lĩnh vực này còn một số tồn tại, đó là thu nhập bình quân đầu người dân tuy có cao hơn so với năm 1991 nhưng còn quá thấp và mức tăng trưởng rất chậm; số hộ nghèo ở Huyện còn khá đông; đời sống gia đình chính sách tuy có giảm sự căng thẳng, song đa số còn khó khăn nhiều mặt...
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo trong 5 năm qua có bước phát triển khá và tươgn đối toàn diện. Hiệu quả và chất lượng đào tạo đều tăng ở tất cả các cấp học; riêng tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi ra lớp năm học 1994 - 1995 đạt 93%, tăng 3% so với mục tiêu của Đại hội. Đội ngũ giáo viên tương đối đáp ứng được yêu cầu giảng dạy trong từng năm học. Cơ sở vật chất trường lớp được đầu tư xây dựng và trang bị khá tốt, đã xóa hẳn tình trạng học ca ba; 5/7 trường cấp 2, 3 của Huyện có tổ chức dạy vi tính, tất cả các trường đều được trang bị khá đầy đủ đồ dùng dạy học, điều kiện thực hành thí nghiệm, phương tiện nghe, nhìn... Các hạn chế lớn hiện nay là mặt bằng dân trí của Huyện còn quá thấp (lớp 3, 6); đội ngũ giáo viên trước mắt chỉ mới đáp ứng được yêu cầu năm học; tỷ lệ học sinh khá, giỏi ở các cấp không cao (dưới 10%); chưa phủ kín được việc dạy ngoại ngữ ở tất cả các trường trung học của Huyện; công tác đào tạo, dạy nghề cho thanh thiếu niên chưa được triển khai thực hiện. Chất lượng giáo dục - đào tạo toàn diện nhìn chung còn quá thấp kém so với Thành phố.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, mạng lưới y tế từ Huyện đến xã được đầu tư khá tốt, nhất là bệnh viện miễn phí Cần Giờ được trang bị những thiết bị y khoa khá đầy đủ và hiện đại hơn đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám và điều trị bệnh cho nhân dân. Chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, tiêm chủng mở rộng và các chương trình y tế quốc gia như chiến dịch uống Sabin, Vitamin A đều đạt kết quả khá cao. Mặt hạn chế của công tác này là chất lượng điều trị trên địa bàn Huyện chưa đồng đều; đội ngũ y, bác sĩ chưa được tập trung bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ để theo kịp với trình độ hiện nay; còn lơi lỏng trong việc quản lý các hoạt động y tế tư nhân.
Hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, diễn ra sôi nổi, thường xuyên hơn. Cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá có trên 80% số hộ tham gia và đạt kết quả khá. Lễ hội của ngư dân Cần Giờ với những nội dung mang đậm bản săc địa phương, kết hợp vơi cuộc đua xe đạp "Về thăm Rừng Sác" được duy trì hàng năm đã có tác dụng giáo dục truyền thống cách mạng sâu sắc, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, nhất là lớp trẻ trong và ngoài Huyện tham dự. Các công cụ thông tin đại chúng (tờ tin, các trạm truyền thanh xã) đã được tăng cường củng cố góp phần phục vụ các nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền pháp luật, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Hội khỏe Phù Đổng được tổ chức thường xuyên hàng năm; phong trào TDTT phát triển khá; ở một số giải do Thành phố tổ chức như điền kinh, bóng đá, các vận động viên và các đội của Huyện tham dự đều đạt thành tích cao. Bên cạnh kết quả nêu trên, đời sống văn hoá của nhân dân trong Huyện nhìn chung còn rất thấp; hoạt động VHTT - TDTT còn nhiều hạn chế, chỉ mới tập trung ở khu vực trung tâm Huyện, chưa lan tỏa đến các xã, ấp xa; nhân dân, nhất là đối tượng thanh thiếu niên còn thiếu cơ sở, điều kiện để vui chơi, giải trí lành mạnh; các hoạt động mê tín dị đoan chưa được đấu tranh ngăn chặn triệt để...
IV. VỀ AN NINH - QUỐC PHÒNG
Lĩnh vực ANQP trên địa bàn Huyện trong 5 năm qua chịu ảnh hưởng trực tiếp của những biến động trong nước và Thành phố, phải thường xuyên cảnh giác với âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch và khuynh hướng gia tăng số vụ phạm pháp và tệ nạn xã hội. Tuy nhiên, Đảng bộ Huyện đã tập trung lãnh đạo công tác này đạt kết quả tốt.
Tình hình ANCT được giữ vững do chủ động làm tốt công tác điều tra cơ bản, rà soát, kiểm danh, kiểm diện, phân loại đối tượng; xây dựng các cơ sở mật; xác định các địa bàn, đối tượng trọng điểm để quản lý và có nhiều biện pháp thích hợp xử lý đạt hiệu quả các tình huống xảy ra. Tình hình TTXH được giữ gìn tốt, số vụ phạm pháp có giảm qua từng năm. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được duy trì thường xuyên, từng bước xây dựng, củng cố các tổ, ấp nhân dân vững mạnh theo kế hoạch 33/KH-HU của Huyện ủy; năm năm qua quần chúng đã cung cấp 2.675 nguồn tin về hoạt động của các loại tội phạm, vận động được 68 đối tượng phạm pháp lẫn trốn ra đầu thú.
Nhiệm vụ quốc phòng và công tác quân sự địa phương có nhiều tiến bộ, hàng năm đều bảo đảm thực hiện tốt các đợt diễn tập phòng thủ, nhất là phối hợp sẵn sàng chiến đấu giữa các lực lượng trong cụm 5 Huyện ven biển, không để xảy ra biến động xấu. Công trình cụm chiến đấu liên hoàn tuyến bờ biển đã được hoàn thành. Lực lượng vũ trang thường trực, dự bị động viên và dân quân tự vệ thường xuyên được củng cố, huấn luyện nâng cao chất lượng sẵn sàng chiến đấu. Công tác tuyển quân hàng năm luôn hoàn thành chỉ tiêu. Chính sách hậu phương quân đội được chăm lo tốt, đời sống lực lượng vũ trang được cải thiện nâng cao hơn trước.
Tuy nhiên tình hình ANCT vẫn chưa thật vững chắc, nhất là ở các vùng giáp ranh với Huyện; nhận thức về pháp luật trong nhân dân, lực lượng nòng cốt của các tổ chức quần chúng; an ninh cơ sở nhiều nơi còn yếu; hoạt động của một số đối tượng quản lý có biểu hiện phức tạp; số vụ trộm cắp tài sản công dân và gây rối TTXH còn cao; những năm gần đây các băng nhóm thanh niên gây rối có hung khí và tệ hiếp dâm gia tăng. Tuyến phòng thủ ven biển tuy được định hình nhưng chưa được chuẩn bị các điều kiện cần thiết để bảo đảm sẵn sàng chiến đấu tốt; việc xử lý quân nhân đào bỏ ngũ, thanh niên vi phạm luật NVQS chưa thực hiện kiên quyết đã ảnh hưởng không tốt đến công tác tuyển quân.
Các ngành bảo vệ pháp luật có nhiều cố gắng, hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần tăng cường pháp chế XHCN, ổn định an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn Huyện. Tuy nhiên việc giáo dục tuyên truyền pháp luật chưa được tổ chức thường xuyên, rộng rãi; vẫn còn một bộ phận nhân dân ý thức chấp hành pháp luật kém; việc phối hợp xử án của các cơ quan tư pháp khá tốt, ít để xảy ra sai sót nhưng việc tổ chức thi hành án chưa nghiêm, đúng tinh thần bản án và pháp luật; biên chế, cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động thiếu; trình độ nghiệp vụ của cán bộ pháp luật cũng có hạn chế so với yêu cầu nhiệm vụ mới.
Việc thực hiện bốn cuộc vận động chống tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, gây phiền hà dân đạt được một số kết quả khả quan. Đã phát hiện và xử lý một số vụ tiêu cực tại xí nghiệp Chế biến Thủy đặc sản, Trạm nước (thuộc Công ty SXKD XNK & ĐT Huyện), nhiều vụ mua bán hàng cấm như thuốc lá ngoại, pháo nổ... Kết quả thực hành tiết kiệm được thể hiện rõ nét qua hoạt động điều hành ngân sách và công tác xây dựng cơ bản, Huyện đã chú trọng tập trung ngân sách cho đầu tư phát triển, cắt, giảm các khoản chi chưa cần thiết; thực hiện nghiêm túc chủ trương đấu thầu trong xây dựng cơ bản đã làm lợi cho ngân sách Nhà nước nhiều tỷ đồng. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân được tăng cường từng bước khắc phục các thiếu sót, nhược điểm. Tuy nhiên, trên từng lĩnh vực còn một số tồn tại như BCĐ chống tham nhũng của Huyện hoạt động chưa đều, nhiều cơ quan, đơn vị chưa xây dựng kế hoạch chống tham nhũng hoặc có xây dựng nhưng tổ chức thực hiện kém; vẫn còn lãng phí, thất thoát trong quản lý, sử dụng tài sản công; việc xét giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ở một số cơ quan Nhà nước còn rất chậm (nhất là trên lĩnh vực đất đai), nhiều vụ để dây dưa kéo dài trong nhiều năm vẫn chưa giải quyết dứt điểm...
V. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN
Những năm qua tổ chức và hoạt động của chính quyền không ngừng đổi mới và đạt nhiều kết quả khả quan.
HĐND Huyện, xã được cải tiến về tổ chức, cơ cấu nhân sự nên hoạt động tốt hơn. Các kỳ họp được chuẩn bị kỹ về nội dung và luôn có đưa ra bàn bạc, thảo luận, quyết nghị những vấn đề quan trọng, bức xúc của địa phương và cụ thể hoá những chủ trương của cấp ủy. Các đại biểu HĐND đã thể hiện khá đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm của mình. Hoạt động giám sát của HĐND cũng được tăng cường và có hiệu quả hơn trước.
UBND Huyện, xã đã được sắp xếp lại theo quyết định của UBND Thành phố, có tiến bộ trong điều hành và quản lý Nhà nước bằng pháp luật, giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế, xã hội quan trọng. Đội ngũ cán bộ, công chức luôn được tạo điều kiện để học tập, nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đến nay hầu hết cán bộ chủ chốt của Huyện, xã đã tốt nghiệp trung cấp QLNN.
Các cơ quan Tòa án, Viện Kiểm sát Nhân dân từng bước được kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động.
Tuy nhiên việc quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực có lúc, có nơi còn lỏng lẻo (như về đất đai, văn hóa); có tình trạng quan liêu trong một số cán bộ viên chức Nhà nước Huyện, xã; đội ngũ cán bộ, công chức tuy có được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nhưng nhìn chung chưa ngang tầm với nhiệm vụ và yêu cầu phát triển Huyện trong thời kỳ mới; một số cơ quan ở Huyện chưa được củng cố kiện toàn, còn thiếu cán bộ lãnh đạo và cán bộ nghiệp vụ.
VI. VỀ TÌNH HÌNH QUẦN CHÚNG VÀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
Tình hình quần chúng và công tác vận động quần chúng của Đảng bộ Huyện có chuyển động tích cực.
