Thứ Năm, ngày 28 tháng 3 năm 2024

Báo cáo tình hình và nhiệm vụ tại Đại hội lần thứ V của Đảng bộ Huyện Hóc Môn

Trong bối cảnh chung cả nước, Đại hội Đảng bộ Huyện lần V kỳ này diễn ra trong thời điểm có nhiều thuận lợi nhưng cũng còn không ít khó khăn. Cơ chế mới đã mở ra, nhưng những cái cũ lỗi thời, vẫn còn trì kéo, làm cho tình hình kinh tế xã hội vừa có những mặt xấu đi, nhưng đồng thời cũng có những điểm sáng lóe, hứa hẹn tạo được tiền đề, mở ra nhiều hướng mới. Hiện thực này đặt ra cho Đại hội Đảng Huyện lần V một trọng trách hết sức nặng nề và chắc chắn sẽ thôi thúc tích cực làm cho tư duy toàn Đảng bộ được phát triển cao nhằm cùng tìm ra những con đường mới và tầm nhìn khoa học và phù hợp hơn.

Tin tưởng trước công cuộc đổi mới chung, nhưng cũng không ít thận trọng, cân nhắc, chúng ta sẽ cùng nhhiêm túc rà soát lại quá trình hoạt động hai năm qua với tinh thần phê phán sâu sắc, đánh giá trung thực mạnh, yếu cùng những nhuyên nhân để vạch ra bước đi vững chắc cho hai năm tới theo tinh thần đổi mới của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.

PHẦN THỨ NHẤT

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT HUYỆN ĐẢNG BỘ LẦN THỨ IV

I. TRONG LÃNH VỰC KINH TẾ

Từ sau có Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Huyện đã từng bước vận dụng để bổ sung những yêu cầu cần thiết, không dừng lại ở các chỉ tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng Huyện lần IV đã vạch ra theo khuynh hướng đổi mới chung.

Căn cứ mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng Huyện lần 4 đã xác định “Nền kinh tế Huyện nhiệm kỳ IV vẫn là Nông công nghiệp và sẽ chuyển cơ cấu kinh tế thành Công nông nghiệp vào những năm 1990”. Trong cả nhiệm kỳ, Huyện ủy luôn có quan điểm tập trung chỉ đạo đầu tư phát triển sản xuất, kể cả nông nghiệp lẫn công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, trong đó đặt nặng yêu cầu xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và từng bước phải đưa sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, tập trung giải phóng năng lực sản xuất, chuyển hướng tích lũy từ sản xuất thay vì dựa vào thương nghiệp như trước.

Điểm lại lãnh vực kinh tế tình hình hai năm qua có những nét nổi đáng lưu ý như sau:

1. Về sản xuất:

- Trong sản xuất nông nghiệp: Với quan điểm xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, Huyện đã cố gắng chỉ đạo nhiều biện pháp để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, trong đó có chú trọng đầu tư, dù đầu tư cho nông nghiệp không mang lại hiệu quả cao so các ngành khác trong đó, Huyện còn đầu tư thông qua bù lỗ từ ngân sách để bơm tưới cho các vùng khô hạn, miễn giảm thu quốc doanh xí nghiệp đường để tăng giá thu mua mía, nhằm giữ diện tích mía, cấp bán vật tư xăng dầu giá rẻ để chống hạn, “cứu nguy” sản xuất v.v…

Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp hai năm qua diển biến nhiều khó khăn. Có chỉ tiêu đạt, nhưng cũng có mặt ì ạch, bấp bênh. Mặt trận nông nghiệp nhìn chung chưa vượt lên vị trí hàng đầu. Vùng lúa năm 1987 đạt 98,2% diện tích, năm 1988 đạt 99% so chỉ tiêu Đại hội. Năng suất và sản lượng cũng không đạt so chỉ tiêu Đại hội đề ra. Diện tích rau năm 1988 tăng 1.511ha so năm 1987, nhưng rau chuyên canh chỉ đạt 677ha (không đạt 1.000ha theo chỉ tiêu Nghị quyết). Các loại cây công nghiệp ngắn ngày khuynh hướng phát triển tốt, diện tích mía và thuốc lá cơ bản giữ được và có phát triển; Riêng cây đậu phộng, tốc độ phát triển chậm, không đạt theo chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra do thiếu vốn đầu tư và điện nước chưa đảm bảo. Về chăn nuôi trong năm 1987, đàn heo đạt vượt 0,27% so chỉ tiêu Đại hội, đến năm 1988 chỉ đạt 69% tuy tổng đàn có giảm nhưng đàn heo quốc doanh tăng, năm 1988 tăng 407 con so năm 1987. Đàn trâu, bò cơ bản giữ được, riêng đàn bò sữa phát triển chậm.

Nguyên nhân chưa đạt những chỉ tiêu trọng yếu trong nông nghiệp do nhiều yếu tố:

- TRƯỚC HẾT VỀ MẶT KHÁCH QUAN: Sản xuất nông nghiệp phải phụ thuộc thiên nhiên, có vụ nắng hạn kéo dài làm mất trắng 800ha. Cơ chế chính sách không hợp lý, chưa kích thích nông dân sản xuất, trong đó giá thu mua hàng nông sản phẩm chưa bù đắp được chi phí sản xuất, chưa kể việc tiêu thụ sản phẩm vào thời điểm tập trung, nông sản ứ đọng giá rẻ, nông dân bị lỗ. Công ty Rau Thành phố đầu tư cho Hóc Môn chỉ đáp ứng một phần rất nhỏ (609/400ha), phần còn lại do nông dân tự sản tự tiêu. Mặt khác, Nghị quyết 10/BCT đã mở ra con đường sáng cho nông nghiệp, nhưng thiếu những chính sách và hướng dẫn cụ thể của Nhà nước kèm theo. Huyện và cơ sở rất lung túng khi vận dụng thực hiện.

- VỀ MẶT CHỦ QUAN: Chủ trương có đặt nặng, nhưng chỉ đạo thực hiện còn chậm, có lúc liều lượng chỉ đạo mảng nông nghiệp chưa đúng mức, trong đó, chưa có đề án nào quy mô tác động thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Tỷ trọng đầu tư cho sản xuất nông nghiệp chưa đạt theo Nghị quyết do Huyện còn lệ thuộc sự trợ giúp của Thành phố. Năm 1987, đầu tư được 32%, năm 1988 chỉ chiếm  29%, mặt cần rút kinh nghiệm là với tỷ lệ đã đầu tư cho nông nghiệp, Huyện chưa tính toán đầu tư thật có hiệu quả để đẩy bật sản xuất nông nghiệp lên. Tiến độ khoa học kỹ thuật trong hai năm qua đưa vào phục vụ sản xuất còn ít. Đáng quan tâm là biện pháp thủy lợi còn yếu, 3 trạm bơm điện đã đầu tư khá nhiều công sức nhưng chỉ có trạm bơm nâng cấp Xuân Thới Thượng cơ bản phát huy tác dụng, hiệu quả bơm tưới của các trạm bơm chỉ đạt 1/10 công suất (100/100ha). Nguyên nhân chính do thủy lợi nội đồng chưa hoàn chỉnh, các xã chưa quan tâm chỉ đạo công tác này nên không phát huy được nguồn nước thủy lợi. Mặc khác, do Phòng Nông nghiệp – Thủy lợi và xí nghiệp thủy sản chưa phát huy đúng mức để đưa nước vào đồng ruộng phục vụ sản xuất. Vai trò tham mưu của các ngành chức năng trong lĩnh vực này còn yếu, việc bố trí, đầu tư cây, con… làm không đến nơi đến chốn, để cho các xã trồng tự phát, sản xuất nông nghiệp từ đó bấp bênh, không phát triển được.

- TRONG CẢI TẠO NÔNG NGHIỆP: Huyện cố giữ thành quả đạt được trong phong trào hợp tác hóa, chủ trương củng cố nâng chất lượng để đưa hoạt động đi vào chiều sâu. Trước tình hình biến động ruộng đất, Huyện đã cố gắng giải quyết trên tinh thần nhường cơm xẻ áo trong nội bộ nông dân, đồng thời tích cực áp dụng theo tinh thần Chỉ thị 47/BCT và Thông báo 77/TU đối với một số trường hợp trước đây điều chỉnh chưa đúng. Do đó, dù tình hình biến động ruộng đất có lúc lên cao độ, nhưng không quá nghiêm trọng so các quận – huyện khác. Trong quan điểm chỉ đạo hợp tác hóa, Huyện đã không đặt nặng vấn đề “hoàn thiện quan hệ sản xuất…” như Nghị quyết Đại hội lần 4 đã vạch ra mà tập trung củng cố, giải phóng sản xuất từ tiềm năng nông nghiệp hiện có với mục đích chính là làm sao nông nghiệp ngày càng đứng vững và phát triển theo tinh thần Nghị quyết 10/BCT. Đã chỉ đạo xây dựng điểm 3 mô hình HTX nông nghiệp ở Xuân Lộc, Tân Xuân và Tân Hiệp để rút kinh nghiệm, đến nay tuy từng mô hình có những mạnh yếu khác nhau (trong đó tuy chỉ có HTX Xuân Lộc hoạt động hiệu quả tốt), nhưng đã khẳng định được vị trí, vai trò của HTX theo các mô hình là đúng đắn và cần thiết. Mặt hạn chế là chất lượng hoạt động của các HTX nông nghiệp còn yếu, trong 28 HTX chỉ có hơn 1/3 hoạt động tương đối khá, còn lại là chỉ quản lý về hình thức, không hiệu quả, thậm chí có HTX nặng kinh doanh, vướng nợ trên 40 triệu đồng. Việc triển khai học tập Nghị quyết 10/BCT về đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp được phổ biến đến các tập đoàn, HTX nông nghiệp nhưng vận dụng và thực hiện chưa được bao nhiêu. Tư tưởng chung trong nông dân phấn khởi khi được học tập Nghị quyết 10/BCT, mong mỏi được đổi mới ngay trên mặt trận nông nghiệp, nhưng vẫn còn chờ đợi Nhà nước ban hành một số chính sách cụ thể về thuế, giá vật tư… để mạnh dạn sản xuất.

- SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP – TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP: Tuy vẫn còn nhiều khó khăn do cơ chế ràng buộc, nhưng tốc độ phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tăng dần theo hàng năm, tạo tiền đề thuận lợi cho hướng phát triển trong những năm tới. Giá trị tổng sản lượng năm 1987 tăng 2% so năm 1986, năm 1988 tăng 16,86% so năm 1987, nhưng chỉ đạt 88% chỉ tiêu Đại hội. Dù không đạt theo chỉ tiêu Đại hội, nhưng cả công nghiệp quốc doanh và khối tiểu thủ công nghiệp đều có bước chuyển đáng kể, được Huyện quan tâm đầu tư nên nguồn thu ngân sách từ sản xuất công nghiệp được nâng dần. Năm 1987, ngành Công nghiệp đóng góp cho ngân sách Huyện chiếm tỷ trọng 13,3% trong tổng thu kinh tế quốc doanh, đến năm 1988 đã tăng lên 20,3%. Đây là cố gắng lớn của Huyện thể hiện quan điểm đổi mới trong phát triển kinh tế, tạo thế trở bộ tích lũy ngân sách từ sản xuất, thay vì từ kinh doanh như những năm trước. Ngành công nghiệp quốc doanh sau 2 năm thực hiện cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN, dù còn bộc lộ nhiều nhược điểm nhưng cũng đã đạt được thành quả bước đầu, giá trị sản lượng công nghiệp quốc doanh năm 1988 chiếm 35,33% so giá trị toàn Ngành, vượt 40% so chỉ tiêu Đại hội, khu vực tiểu thủ công nghiệp phát triển khá tốt có phát huy vai trò chủ động về vật tư, nguyên liệu sản xuất, thoát dần cơ chế gia công. Hưởng ứng chương trình sản xuất hàng tiêu dùng của Trung ương, nhiều sản phẩm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của Huyện sản xuất với chất lượng tốt được thị trường trong và ngoài Huyện ưa chuộng như máy bơm nước, đường kết tinh, vải, bánh tráng v.v… đặc biệt mặt hàng mền chỉ là sản phẩm được Thành phố và các tỉnh ưa chuộng.

Hai năm qua, Huyện đã xây dựng 3 xí nghiệp quốc doanh đầu tư mở rộng phân xưởng các xí nghiệp nước đá, xí nghiệp đường, xí nghiệp khai thác chế biến lâm sản để nâng cao năng lực sản xuất ở các xí nghiệp. Đối với khối xã dù chưa được Trung ương và Thành phố chỉ đạo cụ thể nhưng Huyện đã mạnh dạn cho phép một số xã có điều kiện thành lập các xí nghiệp sản xuất với quy mô lớn như ở Đông Hưng Thuận, Đông Thạnh, An Phú Đông, Tân Thới Nhứt… Sau gần hai năm hoạt động đã mang lại hiệu quả tốt, xí nghiệp Chuối sấy xã Đông Thạnh được nâng lên xí nghiệp quốc doanh cấp Huyện, riêng xã Đông Hưng Thuận đã xây dựng được 5 xí nghiệp quốc doanh, trong đó có 3 xí nghiệp đạt hiệu quả tốt, được Trung ương, Thành phố và các tỉnh bạn đến nghiên cứu rút kinh nghiệm. Trong khu vực nông nghiệp, các HTX nông nghiệp cũng chú trọng phát triển ngành nghề phụ từ sản xuất như ở HTX Xuân Lộc, Hiệp Thành, Tân Hiệp.

Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp cũng còn nhiều mặt hạn chế. Trong tình hình đổi mới cơ chế trong sản xuất kinh doanh, nhiều đơn vị chưa trở bộ kịp còn lúng túng nên năng suất và hiệu quả chưa cao (Xí nghiệp Đường, xí nghiệp Ô tô vận tải, xí nghiệp Vật liệu xây dựng…). Ở một vài xí nghiệp do thiết bị lạc hậu, trình độ năng lực quản lý của lãnh đạo hạn chế nên không đưa được xí nghiệp đi lên.