Thành tựu nhiều mặt do công cuộc đổi mới mang lại và những tiến bộ về kinh tế, xã hội của Huyện trong những năm qua đã làm cho đại bộ phận các tầng lớp nhân dân phấn khởi, tin tưởng và sự lãnh đạo của Đảng, tập trung mọi nỗ lực để lao động sản xuất, học tập nâng cao thêm nữa đời sống của chính mình và góp phần xây dựng phát triển Huyện. Bên cạnh những mặt tích cực, vẫn còn các mặt hạn chế như một bộ phận nhân dân còn trông chờ ỷ lại Nhà nước, chưa tích cực tổ chức đời sống sản xuất; có biểu hiện đòi hỏi quyền lợi cá nhân nhiều hơn, còn nghĩa vụ, trách nhiệm công dân đối với Nhà nước, đối với cộng đồng thì lơ là, né tránh. Trước thực trạng đời sống, trình độ phát triển của Huyện chậm, môi trường tự nhiên có dấu hiệu suy giảm... đã tạo nên tâm trạng băn khoăn lo lắng trong nhân dân.
Các quan điểm về công tác vận động quần chúng của Đảng (nêu trong Nghị quyết Trung ương 8B) ngày càng được cấp ủy từ Huyện đến cơ sở quán triệt và thực hiện có kết quả.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã cố gắng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, coi trọng việc đoàn kết tổ chức nhân dân, đoàn viên, hội viên cùng chăm lo giải quyết những lợi ích thiết thực thông qua những phong trào chung và các chương trình có tính chất đặc trưng của mỗi đoàn thể. Năm năm qua, MTTQ và các đoàn thể đã tích cực tổ chức tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; vận động nhân dân thực hiện ba chương trình mục tiêu của Đại hội Đảng bộ Huyện, các chương trình công tác xã hội như xóa cầu khỉ, làm đường nông thôn, tương thân tương trợ trong đời sống, sản xuất, giúp đỡ đồng bào trong nước bị thiên tai, lũ lụt... các phong trào hành động cách mạng trong nhân dân có khởi sắc; uy tín và vị trí của các đoàn thể từng bước được củng cố, cán bộ đoàn thể có bám cơ sở nhiều hơn. Hoạt động của MTTQ và các Đoàn thể đã góp phần tích cực thực hiện thắng lợi các chương trình KT - XH ở Huyện. Công tác tổ chức cũng được coi trọng, Huyện ủy đã từng bước tăng cường cán bộ có năng lực cho Mặt trận và các Đoàn thể, thành lập Ban Dân vận Huyện ủy; bộ máy Mặt trận và đoàn thể ở các cấp cũng được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn và mạng lưới đã được xây dựng đến tận tổ nhân dân, hình thức tập hợp cũng được đa dạng hoá theo nhu cầu, sở thích nghề nghiệp đã góp phần nâng cao số lượng, chất lượng đoàn viên, hội viên.
Tuy nhiên hoạt động của UB.MTTQ và các Đoàn thể phổ biến là còn thụ động, ở cơ sở nhiều nơi còn hoạt động thất thường. Trước yêu cầu đổi mới hiện nay nhiều đoàn thể chưa xác định thật rõ chức năng, nhiệm vụ, việc giáo dục chính trị tư tưởng chưa tương xứng với việc chăm lo lợi ích. Cán bộ đoàn thể chưa được qui hoạch, đào tạo, việc bố trí cán bộ còn chắp vá, chế độ bồi dưỡng cho cán bộ đoàn thể ở ấp, tổ dân phố không có hoặc quá ít nên hoạt động kém hiệu quả, không thiết tha gắn bó với công tác.
VII. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG
Công tác xây dựng Đảng với trọng tâm là triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 03 về đổi mới và chỉnh đốn Đảng đã diễn ra sôi nổi, liên tục trong gần suốt nhiệm kỳ và đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Đảng bộ Huyện đã tập trung đổi mới công tác tư tưởng theo hướng tăng cường thông tin, quán triệt đầy đủ các Nghị quyết lớn của Đảng gắn với xây dựng chương trình hành động cụ thể. Qua đó, đã góp phần nâng cao nhận thức, lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân; nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống đa nguyên, đa đảng; thấy cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ của đất nước, Thành phố và của Huyện để hành động đúng đắn, tự giác tích cực hơn. Mặt hạn chế của tình hình tư tưởng và công tác tư tưởng là vẫn còn một số đảng viên tỏ ra phân vân, hoài nghi trước những khó khăn của nền kinh tế đất nước, những tiêu cực của cơ chế thị trường; lo cuộc sống riêng thờ ơ với thời cuộc; ngại học tập, nghiên cứu lý luận chính trị; việc tổ chức sinh hoạt tư tưởng cho cán bộ nhân viên trong cơ quan, đơn vị nhiều nơi chưa thành nền nếp.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 03, các cơ sở Đảng trực thuộc Đảng bộ Huyện đã rà soát lại thực trạng, tìm ra những mặt tồn tại yếu kém để tập trung khắc phục; nhiều cơ sở đã củng cố kiện toàn cấp ủy, điều chỉnh, bố trí lại cán bộ; xây dựng qui chế hoạt động; cải tiến nội dung sinh hoạt và đưa sinh hoạt trở lại nề nếp, đúng theo qui định... đã từng bước nâng cao được vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị. Đặc biệtcác Chi, Đảng bộ ở xã, ấp, qua thực hiện qui định 50 của Ban Bí thư và quy định tạm thời số 84 của Thành ủy đã phát huy được vai trò lãnh đạo toàn diện về chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng... tích cực đi sâu giải quyết những vấn đề thiết thực đến đời sống người dân như lãnh đạo thực hiện 3 chương trình mục tiêu XĐGN, XMC, PCDB; giải quyết việc làm, giữ gìn TTXH; đồng thời vận động nhân dân thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước, xây dựng các công trình phúc lợi... làm cho mối quan hệ giữa Đảng Chính quyền và quần chúng càng thêm gắn bó. Công tác quản lý, phân công, kiểm tra Đảng viên thực hiện tốt hơn, các đảng viên hưu trí, mất sức, nghỉ việc đều được giao công tác làm nòng cốt trong vận động quần chúng, xây dựng tổ ấp. Tồn tại chung của tổ chức Đảng cơ sở hiện nay là chất lượng nội dung sinh hoạt Đảng tuy có được cải tiến nhưng còn nghèo nàn; còn không ít cơ sở nhất là ở các cơ quan tổ chức sinh hoạt thất thường, chưa đi vào nề nếp, năng lực cấp ủy nhiều nơi còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Qua phân loại chất lượng của 32/34 tổ chức cơ sở Đảng năm 1994, có 9 cơ sở được công nhận trong sạch vững mạnh, 18 cơ sở khá, 4 cơ sở trung bình và 1 cơ sở yếu.
Các Ban Đảng cũng được sắp xếp, kiện toàn, đã có nhiều tiến bộ trong thực hiện chức năng tham mưu, xây dựng hoặc thẩm định các đề án, hướng dẫn và kiểm tra các mặt công tác của Đảng tuy còn thiếu cán bộ lãnh đạo.
Đến tháng 06/1995, Đảng bộ Huyện có 498 đảng viên (chiếm 01% so với dân số) sinh hoạt trong 34 tổ chức cơ sở Đảng. Tuổi đời bình quân của đảng viên là 38,35. Có 3,61% đảng viên là công nhân lao động, người trực tiếp sản xuất trong các thành phần kinh tế; 15% đảng viên nữ; 17,26% đảng viên hưu trí, mất sức. Qua phân tích chất lượng đảng viên 1994, số đảng viên đủ tư cách chiếm 96,73%; trong đó, số phấn đấu tốt chiếm 57,95%, số đủ tư cách nhưng có mặt hạn chế 38,78%; số đảng viên vi phạm tư cách 3,27%, trong đó, phải đưa ra khỏi Đảng 0,44% (chất lượng đảng viên qua phân loại kỳ này có tiến bộ hơn so với lần thực hiện Nghị quyết Trung ương 03).
Để chận đà giảm sút số lượng đảng viên kết nạp mới trong những năm 1991 - 1992; năm 1993, Huyện ủy đã đề ra Nghị quyết 05/NQ-HU về công tác phát triển Đảng. Từ đó đến nay đã có chuyển biến tích cực, số lượng đảng viên mới kết nạp hàng năm đều tăng. Năm 1995, công tác phát triển Đảng được tăng cường chỉ đạo thêm bởi Chỉ thị 15/CT-TU của Thành ủy, đã kết nạp được 46 đảng viên, bằng tổng số đảng viên kết nạp trong ba năm 1992 - 1994; chất lượng cũng đạt khá, đa số có trình độ văn hoá cấp 3. Tuy vậy, đến nay vẫn chưathực hiện được Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VI về "xóa cơ sở trắng", còn một số ấp và cơ quan, đơn vị chưa tổ chức được cơ sở Đảng.
Đội ngũ cán bộ ở Huyện rất nhiệt tình, chịu khó học tập nâng cao kiến thức, năng lực công tác, gắn bó với địa phương, giữ gìn đoàn kết nội bộ, đa số hoàn thành được nhiệm vụ. Công tác cán bộ thời gian qua đã có những cải tiến trong đánh giá, bố trí sử dụng cán bộ, mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ, có năng lực vào vị trí lãnh đạo, quản lý. Việc qui hoạch cán bộ được triển khai tốt, đã được Thành ủy thông qua 13 chức danh chủ chốt ở Huyện. Nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng chính sách cán bộ được quan tâm hơn đã tạo điều kiện cho cán bộ phát triển, an tâm và nỗ lực hơn trong công tác.
Mặt hạn chế là, đội ngũ cán bộ tuy có bước trưởng thành nhưng thiếu ổn định còn nhiều chức danh chưa được đào tạo lý luận, nghiệp vụ chuyên môn; ở Huyện còn thiếu cán bộ KHKT và chuyên viên quản lý giỏi, Huyện không có điều kiện định ra chế độ đãi ngộ riêng để thu hút nhân tài về công tác lâu dài; công tác quy hoạch cán bộ chỉ thực hiện bước đầu ở một số chức danh chủ chốt cấp Huyện, chưa triển khai rộng ở các phòng ban chuyên môn của Huyện và ở các xã; cán bộ nữ làm công tác lãnh đạo, quản lý còn rất ít.
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng được coi trọng hơn, các cấp ủy Đảng từ Huyện đến cơ sở đều đã xây dựng qui chế và hoạt động theo qui chế, trong đó chức năng lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước và chức năng của các đoàn thể được xác lập rõ ràng hơn; cấp ủy tôn trọng vai trò và quyền hạn của cơ quan Nhà nước và các đoàn thể, khắc phục việc ôm đồm, bao biện, làm thay.
Công tác kiểm tra đã có những chuyển biến mới. Đã chú trọng kiểm tra quy chế công tác và sinh hoạt của cấp ủy, kiểm tra công tác chính trị tư tưởng ở các cơ sở Đảng; kiểm tra đảng viên chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng. Qua kiểm tra đã giúp cấp ủy nắm được mặt mạnh, yếu của cơ sở Đảng và đảng viên để có hướng xử lý phù hợp. Trong nhiệm kỳ đã thi hành kỷ luật bằng các hình thức 70 đảng viên, trong đó khai trừ 16 chiếm 23%.
Tồn tại của công tác kiểm tra là thực hiện chức năng giáo dục, ngăn ngừa đảng viên vi phạm kỹ thuật và kiểm tra cơ sở Đảng thực hiện nghị quyết của cấp trên chưa được tiến hành thường xuyên.