- Ngành công nghiệp quốc doanh chưa chủ động, cân đối được nguyên liệu, vật tư theo kế hoạch, diện cung ứng cho sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp không đầy đủ trong khi nhiều đơn vị chưa chủ động đối lưu liên kết, mở rộng thị trường tiêu thụ để trao đổi sản phẩm, lấy nguyên liệu phục vụ sản xuất. Khối tiểu thủ công nghiệp vẫn còn phụ thuộc vào cơ chế gia công, ngành dệt được xem như mũi nhọn, nhưng chủ yếu gia công, nguyên liệu không chủ động nên giá thành cao, hiệu quả kinh tế thấp, sức cạnh tranh đối với thị trường giảm. Tiền mặt chi cho tiểu thủ công nghiệp nhỏ giọt, điện năng không đảm bảo nên chưa phát huy tốt hết công suất máy móc, tay nghề trong dân. Huyện cũng chưa chú trọng chỉ đạo khối tiểu thủ công nghiệp nên có thời gian sản xuất tiểu thủ công nghiệp hoạt động yếu, số lượng máy dệt giảm, sản phẩm mành trúc thấp phải tái chế, đời sống khu vực này rất khó khăn.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội, Huyện đã cố gắng xây dựng nhiều cơ sở vật chất cho sản xuất công nghiệp nhưng chưa phát huy hiệu quả. Nhiều cơ sở thiếu vốn, bộ máy con người yếu nên không hoạt động được như xí nghiệp Nước đá Tân Thới Nhứt, xí nghiệp Nhựa 27-7, xí nghiệp Bao bì Tân Xuân, xí nghiệp Vật liệu xây dựng…

2. Lãnh vực phấn phối lưu thông:

Tuy còn nhiều mặt hạn chế, nhưng đã có những chuyển động theo tình hình mới. Mặt cố gắng của thương nghiệp XHCN là đã không bó tay trước khó khăn dù giá cả biến động, vốn không đủ kinh doanh nhưng đã đẩy mạnh liên kết với các đơn vị bạn, nhận bán hàng ủy thác hoặc nhận hàng trước, trả tiền sau để từng bước ổn định và phát triển kinh doanh. Việc huy động vốn cũng được chú trọng qua nhiều nguồn không trông chờ vốn bổ sung từ ngân sách. Hai năm qua, đã từng bước đáp ứng các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống, nhiều đơn vị quan tâm đầu tư sản xuất hoặc xây dựng cơ sở sản xuất để chủ động nắm nguồn hàng tận gốc, phát triển kinh doanh như Công ty Thương nghiệp Tổng hợp, Công ty Thương nghiệp Tổng hợp HTX Thương mại, Cửa hàng LTTT. Về công tác cải tạo, đối với thương nghiệp đã giải thể toàn bộ các cửa hàng hợp tác kinh doanh hoạt động không hiệu quả, cho phép tư nhân được kinh doanh các mặt hàng thương nghiệp XHCN đảm nhận, đồng thời khuyến khích họ chuyển hướng sang sản xuất.

Ngoại thương có chú ý đầu tư tạo chân hàng xuất khẩu tại chỗ. Đã xây dựng xong và đưa vào sử dụng khu chế biến hàng xuất khẩu theo Nghị quyết Đại hội, ngoài phân xưởng sấy đông khô chưa phát huy, còn lại phân xưởng giày da và may mặc về cơ bản đã phát huy hiệu quả. Đầu tư sản xuất nông nghiệp tuy chưa nhiều, nhưng có quan tâm các loại cây có giá trị xuất khẩu như tiêu, gừng, đậu phộng…

* Về tài chính ngân sách: Có nhiều cố gắng khai thác nguồn thu và tiết kiệm chi. Mặc dù kinh tế, đời sống khó khăn Huyện đã chủ động xoay sở, rút tỷ lệ trợ cấp của Thành phố từ 34% của năm 1987 còn lại 30% của năm 1988. Từ sau Đại hội Đảng Huyện lần 4 đến nay, từ chỗ Huyện chỉ đáp ứng 1/3 về chi, nay nâng lên 2/3. Nguồn thu từ kinh tế quốc doanh vẫn chiếm vị trí then chốt, thu thuế nông nghiệp và công ghương nghiệp đảm bảo được chỉ tiêu hàng năm. Về ngân sách, có quan tâm đến các yêu cầu chi trọng tâm. Hoạt động Ngân hàng từ khi chuyển sang kinh doanh đã có những cố gắng mới, có chú ý tập trung vốn đầu tư phát triển sản xuất. Tình hình bội chi tiền mặt vẫn không giảm, nguồn thu từ các đơn vị thương nghiệp đạt thấp. Các HTX Tín dụng có phát huy hiệu quả, đã tăng vốn cổ phần đẩy mạnh vòng quay phục vụ thiết thực đời sống nhân dân. Công tác gởi tiền tiết kiệm còn hạn chế do biến động giá và lãi suất.

Mặt tồn tại và những nguyên nhân trong lĩnh vực này là từ quản lý kinh tế bao cấp sang hạch toán kinh tế XHCN nên nhiều đơn vị còn lúng túng. Một vài đơn vị phục vụ chưa tốt, mua bán lòng vòng chạy theo chênh lệch giá. Vốn Ngân hàng bị hạn chế, một số đơn vị lâu nay quen kinh doanh bằng tiền mặt, vốn vay Ngân hàng, vốn ngân sách cấp nay trở bộ theo yêu cầu, mới nên gặp khó khăn trong mua hàng chuyển khoản. Mặt khác, nhiều đơn vị quá dư thừa lao động, hậu quả của cơ chế bao cấp để lại chưa giải quyết được, làm cho hiệu quả kinh doanh đạt thấp. Hoạt động các HTX Mua bán khối xã yếu, chưa được Huyện và đơn vị chủ quản (HTX Mua bán Huyện) quan tâm chỉ đạo giúp đỡ. Về ngoại thương, chưa tạo điều kiện kết hợp và hỗ trợ các đơn vị nội thương. Trong cơ cấu hàng nhập chưa quan tâm đầu tư cho sản xuất, tỷ lệ hàng nhập phục vụ tiêu dùng vẫn còn chiếm quá cao.

Về công tác cải tạo công thương nghiệp, Huyện thiếu quan tâm lãnh đạo, chưa tập trung giải quyết dứt điểm những hậu quả tồn tại của công tác cải tạo năm 1978.

Thu chi ngân sách vẫn còn mất cân đối, nguyên nhân chính do từ chế độ quản lý bao cấp chuyển sang  hạch toán kinh doanh tính đúng, tính đủ, đã bộc lộ nhiều yếu kém vế cân đối ngân sách. Nguồn thu ngân sách từ sản xuất công nghiệp chưa được khai thác đúng mức, hiệu quả tích lũy trên đồng vốn cả thương nghiệp và công nghiệp chưa cao. Các đơn vị sản xuất kinh doanh đều gặp khó khăn về tiền mặt, nhưng việc quản lý và điều tiết tiền mặt của ngân hàng chưa theo đúng các yêu cầu trọng tâm của Huyện để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.

3. Cùng với việc chăm lo phát triển kinh tế, Huyện đã quan tâm ĐẦU TƯ XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG góp phần phục vụ sản xuất và đời sống. Trong xây dựng cơ bản đã cắt giảm những công trình chưa cần thiết để tập trung xây dựng các công trình phục vụ sản xuất. Mặc dù ngân sách khó khăn, Huyện đã cố gắng đầu tư xây dựng cơ bản với tỷ lệ lớn, mặt khác tích cực xin Thành phố cấp vốn những công trình trọng điểm. Đã hoàn thành và đưa vào sử dụng các công trình như Nghị quyết Đại hội vạch ra, đồng thời cũng mạnh dạn đầu tư xây dựng những công trình thiết thực phục vụ sản xuất và đời sống, dù không đề ra trong Nghị quyết Đại hội. Đối với các xã, thị trấn và ngành cấp Huyện, bằng vốn tự có đã xây dựng nhiều công trình phục vụ sản xuất và phúc lợi xã hội theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” (xem phụ lục số liệu).

Ngành giao thông vận tải có nhiều cố gắng phục vụ vận chuyển hàng hóa và hành khách, việc duy tu, bảo dưỡng cầu đường dù kinh phí có hạn nhưng đã cố gắng sửa chữa những cầu đường xuống cấp nặng. Ngành Bưu điện đã chú ý cải tiến mạng cáp, lắp đặt tổng đài tự động mới để tăng khả năng và hiệu quả phục vụ. Tuy nhiên, chất lượng đàm thoại chưa đảm bảo.

II. TRONG LÃNH VỰC VĂN HÓA XÃ HỘI

1. Đối với chăm lo đời sống vật chất – tinh thần:

- Về chăm lo vật chất: Mặt làm được là Huyện ủy đã lãnh đạo chăm lo chi trả lương kịp thời trong điều kiện có lúc tiền trượt giá quá lớn và ngân sách mất cân đối lớn. Các đoàn thể, mặt trận cũng đã bám sát địa bàn dân cư để vận động cứu trợ kịp thời không để có trường hợp nào quá xấu vì nghèo đói xảy ra, việc xét nâng lương, hóa giá nhà có chú trọng lãnh chỉ đạo. Giải quyết lao động tuy có nhiều cố gắng, nhưng cả nhiệm kỳ chỉ đạt 71,46%. Chủ trương mở rộng sản xuất để chăm lo đời sống có thực hiện, nhiều ngành cấp Huyện, xã, khối Giáo dục, lực lượng vũ trang, đã tổ chức được một số cơ sở sản xuất, bước đầu có cải thiện được mức độ đời sống CBCNV. Nhưng do một số cơ sở sản xuất làm ăn thua lỗ phải giải tán, đời sống CBNV hành chính sự nghiệp vì vậy rất khó khăn, lương không đủ sống, hiệu suất lao động có biểu hiện giảm. Khu vực sản xuất kinh doanh có khá hơn hành chính sự nghiệp nhưng những tháng gần đây, khi hạch toán theo 118/HĐBT do hiệu quả chưa cao, một số đơn vị tính không đạt theo thông số 120 lần hoặc 150 lần lương cơ bản cho CBNV. Nhìn chung, do sản xuất chưa lên mạnh, kéo theo đời sống khó khăn, việc chăm lo đời sống vật chất chưa căn cơ không ổn định, làm cho số đông cán bộ CNV hành chính sự nghiệp và cả nhân dân lao động nghèo còn nặng tâm tư.

- Về hoạt động văn hóa xã hội: Đã phấn đấu đạt một số chỉ tiêu quan trọng do Đại hội Đảng bộ Huyện lần IV đề ra.

- Công tác giáo dục: Bao gồm dạy nghề và dạy văn hóa ở cả 3 ngành học Nhà trẻ - Mẫu giáo, cấp I, II, III, Bổ túc văn hóa luôn nỗ lực khắc phục khó khăn để hạn chế dần tình trạng giảm sút chất lượng. Đã cơ bản xóa được học ca 3, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có nhiều tiến bộ. Phong trào học bổ túc văn hóa cho cán bộ nhân viên trong Huyện vẫn cố gắng duy trì khá tốt, Trung tâm dạy nghề vừa đào tạo tay nghề cho hàng ngàn thanh niên, vừa mở rộng sản xuất tạo nguồn thu, vừa thu hút học viên vào làm sau khi học. Y tế đã tổng kết được việc chỉ đạo phong trào 5 dứt điểm để chuyển sang săn sóc sức khỏe ban đầu. Chất lượng điều trị từ tuyến cơ sở đến Huyện có nâng lên đáng kể. Hiện nay, hầu hết các xã đều xây dựng được Trạm xá kể cả trạm xá Nhị Bình đang đổ móng. Đội ngũ Bác sĩ cũng được tăng cường về xã (7 xã đã có Bác sĩ). Hội Chữ Thập đỏ, Đội Vệ sinh phòng dịch cũng có nhiều hoạt động tích cực, phục vụ sức khỏe nhân dân tận xóm ấp, khu phố. Hoạt động văn hóa thông tin Đài Truyền thanh, có nhiều cố gắng. Hiện nay, mỗi xã đều có điểm vui chơi giải trí, chiếu video, như Nghị quyết nhiệm kỳ đã nêu. Hệ thống Đài Truyền thanh các xã cũng củng cố xong, Bản tin Huyện nâng dấn chất lượng, phát hành rộng rãi trong nhân dân. Nhu cầu hưởng thụ văn hóa cho nhân dân và thanh thiếu niên có nâng lên đáng kể. Hàng đêm, lượng người xem văn nghệ ở Nhà hát Huyện, Nhà Văn hóa Huyện và các tụ điểm khác bình quân tăng 4 lần so 1986. Đã xây thêm 14 nhà tình nghĩa do các ngành kinh tế xây dựng và Đoàn Thanh niên ở một số xã đã tự lực sửa chữa, cất mới 12 nhà bằng vật liệu nhẹ. Việc chăm lo gia đình chính sách có cố gắng; Trong đó một số xã ưu tiên dành đất để diện chính sách sản xuất hoặc cho tổ hưu trí thành lập cửa hàng đại lý… để cải thiện thêm đời sống. Cán bộ hưu trí thương binh, gia đình liệt sĩ đã tích cực đóng góp phù hợp hoàn cảnh mình. Có 81% hộ chính sách đạt danh hiệu “Người công dân kiểu mẫu”, 69% đạt gia đình “Cách mạng gương mẫu”. Con số này rất đáng quý, biểu hiện được lòng tin của những người “chí cốt” với cách mạng. Trong hai thời kỳ kháng chiến đã không ngại hy sinh. Nay vẫn tiếp tục nhiệt tình cùng Đảng bộ đóng góp xây dựng quê hương.

Mặt thiếu sót chung trong lãnh vực này cần nghiên cứu để lãnh đạo tiếp trong những năm tới là chất lượng học tập của học sinh cơ bản có giữ được nhưng chưa phát triển mạnh do chưa có sự quan tâm hỗ trợ của các ban ngành, đoàn thể và chưa có sự nỗ lực chủ quan của đội ngũ giáo viên các cấp. Công tác hướng nghiệp và việc phổ cập nghề cho thanh thiếu niên tuy có cố gắng vẫn chưa tương xứng với quy mô phát triển của giáo dục phổ thông. Công tác đoàn thể, phát triển Đảng ở ngành giáo dục chưa mạnh. Tỷ lệ vận đông trẻ em nghèo đến lớp đạt rất thấp, 50% số cháu lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo bị suy dinh dưỡng cũng là con số báo động. Về y tế, vấn đề quan tâm nhất vẫn là tỷ lệ phát triển dân số còn cao. Năm 1987 có giảm rõ 1,51% nhưng năm 1988 lại tăng cao (dự ước 1,701%) trong khi chỉ tiêu Nghị quyết đặt ra phải đạt 1,6%. Bệnh viện Huyện cũng cần phải tập trung để nâng cao chất lượng điều trị. Phong trào văn hóa văn nghệ chung toàn Huyện có nổi lên mặt tốt nhưng vẫn có bước thụt lùi, các Đội Thông tin Cơ sở hoạt động rất yếu kém gần như ngừng hẳn; Phong trào văn nghệ quần chúng không nuôi dưỡng thường xuyên và do phải phấn đấu chỉ tiêu nộp ngân sách nên một vài ngành lãnh vực này có khuynh hướng “thương mãi hóa”, nhẹ chú trọng mặt phục vụ nội dung. Video phát triển ở các xã là mặt tốt nhưng về nội dung phim chiếu cần quan tâm quản lý để không ảnh hưởng xấu tư tưởng thanh thiếu niên. Tệ nạn xã hội nhìn chung chưa được đẩy lùi, trong đó tệ nạn mê tín dị đoan còn nặng. Xây dựng nếp sống mới có lúc hầu như bị quên lãng. Phong trào kết nghĩa giữa các ngành kinh tế và địa phương xã để chăm lo diện chính sách gần đây có giảm. Việc chăm lo diện chính sách có lúc, có nơi còn hạn chế. Hoạt động thể dục thể thao tuy có cố gắng giữ ở các trường học, nhưng chung ở khối xã, phong trào thể dục thể thao gần như tự phát, thiếu sự quản lý, định hướng của ngành chức năng.

2. Lĩnh vực an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội:

Về an ninh cơ bản có giữ được, hai năm 1987 -1988 được Thành phố xếp vào loại tiên tiến. Hằng năm, Huyện đều xây dựng và triển khai Nghị quyết an ninh đến tận cơ sở, trong đó chú trọng củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động lực lượng an ninh từ Huyện đến xã. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc năm 1987 có chiếu hướng lắng xuống, năm 1988 Huyện đã tập trung củng cố để khơi dậy. Lực lượng dân quân, dân phòng được tổ chức đều khắp ở các xã – thị trấn, thường xuyên tuần tra đêm ở những khu vực trọng điểm, các đội dân phòng ở Thới Tam Thôn, Trung Mỹ Tây, Tân Xuân, Thị Trấn… đã phát hiện và bắt nhiều vụ trộm cướp, tạo được lòng tin trong nhân dân. Thực hiện Thông tri 35 Thành ủy và Chỉ thị 01/UBND Thành phố, Huyện đã xây dựng kế hoạch thực hiện, chủ động phòng ngừa và tấn công các loại tội phạm… Mặt tiến bộ của ngành Công an là ngoài việc phát huy các biện pháp nghiệp vụ, còn biết dựa vào quần chúng và lực lượng an ninh cơ sở để đấu tranh phòng chống các đối tượng gây án. Về công tác quân sự địa phương, đã chú trọng đến việc giáo dục luật nghĩa vụ quân sự và quốc phòng toàn dân trong thanh niên. Thực hiện công tác huấn luyện chiến đấu thường xuyên theo quy định, quản lý và động viên quân dự bị tham gia diễn tập theo kế hoạch hàng năm có đi vào nề nếp. Công tác tuyển quân năm 1987 do thiếu sót về khâu tổ chức, từ Huyện đến xã thiếu tập trung và chỉ đạo không đồng bộ nên chỉ đạt 75,5% chỉ tiêu, năm 1988 có cố gắng hơn, đạt 101% chỉ tiêu giao quân. Các ngành thuộc khối nội chính đã kết hợp khá chặt, nhất là 3 ngành trực tiếp thực hiện luật pháp như Công an, Viện Kiểm sát và Tòa án. Việc tiếp dân và xử lý thư khiếu nại, khiếu tố của nhân dân được duy trì thành nề nếp, những trường hợp phức tạp đều có sự bàn bạc thống nhất giữa các ngành trong khối để giải quyết.

Tồn tại ở lĩnh vực này là tuy có đưa ra nhiều biện pháp đấu tranh ngăn ngừa tội phạm, nhưng các vụ án hình sự (nhất là trộm cắp) vẫn chưa có chiều hướng giảm, lòng dân chưa thật an tâm, tỷ lệ phá án thấp do nghiệp vụ yếu. Tệ nạn xã hội vẫn còn xảy ra nhiều chưa có biện pháp đấu tranh ngăn chặn hiệu quả. Tình hình thực hiện luật pháp kể cả trong nội bộ và ngoài quần chúng chưa nghiêm. Công tác giáo dục nghĩa vụ quân sự trong thanh niên có làm nhưng chưa sâu, ý thức thực hiện luật nghĩa vụ quân sự của thanh niên chưa cao. Việc nắm quân dự bị chưa chắc, lực lượng dân quân tự vệ tuy số lượng đông nhưng chất lượng hoạt động yếu. Ở nhiều xã Bí thư Đảng ủy chưa làm tốt chức năng là chính trị viên xã đội.

III. XÂY DỰNG ĐẢNG, CỦNG CỐ BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN – XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG QUẦN CHÚNG

1. Xây dựng Đảng:

Quán triệt quan điểm của Nghị quyết V về đổi mới công tác xây dựng Đảng, vấn đề đặt ra trong Đại hội Đảng Huyện lần này là đi đôi kiểm điểm sâu lĩnh vực kinh tế, xã hội, chúng ta sẽ soát xét sâu lĩnh vực xây dựng Đảng, để tiếp tục có biện pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị đặt ra trong giai đoạn mới.

a) Công tác tư tưởng:

Đã được Huyện ủy tập trung đẩy mạnh nhất so từ trước đến nay, Huyện đã không ngại tốn kém chi phí thỏa đáng cho yêu cầu đào tạo bồi dưỡng như Nghị quyết nhiệm kỳ đề cập. Nhiều lượt cán bộ đã được triển khai, quán triệt các chủ trương, Nghị quyết lớn của Đảng như Nghị quyết Đại hội VI, Nghị quyết 16/BCT v.v… Trong đó, có vài Nghị quyết Trung ương như Nghị quyết Đại hội VI, Nghị quyết 10, Nghị quyết 5… thấy chưa “thấm”, đã được tổ chức học sâu đôi ba lần. Huyện đã mở liên tục các lớp chính trị sơ cấp, bồi dưỡng cán bộ đoàn thể, đối tượng Đảng, đối tượng Đoàn, báo cáo thời sự v.v… Đặc biệt, đã tổ chức và hoàn thành xong lớp chính trị Trung cấp tại chức tại Huyện cho hơn 200 cán bộ chủ chốt và chọn hơn 100 cán bộ đi học các lớp Đại học chính trị, kinh tế nông nghiệp, quản lý Nhà nước v.v… Các đợt tự phê, phê bình, đánh giá chất lượng Đảng viên, đóng góp nhân sự, nội dung Đại hội Đảng cơ sở cũng được tiến hành chặt chẽ, mời đông đảo quần chúng có tổ chức cùng tham gia.

Từ đó, nhận thức chung tiếp tục được nâng lên những bước khá dài. Quần chúng nhân dân và kể cả cán bộ Đảng viên biểu lộ có những phấn khởi tin Đảng trước không khí cởi mở, dân chủ hóa, công khai hóa. Số đông cán bộ Đảng viên tiếp thu khá sâu sắc những quan điểm đổi mới Nghị quyết VI, có giữ vững lập trường quan điểm và mở rộng tầm nhìn xa hơn, khoa học hơn. Cũng chuyển từ nhận thức, Huyện ủy đã xây dựng nhiệm vụ chính trị theo một định hướng thống nhất, trong đó chú trọng đổi mới mạnh mẽ tư duy về kinh tế soát xét lại Nghị quyết cả nhiệm kỳ để vạch Nghị quyết từng giai đoạn. Cơ sở cũng thấy rõ hơn nhiệm vụ chính trị của mình, vạch chương trình hành động trong đó Đông Hưng Thuận đã xây dựng nhiệm vụ chính trị địa phương phù hợp nên đạt một số kết quả khá tốt, Tân Xuân, Tân Hiệp có nhiều trăn trở trong xây dựng mô hình HTX nông nghiệp dù hiệu quả kinh tế còn phải tính thêm, nhưng đã có những chuyển đổi mạnh mẽ về tư duy kinh tế, nhiều đơn vị ngành xã khác, cũng đề ra nhiệm vụ chính trị phù hợp để đưa ngành mình, địa phương mình đi lên. Đặc biệt, qua đợt Đại hội Đảng cơ sở gần đây, hầu hết cơ sở đều có quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá khá trung thực những nguyên nhân yếu kém không đổ lỗi khách quan và vạch ra hướng đi hai năm tới theo khuynh hướng đổi mới chung. Mặt tồn tại về tư tưởng là do tình hình kinh tế - xã hội chung có những diễn biến phức tạp, căng thẳng, khó khăn cũ giải quyết chưa ổn, khó khăn mới lại phát sinh, nhiều vấn đề cấp bách đòi hỏi được giải quyết nhanh xung quanh sản xuất đời sống nhưng chậm chuyển biến, cũ và mới còn đan kẻ, trì kéo nhau, tiêu cực xã hội vẫn còn khá nhiều… Từ đó, tư tưởng một bộ phận cán bộ Đảng viên có biểu hiện lên xuống như làn sóng, phấn khởi, đồng tình, tin tưởng khi học Nghị quyết (nhất là đối với Nghị quyết 6) nhưng sau đó lại chưa thật an tâm, cho rằng đổi mới không triệt để, dân chủ hóa, công khai hóa tuy có tốt nhưng chưa rõ…, thậm chí nơi này, nơi khác có một vài trường hợp bộc lộ công khai bi quan, ngao ngán, buông tay. Đáng lưu ý hiện nay là trong Đảng bộ Huyện, một bộ phận Đảng viên vẫn còn tồn tại tư tưởng phong kiến, cục bộ, gây mất đoàn  kết nội bộ, bên cạnh những Đảng viên luôn giữ phẩm chất tốt đẹp, vẫn còn một số cán bộ Đảng viên tư tưởng lưng chừng, cơ hội, sự rèn luyện ý thức giai cấp và tính chiến đấu ở những Đảng viên này chừng mực nào đó còn thấp. Một ít cán bộ Đảng viên chưa bắt kịp những quan điểm đổi mới và những chuyển động mới của thời đại ngày nay, từ đó còn khép lại trong suy nghĩ, hiểu chưa thấu đáo về tính đa dạng của CNXH, có lúc dẫn đến chủ quan, nôn nóng, duy ý chí hoặc còn theo lối mòn cũ.

Nguyên nhân còn yếu kém trong công tác tư tưởng do nhiều yếu tố. Một mặt, do yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao, nhưng đổi mới công tác tư tưởng còn chậm, tuyên truyền bộc lộ nhiều hạn chế, vừa khô khan, vừa có lúc lại sa vào tuyên truyền sự tốt đẹp của CNXH một chiều, không lý giải được tình hình đang có những hiện tượng trái quy luật phát triển của xã hội. Mặt khác, Huyện ủy chưa lãnh đạo tốt phương châm “Toàn Đảng làm công tác tư tưởng”, một số Cấp ủy cơ sở buông trôi sinh hoạt tư tưởng, trong đó, khối xã chỉ có một biên chế bố trí kiêm 3 nhiệm vụ tuyên huấn, dân vận, kiểm tra nên nghiên cứu công tác tư tưởng không sâu. Trên mặt trận văn hóa văn  nghệ, có lúc phim ảnh tràn lan thiếu quản lý chặt chẽ, đã ảnh hưởng tư tưởng quần chúng làm cho giữa chống và xây bị xóa nhòa ranh giới. Cơ sở đề nghị nghe thời sự, nhiều khi tổ chức, rước báo cáo viên Thành phố về rất tốn kém, nhưng số lượng dự rất ít, có lúc không quá 20 nggười nên có những vấn đề nóng bỏng của thời đại có khi không được thấm cả chiều rộng lẫn bề sâu… Cũng bởi các nguyên do trên, một số chủ trương Nghị quyết Đảng còn dừng lại ở cấp Chi ủy, Đảng ủy, chưa được “tiêu hóa” tận quần chúng Đảng viên để tất cả Đảng viên hiểu và làm theo Nghị quyết Đảng.

b) Trong công tác tổ chức, cán bộ:

Xác định sức mạnh của Đảng chính là ở khâu tổ chức và cán bộ, xuyên suốt cả nhiệm kỳ, Huyện ủy cũng có mức độ tập trung lãnh đạo khá tốt mang công tác này.

Trước hết là mối quan hệ trong cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ngày càng thể hiện và hình thành rõ nét. Huyện ủy đã lãnh đạo thông qua Nghị quyết, Kế hoạch, Thông tri, Chỉ thị. Hiệu lực quản lý Nhà nước từng bước nâng lên thông qua việc cùng họp bàn thống nhất những chủ trương chỉ đạo trong các kỳ họp giao ban đầu tuần giữa Thường trực Huyện ủy – Thường trực Ủy ban Huyện, quyền làm chủ của nhân dân được tôn trọng thông qua làm việc định kỳ giữa Thường trực Huyện ủy với từng đoàn thể.

Việc củng cố bộ máy cũng được quan tâm đúng mức. Đến nay, những đơn vị yếu kém, thiếu cán bộ đều đã được bổ sung kiện toàn xong. Cả nhiệm kỳ, hơn 60 trường hợp đã điều chuyển cán bộ chủ chốt hoặc đề bạt nâng lên. Các trường hợp thay đổi, số ít do xử lý kỷ luật, còn lại hầu hết là trẻ hóa đội ngũ, nâng sức chiến đấu cho sơ cở, trong đó có đơn vị củng cố mãi không được đã quyết định giải thể (như Thanh niên xung phong). Có đơn vị quyết tâm củng cố nhiều lần nay đã hồi phục, khuynh hướng đi lên như xí nghiệp Cơ khí, xí nghiệp chế biến lâm sản, xí nghiệp Nước đá v.v… Quan điểm bố trí cán bộ “biết làm ăn” cũng được chú trọng như tinh thần Nghị quyết V đề cập. Từ đó, ở xí nghiệp Chăn nuôi heo, đã mạnh dạn bố trí đồng chí Giám đốc chưa phải là Đảng viên (từ đơn vị yếu nay khuynh hướng vươn lên). Một vài HTX nông nghiệp, Huyện ủy - Ủy ban bố trí Chủ nhiệm là quần chúng Kỹ sư giỏi (như ở Tân Xuân). Mỗi lần Đại hội, cũng là mỗi lần Huyện ủy cùng Cấp ủy cơ sở cân nhắc, thận trọng bố trí đội ngũ cán bộ trụ cột. Kết quả Đại hội Đảng cơ sở này đã thay đổi 38/69 đồng chí Bí thư cơ sở, trong đó đã thay 7 Bí thư xã, cũng là một mặt trong quan điểm thể hiện sự đổi mới trong công tác cán bộ của Đảng.