NGUYÊN NHÂN - BÀI HỌC THỰC TIỄN
Qua 5 năm triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Huyện lần thứ VI và các Nghị quyết của Thành ủy, chỉ đạo của UBND Thành phố chúng ta có thể rút ra một số vấn đề vừa là nguyên nhân của thành quả, của tồn tại, vừa mang tính chất là bài học thực tiễn:
1/ Cơ sở hạ tầng có tính chất quyết định tốc độ phát triển của một địa phương, điều này càng có ý nghĩa đối với Cần Giờ một Huyện nghèo nhất của Thành phố nhưng có vị trí địa lý quan trọng và còn nhiều tiềm năng chưa khai thác. Chỉ mới qua mấy năm tập trung đầu tư xây dựng nhưng cơ sở hạ tầng đã góp phần to lớn làm cho bộ mặt Cần Giờ có những đổi thay đáng kể. Trong tương lai khi các công trình trọng điểm được xây dựng hoàn chỉnh, chắc chắn KT - XH của Huyện sẽ phát triển mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho Thành phố vươn ra biển, làm giàu cho đất nước.
2/ Là một Huyện có nền kinh tế với ngư, nông nghiệp là chủ yếu và còn lệ thuộc nhiều vào tự nhiên, lại nằm giữa các Thành phố công nghiệp và trên tuyến đường thủy ra vào Cảng Sài Gòn thì vấn đề bảo vệ môi trường là yếu tố quan trọng đặc biệt. Vả lại, các ngành sản xuất của Huyện có đặc điểm riêng, tiềm năng của chúng sẽ không mất đi trong quá trình sản xuất mà còn phát sinh phát triển thêm nếu được khai thác, sử dụng đúng phương pháp. Chính việc áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp, phát triển nghề nuôi thủy sản, đánh bắt xa bờ, đa dạng hoá các công cụ đánh bắt ven bờ là cách bảo vệ nguồn lợi tốt nhất và làm cho kinh tế Huyện khởi sắc trong những năm qua; ngược lại vì môi trường tự nhiên của Huyện bị ô nhiễm (do nhiều nguyên nhân, trong đó có hai tai nạn tàu làm tràn dầu và các cơ sở chế biến công nghiệp đổ chất thải ra sông) làm cho các ngành sản xuất của Huyện không ổn định, kết quả thất thường, một số xã còn bị thiệt hại rất lớn về kinh tế xã hội.
3/ Những chủ trương của Đảng bộ nhằm ổn định và phát triển KT - XH phù hợp với lòng dân đều được nhân dân đồng tình và hăng hái tham gia thực hiện, thu nhìu kết quả tốt đẹp. Nhông nếu chỉ dừng lại ở chủ trương chung, thiếu tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện với những biện pháp cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc và tổ chức sơ, tổng kết thì kết quả đạt được rất hạn chế. Đặc biệt việc chăm lo bồi dưỡng năng lực cán bộ và cải tiến nâng cao hiệu lực điều hành của chính quyền Huyện, xã để đủ sức tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương của cấp ủy có ý nghĩa quyết định. Năm năm qua cho thấy ở đâu, nhiệm vụ nào được UBND điều hành tốt, có cán bộ giỏi thực hiện thì ở đó hoàn thành nhiệm vụ và ngược lại.
4/ Trong những năm qua đảng bộ và các tầng lớp nhân dân Cần Giờ không ngừng phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng. Vì vậy đã huy động được các nguồn lực của từng cá nhân, đơn vị tạo thành sức mạnh tổng hợp để thực hiện có kết quả các mục tiêu nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VI đề ra.
PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ 5 NĂM (1996 - 2000)
Trong 5 năm tới, Huyện Cần Giờ có những thời cơ thuận lợi mới cho sự phát triển - Đó là nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, bên cạnh một số đô thị và khu công nghiệp đang đầu tư phát triển như: Cảng Thị Vải, Bến Đình - Sao Mai, khu công nghiệp Hiệp Phước - Nhà Bè. Cần Giờ còn có một vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng - an ninh, bảo đảm an toàn thủy lộ phía Đông Nam của thành phố, có tiềm năng kinh tế biển to lớn, cảnh quan Rừng Sác đặc sắc với 25.000 ha Rừng phòng hộ môi trường đang phát triển tốt trong một Thành phố công nghiệp và đông dân nhất nước.
Bên cạnh đó, Cần Giờ cũng đang đứng trước những thử thách khó khăn gay gắt, đó là: Sự cách biệt khá xa về trình độ phát triển kinh tế - xã hội so với các quận, huyện của Thành phố, cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật yếu kém, mặt bằng dân trí thấp, con đường công nghiệp hoá các ngành kinh tế và phát triển nông thôn còn nhiều khó khăn, nguy cơ ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng.
Xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội nói trên, căn cứ vào quy hoạch chung cải tạo và xây dựng Huyện đến năm 2010 và yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước của Đảng. Trong 5 năm tới Cần Giờ phải tập trung khai thác tiềm năng to lớn về kinh tế biển, huy động các nguồn lực để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển mạnh mẽ ngư nghiệp bao gồm khai thác biển khơi và nuôi thủy sản, phát triển công nghiệp chế biến hải sản xuất khẩu. Hình thành một số khu công nghiệp dọc tuyến sông Soài Rạp, Lòng Tàu; khuyến khích sự đầu tư phát triển Tiểu thủ công nghiệp. Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, khai thác có hiệu quả tiềm năng đất nông nghiệp, kết hợp tốt giữa trồng trọt và chăn nuôi (gia súc, gia cầm và thủy sản) . Khai thác tối đa cảnh quan đặc sắc của Rừng Sác để phát triển ngành du lịch sinh thái, tham quan nghỉ dưỡng. Tiếp tục đầu tư, phát triển và chăm sóc, bảo vệ rừng phòng hộ môi trường. Đi đôi với phát triển kinh tế phải tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, giảm hộ nghèo, nâng cao mức sống, chăm sóc tốt sức khỏe cho nhân dân; nâng cao trình độ dân trí; giữ vững an ninh quốc phòng. Tích cực xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Phấn đấu từng bước xây dựng Huyện Cần Giờ trở thành trung tâm kinh tế biển của Thành phố Hồ Chí Minh.
Mục tiêu chủ yếu phấn đấu trong 5 năm (1996 - 2000) của Huyện Cần Giờ là:
* Tăng trưởng kinh tế hàng năm 32,8%, để đến năm 2000 đạt thu nhập bình quân đầu người là 430 USD (gấp 2,5 lần năm 1995). Cơ cấu kinh tế dự kiến: Khu vực I (ngư, nông, lâm nghiệp) 20%, Khu vực II (công nghiệp, xây dựng, giao thông) 67%, Khu vực III (du lịch, thương mại, dịch vụ) 13%.
* Tốc độ tăng trưởng của khu vực I: 11,9%, khu vực II: 50,6% và khu vực III: 19,5%.
* Phấn đấu thu hút vốn đầu tư trong 5 năm là 1.632 tỷ, tương đương 148 triệu USD, trong đó huy động ngoài Ngân sách là 63% và trong Ngân sách là 37%.
* Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ vào năm 1996. Đến năm 2000, phấn đấu đạt tiêu chuẩn quốc gia về phổ cập trung học cơ sở và nâng mặt bằng dân trí của Huyện lên lớp 5; giảm hộ nghèo còn 10%, giải quyết việc làm ổn định đạt 80% tổng số lao động, giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm 0,04%.
* Đến giữa nhiệm kỳ phấn đấu Đảng bộ Huyện Cần Giờ trở thành Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Để thực hiện nhiệm vụ tổng quát và các mục tiêu chủ yếu nói trên nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước theo quan điểm chiến lược của Đại hội VIII của Đảng. Trong 5 năm tới, Đảng bộ Huyện tập trung lãnh đạo thực hiện 5 chương trình trọng điểm và những nhiệm vụ chủ yếu, như sau:
NĂM CHƯƠNG TRÌNH TRỌNG ĐIỂM:
Chương trình công nghiệp hoá và từng bước hiện đại hoá một số ngành kinh tế chủ yếu.
Mục tiêu công nghiệp hóa và từng bước hiện đại hoá một số ngành kinh tế chủ yếu của Huyện trong 5 năm tới là không ngừng đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh trên cơ sở ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, thay thế dây chuyền công nghệ mới, mở rộng cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật và xã hội để tạo ra ngày càng nhiều các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đặc thù trên địa bàn với chất lượng và giá trị kinh tế cao.
Ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp cần được tập trung đầu tư để phát triển với tốc độ nhanh, trọng tâm là công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm xuất khẩu (đặc biệt là thủy hải sản), công nghiệp cơ khí, sửa chữa tàu thuyền, Cảng và dịch vụ Cảng.
Bằng các chính sách ưu đãi và khuyến khích đầu tư, thúc đẩy nhanh quá trình hình thành cụm cảng và khu công nghiệp Bình Khánh; Cảng cá và dịch vụ Cảng ở Cần Thạnh; mở rộng, nâng cấp và thay đổi công nghệ, thiết bị chế biến thủy hải sản xuất khẩu tại cơ sở Đông lạnh hiện có.
Ngư nghiệp phát triển mạnh theo hướng sản xuất hàng hoá với qui mô lớn, bám sát chương trình kinh tế biển Trung ương và Thành phố, tập trung phát triển năng lực và phương tiện đánh bắt xa bờ và mở rộng qui mô diện tích nuôi trồng thủy sản theo nhiều phương thức, mô hình thích hợp.
Trong nông nghiệp: tiếp tục thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng ổn định diện tích cây lúa, đầu tư KHKT, đẩy nhanh thủy lợi hoá, cơ giới hoá, cải tạo giống để đạt năng suất, sản lượng cao; phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi thủy sản trên diện tích mặt nước ở vùng nông nghiệp, nâng cơ cấu giá trị sản lượng chăn nuôi chiếm 35% giá trị sản lượng nông nghiệp vào năm 2000.
Bảo vệ và chăm sóc tốt diện tích rừng phòng hộ môi trường (25.000 ha) và 2000 ha rừng lịch sử tại Lâm Viên Cần Giờ. Xem đây là tiềm năng kinh tế - xã hội to lớn để phục vụ và thúc đẩy việc tổ chức phát triển ngành du lịch sinh thái, tham quan, nghỉ dưỡng ở Huyện.
Chương trình kêu gọi đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng; phát triển đô thị mới:
Nhu cầu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong 5 năm tới là rất lớn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và từng bước đô thị hoá nông thôn, đồng thời chuẩn bị điều kiện cho bước phát triển bền vững của Huyện Cần Giờ sau năm 2000.
Trọng tâm hàng đầu là thực hiện các dự án về giao thông, nước, điện. Nổ lực hoàn thành xây dựng Cầu Dần Xây trong một vài năm đầu của kế hoạch 5 năm, mở rộng, nâng cấp trục đường Nhà Bè - Cần Giờ, mở các tuyến giao thông nối liền các khu vực quy hoạch phát triển và các tuyến giao thông nội bộ trong các khu công nghiệp, khu du lịch và khu dân cư tập trung. Phấn đấu đến năm 2000 có hệ thống cấp nước với đường ống và các bể chứa lớn tại khu vực Cần Thạnh - Long Hòa phục vụ cho cụm cảng cá Cần Thạnh, khu du lịch 30/4 và Lâm viên Cần Giờ và công trình kéo đường ống nước (vượt sông Soài Rạp) về xã Bình Khánh phục vụ cho sinh hoạt dân cư và khu công nghiệp phía Bắc, chuẩn bị cho việc hoàn chỉnh toàn tuyến ống cấp nước từ Thành phố đến Huyện sau năm 2000; phát triển mạng điện hạ thế, cải tạo lưới điện trung thế, đầu tư thêm trạm biến áp Long Hòa, nâng công suất trạm biến áp An Nghĩa để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện ngày càng cao. Tập trung đầu tư thực hiện chương trình kinh tế biển, ưu tiên xây dựng Cảng cá và các cơ sở công nghiệp hậu cần nghề cá ở Cần Thạnh, Cảng gạo và khu công nghiệp Bình Khánh, khu du lịch 30/4 - Thúc đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình hạ tầng xã hội, như: trường học, trạm xá, các cơ sở văn hoá, giải trí, dạy nghề, nhà làm việc, nhà ở dân cư... tạo điều kiện cần thiết và khẳng định lợi thế của Huyện Cần Giờ để thu hút công nghiệp và phát triển đô thị mới, mở ra địa bàn dãn dân để giảm áp lực dân cư ở nội thành cũng nhằm tăng cường tiềm lực quốc phòng và khả năng phòng thủ, bảo vệ an ninh vùng biển phía Đông Nam Thành phố. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội và tiến hành đô thị hoá hết sức chú trọng đến việc giữ gìn văn hoá, xã hội lành mạnh và trong sạch, bảo vệ tốt môi trường thiên nhiên, giữ vững cân bằng sinh thái, áp dụng kỹ thuật xử lý chất thải, nhất là chất thải công nghiệp, chống ô nhiễm nguồn nước trong sông, rạch và vùng biển.