Tuy nhiên, công tác tổ chức cán bộ cũng còn không ít hạn chế. Khâu đào tạo bồi dưỡng có chú trọng nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu cách mạng đòi hỏi ngày càng cao. Hiện ở Huyện, nhiều đồng chí chủ chốt chưa qua Đại học, ở xã còn một số đồng chí lãnh đạo văn hóa chưa qua cấp II, III nên yêu cầu tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cũng còn nhiều khó khăn. Bố trí cán bộ có lúc còn chấp vá, thiếu đồng bộ, thiếu nghiên cứu sâu nội bộ đơn vị trước khi củng cố, đưa đến tình trạng một vài đơn vị giữa Ban lãnh đạo người cũ và mới giằng co, không thống nhất, có khí quá căng thẳng, Huyện ủy phải tiếp tục kiện toàn nữa, việc đánh giá cán bộ cũng cần quan tâm hơn, trong đó chú ý bố trí cán bộ làm công tác chính trị, lẫn kinh tế cho phù hợp. Trong bố trí cán bộ, cũng có trường hợp còn tréo ngành nghề, không sâu nghiệp vụ nên lãnh đạo đơn vị không bật lên được. Khi bố trí cũng còn thiếu kiên quyết, có trường hợp đã bàn quyết định trong Thường vụ Huyện ủy rồi, sau đó lại đưa ra bàn nhiều lần trong Thường vụ nữa… Nói chung, công tác tổ chức cán bộ có đạt được một số kết quả đáng kể, nhưng nếu làm tốt hơn nữa thì tình hình Huyện sẽ bung mạnh lên đúng mức, chứ không dừng lại ở mức độ hiện nay.

Nguyên nhân còn hạn chế trong công tác tổ chức cán bộ là do Huyện chưa làm tốt khâu quy hoạch đào tạo cán bộ, nên đội ngũ hiện nay vừa thừa, vừa thiếu, phải phân công chấp vá và sở dĩ còn tình trạng này, phần lớn cũng do trách nhiệm một số đơn vị cơ sở chưa quan tâm đến công tác quy hoạch cán bộ đơn vị mình, còn tính cách giao khoán cho hai Ban Tổ chức Huyện ủy, Tổ chức chính quyền lo. Mặt khác, việc phân công cán bộ cũng có nhiều dạng khá phức tạp, một số trường hợp bố trí, có phát huy vai trò, đưa đơn vị đi lên, nhưng cũng có trường hợp trì trệ, kết quả không cao ngoài dự kiến Huyện ủy, một vài trường hợp còn nể nang, vướng tình cảm, nên có khi bố trí hoạt động không hiệu quả, lại để kéo dài không dứt khoát. Bộ phận làm công tác tổ chức ở cơ sở cũng cực kỳ quan trọng nhưng vừa qua có nơi chưa tốt, phân công bố trí nhân sự chưa đúng đắn, bị phản ánh phiền hà, một hai trường hợp đồng chí Trưởng phòng Tổ chức ở khối sản xuất kinh doanh có dư luận tiêu cực.

 c) Công tác Đảng viên và đánh giá sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng:

- Về công tác Đảng viên:

Hai năm qua, Đảng bộ Huyện có lớn mạnh cả về số lẫn chất lượng. Qua phát triển hơn 380 Đảng viên và điều đi chuyển về, đến nay Huyện có hơn 1.970 Đảng viên. Số đông Đảng viên đã đứng vững trên vị trí chiến đấu, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Nhiều đồng chí trẻ mới kết nạp, đã phấn đấu vươn lên không ngừng, giữ nhiệm vụ trọng yếu ở đơn vị. Nhiều cán bộ hưu trí rất nhiệt tình tham gia công tác vừa sức “cố vấn”, thực hiện nhiều nội dung, tạo thành một lực lượng làm việc khá phong phú giữa đội ngũ trẻ - giá của Huyện.

Thông qua các đợt tự phê, phê bình đánh giá chất lượng Đảng viên nghiêm túc và thực hiện những việc cần làm ngay, trong đó tiến hành kiểm tra xử lý nghiêm minh các vụ tiêu cực (với hơn 500 Đảng viên có vấn đề phải tiến hành kiểm tra, xử lý kỷ luật với hình thức các loại, trong đó nặng nhất có 59 truờng hợp và trong những trường hợp này có 23 khai trừ và xóa tên, 8 cách chức), đã tác động rất lớn đến việc siết chặt đội ngũ, mỗi Đảng viên đã tự tu sửa, soi rọi lại mình. Kỷ cương của Đảng ngày càng chặt chẽ hơn, mức độ sai phạm trong năm 1988 có giảm hơn 1987 và 1986.

Điều quan tâm là chất lượng Đảng viên cần được tiếp tục chăm lo. Toàn Huyện chỉ có 38,67% Đảng viên tốt, còn lại 53,18% khá và hơn 8,15% Đảng viên yếu kém và xem xét tư cách. Tỷ lệ này cho thấy cơ thể Đảng chưa thật mạnh, số Đảng viên trung bình và yếu còn nhiều, đáng lo là con số này cũng đã chứng minh còn không ít Đảng viên chưa thể hiện rõ tính tiên phong gương mẫu, Đảng viên nhưng không hơn quần chúng. Mặt khác, qua xử lý tiêu cực, hầu hết các vụ đều rơi vào liên quan kinh tế, tham ô tư túi, thu vén cá nhân, phải bị khai trừ cách chức, trong đó có 2 Huyện ủy viên và 6 cán bộ lãnh đạo khác. Đây là nguyên nhân của những nguyên nhân đã làm cho một số phong trào Huyện không lên và ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín lãnh đạo chung của Đảng. Về phát triển Đảng tuy có nhiếu cố gắng, quan tâm lực lượng Đoàn viên ưu tú, chú ý phát triển những nơi xung yếu, nhưng chỉ tiêu cả nhiệm kỳ chỉ đạt 47,6% trong đó có một vài Chi bộ cả năm không phát triển Đảng viên nào, chứng tỏ có đơn vị rất chăm lo công tác phát triển Đảng, nhưng cũng có nơi chưa thật quan tâm.

- Về củng cố nâng cao sức chiến đấu của Đảng:

Ưu điểm là suốt cả nhiệm kỳ, Huyện ủy không lúc nào buông lơi lãnh đạo, nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Biểu hiện cụ thể trong lãnh đạo: Huyện ủy luôn chú trọng làm việc theo quy chế Ban Chấp hành để khơi dậy được mọi khả năng hoạt động của toàn Đảng bộ theo một khuynh hướng thống nhất. Trong sinh hoạt, đầu nhiệm kỳ, Ban Chấp hành hàng tháng họp một lần, sau cải tiến lề lối làm việc giảm hội họp, 3 tháng Ban Chấp hành mới họp một lần để kiểm điểm và bàn chỉ đạo những vấn đề trọng tâm. Trong những đợt công tác chuyên đề về xây dựng Đảng, đều tập trung lãnh đạo từ đầu đến cuối, có sơ tổng kết chặt chẽ, rút ra bài học kinh nghiệm chung để giúp cơ sở tiếp tục phấn đấu. Đặc biệt, trong đợt kiểm tra sự chuyển biến khối xã giữa nhiệm kỳ và vừa qua Đại hội Đảng cơ sở, Huyện ủy đã cùng thống nhất đánh giá mạnh yếu cụ thể từng đơn vị, xem nơi nào khả năng vươn lên mạnh, nơi nào còn khó khăn để có sự đầu tư lãnh đạo, giúp cơ sở vươn lên. Những biện pháp đã nêu có đem lại kết quả, xây dựng Đảng bộ cơ sở vững mạnh gần đạt chỉ tiêu so Nghị quyết nhiệm kỳ (42/69 đơn vị) có 9 đơn vị trước nay chưa nhận được cờ lần nào, đã nỗ lực vươn lên đạt vững mạnh, trong đó có 2 xã Xuân Thới Sơn, Thạnh Lộc và 7 Chi bộ ngành cấp Huyện.

Mặt hạn chế: Là sức chiến đấu của Đảng cần được liên tục kiện toàn thêm. Nhiều Chi bộ nhỏ còn yếu, một phần cũng do Huyện thiếu tổ chức bồi dưỡng năng lực hoạt động cho Cấp ủy cơ sở. Nguyên tắc sinh hoạt Đảng chưa thật sự tôn trọng. Có đơn vị đảm bảo họp sinh hoạt Chi bộ đúng định kỳ như ở Đông Thạnh, thì cũng không ít Chi bộ buông lơi sinh hoạt Chi bộ hàng kỳ, có khi 2, 3 tháng chưa họp một lần. Sinh hoạt Đảng ở khối sản xuất kinh doanh có nơi yếu, do năng lực Bí thư hạn chế. Hội họp cũng chưa nghiêm, nhiều cuộc họp do Huyện ủy, Ủy ban tổ chức dự không đúng thành phần, không đúng giờ, dự sáng vắng chiều, làm cho sự triển khai khi tiếp thu không đồng bộ, thực hiện thiếu tính tập trung cao. Công tác kiểm tra có đổi mới, làm tốt việc kiểm tra xử lý đúng người đúng tội, nhưng khâu kiểm tra định hướng, kiểm tra thực hiện Nghị quyết chưa thành nề nếp, để cùng nâng cao sức chiến đấu toàn Đảng bộ.

2. Về xây dựng bộ máy chính quyền:

Ở phần kiểm điểm xây dựng Đảng đã có xen kẻ một phần về xây dựng chính quyền, vì vậy ở nội dung này, chúng ta chỉ phân tích đánh giá thêm những vấn đề chủ yếu.

Mặt mạnh: Là Huyện ủy đã lãnh đạo tốt cuộc bầu cử Hội đồng Nhân dân hai cấp và bầu Ủy ban Nhân dân từ Huyện đến xã đạt yêu cầu, xây dựng được một đội ngũ làm công tác quản lý Nhà nước tương đối tốt. Hoạt động Hội đồng Nhân dân nhiệm kỳ này cũng có nhiều tiến bộ, từ Huyện đến xã đều có trụ sở tiếp dân. Việc tổ chức họp cử tri có tiến hành theo định kỳ, khả năng giải quyết kiến nghị cử tri đạt từ 60 đến 70%. Ban Thư ký Hội đồng Nhân dân Huyện hoạt động hiệu quả tốt. Huyện cũng đã tiến hành tinh giảm biên chế 20% cho bộ máy bớt cồng kềnh ở số nơi cần thiết và thực hiện kiện toàn bộ máy, sát nhập từ 25 phòng ban còn 13 phòng ban và 6 tổ chuyên viên theo Quyết định 90/UBND.TP.

Mặt hạn chế: Bộ máy Nhà nước hết sức quan trọng, là cầu nối đưa Nghị quyết Đảng đến dân thực hiện, nhưng có nơi còn yếu, dẫn tới thực hiện chủ trương Đảng còn chậm. Việc đôn đốc các cấp, các ngành, thi hành Nghị quyết HĐND Huyện cũng chưa sâu nên nói và làm theo Hiến pháp, pháp luật chưa thực hiện tốt, có nơi còn biểu hiện dân xem thường chính quyền địa phương (tự cất nhà đất có vụ xử lý kéo dài không giải quyết được). Tỷ lệ thi hành án cũng chưa cao. Sự chỉ đạo, quản lý thiếu sâu sát, để xảy ra nhiều vụ vi phạm kinh tế, đến khi phát hiện phải xử lý kỷ luật vừa tốn kinh phí, vừa tốn thời gian kiểm tra, vừa mất cán bộ. Các ban chuyên trách HĐND có hình thành nhưng vẫn còn hình thức, chưa tham mưu, hiến kế cho HĐND có những chuyên đề, mở ra những con đường thật mới cho Huyện đi lên. Giải quyết khiếu nại, khiếu tố còn chậm, có trường hợp dân lên xuống xin giải quyết nhiều lần, rất phiền hà. Việc kiện toàn sát nhập bộ máy có nơi từng bước ổn định hoạt động tốt, nhưng cũng có nơi việc ghép cơ quan không phù hợp, tréo chức năng khó hoạt động hoặc có đơn vị còn đang bước thâm nhập tình hình, nên chưa tập trung đẩy mạnh được những phong trào trọng điểm.

3. Phong trào quần chúng và hoạt động khối vận:

Trong điều kiện chung còn nhiều mặt giảm sút, công tác vận động quần chúng hai năm qua rất khó khăn, dù trình độ quần chúng ngày càng tăng lên.

Mặt tốt là Huyện ủy đã có quan tâm lãnh đạo và tạo điều kiện cho các đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc Huyện thúc đẩy phong trào quần chúng theo mục tiêu “lấy dân làm gốc”. Đồng thời, thông qua các đợt tiến hành tự phê và phê bình, thực hiện dân chủ hóa, công khai hóa, chống tiêu cực, phát huy 5 thành phần kinh tế, cho Việt kiều về thăm nhà v.v… Huyện có làm cho quần chúng phấn khởi, tin Đảng hơn, cùng tham gia một số mặt phong trào.

Dưới sự chăm sóc của Công đoàn và Hội Nông dân, giai cấp nông dân vẫn còn tin Đảng, dù có có lúc trải qua những biến động ruộng đất khá phức tạp, nhưng nội bộ nông dân vẫn ổn định, bám sản xuất, tự tháo gỡ khó khăn, một vài nơi đã xuất hiện mô hình “Người nông dân sản xuất kinh tế gia đình mới”. Giai cấp công nhân vẫn thể hiện được bản chất của mình nhiệt tình tích cực, dù ở vị trí công tác nào cũng có nhiều cố gắng hoàn thành nhiệm vụ, công nhân trực tiếp sản xuất, người lao động lãnh vực tiểu thủ công nghiệp vẫn nỗ lực phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, chuyển đổi mặt hàng phù hợp thị hiếu thị trường góp phần cùng hoàn thành kế hoạch Nhà nước.

Qua thúc đẩy hoạt động của Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ lực lượng thanh thiếu niên, quần chúng phụ nữ có nâng nhận thức về tình hình mới, trong đó Đoàn Thanh niên từng bước chuyển biến đáng kể trong cách nghĩ, cách làm, đưa phong trào vào chiều sâu, vận động được khá đông thanh niên tham gia một số công trình mới như: Tháng năng suất chất lượng, công trình xây dựng nhà tình nghĩa, kết hợp cùng Công đoàn và các ngành lĩnh vực văn hóa xã hội tổ chức hội thảo, hội diễn v.v… Hội Phụ nữ đi sâu vận động giới nữ thực hiện phong trào người phụ nữ mới. Năm 1983, bình chọn trên 19.000 chị đạt danh hiệu, cùng Ủy ban Thiếu niên Nhi đồng, Giáo dục, Y tế chăm sóc thiếu niên nhi đồng, bảo vệ hạnh phúc phụ nữ, trẻ em, vận động phụ nữ các giới, trong đó chú ý giáo dục đối tượng tiểu thương thực hiện chủ trương Nhà nước trong quản lý giá, mua ngay bán thật… Mặt trận Tổ quốc thời gian qua đã tiếp tục thực hiện tốt vai trò trung tâm đoàn kết, ngoài yêu cầu tiếp tục phát động các phong trào lớn đóng góp trị an, mua công trái… Mặt trận còn làm cầu nối khá rõ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân thông qua việc tham mưu Huyện ủy nhiều lần tiếp xúc giới linh mục, những nhà công thương gia, cùng chính quyền tổ chức các buổi họp mặt cử tri Quốc hội, HĐND, để quần chúng có dịp nói với Đảng – chính quyền tâm tư, nguyện vọng và lĩnh hội chủ trương chung của trên cũng như của Huyện.

Mặt tồn tại cơ bản nhất được ghi nhận là phong trào quần chúng, nhất là ở địa bàn dân cư, ngày càng có biểu hiện giảm sút, không khôi phục được khí thế sôi nổi bằng những năm đầu sau giải phóng như Nghị quyết nhiệm kỳ đề cập. Tư tưởng nhân dân vẫn còn hướng về Đảng, nhưng do kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, bộc lộ nơi này nơi khác, nhân dân còn phiền trách Đảng thiếu tin Nhà nước, nặng tâm tư v.v… Nói cách khác, Huyện chưa thật tạo được động lực cách mạng trong quần chúng.

Hạn chế này do nhiều nguyên nhân. Ngoại trừ nguyên nhân khách quan do tình hình chung chi phối, trước hết, trách nhiệm thuộc về sự lãnh đạo của Huyện ủy, chưa thật chăm lo đoàn thể đúng mức. Việc xây dựng Nghị quyết Huyện ủy chuyên đề về công tác vận động quần chúng thì có làm, nhưng triển khai và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện Nghị quyết vận động quần chúng thì không làm đến nơi đến chốn. Từ đó, Huyện ủy chưa làm toàn Đảng bộ thấu suốt quan điểm quần chúng để mọi cấp, mọi ngành, mọi Đảng viên đều làm công tác vận động quần chúng. Nhiều Cấp ủy – chính quyền cơ sở cũng chưa chăm lo bộ máy đoàn thể tương ứng để đoàn thể đủ sức hoạt động, có nơi còn tình trạng làm cho bộ máy đoàn thể chấp vá, điều chuyển cán bộ đoàn thể có năng lực sang công tác khác, trong lúc chưa đào tạo bố trí kịp cán bộ thay thế, có xã chưa cung cấp điều kiện tối thiểu cho đoàn thể hoạt động như kinh phí, văn phòng phẩm v.v… dẫn đến tình trạng cán bộ đoàn thể ngao ngán làm công tác đoàn thể vì vừa “không tiền lại không quyền”.

Bản thân đoàn thể cũng còn nhiều nhược điểm. Tuy trong cả nhiệm kỳ, các đoàn thể đều chú trọng củng cố tổ chức, phát triển Đoàn viên, Hội viên đạt chỉ tiêu, mà mỗi đoàn thể đều có trên 3 – 40.000 Hội viên, nhưng thực chất tỷ lệ quản để sinh hoạt thì rất thấp. Dạng chung các tổ hội, chi đoàn nhỏ ở địa bàn dân cư còn yếu, còn lúng túng trong phương thức hoạt động theo khuynh hướng mới, nội dung sinh hoạt còn khô khan, chưa hấp dẫn. Thậm chí có nơi cả 6 tháng chưa sinh hoạt một lần. Yếu kém này trách nhiệm một phần do đoàn thể cấp Huyện thiếu sâu sát cơ sở để kiểm tra đôn đốc và chỉ đạo mở rộng phong trào. Nhận định được hiện trạng này, trong 6 tháng cuối năm 1988, Nghị quyết Huyện ủy đã mạnh dạn để yêu cầu củng cố bằng biện pháp “Hội viên nào không muốn ở lại Hội” thì làm đơn xin ra, nhưng đến nay vẫn chưa củng cố được.

IV. KẾT LUẬN

Trong từng lãnh vực, đã có nhận định sâu ưu, khuyết, nguyên nhân. Xét tổng thể chung sau hai năm thực hiện Nghị quyết cả nhiệm kỳ, Huyện có những mạnh, yếu cơ bản.

Về mặt mạnh: Trong chủ trương chỉ đạo, Huyện luôn thực hiện song đôi cả hai mặt phát triển kinh tế lẫn xây dựng lực lượng, xây dựng Đảng.

Công tác xây dựng Đảng tương đối yên tâm, đạt được một số kết quả đáng kể như Nghị quyết nhiệm kỳ định hướng. Hiệu lực quản lý Nhà nước từng bước có nâng lên. Các đoàn thể Mặt trận Tổ quốc có nhiều cố gắng thúc đẩy phong trào quần chúng trong điều kiện còn khó khăn nhiều mặt.

Trong phát triển kinh tế, đã chú trọng thúc đẩy sản xuất, kể cả nông nghiệp lẫn công nghiệp phát triển để trở bộ tích lũy đi lên từ sản xuất. Từ đó, đã cố gắng giữ diện tích gieo trồng, tốc độ phát triển sản xuất công nghiệp tăng khá nhanh, tạo được tiền đề chuyển cơ cấu kinh tế phù hợp cho những năm sau. LTPP có những tiến bộ mới, đời sống văn hóa được nâng lên một bước, hoạt động văn hóa xã hội đi đúng trọng tâm Nghị quyết nhiệm kỳ. An ninh quốc phòng giữ vững.

Về mặt yếu:

Nhìn chung hai năm qua, Huyện có phát triển, nhưng tốc độ còn chậm. Trong xây dựng lực lượng: sức chiến đấu toàn Đảng bộ còn hạn chế, trong đó chất lượng sinh hoạt Chi bộ nhỏ, chất lượng Đảng viên phải tính thêm, hoạt động các đoàn thể tận màng lưới chân rết còn yếu. Bộ máy Nhà nước từ Huyện đến cơ sở cần tiếp tục kiện toàn.

Trong phát triển kinh tế, nền sản xuất chưa bung mạnh, Nông nghiệp chưa thể hiện mặt trận hàng đầu, các chỉ tiêu trọng yếu về năng suất, sản lượng lúa rau, con heo, đều không đạt. Sản xuất công nghiệp có chuyển nhưng hiệu quả chưa đồng bộ, sản xuất tiểu thủ công nghiệp còn yếu. Thương nghiệp XHCN có đơn vị hoạt động hiệu quả thấp, chưa thật sự tạo thế mạnh liên hoàn giữa sản xuất và kinh doanh. Do sản xuất chưa thật mạnh, kéo theo đời sống văn hóa xã hội còn nhiều khó khăn, ngân sách vẫn còn mất cân đối. Tư tưởng trong nội bộ và cả quần chúng nhân dân chưa thật phấn khởi.

Từ những mạnh - yếu nêu trên, Huyện đút kết, rút ra bài học kinh nghiệm về lãnh chỉ đạo như sau:

1. Phải luôn đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức bắt kịp xu thế chuyển động chung để tự tháo gỡ, để chủ trương sát đúng, chỉ đạo phải có trọng tâm, trọng điểm:

Những thành tựu hoặc yếu kém đã qua đều do xuất phát từ chủ trương, đường lối của Huyện đúng hay chưa thật phù hợp. Những mặt đã làm được là do Huyện ủy có bắt kịp xu thế đổi mới chung để hướng đi sát đúng theo khả năng thực tế. Trong thực hiện, đã rà soát Nghị quyết cả nhiệm kỳ, mặt nào không vướng cơ chế, thì ra sức đẩy lên, mặt có ghi trong Nghị quyết nhưng không còn phù hợp theo Nghị quyết VI thì cân nhắc không thực hiện. Trong chỉ đạo có chú ý chăm sóc mô hình như lấy xã Đông Hưng Thuận sản xuất công nghiệp giỏi, HTX nông nghiệp Xuân Lộc làm ăn hiệu quả, các cửa hàng kinh doanh tổng hợp của xã An Phú Đông, Trung Mỹ Tây, Tân Thới Nhứt v.v… làm mũi nhọn, thôi thúc sự phát triển chung của Huyện.

Trong lãnh chỉ đạo, cũng phải khẳng định được đâu là khâu then chốt nhất để tạo “điểm nút”, cùng tập trung tạo bước nhảy vọt. Vừa qua, tuy mặt tốt là đôi lúc Huyện có “lún” vào sự vụ, nhưng vẫn không buông những mục tiêu lâu dài để chỉ đạo đúng hướng, nhưng chưa thật đầu tư nghiên cứu cho bật ra một đề án nào có tầm cỡ để xoay chuyển mạnh tình hình (kể cả trong nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp) dẫn đến nền kinh tế Huyện có phát triển, nhưng tốc độ còn chậm. Đây là bài học sâu sắc cả về chủ trương lãnh đạo, lẩn về chỉ đạo tổ chức thực hiện, cần ghi nhận đậm nét, để thời gian tới đây cùng thực hiện tốt hơn.

2. Công tác tổ chức cán bộ phải được thực hiện như một biện pháp chủ yếu để có khả năng đáp ứng ngang tầm nhiệm vụ chính trị:

Cán bộ là yếu tố quan trọng để thúc đẩy mọi phong trào, cần phải đào tạo một đội ngũ có năng lực ngang tầm nhiệm vụ chính trị. Vừa qua, Huyện có tập trung khâu này, nhưng lượng cán bộ có năng lực vẫn thiếu để cung cấp cho những địa bàn cần thiết. Mặt khác, một bộ phận cán bộ bị phai mờ lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, sa sút phẩm chất phải xử lý kỷ luật, hầu hết lại rơi vào liên quan kinh tế, đã là nguyên nhân của những nguyên nhân kềm hãm phong trào. Tới đây, đi đôi yêu cầu nhiệm vụ chính trị, phải đặt nặng yêu cầu tập trung đẩy mạnh công tác tổ chức và cán bộ cho tương xứng, trong đó cần bố trí những cán bộ thật sự có năng lực đạo đức vào những khâu trọng yếu.

3. Phát huy tốt mọi mối quan hệ để phát triển nền kinh tế Huyện:

Kinh nghiệm đã cho thấy, muốn đạt kết quả tốt, Đảng bộ và nhân dân phải đoàn kết thống nhất một lòng, tạo nên sức mạnh tổng hợp cùng thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối. Trong quá trình hoạt động, phải biết tranh thủ sự trợ giúp của Thành phố cả về chỉ đạo, chủ trương lẫn quan tâm tháo gỡ một số điều kiện cụ thể. Song song, phải biết nắm lấy thời cơ phát huy mạnh mẽ liên kết, liên doanh để thu hút những năng lực từ bên ngoài vào, làm cho thế mạnh của huyện ngày càng phong phú, đa dạng.

PHẦN THỨ HAI

PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CHỦ YẾU CỦA ĐẢNG BỘ NHIỆM KỲ V (1989 – 1990)

Hai năm tới, cả nước vẫn tiếp tục tập trung thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Viễn ảnh chung cho thấy tình hình vẫn còn nhiều khó khăn, gay go hơn cả hiện nay, đồng thời cũng sẽ có nhiều khả năng mới mở ra từ những cơ chế, chính sách “cởi trói” của trên. Do đó:

VỀ TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO

Huyện chủ trương tập trung đổi mới tư duy theo quan điểm “mở thoáng”, nhằm tiếp cận sát tình hình biến chuyển chung trong Thành phố và cả nước. Soát xét chặt chẽ mọi nguồn tiềm năng, thế mạnh của Huyện, để đề ra chỉ tiêu, mục tiêu vừa sức phấn đấu, sát khả năng thực hiện và trên cơ sở tự cân đối là chính.

VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VÀ XÁC ĐỊNH MŨI NHỌN

Do tốc độ phát triển công nghiệp hai năm qua tăng lên rất nhanh so với nông nghiệp, năng suất lao động cũng cao hơn, hiệu quả đầu tư và khả năng thu hút lao động từ công nghiệp cao hơn nông nghiệp. Do đó, cơ cấu kinh tế trong nhiệm kỳ V được xác định là CÔNG - NÔNG - THƯƠNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ, trong đó công nghiệp chế biến và gia công hàng xuất khẩu là mũi nhọn.

VỀ XÁC ĐỊNH MỐI QUAN HỆ VÀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ

Công nghiệp phát triển mạnh phải trên cơ sở nông nghiệp cùng phát triển. Do vậy, hai năm tới sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu, để khai thác mạnh mẽ mọi nguồn tiềm năng, tạo tốc độ phát triển kinh tế nhanh, thu hút triệt để các thành phần kinh tế trên địa bàn và cả bên ngoài vào; Vừa giải quyết mạnh lao động, đồng thời tiến tới tích lũy, cân đối đầu tư phát triển sản xuất – trong đó có sản xuất nông nghiệp, tạo mối quan hệ liên minh công nông chặt chẽ. Sản xuất nông nghiệp được xen là mặt trận quan trọng nhằm tiếp tục giải quyết lương thực, thực phẩm, việc làm cho nông dân, tạo vùng nguyên liệu cung ứng cho sản xuất công nghiệp.

Xác định mối quan hệ không thể tách rời giữa công nghiệp và nông nghiệp, Huyện sẽ tập trung tính toán cân đối đầu tư có hiệu quả cho cả hai mặt trận công nghiệp và nông nghiệp cùng phát triển. Đầu tư nào không hiệu quả, nhất thiết phải được sửa chữa, thay đổi kịp thời, tựu trung nhằm nâng nền sản xuất của Huyện (cả công nghiệp và nông nghiệp) lên một bước mới.

Từ chủ trương nêu trên, nhiệm vụ nhiệm kỳ V của Huyện được xác định có BỐN MỤC TIÊU CƠ BẢN như sau:

1. Tập trung chỉ đạo bằng mọi biện pháp để phát triển kinh tế, tạo một bước chuyển về chất trong sản xuất và đời sống. Chú trọng phương châm năng suất, chất lượng, hiệu quả, phát huy khả năng các thành phần kinh tế, đẩy mạnh nền sản xuất hàng hóa.

2. Quan tâm đưa các hoạt động văn hóa xã hội đi vào chiều sâu, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần với mức khá hơn hiện nay.

3. Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, xây dựng Huyện thành khu vực phòng thủ của Thành phố.

4. Thật sự đổi mới trong công tác xây dựng lực lượng, đánh giá đúng thực trạng những khâu còn yếu để khắc phục đẩy lên theo tinh thần Nghị quyết V Ban Chấp hành Trung ương (khóa 6) và Nghị quyết IV của Bộ Chính trị.

Trong bốn mục tiêu trên, xác định mục tiêu phát triển kinh tế là mục tiêu trọng tâm, các mục tiêu khác đều nhằm phục vụ cho mục tiêu này và vì mục tiêu này mà tồn tại và phát triển.

Để thực hiện 4 mục tiêu nêu trên, Huyện có những nhiệm vụ cụ thể và các biện pháp trong hai năm 1989 – 1990 như sau:

I. VỀ KINH TẾ

1. Tận dụng mọi nguồn khả năng, góp phần cùng Thành phố đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, tiếp tục thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng:

a) Về chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu:

CHỈ TIÊU

Toàn ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp phấn đấu đến năm 1989 đạt 410 triệu giá trị tổng sản lượng (giá cố định 1982) tăng 18,4% so với năm 1983, đến năm 1990 đạt từ 550 – 600 triệu tăng 27,6% so năm 1989. Tỷ trọng công nghiệp quốc doanh đến năm 1990, phấn đấu chiếm 35% giá trị tổng sản lượng toàn ngành.