Để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, trên cơ sở quy hoạch, Huyện khẩn trương xác định danh mục các dự án, các khu vực ưu tiên cần khuyến khích đầu tư, đồng thời, xây dựng các chính sách hấp dẫn để mời gọi các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tập trung mọi nguồn vốn đầu tư, khai thác. Trước hết chú trọng đến nguồn vốn trong nước của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và trong nhân dân. Tranh thủ huy động và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả vốn đầu tư từ Ngân sách, nguồn hổ trợ phát triển chính thức (ODA) do Trung ương và Thành phố tranh thủ được cho Huyện, nguồn tín dụng trung và dài hạn, nguồn vốn liên doanh liên kết, hợp tác đầu tư.
Chương trình khai thác, sử dụng có hiệu quả đất hoang, bãi bồi ven sông, ven biển và mặt nước trên địa bàn Huyện
Từ nay đến năm 2000, cần huy động mọi nguồn lực của các cá nhân, đơn vị, tổ chức thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài Huyện (kể cả nước ngoài) để khai thác, sử dụng có hiệu quả quỹ đất hoang, bãi bồi ven sông, ven biển và mặt nước của Huyện nhằm mở rộng diện tích sản xuất ngư, nông, lâm nghiệp, tăng sản lượng hàng hoá, giải quyết việc làm, từng bước ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
Việc mở rộng diện tích canh tác, phát triển các ngành sản xuất phải gắn liền với việc bố trí ổn định dân cư, hình thành một số khu vực nông thôn mới có kinh tế tăng trưởng và cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội tương đối tốt, đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân mới định cư, đi đôi chú trọng việc bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm môi trường và nguồn nước.
Để thực hiện mục tiêu nhiệm vụ trên, Huyện sẽ tiến hành tổng kết công tác khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên trên địa bàn Huyện trong 5 năm qua, làm căn cứ để xây dựng và tổ chức thực hiện đề án tổng quan và các dự án cụ thể khai thác và sử dụng có hiệu quả đất hoang, bãi bồi và phân bố lại dân cư đến năm 2000 và những năm sau.
Nguồn vốn thực hiện chương trình chủ yếu do dân tự đầu tư kết hợp với việc huy động tối đa mọi nguồn vốn của các ngành, các chương trình kinh tế - xã hội trên địa bàn để phân bố, sử dụng hợp lý, có hiệu quả, như: vốn đầu tư chuyên ngành giao thông, thủy lợi, khuyến nông, y tế, giáo dục, vốn của chương trình di dân, chương trình 773, quỹ quốc gia giải quyết việc làm...
Chương trình giảm hộ nghèo, nâng cao mức sống nhân dân:
Năm năm tới, chương trình giảm hộ nghèo, nâng cao mức sống nhân dân được xem là một trong những chương trình quan trọng của Huyện, phải được triển khai thực hiện ở qui mô và cấp độ cao hơn, với mục tiêu phải đạt được là từng bước thu hẹp hộ nghèo, tăng số hộ trung bình và khá giả, không để phát sinh hộ đói và tái đói. Đến năm 2000 giảm số hộ nghèo xuống còn 10%, nâng thu nhập bình quân đầu người gấp 2,5 lần năm 1995.
Để đạt được yêu cầu trên cần tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động toàn xã hội tham gia thực hiện chương trình. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các giới, các tổ chức kinh tế và xã hội trong việc tạo ra nguồn lực tài trợ cho chương trình, đồng thời tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực huy động được. Trong đó, đặc biệt chú trọng các nguồn mang tính nồng cốt để thực hiện các mục tiêu của chương trình, như: nguồn vốn của chương trình 773, chương trình giải quyết việc làm của quốc gia, vốn tín dụng của Ngân hàng phục vụ người nghèo, nguồn viện trợ nhân đạo, từ thiện... vận động nhân dân tích cực tham gia các phong trào hỗ trợ nhau vượt nghèo, vượt khó, giúp nhau làm kinh tế gia đình, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, như: cho mượn vốn, giống, hướng dẫn kỹ thuật sản xuất,... Thường xuyên tác động, giáo dục để nâng cao nhận thức của các hộ nghèo, người nghèo tránh tư tưởng dựa dẫm, ỷ lại; phải biết sử dụng sự giúp đỡ của bên ngoài kết hợp với sự cần cù lao động, chí thú làm ăn của bản thân và gia đình một cách có hiệu quả nhất để thoát khỏi nghèo khó, vươn lên khá giả. Huyện thực hiện rộng rãi và đa dạng các chánh sách khuyến khích, giúp đỡ cho người nghèo, như cấp đất sản xuất, miễn giảm thuế, giao đất giao rừng, miễn học phí dạy nghề, trợ cấp nhà ở, nước sinh hoạt, xây dựng các công trình phục vụ sản xuất, phúc lợi công cộng, phối hợp với các chương trình xã hội khác để chăm sóc sức khỏe cho người nghèo.
Chương trình giảm hộ nghèo, nâng cao mức sống nhân dân là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài của toàn Đảng, toàn dân; trong đó vai trò của Đảng, chính quyền và đoàn thể là rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Do đó, các cấp ủyĐảng, chính quyền, đoàn thể từ Huyện đến xã phải thể hiện đầy đủ trách nhiệm của mình, ra sức lãnh đạo và tổ chức thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ trên.
Chương trình nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực:
Trong 5 năm tới, Đảng bộ Huyện tiếp tục quán triệt quan điểm của Đảng xem giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo lực lượng lao động có kiến thức, văn hoá, chuyên môn kỹ thuật để đáp ứng cho nhu cầu xây dựng phát triển Huyện.
Đến cuối năm 1996 phải đạt tiêu chuẩn quốc gia về PCGDTH và XMC và đến năm 2000 phấn đấu đạt tiêu chuẩn quốc gia về phổ cập trung học cơ sở và nâng mặt bằng dân trí của Huyện lên lớp 5.
Để thực hiện đạt các nhiệm vụ mục tiêu trên, phải bảo đảm vào năm 2000 huy động 80% các cháu 5 tuổi trong toàn Huyện vào học mẫu giáo; 100% trẻ 6 tuổi vào học lớp 1; 98% trở lên học sinh tốt nghiệp tiểu học vào học trung học cơ sở và tốt nghiệp trung học cơ sở vào học phổ thông trung học; hạ tỷ lệ bỏ học giữa chừng xuống dưới 1% và tỷ lệ lưu ban xuống dưới 5%; nâng tỷ lệ học sinh khá, giỏi từ 10% lên 40% trong toàn ngành học phổ thông.
Sắp xếp lại hệ thống trường lớp, xây dựng hoàn chỉnh các trường mẫu giáo ở 7 xã trong Huyện, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị đồng bộ phục vụ tốt cho nhiệm vụ dạy và học ở tất cả các ngành học; hoàn thành tách cấp I ra khỏi cấp II. Xây dựng và đưa vào hoạt động trường trung học nội trú của Huyện tại xã Cần Thạnh có vị trí, chức năng, nhiệm vụ như một trường chuyên đào tạo toàn diện, có chất lượng cao; thành lập trường dạy nghề tại Bình Khánh nhằm đào tạo lao động có kỹ thuật, tay nghề đáp ứng nhu cầu phát triển các ngành kinh tế kỹ thuật và dịch vụ theo quy hoạch phát triển của Huyện.
Tiếp tục thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ giáo viên, nâng cao trình độ giảng dạy. Tăng cường các biện pháp nhằm khuyến khích các em học sinh của Huyện theo học ngành Sư phạm, bảo đảm có đủ giáo viên đáp ứng nhu cầu phát triển sự nghiệp giáo dục, trong đó chú trọng giáo viên mẫu giáo, cấp 2, cấp 3 ở các bộ môn ngoại ngữ, tin học, kỹ thuật tổng hợp, văn thể mỹ.
Tiếp tục thực hiện đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ quản lý giáo dục; tăng cường công tác thanh tra, thường xuyên rút kinh nghiệm và kịp thời nêu gương các điển hình tiên tiến trong ngành giáo dục đào tạo. Thực hiện chế độ ken thưởng thỏa đáng các giáo viên giỏi trong từng năm học.
Không ngừng thực hiện các biện pháp hỗ trợ nhằm nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho giáo viên; giúp đỡ con em các gia đình nghèo có điều kiện học tập. Từng bước đẩy mạnh chủ trương xã hội hoá sự nghiệp giáo dục để thu hút sự đóng góp của các thành phần kinh tế, các lực lượng xã hội ở Huyện cũng như trong và ngoài nước nhằm bổ sung nguồn đầu tư hoàn thiện, nâng cao hiệu suất giáo dục và đào tạo.
Dưới đây là những nhiệm vụ chủ yếu trên từng lĩnh vực:
I. TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ:
Ngư nghiệp, tập trung thực hiện chương trình kinh tế biển, định hướng cơ cấu đầu tư cho thích hợp để khuyến khích phát triển có hiệu quả nghề đánh bắt xa bờ và nuôi thủy sản, đồng thời với việc phát triển năng lực hậu cần nghề cá nhằm đảm bảo khối lượng vật tư, nhiên liệu, thiết bị kỹ thuật cung ứng cho sản xuất, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Phấn đấu tăng giá trị sản lượng ngư nghiệp bình quân trong 5 năm tới là 13%/năm. Khuyến khích ngư dân phát triển đoàn tàu đánh bắt xa bờ, có công suất máy ngày càng lớn hơn; được trang bị hệ thống thông tin liên lạc, thiết bị kỹ thuật đánh cá đầy đủ và hiện đại với đội ngũ lao động lành nghề trên biển. Mở ra những nghề khai thác mới, những ngư trường xa hơn. Đẩy mạnh thực hiện chương trình khai thác sử dụng đất hoang, bãi bồi ven sông, ven biển và mặt nước để khuyến khích nuôi các loài cá, giáp xác và nhuyễn thể thích hợp ở từng vùng trên diện tích 6.000 ha (đưa tổng diện tích nuôi trồng thủy sản lên 10.600 ha), chú trọng tăng cường kỹ thuật nuôi, chăm sóc con giống, phòng chống dịch bệnh để nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm sau thu hoạch.
Bằng các biện pháp tuyên truyền, giáo dục thực hiện chánh sách tài trợ về vốn và ưu đãi về thuế,... vận động các hộ hành nghề ở ven biển chuyển sang làm những ngành nghề thích hợp khác. Đến năm 2000, về cơ bản không còn duy trì phương thức đánh bắt lạm sát nguồn lợi thủy sản trên ngư trường Cần Giờ. Bên cạnh đó, tăng cường các biện pháp bảo vệ nguồn tài nguyên biển; xử lý nghiêm các trường hợp khai thác thủy sản bằng phương pháp lạm sát và hủy diệt.
Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp: Cần tập trung đầu tư phát triển để thực hiện vai trò phục vụ và thúc đẩy kinh tế - xã hội ở Huyện phát triển theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 18,5%/năm. Do đó, ngay từ năm 1996 khẩn trương xây dựng dự án để triển khai nhanh các giai đoạn hình thành khu công nghiệp và đô thị ven biển của Thành phố.
Để năm 2000, nâng cao năng lực và qui mô của cụm Cảng cá Cần Thạnh tương ứng qui mô phát triển chương trình kinh tế biển của Huyện để đảm đương nhiệm vụ cung ứng dịch vụ hậu cần cho nghề đánh bắt ngoài khơi và tiêu thụ sản phẩm khai thác, nuôi thủy sản của Huyện. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến thủy sản phải thay đổi công nghệ, thiết bị kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao công suất chế biến, tăng giá trị sản phẩm xuất khẩu.
Cụm Cảng và công nghiệp Bắc Cần Giờ khẩn trương xây dựng cơ sở hạ tầng để sẵn sàng tiếp nhận các cơ sở công nghiệp ở nội thành dịch chuyển ra. Dự kiến bố trí ở 2 khu vực: Khu vực dọc sông Lòng Tàu và khu vực dọc sông Soài Rạp.
Ngoài ra, Huyện khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư sản xuất, chế biến muối, nước mắm, hải sản khô, thức ăn gia súc, bột dinh dưỡng, chế biến cói,... để tận dụng hết nguồn nguyên liệu khai thác được và giải quyết việc làm cho người lao động tại địa phương.
Nông, lâm nghiệp:
Trong năm năm tới tiếp tục đầu tư phát triển nông nghiệp, khai thác có hiệu quả diện tích đất nông nghiệp hiện có, ổn định diện tích đất trồng lúa là 4.000 ha và tăng cường thực hiện các biện pháp kỹ thuật canh tác, để nâng cao hiệu quả sản xuấtt tiếp tục gia cố hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi đầu mối và thủy lợi nội đồng ở các vùng Bắc Cần Giờ; nhân nhanh các giống mới có năng suất cao, phẩm chất tốt thích ứng với điều kiện tự nhiên của Huyện; thực hiện đúng qui trình sản xuất chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh, bảo vệ lúa,... Ổn định và cải tạo, thâm canh 300 ha cây ăn trái đặc sản ở Cần Thạnh, Long Hòa; 200 ha cói ở Tam Thôn Hiệp. Số diện tích đất xấu, nằm trong vùng trủng thấp, thường xuyên biị ngập mặn chuyển sang trồng dừa lá, trồng rừng kết hợp nuôi tôm, cá. Thúc đẩy nâng dần tỷ trọng chăn nuôi, nâng số đầu gia súc, gia cầm gấp 3 lần so năm 1995 với các giống có năng suất cao, chất lượng tốt. Phấn đấu tăng giá trị sản lượng nông nghiệp bình quân 8,7%/năm, trong đó nâng tỷ trọng ngành chăn nuôi chiếm 35% vào năm 2000. Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện phát triển các ngành nghề sản xuất, dịch vụ ở nông thôn để thu hút lao động tại chỗ và tăng thu nhập cho nông dân.
Tập trung bảo vệ và chăm sóc tốt 25.000 ha rừng phòng hộ môi trường trên địa bàn Huyện; bảo vệ và phát triển 2000 ha rừng lịch sử tại Lâm viên Cần Giờ. Phấn đấu trong 2 năm 1996 - 1997 ổn định xong cơ bản việc giao đất giao rừng cho hộ dân chăm sóc, bảo vệ với mức thu nhập thỏa đáng.
Du lịch và thương mại dịch vụ:
Năm năm tới ngành du lịch và thương mại dịch vụ phấn đấu đạt tổng doanh thu tiêu thụ với mức tăng trưởng bình quân 19,6%/năm; Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng bình quân 11,7%/năm.
Ngành du lịch tập trung khai thác tối đa cảnh quan đặc sắc của Rừng Rác, trước mắt tập trung xây dựng và hình thành khu du lịch 30/4, khu Di tích lịch sử Cần Giờ, với các vườn cây, chim thú đặc trưng quí hiếm tạo tiền đề phát triển du lịch biển ở Cần Giờ với nhiều loại hình hoạt động hấp dẫn, như: tham quan kết hợp nghiên cứu, giao dịch thương mại, tìm hiểu môi trường đầu tư, thể thao, nghỉ ngơi, giải trí...
Trước năm 2000 hình thành Trung tâm Thương mại ở Cần Thạnh, các chợ đầu mối ở Bình khánh, Cần Thạnh, Long Hòa nhằm phục vụ cho quá trình thành lập và hoạt động của các khu công nghiệp, du lịch, cảng và các khu dân cư tập trung trên địa bàn Huyện. Ngành thương nghiệp cần hướng vào cung ứng hàng hoá và dịch vụ cho các nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất, nâng cao mức sống của cư dân địa phương phù hợp với qui mô và nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội của Huyện.
Hoạt động khoa học - kỹ thuật, bảo vệ môi trường
Trong 5 năm tới cần chú trọng việc ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật và nghiên cứu, thử nghiệm các đề tài phục vụ thiết thực cho những ngành sản xuất ở Huyện theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, như: bảo vệ và khai thác, bảo tồn và phát triển có hiệu quả nguồn lợi thủy sản và tài nguyên rừng; phòng chống và xử lý ô nhiễm môi trường; phân tích xác định đặc điểm từng vùng, từng loại đất nông nghiệp để bố trí cây trồng, vật nuôi cho thích hợp... những năm đầu của kế hoạch 5 năm (1996 - 2000) phải hoàn thành các qui hoạch chi tiết vùng, ngành kinh tế - kỹ thuật, đặc biệt là quy hoạch sử dụng đất đai trên địa bàn làm cơ sở cho việc quản lý, xây dựng và phát triển Huyện một cách khoa học.
Môi trường là một trong những yếu tố quyết định đối với sự phát triển sản xuất. Trong thời gian tới phải tăng cường các biện pháp quản lý địa bàn, phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng của Thành phố và các địa phương bạn để thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ môi trường.
II. TRÊN LĨNH VỰC VĂN HOÁ - XÃ HỘI:
Phải kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Đảng bộ coi việc thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực để thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại, phát triển kinh tế nhằm mục tiêu giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Bên cạnh các chương trình trọng tâm: giảm hộ nghèo, nâng cao mức sống nhân dân, nâng cao dân trí - đào tạo nguồn nhân lực, Đảng bộ Huyện sẽ tập trung lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ văn hoá - xã hội chủ yếu, như sau:
Trên cơ sở thực hiện các giải pháp về phát triển kinh tế, mỗi năm giải quyết việc làm cho 2.600 lao động; tạo điều kiện cho nhân dân cải thiện đời sống và nâng dần thu nhập, có chính sách khuyến khích các hộ hiện đang sống rãi rác ở những vùng xa, vùng sâu không có khả năng phát triển cộng đồng dời đến những khu dân cư tập trung mới được hình thành, đã và đang đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội tương đối khá.
Quan tâm hơn nữa đến việc chăm sóc các gia đình chính sách, nhất là đối với các Bà Mẹ Việt Nam anh hùng còn sống bằng cách tiếp tục phát huy thành quả từ các phong trào "Đền ơn đáp nghĩa" đã thực hiện tốt trong nhiều năm qua; tiếp tục thực hiện việc qui tập hài cốt liệt sĩ. Trong thời gian tới cần tập trung xây dựng, sửa chữa nhà ở cho các hộ chính sách, xã hội nghèo (1.000 căn) và triển khai xây dựng chương trình xóa nhà ổ chuột ở nông thôn, phấn đấu đến năm 2000 đạt mục tiêu 50% nhà ở nông thôn và 80% nhà ở tại các khu đô thị được tole hoá, ngói hoá.
Về Y tế: Tăng cường hơn nữa công tác giáo dục truyền thông nhằm nâng cao kiến thức về phòng bệnh và chữa bệnh trong nhân dân, xã hội hoá công tác Y tế. Củng cố mạng lưới y tế Huyện, phấn đấu đến năm 2000 có đủ Bác sĩ cho các Trạm y tế xã; các nhà hộ sinh xã, các cấp đều có nữ hộ sinh trung cấp, sơ cấp. Tiếp tục nâng cấp Bệnh viện Miễn phí Cần Giờ, nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ y bác sĩ để đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng tốt hơn. Đẩy mạnh chương trình phòng chống dịch bệnh, nhất là bệnh sốt rét, phấn đấu hạ tỷ lệ người mắc bệnh sốt rét hàng năm xuống dưới 3%. Thực hiện đạt kết quả cao các chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu như tiêm chủng mở rộng (đến năm 2000 đạt 95%) tiêm ngừa VAT (phòng ngừa uốn ván sơ sinh) cho sản phụ (đạt 90%), vận động thực hiện kế hoạch hoá gia đình (chỉ tiêu CPR - tức là tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chấp nhận các biện pháp tránh thai - đạt 70%), chăm sóc và hạn chế tối đa trẻ em suy dinh dưỡng.
Hoạt động văn hoá thông tin - TDTT: Trong thời gian tới cần hướng vào mục tiêu đẩy mạnh phong trào xây dựng nếp sống văn minh - gia đình văn hoá, vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, trong đó chú trọng, giữ gìn và phát huy những truyền thống đạo đức văn hoá tốt đẹp của dân tộc, của địa phương; tăng cường hướng dẫn thị hiếu, thẩm mỹ, khuyến khích phát triển các loại hình văn hoá và dịch vụ văn hoá lành mạnh trong nhân dân, đặc biệt là trong thanh thiếu niên, đồng thời đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và sản phẩm văn hoá độc hại, đẩy lùi các hoạt động tiêu cực trong đời sống xã hội ngay từ đầu của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hóa nông thôn; đáp ứng nhu cầu thông tin và nâng cao kiến thức, nhất là về kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất và tìm hiểu pháp luật trong nhân dân. Vận động mọi người tích cực luyện tập TDTT, nâng cao thể chất; thường xuyên tổ chức các hoạt động thi đấu thể dục thể thao qua đó phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo thành những thành phần có năng khiếu triển vọng thành vận động viên giỏi ở một số bộ môn đang phát triển (như: điền kinh, bơi lội, việt dã, xe đạp, quần vợt, bóng bàn, bóng đá,...). Xây dựng trung tâm sinh hoạt văn hoá Huyện và các xã để đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí, giao lưu học tập của thanh thiếu niên trong Huyện.
Về dân số và lao động:
Phấn đấu mỗi năm giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 0,04% và đến năm 2000 có số dân phát triển tự nhiên khoảng 60.000 người.
Đồng thời, do nhu cầu lao động tăng lên tại các khu công nghiệp và du lịch đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Huyện nhằm thực hiện chương trình dãn dân của Thành phố, dự báo sẽ có sự gia tăng dân số cơ học, chủ yếu là người lao động và gia đình đến làm việc tại các cơ sở kinh tế công nghiệp, các vùng kinh tế nông nghiệp và các hoạt động dịch vụ phục vụ du lịch và thương mại tập trung ở 3 xã Cần Thạnh, Long Hòa và Bình Khánh.