HƯỚNG CHUNG

Với quan điểm xem đây là mũi nhọn nền kinh tế Huyện, hai năm tới sẽ tập trung đầu tư đẩy mạnh sản xuất công nghiệp nhẹ - tiểu thủ công nghiệp, để vừa tăng thu ngân sách, vừa giải quyết lao động, vừa tích lũy để “tái đầu tư”, mở rộng sản xuất cả công nghiệp lẫn nông nghiệp phát triển. Chủ trương giữ vững và nâng cao hiệu quả các xí nghiệp hiện có, cơ sở nào, sau nhiều lần củng cố không được sẽ giải thể hoặc cho chuyển hướng. Đi đôi với xây dựng thêm những xí nghiệp mới bằng vốn tư nhân, vốn liên doanh liên kết, tạo điều kiện thuận lợi tiếp nhận các xí nghiệp từ Thành phố chuyển về. Xí nghiệp tư nhân mới xây dựng để thu hút lao động. Điểm cần chú ý là Huyện có điều kiện về mặt bằng thuận lợii, cần phải cho thuê mặt bằng với mọi hình thừc để xây dựng nhà máy, xí nghiệp lớn. Đồng thời, liên kết với các trường Đại học để đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Tiến hành quy hoạch khu công nghiệp của Huyện, chú trọng đầu tư phát triển công nghiệp chế biến để nâng cao chất lượng hàng nông sản. Trong tình hình còn khó khăn, cần xác định quan điểm “lấy ngắn nuôi dài”, trước mắt phát triển công nghiệp sơ chế hàng nông sản và gia công hàng xuất khẩu (giày da, may mặc, đũa tre…) tạo tiền đề để phát triển công nghiệp chế biến cho những năm sau. Tiếp tục phát triển các xí nghiệp quốc doanh cấp xã ở những nơi có điều kiện.

BIỆN PHÁP

- Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp phải gắn với thị trường và quan hệ cung cầu, không ngừng củng cố và mở rộng sản xuất các mặt hàng có chất lượng cao. Tích cực hỗ trợ các cơ sở giải phóng năng lực sản xuất không phân biệt loại hình tổ chức (quốc doanh, tập thể, tư nhân) để khai thác nguồn vốn, tay nghề của các thành phần kinh tế. Đầu tư tạo mặt hàng mũi nhọn để xuất khẩu.

- Khối công nghiệp quốc doanh chú ý đầu tư mở rộng phân xưởng ở những đơn vị có quy mô sản xuất lớn như xí nghiệp Cơ khí, xí nghiệp Đường, xí nghiệp Nước đá, xí nghiệp chế biến lâm sản…, để nâng cao năng lực sản xuất. Nghiên cứu tách cơ sở giày da, may mặc thuộc Công ty Cung ứng hàng xuất khẩu để thành lập xí nghiệp độc lập, nâng hiệu quả quản lý sản xuất. Khu vực tiểu thủ công nghiệp tiếp tục củng cố các cơ sở tập thể, giải thể những cơ sở làm ăn không hiệu quả, khuyến khích các thành phần kinh tế thành lập cơ sở sản xuất. Đổi mới trang thiết bị ngành dệt để có khả năng cạnh tranh thị trường. Chuyển từ hình thức gia công sang mua nguyên liệu bán thành phẩm, mở rộng tự do mua bán nguyên liệu và sản phẩm (trừ những nguyên liệu cấm) để điều hòa và thúc đẩy sản xuất. Về thuế, sẽ thực hiện theo luật bổ sung và vận dụng Chỉ thị 15/HU để kích thích sản xuất.

- Các ngành kinh tế tổng hợp như Kế hoạch, Tài chính Ngân hàng, Thuế… cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các đơn vị xí nghiệp tập thể, cá thể, tư nhân sản xuất lợi nhuận ngày càng tăng, Công ty Dịch vụ, sản xuất tiểu thủ công nghiệp của Huyện mới được thành lập cần phát huy tốt vai trò làm dịch vụ cung ứng nguyên liệu, vật tư, thiết bị… chú ý giao dịch với Công ty nước ngoài để nhận đầu tư, hợp tác, viện trợ phục vụ cho phát triển sản xuất.

- Công tác kế hoạch hóa phải thay đổi phù hợp với yêu cầu đổi mới (đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh chỉ giao một chỉ tiêu nộp ngân sách). Thực hiện giao quyền chủ động cho cơ sở, phát huy quyền chủ động của Giám đốc ở các đơn vị sản xuất kinh doanh, Giám đốc là người quyết định và chịu trách nhiệm trước cấp trên, nhân sự trong nội bộ xí nghiệp, công ty do Giám đốc quyết định. Soát xét lại đội ngũ Giám đốc, Phó Giám đốc để kiện toàn hợp lý, trong đó Giám đốc không nhất thiết phải là Đảng viên mà phải là người làm kinh tế giỏi. Các ngành cấp Huyện có trách nhiệm giúp đỡ các đơn vị thực hiện tốt chỉ tiêu kế hoạch, không can thiệp sâu vào nội bộ của xí nghiệp. Nhà nước quản lý xí nghiệp thông qua kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kế hoạch và nghĩa vụ của xí nghiệp đối với Nhà nước. Phải có quy định xử phạt đối với các đơn vị thương nghiệp ký hợp đồng mua sản phẩm nhưng thanh toán chậm trễ để trượt giá làm thiệt hại tài sản xí nghiệp. Thương nghiệp XHCN phải có trách nhiệm gắn bó với các đơn vị sản xuất, thu mua phần lớn các sản phẩm do các xí nghiệp của Huyện sản xuất. Về giá cả do xí nghiệp cân đối đầu vào, đầu ra mà định lấy giá trên quan điểm không đội giá thị trường và không gây thiệt hại cho xí nghiệp.

- Khuyến khích sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp phát triển bằng cách ưu tiên về mặt bằng, điện, thuế… cho các cơ sở quốc doanh, tập thể, tư nhân trong ngoài Huyện kể cả tư sản nước ngoài. Các cơ sở sản xuất thu hút được nhiều lao động, sản phẩm có giá trị xuất khẩu thì được ưu tiên về nhiều mặt hơn. Đối với các đơn vị xuất khẩu thì được ưu tiên về nhiều mặt hơn. Đối với các đơn vị mới thành lập hoặc thay đổi thiết bị hiện đại thì được miễn thuế lợi tức ít nhất là 2 năm. Cho phép các cơ sở tiểu thủ công nghiệp của HTX, tư nhân, gia đình được bán máy móc, thiết bị lạc hậu để mua sắm trang thiết bị mới. Tranh thủ sự giúp đỡ của Thành phố để triển khai thực hiện tốt Chỉ thị 15/HU.

- Tiếp cận thị trường quốc tế, trong nước để sản xuất các loại sản phẩm theo quy luật cung cầu, trong đó chú trọng sản xuất những mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao như giày da, đậu phộng, bao bì, mành trúc, ngà sừng, bánh tráng và một số sản phẩm mới khác theo nhu cầu xã hội. Chọn lọc một số mặt hàng chất lượng tốt để tìm thị trường xuất thẳng, tạo ngoại tệ cho Huyện.

- Các cơ sở sản xuất dù là thành phần kinh tế nào nếu thiếu vốn đều được quyền liên kết kinh doanh với cá nhân đơn vị trong và ngoài Huyện, kể cả Việt kiều hoặc tư nhân nước ngoài.

- Cần có chế độ lương thỏa đáng cho những cán bộ quản lý, kỹ thuật giỏi, tạo ra nhiều thuận lợi cho Nhà nước. Trong điều kiện sản xuất hàng hóa, cần phải có chính sách chiêu tập, trọng dụng nhân tài để quy tụ chất xám các nơi về phục vụ việc đầu tư, phát triển kinh tế của Huyện.

2. Về chương trình sản xuất lương thực – thực phẩm: Trong hai năm 1989 – 1990, tập trung đầu tư theo từng vùng gò, triền, trủng để thâm canh tăng vụ, tăng vòng quay diện tích. Đầu tư theo thứ tự ưu tiên 4 loại cây chủ lực là đậu phộng, mía, lúa, rau.

CHỈ TIÊU PHẤN ĐẤU

* Về cây lúa, phấn đấu hết năm 1990 toàn Huyện đạt 8.400ha, tăng 0,87% so 1988, năng suất bình quân đạt 3,2 tấn/ha, sản lượng 26.880 tấn. Tổng diện tích gieo trồng rau là 4.000ha, năng suất 15 tấn/ha, sản lượng 60.000 tấn so năm 1988, trong đó diện tích rau chuyên canh là 1.200ha.

* Các loại cây công nghiệp ngắn ngày cố gắng giữ và phát triển diện tích như: đậu phộng đến năm 1990 đạt từ 1.000 đến 1.200 ha (năng suất 1,5 tấn/ha), cây mía 1.600ha (năng suất 50 tấn/ha), thuốc lá 230ha, chú ý chăm sóc vườn cao su (ở xã Tân Thới Hiệp), phát động trồng mới tiêu, dừa, điều, chuối và chăm sóc mở rộng trồng tre, trúc… trong nhân dân để tăng lượng nông sản tạo thành vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất chế biến và xuất khẩu nâng cao kinh tế gia đình. Tiếp tục hướng dẫn các tập đoàn, HTX và nhân dân trồng các loại rau có giá trị kinh tế và trồng màu (bắp, lang, mì) để vừa nâng giá trị hàng nông sản, vừa tạo nguồn nguyên liệu chế biến thực phẩm, phục vụ chăn nuôi.

* Về chăn nuôi: Heo vẫn được coi là chủ lực. Phấn đấu đến 1990 đạt từ 20 – 26.000 con, trong đó đàn heo quốc doanh đạt 2.200 con. Giữ vững đàn trâu, bò hiện có. Phát huy hiệu quả hoạt động của xí nghiệp chăn nuôi heo và chế biến thức ăn gia súc để tăng dần đàn heo, mở rộng hình thức nuôi gia công với các đơn vị của Huyện. Tiến hành nâng cấp Thú y thành Công ty Dịch vụ Chăn nuôi thực hiện ba chức năng thuốc thú y, tổ chức sản xuất thức ăn gia súc và ký kết hợp đồng gia công. Về thủy sản: chú trọng tận dụng và phát triển diện tích ao, hồ để nuôi tôm, cá ở 3 xã ven sông, chú ý nuôi tôm giống. Tiếp tục phát động nhân dân chăn nuôi gia cầm (vịt, gà công nghiệp, cút, thỏ) để phát triển kinh tế gia đình.

BIỆN PHÁP

Tiếp tục phân vùng quy hoạch, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng để tăng năng suất, sản lượng, thâm canh tăng vụ mở rộng diện tích tạo nguồn hàng nông sản phục vụ công nghiệp chế biến. Tách tổ Khoa học Kỹ thuật khỏi Phòng Kế hoạch - Thống kê tổ chức thành một đơn vị (Ban hoặc Tổ) hoạt động độc lập trực thuộc Ủy ban Huyện để có điều kiện đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thúc đẩy sản xuất. Tiếp tục tập trung hoàn chỉnh hệ thống kênh mương nội đồng để phát huy nguồn nước thủy lợi. Các xã – thị trấn phải chú trọng thực hiện ngày công lao động XHCN, làm thủy lợi nội đồng để chủ động tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Vật tư phân bón phải xác định trên cơ sở chủ động để cân đối theo từng vụ và chủng loại cây trồng là chính, không dừng lại chỉ tiêu tiếp nhận từ Thành phố. Chú trọng đổi mới phương thức phân phối vật tư theo hướng thương mại hóa, mở rộng các điểm mua bán vật tư, bán thẳng cho nhân dân, không qua khâu trung gian. Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Phụ nữ kết hợp phát động phong trào làm phân hữu cơ. Huyện nghiên cứu chỉ đạo thành lập một hoặc hai cơ sở sản xuất phân vô cơ có chất lượng.

- Khuyến khích phát triển kinh tế vườn để người nông dân sống được trên mảnh vườn của họ và có điều kiện gắn bó với kinh tế tập thể (Tập đoàn – HTX nông nghiệp) hơn. Các đơn vị như xí nghiệp Chế biến Nông sản xuất khẩu, Công ty Xuất khẩu, xí nghiệp Chế biến Thực phẩm và các đơn vị thương nghiệp khác cần có kế hoạch đầu tư một số loại cây, con phân tán trong nhân dân như tiêu, chuối, bò sữa, gừng… Nông dân sau khi thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, được quyền tiêu thụ sản phẩm thừa. Huyện sẽ kiến nghị Thành phố được thành lập Công ty Rau để có điều kiện tập trung đầu tư cho vùng rau phát triển.

- Trong cải tạo nông nghiệp: HƯỚNG CHUNG: Tiếp tục giữ thành quả cách mạng theo hướng soát xét lại những trường hợp đã điều chỉnh đất đai đúng thì giữ, sai thì sửa theo tinh thần Thông báo 77/TU và Chỉ thị 47/BCT. Trước mắt, thực hiện đúng theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, tạo cơ sở cho nông nghiệp có sản xuất hàng hóa, nông dân sống được và tăng cường nông sản phẩm cho xã hội. Các HTX, tập đoàn sản xuất phải chủ động tự tính toán tìm bước đi thích hợp quy luật, đổi mới cơ chế quản lý theo Nghị quyết 10/BCT, tự mình phải thể hiện vai trò cần thiết, không thể thiếu được với nông dân nếu muốn tồn tại và phát triển.

BIỆN PHÁP

- Khai thác triệt để tiềm năng và tay nghề của những người làm ruộng giỏi. Huyện xin thêm vùng đất Nhị Xuân, các xã tự cân đối quỹ đất đai để cho những người này nhận khoán một diện tích (do Huyện, xã quyết định) với thời gian sản xuất dài hạn. Thừa nhận quyền sử dụng ruộng đất lâu dài từ 15 – 30 năm tùy theo loại cây trồng, có chính sách ưu đãi đối với những người nông dân cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi và những cán bộ làm nông  nghiệp giỏi.

- Các ngành chức năng của Huyện phải có chính sách đầu tư về vốn, vật tư… tạo điều kiện cho nông dân sản xuất trên cơ sở quan hệ kinh tế hai chiều, bình đẳng cũng có lợi. Sản phẩm nông dân làm ra phải có chính sách thu mua thỏa đáng để khuyến khích sản xuất. Ngoài nghĩa vụ thuế nông nghiệp và giao nộp sản phẩm theo hợp đồng, nông dân không phải nộp quỹ nào khác.