Để giải quyết vấn đề dân số và lao động nói trên. Trong 5 năm tới, bên cạnh việc tăng cường công tác KHHGĐ để giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên. Huyện có chính sách thúc đẩy việc tăng dân số cơ học theo hướng tiếp nhận dân cư thuộc chương trình dãn dân của thành phố, hợp thức hoá quyền cư trú ổn định của cư dân ở các địa phương đã làm ăn, sinh sống lâu dài trên địa bàn Huyện, tiếp nhận lao động và gia đình của họ có nguyện vọng định cư và có dự án đầu tư vốn mở rộng ngành nghề, phát triển sản xuất theo quy hoạch của Huyện, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho lao động trí thức, khoa học, công nhân lành nghề đến làm việc tại các cơ quan, các cơ sở sản xuất - kinh doanh trên địa bàn.
Ngay từ năm 1996, phải xúc tiến hoàn thành phương án đào tạo dạy nghề cho lao động tại chổ để đáp ứng cho các nhu cầu được dự báo đến năm 2000. Tăng cường biện pháp quản lý dân số và lao động theo phương pháp khoa học, kiểm soát chặt chẽ mọi di biến động, không ngừng nâng cao kiến thức chuyên sâu, trình độ tay nghề của người lao động.
III. VỀ AN NINH QUỐC PHÒNG:
Từ đặc điểm và vị trí của Cần Giờ trong 5 năm tới, Đảng bộ Huyện xác định nhiệm vụ an ninh quốc phòng cần tập trung thực hiện các nội dung sau:
Giữ vững an ninh chính trị, thường xuyên tuyên truyền giáo dục làm cho cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu rõ và quyết tâm chống lại âm mưu "Diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch đối với nước ta; phối hợp với các ngành chuyên môn cấp trên làm tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh kinh tế trong các tổ chức liên doanh có đối tác bên ngoài; ngăn chặn và xử lý kịp thời các tài liệu phản động, các sản phẩm văn hoá độc hại từ các nơi đưa vào Huyện. Trấn áp có hiệu quả các loại tội phạm hình sự, các băng nhóm gây rối có hung khí, các tệ nạn xã hội nghiêm trọng để bảo đảm duy trì môi trường xã hội lành mạnh trong quá trình đô thị hoá. Không ngừng đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc; tiếp tục xây dựng mạng lưới, bố trí lại thế trận an ninh nhân dân ở cơ sở cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội, phân bố lại dân cư trên địa bàn Huyện; phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng vũ trang của Huyện với các Huyện giáp ranh trong nhiệm vụ phòng thủ uờ biển, tăng cường tiềm lực quốc phòng và bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh kế hoạch phòng thủ và các phương án hợp đồng tác chiến giữa các lực lượng vũ trang, trên cơ sở đó tổ chức huấn luyện và diễn tập sát thực tế để chủ động đối phó khi có tình huống xảy ra. Tập trung bảo vệ các vùng xung yếu về quốc phòng và an ninh; hoàn thành chỉ tiêu giao quân hàng năm và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm Luật NVQS.
Quan tâm chăm lo, bảo vệ đời sống vật chất, tinh thần; bổ sung, trang bị phương tiện kỹ thuật phục vụ cho thông tin liên lạc, chỉ huy tác chiến cơ động và hiệu quả của các lực lượng vũ trang. Thường xuyên thực hiện tốt công tác hậu phương quân đội.
Chú trọng xây dựng các lực lượng vũ trang của Huyện thật sự vững mạnh, có kỹ thuật, có sức chiến đấu cao, là lực lượng tin cậy của Đảng, Nhà nước và luôn gắn bó với nhân dân.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ Huyện đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật, tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật, thực hiện nghiêm pháp chế XHCN nhằm nâng cao ý thức chấp hành luật pháp trong nội bộ Đảng, chính quyền, các cơ quan bảo vệ pháp luật và trong nhân dân; đấu tranh phòng ngừa các loại tội phạm, nổ lực duy trì ổn định ANCT và TTXH; bảo đảm nâng cao đồng bộ về chất lượng, hiệu quả, phương tiện công tác và đời sống của đội ngũ cán bộ nhân viên các cơ quan pháp luật.
Đẩy mạnh phong trào quần chúng tham gia thực hiện bốn cuộc vận động chống tham nhũng, chống buôn lậu, thực hành tiết kiệm và chống gây phiền hà nhân dân bằng các hình thức thích hợp.
IV. CÔNG TÁC KIỆN TOÀN BỘ MÁY NHÀ NƯỚC, TIẾP TỤC XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH QUYỀN VỮNG MẠNH:
Để tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước trong giai đoạn mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững sự nghiệp xây dựng kinh tế, ổn định xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng. Trong 5 năm tới, công tác kiện toàn bộ máy Nhà nước mà trọng tâm là tiếp tục xây dựng hệ thống chính quyền vững mạnh cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
Đảng bộ tăng cường lãnh đạo để tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND Huyện, xã. Nâng cao chất lượng các kỳ họp của HĐND nhằm kịp thời thể chế hoá các chủ trương, nghị quyết của Cấp ủy thành nghị quyết của HĐND, làm cơ sở cho các cấp chính quyền cụ thể hoá thành các quy định, kế hoạch,... để điều hành, triển khai thực hiện trên toàn địa bàn. Các đại biểu HĐND phải tích cực phát huy vai trò giám sát hoạt động của hệ thống chính quyền và đại biểu cho ý nguyện của nhân dân nhằm khắc phục và ngăn ngừa những yếu kém trong quá trình xây dựng và phát triển Huyện.
Tiếp tục củng cố và kiện toàn UBND Huyện, Xã theo hướng tinh gọn và hiệu quả. Các cấp chính quyền phải hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực chủ yếu về phát triển kinh tế, chăm lo các vấn đề xã hội, giữ vững trật tự trị an, bảo vệ luật pháp, bảo vệ môi trường, đồng thời, thường xuyên củng cố mối quan hệ với dân, lắng nghe và tiếp nhận các ý kiến đóng góp xây dựng chính quyền của nhân dân. Tăng cường quan hệ và hợp tác chặt chẽ với UB.MTTQ và các đoàn thể, các tổ chức xã hội ở địa phương. Các đồng chí lãnh đạo Thường trực HĐND và UBND phải quan tâm thực hiện chế độ tiếp dân theo định kỳ, kiện toàn bộ máy tổ chức và xây dựng quy chế tiếp dân ở Huyện, xã, có biện pháp giải quyết thỏa đáng, kịp thời các khiếu nại, tố cáo của công dân.
Tiếp tục thực hiện chủ trương cải cách một bước nền hành chánh Nhà nước theo chương trình hành động của Thành ủy thực hiện Nghị quyết BCH Trung ương 8. Tập trung cải cách thủ tục hành chánh đi đôi với kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực cán bộ. Các thủ tục hành chánh liên quan đến dân đều phải công khai (thủ tục xin phép cấp đất, giấy chứng nhận, đăng ký hành nghề, hoạt động, xây dựng sửa chữa, mua bán tài sản, tín dụng, hộ tịch, hộ khẩu, đơn từ khiếu tố...).
Không ngừng nâng cao trình độ, năng lực và phẩm chất, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở địa phương. Hướng đào tạo theo tiêu chuẩn quy chế công chức Nhà nước. Phấn đấu đến hết năm 1997 thực hiện đúng tiêu chuẩn các chức danh từ Trưởng, Phó phòng ban cấp Huyện, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND xã trở lên.
Tích cực đấu tranh chống các biểu hiện quan liêu, tiêu cực, xa rời dân trong một bộ cán bộ viên chức Nhà nước Huyện, xã. Các hoạt động của các cơ quan Nhà nước, của công chức, viên chức - trước hết phải tôn trọng luật pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho dân, phục vụ vì lợi ích và chịu sự kiểm tra, giám sát của dân. Mọi hành vi vô trách nhiệm gây ảnh hưởng xấu và làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của nhân dân đều bị phê phán và xử lý theo pháp luật.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan chuyên môn như: Thanh tra, Viện kiểm sát,... kết hợp với việc kiểm tra, giám sát của nhân dân và các Đại biểu HĐND. Kịp thời chấn chỉnh các biểu hiện sai trái, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị, công chức, viên chức và các đối tượng quản lý khác.
V. CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG:
Từ những bài học kinh nghiệm thực tiễn và quán triệt các quan điểm của NQ Trung ương 8B về "đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân", nhiệm vụ mục tiêu chủ yếu của công tác quần chúng từ nay đến năm 2000 là "mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc, lấy liên minh công - nông - trí làm nền tảng, phát huy mọi nguồn lực con người, vốn, tiềm năng nhằm thực hiện thắng lợi NQ Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII, NQ Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VI và Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VII. Đẩy mạnh thực thi nền dân chủ XHCN, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong hệ thống chính trị. Tập trung củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, phát huy sức mạnh của nhân dân trong các phong trào hành động cách mạng".
Để thực hiện nhiệm vụ mục tiêu trên, cần thực hiện tốt các công việc sau đây:
Các cấp ủy Đảng cần tăng cường phổ biến quán triệt trong cán bộ, đảng viên và nhân dân những quan điểm đổi mới của Đảng về công tác quần chúng. Đề cao vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị, xác định lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt và công tác dân vận có tầm quan trọng đặc biệt trong tình hình mới; chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân, đấu tranh có kết quả chống quan liêu, tham nhũng, ức hiếp dân... Củng cố lòng tin của dân với Đảng. Tổ chức tạo điều kiện thật tốt để nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức Đảng, chính quyền và cán bộ đảng viên, đồng thời tham gia xây dựng hệ thống chính trị. Các cấp chính quyền phải quan tâm hỗ trợ điều kiện vật chất, đồng thời phải bảo đảm kỷ cương pháp luật được thi hành nghiêm minh, công bằng trên địa bàn nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động của các Đoàn thể.
Mặt trận và các đoàn thể không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, hướng hoạt động vào mục tiêu chăm lo, đáp ứng lợi ích, nhu cầu thiết thân của người dân; đồng thời khai thác tiềm lực của dân trong các phong trào hành động; đa dạng hoá các loại hình tập hợp, chú ý về nhu cầu, lứa tuổi, sở thích và các hoạt động nghề nghiệp của quần chúng; chú trọng phát triển lực lượng nòng cốt trong các tổ chức hội, đoàn.
Mặt trận và các đoàn thể cần hướng hoạt động tập trung ở cơ sở, củng cố kiện toàn nâng chất lượng tổ chức đoàn thể cơ sở, đi sâu tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng từng giới, từng gia đình để chăm lo kịp thời hơn; tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức chấp hành pháp luật, hăng hái thực hiện nghĩa vụ công dân, lòng tự hào, ý chí tự cường của dân tộc trong mỗi đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân trong Huyện.
Tập trung đầu tư xây dựng, chọn lựa bố trí cán bộ có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu công tác của Mặt trận, đoàn thể. Các tổ chức cơ sở Đảng, tăng cường sự lãnh đạo đối với các đoàn thể, nhất là Đoàn thanh niên, có kế hoạch phân công đảng viên trực tiếp làm công tác Dân vận ở đơn vị, địa bàn quản lý.
Mặt trận Tổ quốc: tiếp tục củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp những người tiêu biểu, có uy tín và năng lực trong các tầng lớp nhân dân, tôn giáo; phối hợp với các đoàn thể, chính quyền đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư; xây dựng, nêu gương người tốt việc tốt trên các lĩnh vực sản xuất, chăm lo đời sống, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, môi trường tự nhiên và xã hội. Có nội dung, hình thức tập hợp, vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo, các gia đình có thân nhân ở nước ngoài thích hợp; phối hợp với cơ quan chính quyền đề xuất, bổ sung, hoàn thiện và thực thi tốt các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các giới này.