- Trong cải tạo nông nghiệp, xác định lấy hộ gia đình làm đơn vị sản xuất, những tập đoàn, HTX nông nghiệp nếu nông dân còn gắn bó thì tiếp tục củng cố phương thức quản lý mới để nâng lên. Nơi nào chưa có tập đoàn – HTX nông nghiệp thì Ủy ban xã tổ chức thành một hoặc nhiều dịch vụ kinh tế nông nghiệp, bộ phận này có vốn, vật tư, quan hệ bình đẳng và cùng có lợi với nông dân.

- Mở lớp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ kinh tế nông nghiệp, đi đôi chiêu tập chất xám các nơi về Huyện bằng một chính sách thỏa đáng.

3. Hoạt động phân phối lưu thông phải thật sự chuyển hướng gắn theo yêu cầu đổi mới. Tác động tích cực đến việc đầu tư sản xuất hàng hóa, góp phần tăng thu ngân sách và ổn định đời sống:

Tiếp tục vận dụng linh hoạt Nghị quyết 2/TW (khóa 6) về giải quyết những vấn đề cấp bách trong phân phối lưu thông, chuyển mạnh toàn ngành thương nghiệp XHCN sang hạch toán kinh doanh XHCN.

* Về thương nghiệp:

Các công ty ngành hàng chú trọng đổi mới phương thức kinh doanh theo hướng tiếp cận thị trường, mua được, bán được và kinh doanh có lãi. Tổ chức sắp xếp và phân công hợp lý giữa các đơn vị thương nghiệp Huyện, xã, đẩy mạnh hoạt động các loại hình dịch vụ phục vụ tốt yêu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân.

* Về tài chính: Trong điều kiện ngân sách còn mất cân đối, phải chú trọng đầu tư tạo nguồn thu và tiết kiệm để ưu tiên chi các yêu cầu trọng tâm. Trong cơ cấu nguồn thu, cần xác định thu qua sản xuất công nghiệp là quan trọng. Ưu tiên đầu tư cho các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh hoạt động có hiệu quả song song với việc khơi nguồn thu từ các đơn vị thương nghiệp để tích lũy củng cố phát triển công nghiệp và nông nghiệp. Đẩy mạnh thu thuế nông nghiệp và công thương nghiệp đảm bảo đạt chỉ tiêu, thường xuyên kiểm tra đôn đốc việc thu nộp ngân sách, chống thất thu thuế. Về phần chi, cần phân loại theo thứ tự ưu tiên, cố gắng đảm bảo các yêu cầu chi trọng tâm của Huyện.

* Về Ngân hàng: Chuyển nhanh hoạt động sang kinh doanh hạch toán, đáp ứng tốt yêu cầu phục vụ sản xuất – kinh doanh, tăng cường chức năng quản lý và điều tiết tiền mặt, phấn đấu giảm bội chi. Cần quan tâm chi các yêu cầu cấp bách theo chỉ đạo của Huyện, kiểm tra, đôn đốc các đơn vị thực hiện tốt chế độ nộp tiền mặt vào Ngân hàng. Phát huy hiệu quả của các HTX Tín dụng, từng bước nâng cao cổ phần, phục vụ thiết thực đến sản xuất và đời sống. Tiếp tục phát động phong trào gởi tiền tiết kiệm trong nhân dân.

- Hoạt động kinh tế đối ngoại cần nghiên cứu luật đầu tư của Trung ương để kịp thời nắm bắt tình hình, vạch hướng hoạt động. Phải tiếp cận thị trường thế giới để khai thác tiềm năng địa phương, tranh thủ nguồn vốn vay để phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao giá trị kim ngạch. Chú trọng đầu tư các mặt hàng chế biến xuất khẩu như chuối sấy, rau các loại, thịt heo và tôm càng xanh. Kim ngạch xuất khẩu toàn Huyện phấn đấu đến năm 1990 đạt 8 triệu USD, hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất phải đảm bảo đạt từ 50 – 70% trong tổng số hàng nhập.

BIỆN PHÁP

- Các ngành thương nghiệp (kể cả nội, ngoại thương) phải tiếp cận tốt thị trường để khai thác các mặt hàng kinh doanh phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Để đảm bảo vốn hoạt động, cần phải biết huy động vốn qua nhiều nguồn ngân hàng, vốn tự có, huy động trong nhân dân, nhận hàng ký gởi… chu chuyển vòng vốn nhanh để chủ động phát triển kinh doanh. Thương nghiệp quốc doanh và HTX phải vươn lên thực hiện đầy đủ vai trò hậu cần cho sản xuất và đời sống, phải nắm vai trò chủ đạo đối với một số ngành hàng huyết mạch của xã hội. Xác định vai trò ngoại thương là kinh tế đối ngoại, toàn Đảng phải chú trọng đặc biệt chỉ đạo lãnh vực này. Công ty cung ứng hàng xuất khẩu là đơn vị trung tâm, cần vươn lên đáp ứng ngang tầm để theo kịp tình hình. Cần có chính sách đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu thích hợp, chú trọng khâu sơ chế để nâng cao chất lượng sản phẩm. Mở rộng quan hệ liên doanh liên kết với các đơn vị xuất nhập khẩu trong và ngoài Thành phố, thông qua các công ty xuất nhập khẩu của Thành phố để qua quan hệ hợp tác làm ăn với nước ngoài.

- Để tăng thu ngân sách, cần mạnh dạn đầu tư vốn và con người vào những đơn vị làm ăn ra hiệu quả kinh tế. Những đơn vị hoạt động kém thì chuyển hướng sản xuất hoặc giải thể, ngân sách không bù lỗ cho những đơn vị này. Quan tâm đầu tư cho những đơn vị sự nghiệp có thu để phấn đấu tự thu chi, giảm dần trợ cấp từ ngân sách. Chuyển dần một bộ phận công tác y tế, giáo dục sang hệ dân lập, tự cân đối thu chi từ đóng góp của nhân dân. Đầu tư xây dựng cấp ngân sách xã để từng bước tự cân đối, phấn đấu đến năm 1990 có 100% xã tự lực chi thường xuyên, trong đó có 3 xã tự cân đối hoàn toàn (Đông Hưng Thuận, An Phú Đông, Thị trấn). Thực hiện tiết kiệm chi, kiên quyết cắt giảm những khoản chi không hợp lý, cố gắng đảm bảo cân đối ngân sách thu chi thường xuyên và giành một phần cho phát triển kinh tế. Quan điểm chung là lấy tích lũy từ nội, ngoại thương để đầu tư vốn cho sản xuất phát triển. (Cả sản xuất nông nghiệp và công nghiệp). Phân cấp rõ nguồn thu cho xã để từng bước các xã tự chủ động về ngân sách.

- Trong tình hình mới, ngân hàng cần sửa đổi cách vận hành tiền vốn, tiền mặt để giảm mức bội chi, góp phần lạm phát. Các đơn vị sản xuất kinh doanh phải chấp hành tốt chế độ nộp tiền mặt vào ngân hàng theo tỷ lệ nhất định so với số tích lũy vào ngân sách, từng đơn vị cố gắng cân đối tiền vốn, tiền mặt trong hoạt động của mình. Trong đầu tư tín dụng, ngân hàng phải vận dụng theo cơ chế “Mở thoáng” của Huyện, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và theo đúng hướng chỉ đạo của Huyện ủy - Ủy ban.

Về xây dựng cơ bản: Cùng với việc chỉ đạo phát triển kinh tế cần chú trọng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng với những công trình thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống. Trên cơ sở quy hoạch kinh tế tổng thể, cần tiến hành quy hoạch lại công nghiệp Huyện; Cầu đường giao thông, chợ đầu cầu trung tâm Huyện, khu vực nhà ở v.v… để có kế hoạch đầu tư dài hạn theo từng công trình, hai năm tới tiếp tục xây dựng thêm điện trung hạ thế, mở rộng các phân xưởng thuộc các xí nghiệp Nước đá, Thuốc lá, xí nghiệp Chế biến Thực phẩm, xí nghiệp chế biến Nông sản xuất khẩu… Về các công trình phúc lợi xã hội, phấn đấu hoàn thành một phần khu A bệnh viện Huyện (khu điều trị), xây dựng thêm 45 phòng học mới. Công trình công viên Thiếu nhi sẽ được quy hoạch xây dựng lại thành trung tâm sinh hoạt văn hóa của thanh niên, nâng cấp một số cầu đường nông thôn đã xuống cấp nặng, xây dựng mới trụ sở Tòa án Huyện, Nhà Bưu điện Quang Trung và xây dựng cơ sở ban đầu (hoặc tận dụng cơ sở cũ) cho 2 xã mới. Ngoài các công trình đó, Huyện và Thành phố đầu tư, khuyến khích các đơn vị sản xuất kinh doanh và các xã có điều kiện tự đầu tư xây dựng các công trình phục vụ sản xuất và đời sống ở đơn vị mình. Chú trọng đẩy mạnh hoạt động dịch vụ các loại, tiến hành xây dựng cơ sở dịch vụ “nhà nghỉ” phục vụ du lịch, phát triển xây dựng nhà ở để kinh doanh và phát triển một số dịch vụ khác theo nhu cầu thực tế.

II. ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI GẮN VỚI CHÍNH SÁCH KINH TẾ THEO QUAN ĐIỂM XEM ĐÂY LÀ LỰC LƯỢNG MỚI, ĐỂ TÁC ĐỘNG THÚC ĐẨY NỀN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

1. Về chăm lo đời sống: Cần xác định đây là một trong những mục tiêu chủ yếu để có sự tập trung chỉ đạo đúng mức, bởi từ nội bộ đến quần chúng đều mong mỏi sẽ có con đường sáng hơn  trong sản xuất – đời sống, sau mỗi lần Đại hội Đảng.

HƯỚNG CHUNG: Phấn đấu đưa đời sống của nhân dân lao động, CBCNV lên một mức khá hơn hiện nay. Đảm bảo giải quyết số thất nghiệp hiện nay có việc làm chính đáng và giải quyết ít nhất được nửa số người đang có việc làm nhưng còn bấp bênh, đi vào ổn định. Nói chung, đại bộ phận nhân dân phải đủ ăn, đủ sống. Diện chính sách cũng phải được chăm lo tốt hơn. Riêng khu vực hành chính sự nghiệp, phấn đấu nâng dần mức sống CBCNV hành chính sự nghiệp từ 70kg gạo/tháng trở lên.

BIỆN PHÁP

Phấn đấu giải quyết thêm 15.000 người có công ăn việc làm, trong đó có từ 8.000 đến 10.000 người có việc làm ổn định thông qua mở rộng các ngành nghề sản xuất ở các khu vực quốc doanh, tập thể, tư nhân, tuyển lao động hợp tác nước ngoài, đưa đi sản xuất ở vùng nông trường Nhị Xuân, Huyện Đắc Lấp và áp dụng cơ chế chính sách mới, trong nông nghiệp. Ưu tiên giải quyết việc làm cho diện chính sách, thanh niên phục vụ tại ngũ trở về… các đoàn thể như: Phụ nữ, Nông dân, Mặt trận Tổ quốc cần theo dõi sát quần chúng phát hiện và vận động cứu trợ kịp thời những trường hợp cần thiết.

Đối với CB-CNV khu vực hành chính sự nghiệp và khối cơ quan xã, Huyện sẽ tiến hành tinh giảm bộ máy khoán quỹ lương, để kích thích tăng năng suất lao động và tăng thu nhập. Những nơi có điều kiện được phép tự chủ động, tổ chức cơ sở sản xuất dưới dạng xí nghiệp đời sống để chăm lo cho đơn vị. Xây dựng một xí nghiệp đời sống cấp Huyện để lo chung những vấn đề về đời sống cho CB-CNV hành chính sự nghiệp và diện chính sách.

2. Về văn hóa xã hội:

Các ngành khối văn xã cần chú trọng thúc đẩy mọi hoạt động xoay quanh yêu cầu tiếp tục xây dựng nếp sống mới, con người mới XHCN trong điều kiện xã hội phát triển mạnh các thành phần kinh tế.

Tập trung xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở cả về cơ sở vật chất lẫn phong trào văn hóa, nghệ thuật quần chúng. Xây dựng 5 trung tâm sinh hoạt và dịch vụ văn hóa ở từng xã hoặc cụm xã. Chú trọng tu sửa, củng cố việc quản lý khu di tích Ngã Ba Giồng để phát huy việc giáo dục truyền thống cách mạng của Huyện. Các đoàn thể cần phối hợp với giáo dục, văn hóa thông tin, Nhà Văn hóa Huyện, Thể dục Thể thao tổ chức liên tục các đợt hội thao, hội diễn văn nghệ để phát hiện, chăm sóc những tài năng mới của Huyện và tạo không khí vui khỏe, lành mạnh. Đội Thông tin Lưu động Huyện cần biểu diễn nhiều chương trình kết hợp văn nghệ với tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị. Tiến hành các hoạt động giáo dục truyền thống sinh động, có tác dụng bồi dưỡng tình cảm cách mạng, bảo vệ đạo đức cổ truyền dân tộc, chống văn hóa phản động đồi trụy, bài trừ mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc, từng bước củng cố và xây dựng nếp sống văn hóa mới, con người mới.