Liên đoàn Lao động: tập trung xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới. Tuyên truyền cho công nhân lao động nắm vững luật lao động, luật công đoàn, các chính sách chế độ lao động, nâng cao giác ngộ giai cấp, ý thức quyền lợi, nghĩa vụ xây dựng Huyện; chăm lo nâng cao trình độ văn hoá, tay nghề bảo đảm quyền lợi và cuộc sống cho công nhân lao động; chú trọng củng cố tổ chức công đoàn cơ sở, tiếp tục xây dựng mở rộng các loại hình công đoàn ngoài quốc doanh theo tính chất nghề nghiệp, địa bàn dân cư; phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong việc giảm sát và tham gia quản lý hoạt động của chính quyền.
Hội Liên hiệp Phụ nữ: Thường xuyên giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng của phụ nữ Việt Nam, nâng cao nhận thức, trình độ cho nữ giới; tích cực vận động phụ nữ tham gia các phong trào giúp nhau làm kinh tế gia đình, xây dựng gia đình văn minh, hạnh phúc, nuôi con khỏe dạy con ngoan và phòng chống các tệ nạn xã hội, chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ, trẻ em; củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức hội đặc biệt là ở các xã, ấp xa để góp phần thực hiện có hiệu quả "Chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam tới năm 2000".
Hội Nông dân: Tăng cường giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức giai cấp; Vận động nông dân phát huy tình làng nghĩa xóm, giúp nhau về vốn, kỹ thuật trong sản xuất, đời sống; phát động phong trào thi đua sản xuất giỏi, thực hiện nếp sống văn hoá, bài trừ các tệ nạn xã hội; tham gia giải quyết các vụ tranh chấp đất góp phần xây dựng nông thôn mới; tập trung củng cố tổ chức hội cơ sở, phát triển hội viên mới, phấn đấu 100% hộ nông dân là thành viên của Hội.
Hội Cựu Chiến binh: Vận động giúp nhau cải thiện đời sống; tích cực giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ; tham gia các mặt công tác ở địa phương góp phần giữ gìn an ninh trật tự, xây dựng Đảng, đoàn thể, chính quyền; củng cố tổ chức cơ sở, phát triển hội viên nhất là số chiến sĩ trẻ hoàn thành nghĩa vụ trở về, đang tham gia tích cực các phong trào của địa phương.
Hội Chữ Thập đỏ: tích cực củng cố kiện toàn mạng lưới từ Huyện đến cơ sở; tranh thủ các nguồn viện trợ giúp đỡ những người nghèo, bất hạnh; động viên tinh thần tương thân tương ái, "lá lành đùm lá rách" của nhân dân trong Huyện; tuyên truyền phòng chống dịch bệnh, thiên tai và kịp thời cứu giúp những người hoạn nạn.
VI. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH:
Nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ Huyện trong 5 năm tới là hết sức nặng nề, để đủ sức lãnh đạo đòi hỏi phải xây dựng Đảng bộ Huyện về mọi mặt. Tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của mình. Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh. Năm năm tới công tác xây dựng Đảng tập trung vào những nhiệm vụ chủ yếu sau:
1/ Công tác giáo dục chính trị tư tưởng:
Làm cho mọi cán bộ đảng viên nhận thức và kiên định lập trường của giai cấp công nhân. Thể hiện bản chất ấy thông qua việc không ngừng xây dựng Đảng bộ là đội tiên phong chính trị. Lấy Chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, gắn bó mật thiết với nhân dân. Không ngừng giáo dục cán bộ đảng viên luôn gắn bó với sự nghiệp đổi mới của Đảng; chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, hưởng thụ, cảnh giác với những quan điểm sai trái, những âm mưu thủ đoạn và những luận điệu thù địch về chống CNXH, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng.
Muốn vậy, phải bảo đảm cho cán bộ, đảng viên nghiên cứu sâu 6 định hướng về công tác tư tưởng đã nêu trong NQ 09 của Bộ Chính trị (khóa VII), NQ Đại hội VIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội VI của Đảng bộ Thành phố và Nghị quyết Đại hội VII của Huyện. Tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với các hình thức thích hợp cho từng loại đối tượng; thường xuyên thực hiện kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá, kiến thức nghiệp vụ cho đội ngũ này. Thực hiện có nề nếp thông tin tình hình thời sự, phổ biến kịp thời những vấn đề mới về chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Bồi dưỡng và sử dụng tốt đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của Huyện. Coi trọng công tác điều tra nắm bắt dư luận xã hội, tâm trạng và nguyện vọng chính đáng của cán bộ đảng viên và nhân dân để đề ra đường lối, chính sách phù hợp. Thông qua việc tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm mà giáo dục truyền thống cách mạng của dân tộc, của địa phương, tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường trong toàn Đảng bộ.
2/ Công tác tổ chức:
Phát huy kết quả của việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, tiếp tục chỉ đạo tốt cuộc vận động xây dựng cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, chấn chỉnh các cơ sở trung bình, yếu kém, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở Đảng ở địa bàn dân cư (xã, ấp) các lĩnh vực trọng yếu về chính trị, kinh tế (Quân sự, Công an, các doanh nghiệp) gắn việc kiện toàn bộ máy tổ chức cấp Huyện để sắp xếp cơ sở Đảng hợp lý theo hướng giảm dần chi bộ ghép, phấn đấu đến giữa nhiệm kỳ xóa hết cơ sở trắng, xây dựng Đảng bộ Huyện đạt tiêu chuẩn vững mạnh.
Hướng củng cố cơ sở Đảng tập trung vào việc cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng làm cho các cơ sở Đảng thật sự phát huy tốt vai trò là hạt nhân chính trị lãnh đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ của đơn vị theo đúng chức năng nhiệm vụ của từng loại hình cơ sở Đảng. Bảo đảm sinh hoạt Đảng đúng định kỳ, thực hiện tốt việc phân công, quản lý, kiểm tra công tác của đảng viên, từng chi, đảng bộ cơ sở đều xây dựng được quy chế hoạt động xác hợp.
Tiếp tục kiện toàn và củng cố cấp ủy cơ sở nhất là đối với vai trò Bí thư, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao nhận thức chính trị, nghiệp vụ công tác Đảng cho cấp ủy cơ sở, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ cán bộ cơ sở kiêm nhiệm công tác Đảng. Xây dựng chế độ giao ban, kiểm tra hướng dẫn công tác xây dựng Đảng giữa TTHU, các Ban Đảng với Bí thư, cấp ủy cơ sở.
Tăng cường cán bộ, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các Ban Đảng của Huyện ủy và Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị của Huyện để đủ sức làm tham mưu giúp Huyện ủy chỉ đạo tốt hơn công tác xây dựng Đảng, củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của Đảng Đoàn HĐND, thành lập Đảng Đoàn Mặt trận Tổ quốc Huyện.
Trong công tác đảng viên cần tập trung tạo điều kiện cho cán bộ và đảng viên được học tập, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, coi trọng việc bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, xây dựng lối sống lành mạnh không bóc lột; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.
Giúp đỡ những đảng viên yếu kém vươn lên, những cán bộ đảng viên có cuộc sống khó khăn làm cho các đồng chí có điều kiện sống tốt hơn, có thể an tâm công tác và gắn bó với Đảng.
Phấn đấu từ năm 1997 trở đi tỷ lệ đảng viên phấn đấu tốt trong Đảng bộ Huyện phải đạt từ 60% - 70%.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên mới chú trọng cả về số lượng, thường xuyên chăm lo giáo dục lý tưởng cách mạng cho quần chúng làm tốt công tác khảo sát tạo nguồn phát triển Đảng hàng năm, đặc biệt chú trọng bồi dưỡng đưa vào Đảng những đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh, những quần chúng ưu tú đang hoạt động ở cơ sở, mở rộng diện đối tượng phát triển Đảng ở địa bàn dân cư, gắn công tác kiện toàn nhân sự trong hệ thống chính trị cơ sở với việc tạo nguồn, phát triển Đảng viên mới, phấn đấu các cơ sở Đảng trong nhiệm kỳ đều phát triển được đảng viên mới, tỷ lệ đảng viên mới kết nạp hàng năm phải từ 6 - 8% so với tổng số đảng viên trong đảng bộ, cả nhiệm kỳ phát triển Đảng ít nhất là 150 đảng viên.
Nhiệm vụ trọng tâm của công tác cán bộ ở Huyện trong thời gian tới là nhanh chóng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt của Huyện và cơ sở có đủ phẩm chất và năng lực để đủ sức hoàn thành nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới, bên cạnh đó phải chú trọng quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ kế cận vững vàng, từng bước gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Huyện để xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ toàn diện cho các ngành nghề kinh tế - xã hội ở Huyện.
Phương hướng đào tạo bồi dưỡng cán bộ trước mắt nhắm vào đối tượng cán bộ hiện có để có kế hoạch đào tạo cơ bản và đồng bộ đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị, quản lý kinh tế, cán bộ cơ sở, đặc biệt quan tâm xây dựng cán bộ quản lý Nhà nước, đáp ứng với yêu cầu cải cách hành chính, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, tranh thủ nguồn cán bộ có chuyên môn, khoa học kỹ thuật cao ở nơi khác, nhất là số sinh viên tốt nghiệp đại học tình nguyện công tác lâu dài ở Huyện, đồng thời phải chú trọng tạo nguồn cán bộ từ các trường cấp III của Huyện, có chính sách động viên học tập đối với các học sinh sinh viên giỏi, học sinh sinh viên là con em các gia đình cơ bản để hướng nghiệp đào tạo, coi đây là vấn đề có tầm quan trọng trong chiến lược đào tạo cán bộ của Huyện.
Để đạt các mục tiêu trên cần cụ thể hoá việc phân công, phân cấp quản lý cán bộ, từng xã, từng ngành phải có kế hoạch, quy hoạch tạo nguồn đào tạo cán bộ, phấn đấu đến năm 2000 phải hoàn thành việc tiêu chuẩn hoá cán bộ theo từng chức danh. Quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ nữ.
Tiếp tục đổi mới quan niệm và phương pháp đánh giá cán bộ thật sự khoa học, khách quan bảo đảm dân chủ tập thể, theo nguyên tắc tập trung dân chủ và tuân thủ theo quy định chặt chẽ, tăng cường công tác quản lý cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ, thực hiện việc luân chuyển cán bộ góp phần bồi dưỡng kiến thức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ.
Thực hiện đúng và đầy đủ các chính sách cán bộ hiện hành, kiến nghị với Trung ương và Thành phố duy trì ổn định các chính sách ưu đãi đối với cán bộ công tác ở Cần Giờ. Trong khả năng có được Huyện cần có chính sách hỗ trợ cho cán bộ xã, ấp, tổ nhân dân, xây dựng ngân sách đào tạo cán bộ đủ đáp ứng cho nhu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ của Huyện.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với mọi mặt đời sống xã hội thông qua việc phát huy mạnh mẽ vai trò quản lý của Nhà nước và vai trò của cấp đoàn thể chính trị.
Các cấp ủy Đảng lãnh đạo các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể nhân dân bằng Nghị quyết, quyết định, định hướng giải quyết các vấn đề lớn và những vấn đề cụ thể nhưng có liên quan đến các tầng lớp nhân dân, có ý nghĩa chính trị quan trọng và quyết định việc đề bạt, bố trí và sử dụng cán bộ. Sau khi có Nghị quyết, các cấp ủy còn phải lãnh đạo việc cụ thể hoá của Nhà nước và các đoàn thể để các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân và đoàn viên, hội viên thực hiện, bảo đảm cho nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống một cách đầy đủ kịp thời. Khi bàn và ra nghị quyết về các vấn đề có liên quan đến phạm vi công tác các cơ quan Nhà nước và đoàn thể, cần lấy ý kiến hoặc giao cho các tổ chức đó trực tiếp chuẩn bị dự thảo Nghị quyết để cấp ủy thảo luận, quyết định, các ban của Đảng làm nhiệm vụ thẩm định đề án. Đồng thời các cấp ủy phải xây dựng quy chế làm việc, trong đó quy định rõ ràng về lề lối công tác, mối quan hệ giữa Đảng và các cơ quan Nhà nước, đoàn thể. Định kỳ có sơ kết việc thực hiện quy chế để bổ sung, sửa đổi cho phù hợp.
Phương thức lãnh đạo của Đảng còn thể hiện qua tác phong làm việc của cấp ủy và bản thân đồng chí Bí thư, phải sâu sát cơ sở, có kế hoạch đi cơ sở thường xuyên để chỉ đạo việc triển khai thực hiện Nghị quyết, kịp thời uốn nắn những lệch lạc và phát hiện những nhân tố mới để nhân rộng ra. Đó cũng là cách tốt nhất để nâng cao trình độ lãnh đạo của cấp ủy và chuẩn bị cho các quyết định tiếp theo đúng đắn, phù hợp hơn.
Trong nhiệm kỳ mới các cấp ủy phải coi trọng lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 8 của Trung ương về "... cải cách một bước nền hành chánh". Coi đây là khâu quyết định để sự lãnh đạo của Đảng tác động có hiệu quả vào các lĩnh vực đời sống xã hội thông qua hệ thống Nhà nước.
3. Đẩy mạnh công tác kiểm tra của Đảng:
Các cấp ủy cần nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa của công tác kiểm tra, coi kiểm tra là một nội dung quan trọng của lãnh đạo nhằm kịp thời phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, bổ sung và sửa đổi Nghị quyết, bảo đảm các chủ trương của Đảng được xác định đúng và thực hiện có hiệu quả.
Công tác kiểm tra ở Huyện trong thời gian tới cần tăng cường kiểm tra các cơ sở Đảng trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ theo qui định và triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng cấp trên; tiếp tục kiểm tra đảng viên chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng.
Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền về kỷ luật Đảng, ngăn ngừa đảng viên mắc khuyết điểm và xử lý nghiêm minh, công bằng, đúng mức đối với đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng.
Thường xuyên theo dõi, tạo điều kiện giúp đỡ số đảng viên bị kỷ luật để các đồng chí này khắc phục, sửa chữa phấn đấu vươn lên. Phối hợp với các ngành các cấp giải quyết nhanh chóng các đơn thư tố cáo không để dây dưa kéo dài.
4. Lãnh đạo xây dựng Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vững mạnh
Xây dựng Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thật sự vững mạnh xứng đáng là cánh tay đắc lực và đội hậu bị của Đảng bộ là một nhiệm vụ cấp bách vừa mang ý nghĩa chiến lược của công tác xây dựng Đảng.
Toàn Đảng bộ có trách nhiệm chăm lo xây dựng Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, chăm lo bồi dưỡng giúp đỡ thế hệ thanh niên để cho họ thật sự là lực lượng xung kích của Đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ và năng lực trở thành những người kế tục sự nghiệp của Đảng.
Lựa chọn đưa những Đoàn viên ưu tú vào Đảng, chọn những cán bộ đảng viên trẻ có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt và có uy tín trong thanh niên giới thiệu vào BCH Đoàn, coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ Đoàn để tăng cường cho Đảng và các cơ quan Nhà nước.
Tạo điều kiện cho đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh được học tập nâng cao trình độ về mọi mặt; tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của thanh niên. Kiên quyết đấu tranh dứt khoát loại trừ các tệ nạn mãi dâm, ma túy, bạo lực và các tệ nạn xã hội nghiêm trọng khác không để ảnh hưởng tiêu cực đến thế hệ trẻ của Huyện.
Lấy tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh làm nòng cốt xây dựng Hội Liên hiệp Thanh niên nhằm tập hợp đoàn kết thanh niên; nghiên cứu nhiều hình thức tập hợp phong phú nhằm giáo dục giúp đỡ thanh niên. Hết sức coi trọng công tác xây dựng lực lượng Đoàn Thanh niên trong các trường học. Thông qua Đoàn TNCS Hồ Chí Minh để chăm lo xây dựng Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
Tất cả các Cấp ủy Đảng, lãnh đạo các ngành, các cơ quan Nhà nước đều phải có trách nhiệm tạo điều kiện vật chất thuận lợi cho hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ CÂN ĐỐI LỚN
Để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ và chương trình trọng điểm trong 5 năm 1996 - 2000, cần tiến hành thực hiện một số giải pháp và cân đối lớn sau:
Cân đối Ngân sách
Do cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật và xã hội ở Huyện còn thấp, đứng trước yêu cầu phải đẩy mạnh tiến độ tăng trưởng để nhanh chóng xây dựng Huyện thành trung tâm kinh tế biển của Thành phố:
Trong 5 năm tới, đồng thời với việc thúc đẩy kinh tế phát triển, cần đảm bảo huy động đầy đủ các nguồn thu cho ngân sách, kết hợp hài hòa với việc bồi dưỡng sức dân, khuyến khích tích lũy từ khả năng nền kinh tế địa phương để tiếp tục đầu tư vào các chương trình phát triển của Huyện.
Bảo đảm chi hoạt động thường xuyên cho bộ máy quản lý và chăm lo các vấn đề xã hội; kiến thiết, bảo dưỡng cơ sở vật chất hạ tầng, ưu tiên cho các chương trình mục tiêu trọng điểm. Đồng thời, tăng cường các biện pháp quản lý, điều hành thu chi ngân sách, thực hành triệt để tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự kiến bố trí cân đối thu - chi ngân sách trong 5 năm 1996 - 2000, như sau:
* Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn Huyện: 5 năm (1996 - 2000) là: 127 tỷ (không kể thu trợ cấp).
* Tổng thu ngân sách Huyện 5 năm (1996 - 2000) là: 833 tỷ (kể cả thu trợ cấp gồm TCTX và TCXDCB).
* Tổng chi ngân sách Huyện 5 năm (1996 - 2000): 833 tỷ
Trong đó:
- Chi thường xuyên: 224 tỷ
- Chi XDCB và sửa chữa theo danh mục: 609 tỷ
Cân đối vốn đầu tư phát triển:
Huyện cần thực hiện các chính sách đồng bộ và hấp dẫn để đẩy mạnh chương trình vận động, kêu gọi đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước và trong nhân dân. Huy động tối đa và bố trí sử dụng có hiệu quả mọi tiềm lực kinh tế - xã hội, bao gồm: đất đai, lao động, nguồn vốn, khoa học - kỹ thuật, công nghệ,... cho mục tiêu, chương trình xây dựng và phát triển Huyện.
Tiến hành quy hoạch vùng, ngành kinh tế tập trung để bố trí các dự án đầu tư theo danh mục ưu tiên, đảm bảo sự phát triển cân đối, hợp lý tạo được cơ sở và động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội ở Huyện phát triển theo hướng bền vững.
Dự kiến nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm tới như sau:
* Tổng mức vốn đầu tư: 1.632 tỷ ĐVN (tương đương 148 triệu USD) với tốc độ đầu tư tăng bình quân 34%/năm.
* Cơ cấu vốn đầu tư dự kiến huy động từ nguồn ngân sách (Trung ương, Thành phố và Huyện) chiếm 37%, ngoài ngân sách (Đầu tư nước ngoài, vốn vay, trong nhân dân) chiếm 63%.
Đồng thời định hướng vốn đầu tư vào các ngành và các lĩnh vực kinh tế, như sau: công nghiệp, khai thác, nuôi trồng thủy sản chiếm 20%, sản xuất nông, lâm nghiệp 9,7%, giao thông nông thôn, điện: 20,5%, các công trình văn hoá - xã hội và phúc lợi công cộng, nước, nhà ở: 49,8%.
Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển theo đúng định hướng, đúng quy hoạch trên cơ sở tạo môi trường pháp lý rõ ràng, điều kiện sản xuất, kinh doanh thuận lợi. Tiếp tục kiện toàn và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp, đảm bảo hoạt động có hiệu quả, làm nòng cốt và phục vụ tích cực cho các chương trình mục tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; khuyến khích hình thành các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, Cty TNHH để phát triển lực lượng sản xuất - kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ khai thác tiềm năng kinh tế, giải quyết việc làm,... Trước hết trong các nghề đánh bắt ngoài khơi, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp, du lịch, thương mại dịch vụ, xây dựng... Bên cạnh đó, tiếp tục hình thành và phát huy hiệu quả hoạt động của các mô hình kinh tế hợp tác tự nguyện, tự quản, cùng có lợi; quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ gia đình.
Xây dựng, phát triển Huyện luôn chú trọng đến việc bảo vệ môi trường, Huyện phải xem môi trường sinh thái Rừng Sác và ven biển Cần Giờ là lợi thế và đặc trưng quí hiếm cần bảo vệ, bảo tồn cho sự phát triển bền vững lâu dài. Kiên quyết ngăn chặn và xử lý các trường hợp gây ô nhiễm môi trường, phá vỡ cân bằng hệ sinh thái Rừng Sác. Đề nghị Thành phố tiếp tục chi viện cho Huyện khắc phục tình trạng ô nhiễm nguồn nước trong thời gian qua, đồng thời, khẩn trương điều tra, nghiên cứu các diễn biến trong tự nhiên có ảnh hưởng đến địa bàn Huyện để kịp thời có biện pháp giúp đỡ phòng ngừa, xử lý.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển Huyện, bên cạnh sự nỗ lực phấn đấu của địa phương, sự chi viện, giúp đỡ của Thành phố có vai trò quyết định. Để có đủ điều kiện thực hiện hoàn thành các mục tiêu nhiệm vụ trong thời gian tới, Đảng bộ Huyện kiến nghị Thành phố một số vấn đề sau:
1- Đề nghị Thành ủy chỉ đạo xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển của Thành phố theo tinh thần Nghị quyết số 03/NQ-TƯ, ngày 6/5/1993 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt.
2- Thành phố tiếp tục đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở Huyện. Trước mắt, cần tập trung xây dựng một số công trình cấp thiết như cầu Dần Xây, nâng cấp các đường giao thông trọng yếu, điện khí hoá các khu sản xuất và dân cư tập trung, hệ thống cấp nước tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy kinh tế - xã hội Huyện phát triển.
3- Đối với Cần Giờ, đề nghị Trung ương và Thành phố cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút đầu tư, khai thác tiềm năng, xây dựng Huyện theo quy hoạch đến năm 2010 đã được phê duyệt.
*
**
Đại hội Đại biểu Đảng bộ Huyện Cần Giờ lần thứ VII ý thức sâu sắc trách nhiệm của mình trong việc góp phần cùng Thành phố và cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong những năm cuối của thế kỷ 20. Toàn Đảng bộ sẽ phấn đấu khắc phục mọi khó khăn, yếu kém phát huy truyền thống đoàn kết, gắn bó với nhân dân ra sức thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ mục tiêu do Đại hội đề ra, từng bước xây dựng Huyện trở thành một trung tâm kinh tế biển của Thành phố.