Tiếp tục ra sức nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp cần chú trọng chăm lo ngành giáo dục kết hợp tốt 3 môi trường: gia đình – nhà trường – xã hội để cùng góp phần thiết thực cho sự nghiệp giáo dục. Phát huy vai trò Hội Cha mẹ học sinh trong việc huy động sự đóng góp của nhân dân cho ngành giáo dục, trong đó tập trung chăm lo đời sống vật chất tinh thần, đội ngũ giáo viên, lực lượng quyết định chất lượng dạy và học. Năm 1989 – 1990 sẽ tuyển 60% học sinh vào lớp 6 và mở hệ B cho số còn lại. Mở thí điểm các lớp hệ C (thu học phí cao) để bồi dưỡng số học sinh giỏi và phát triển tài năng. Tiếp tục mở các lớp Bổ túc văn hóa – chú trọng đối tượng là cán bộ của Huyện. Thực hiện thu một phần học phí cấp I, trong đó miễn thu từ lớp 1 đến lớp 3 và miễn giảm đối với diện gia đình nghèo. Riêng việc phân cấp xã trả lương cho giáo viên Mẫu giáo nhà trẻ; Huyện sẽ xem xét để giải quyết hợp lý. Gắn việc quy hoạch đào tạo cán bộ cấp Huyện, xã, với yêu cầu học Bổ túc văn hóa. Huy động các đơn vị kinh tế đóng góp để ngăn chặn tình trạng suy dinh dưỡng của học sinh hệ Mầm non, 3 trường cấp III, chú ý chất lượng học tập để đạt kết quả cao, góp phần tăng tỷ lệ học sinh đổ Đại học, đào tạo một đội ngũ cán bộ có một trình độ văn hóa nhất định sau này cho Huyện. Phòng Giáo dục cần tập trung đầu tư trường trọng điểm để rút kinh nghiệm chỉ đạo chung và cùng 2 trường cấp III mở các lớp dạy ngoại ngữ để phục vụ yêu cầu phát triển sự đầu tư nước ngoài vào Hóc Môn. Trung tâm dạy nghề phải nâng cao năng lực đào tạo. Dựa vào khuynh hướng chung sẽ phát triển mạnh các thành phần kinh tế, cần tổ chức đào tạo đi trước một bước để cung cấp một lực lượng có tay nghề cho các đơn vị sản xuất kinh doanh đang có hoặc sẽ phát triển. Ưu tiên đào tạo cho diện chính sách, có công cách mạng. Tiếp tục đầu tư kinh phí cho công tác vận động kế hoạch hóa gia đình, phấn đấu tỷ lệ phát triển dân số mỗi năm 1,6%. Hoạt động Chữ Thập đỏ kết hợp ngành Y tế xây dựng rộng rãi mạng luới y tế cộng đồng để chăm sóc tốt sức khỏe nhân dân giữ sạch môi trường, kiên quyết phòng chống không để xảy ra dịch bệnh. Thực hiện xã hội hóa công tác y tế, huy động nhân dân đóng góp cùng ngân sách Nhà nước phục vụ tốt người bệnh; Bệnh viện Huyện, các cơ sở y tế xã, thị trấn tiến hành thu trợ phí theo từng đối tượng hợp tình hợp lý (ưu tiên diện chính sách, lao động nghèo), để trị bịnh đạt kết quả tốt. Xây dựng phong trào thể dục thể thao rộng rãi ở xã cơ quan, xí nghiệp, trường học, tổ chức thi đấu trong các ngày lễ lớn, tham gia Đại hội Thể dục Thể thao toàn thành (từ 3/1989 đến tháng 5/1990). Với tinh thần chăm lo diện chính sách không chỉ là đền ơn đáp nghĩa mà còn là chăm lo một lực lượng chính trị đặc biệt, Huyện tiếp tục có chủ trương chi trả các chế độ kịp thời, huy động các đơn vị kinh tế đóng góp xây dựng mỗi năm 12 nhà tình nghĩa cho các gia đình có công cách mạng – ngành Thương binh – Xã hội tổ chức sản xuất kinh doanh, tạo thêm kinh phí phục vụ diện chính sách, các Cấp ủy - Ủy ban xã cần quan tâm, tạo điều kiện cho các gia đình chính sách lao động sản xuất kinh doanh, góp phần ổn định đời sống. Đài Truyền thanh Huyện, xã, Tờ tin Huyện cải tiến nội dung tuyên truyền ngày càng phong phú, đa dạng chính xác, cùng phục vụ nhiệm vụ chính trị chung của Huyện.

BIỆN PHÁP để đạt các yêu cầu trên, Huyện ủy sẽ tiến hành sơ kết các Nghị quyết đã chỉ đạo trong lĩnh vực này và tiếp tục có những Nghị quyết chuyên đề khác để chỉ đạo tiếp theo những yêu cầu trọng tâm. Ủy ban Huyện có kế hoạch cụ thể chỉ đạo thực hiện “xã hội hóa” mạnh mẽ, huy động sự đóng góp nhân dân, các “nhà mạnh thường quân”, Việt kiều, các đơn vị ngành kinh tế cùng chăm lo mạng y tế, giáo dục. CB-CNV đang phục vụ các ngành khối văn xã phải tích cực học tập bồi dưỡng để bổ sung kiến thức đủ điều kiện phục vụ mở rộng hoạt động chuyên ngành các năm tới.

III. AN NINH QUỐC PHÒNG

Trên quan điểm đổi mới chung của cả nước, công tác an ninh quốc phòng cũng phải có bước chuyển mới nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, kết hợp kinh tế với an ninh quốc phòng. Các công cụ chuyên chính vô sản của Đảng phải nhạy bén năm bắt các chủ trương đổi mới để hỗ trợ sản xuất. Trong điều kiện phát huy 5 thành phần kinh tế, việc quản lý Nhà nước về pháp luật cũng phải được nâng lên một bước, để thúc đẩy sản xuất phát triển. Việc phòng ngừa phải được giải quyết từ gốc, mới giảm được tội phạm. Hai năm tới, phấn đấu ổn định tình hình trật tự xã hội để quần chúng an tâm sản xuất. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa bàn dân cư và phong trào phòng gian bảo mật trong các cơ quan, xí nghiệp. Xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa Công an với dân cùng kết hợp tốt trong việc giữ gìn trật tự chung, phát triển mạng lưới an ninh đến tận tổ nhân dân, tạo thành hệ thống chặt chẽ bảo vệ an ninh trật tự trong toàn Huyện. Phong trào phải được các Cấp ủy Đảng lãnh đạo trực tiếp với quan điểm nhằm phục vụ sản xuất phát triển, ổn định đời sống, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân. Cần sắp xếp bộ máy Công an, Huyện Đội tinh gọn trong tình hình mới, chăm lo đào tạo bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ cho cán bộ chiến sĩ, nhất là ở khối xã. Về đời sống, cần có chính sách về lương, phụ cấp thỏa đáng đối với lực lượng vũ trang đề đủ sức đeo bám địa bàn. Các ngành thuộc khối nội chính như Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án, Thanh tra, Tư pháp phải xây dựng mối quan hệ gắn bó cùng đấu tranh chống các loại tội phạm. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật trong nội bộ và ngoài quần chúng. Duy trì thường xuyên chế độ tiêp dân và giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại của nhân dân. Công tác nội chính cần tập trung cùng các ngành thực hiện Nghị quyết về an ninh và quân sự của Đảng, quan tâm đào tạo trình độ lý luận cho cán bộ khối nội chính để đủ sức đảm đương nhiệm vụ trong tình hình mới.

Hoạt động quân sự địa phương: Tiếp tục xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng Huyện thành một bộ phận khu vực phòng thủ của Thành phố. Đưa công tác giáo dục quốc phòng toàn dân và luật nghĩa vụ quân sự đi sâu vào nhân dân, xí nghiệp, trường học để cùng thông suốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện công tác huấn luyện quân sự hàng năm cho tự vệ tập trung đạt chất lượng tốt, phúc tra và nắm chắc quân dự bị, đảm bảo đạt về số lượng và chất lượng khi có lệnh điều động diễn tập. Công tác động viên tuyển quân phải đảm bảo tính công khai, dân chủ từ khâu điều khám đến khâu giao quân, đảm bảo đúng luật và đạt chỉ tiêu Thành phố giao. Tiếp tục giải quyết số quân nhân đào bỏ ngũ, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, nhất là việc tiếp nhận và bố trí việc làm cho số quân nhân hoàn thành nghĩa vụ trở về.

IV. CÔNG TÁC XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG

Đồng thời với lãnh đạo kinh tế xã hội, công tác xây dựng lực lượng phải được tiến hành như một biện pháp hàng đầu trong thực hiện nhiệm vụ chính trị chung toàn Đảng bộ.

HƯỚNG CHUNG: Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền, đoàn thể phải được kiện toàn trong một cơ chế thống nhất để tạo cho được động lực cách mạng mới, tương ứng theo xu thế đổi mới chung và phù hợp với bước chuyển cơ cấu kinh tế của Huyện.

VỀ MỤC TIÊU: Tiếp tục kiện toàn sắp xếp bộ máy, xây dựng Đảng, vững mạnh cả ba mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức. Phấn đấu trong hai năm tới phải phát triển Đảng, Đoàn đều khắp trong mọi lĩnh vực, nhất là ở địa bàn dân cư, sản xuất và tiếp tục đào tạo một đội ngũ cán bộ có đạo đức, năng lực ngang tầm bố trí ở mọi địa bàn. Đạt ¾ cơ sở Đảng vững mạnh, 2/3 Đoàn cơ sở vững mãnh. Đảng viên, Đoàn viên loại tốt đạt 2/3. Giảm tối đa Đảng viên yếu kém và không còn Đảng bộ, Chi bộ xã yếu kém.

1. Trong xây dựng Đảng:

- CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG: Phải được đẩy mạnh và đưa vào chiều sâu, giải quyết tốt mọi mâu thuẫn về mặt tư tưởng từ trong nội bộ Đảng ra ngoài quần chúng. Nội dung công tác giáo dục chính trị tư tưởng phải đạt cả hai yêu cầu, vừa làm cho cán bộ Đảng viên và quần chúng mở rộng tầm nhìn, tiếp cận với những chuyển động thời đại, từ đó phá vỡ những tư tưởng cũ kỹ lỗi thời, không hiểu máy móc về XHCN, đồng thời khẳng định con đường tiến lên của chúng ta duy nhất vẫn là con đường XHCN, để từ đó giữ vững lập trường quan điểm của nguời cộng sản trong giai đoạn xã hội sẽ phát triển mạnh 5 thành phần kinh tế, không lệch tư tưởng qua tả hoặc hữu khuynh. Phải làm cho mọi ngành, mọi giới hiểu rõ tình hình chung và thực trạng kinh tế xã hội của đất nước, của Huyện hiện hay, có khó khăn vừa có triển vọng vươn lên, để tạo được sự đồng tâm nhất trí vượt qua gian khổ, vững vàng trước mọi thử thách. Song song, cần làm cho toàn Đảng bộ nhận thức được việc chuyển cơ cấu kinh tế từ Nông công nghiệp sang Công nông nghiệp là bước chuyển mình quan trọng của Huyện nhằm tạo ra con đường mới sáng hơn, để cùng nhất quán tập trung thúc đẩy.

Từ xác định được lập trường quan điểm, thống nhất về bước đi, toàn Đảng bộ chú trọng lãnh đạo xây dựng chủ trương Nghị quyết phù hợp với nhiệm vụ chính trị chung theo hướng ngày càng nâng cao tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám “tự cứu mình” bằng những biện pháp mới táo bạo, để phát triển kinh tế và xây dựng đơn vị, địa phương thật sự vững mạnh.

Để đạt yêu cầu đặt ra trong công tác tư tưởng, hình thức giáo dục, tuyên truyền phải được đổi mới, tránh cách làm phô trương hình thức. Coi trọng biện pháp tuyên truyền miệng. Cán bộ Đảng viên phải gương mẫu học tập Nghị quyết, dự nghe thời sự để nắm vững chủ trương đường lối, cùng giải thích trực tiếp cho quần chúng nơi mình công tác, cư ngụ, đồng thời thu thập tâm tư nguyện vọng nhân dân, phản ảnh để Đảng bộ hiểu, đặt yêu cầu lãnh đạo sát đúng. Bản tin, Đài Truyền thanh Huyện cần bám sát tình hình chung phổ biến rộng rãi, kịp thời. Ban Tuyên huấn Huyện ủy, phải thường xuyên có những bài xã luận trên Bản tin Huyện để chỉ đạo về quan điểm tư tưởng và hướng dẫn dư luận quần chúng.

- CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ: Phải tiếp tục được đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI và Nghị quyết V Ban Chấp hành Trung ương để xây dựng một tổ chức với đội ngũ có năng lực ngang tầm nhiệm vụ chính trị đặt ra trong giai đoạn mới.

 Về tổ chức: Căn cứ nhiệm vụ chính trị chung hai năm tới, sẽ thành lập và sát nhập những đơn vị tổ chức cơ sở Đảng sao cho phù hợp, trong đó chú ý nghiên cứu chỉ đạo sinh hoạt Đảng và vai trò bộ tứ trong cơ quan, xí nghiệp. Tiếp tục củng cố những đơn vị còn yếu, thiếu, tách thành lập xã mới theo Quyết định Hội đồng Bộ trưởng và tiếp tục kiện toàn bộ máy Đảng, đoàn thể theo Nghị quyết 34/TW trong đó sẽ tinh gọn các tổ chức trung gian không phù hợp, hoạt động không hiệu quả.

Về công tác cán bộ: Chú trọng xây dựng đào tạo một đội ngũ có đủ phẩm chất, năng lực, thực hiện được sự nghiệp đổi mới. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tiếp tục đầu tư dành 2% kinh phí chung của Huyện chi cho yêu cầu đào tạo. Mở lớp bồi dưỡng để trang bị cho Huyện ủy viên, Đảng ủy viên, Chi ủy viên biết làm công tác Đảng. Khuyến khích và hỗ trợ lớp Đại học Kinh tế Công nghiệp tại chức xã Đông Hưng Thuận tổ chức. Mở tiếp các lớp quản lý kinh tế tại chức tại Huyện, lớp Sơ cấp, đối tượng Đảng, đối tượng Đoàn để nâng nhận thức cán bộ Đảng viên và quần chúng ưu tú.

Chậm nhất đến giữa năm 1989, Huyện ủy sẽ có Nghị quyết về quy hoạch cán bộ để trẻ hóa đội ngũ, đảm bảo tính kế thừa, trong đó chú trọng 3 loại cán bộ: cán bộ lãnh đạo chính trị, cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật. Song song tiến hành đánh giá, soát xét lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý để kiện toàn cho phù hợp. Trong bố trí cán bộ, sẽ mạnh dạn bố trí vượt cấp những cán bộ trẻ, cán bộ làm ăn giỏi. Từng đơn vị, nhất là ở khối kinh tế, cán bộ lám công tác tổ chức phải có trình độ, công minh để tham mưu đúng người, đúng việc, nâng cao hiệu quả hoạt động. Trong sử dụng đội ngũ cán bộ, sẽ chú ý cải tiến chế độ đãi ngộ theo nguyên tắc “phân phối theo lao động, trọng dụng tài năng” khắc phục tình trạng thực hiện chính sách cán bộ thiếu công bằng để quy tụ và khai thác tốt chất xám, tăng năng suất, hiệu quả hoạt động ở mọi địa bàn.

- VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐẢNG VIÊN VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC:

* Trong nâng cao chất lượng Đảng viên: Chú trọng yêu cầu mỗi Đảng viên phải tự soi lại mình từ phẩm chất đến năng lực để tiếp tục rèn luyện phấn đấu, loại trừ hẳn tình trạng Đảng viên quá yếu kém, Đảng viên nhưng không hơn quần chúng. Cho phép những Đảng viên góp vốn vào sản xuất. Đảng viên không những biết làm kinh tế mà còn phải tổ chức làm kinh tế gia đình giỏi, để góp phần sản xuất, tăng sản phẩm cho xã hội.

Rút kinh nghiệm các năm qua, nhiệm kỳ này Đảng bộ không đề cập chỉ tiêu phát triển Đảng, nhưng thực hiện nhiệm vụ thứ 4 Điều lệ Đảng: tất cả các tổ chức cơ sở Đảng và Đảng viên phải làm công tác phát triển Đảng. Chú ý phát triển Đảng phải gắn phong trào cách mạng quần chúng, quan tâm đúng mức lực lượng Đoàn viên ưu tú và phát triển Đảng ở những nơi xung yếu như giáo dục, khu vực sản xuất, khu thiên chúa giáo v.v… để mọi nơi đều có Đảng viên làm nòng cốt, có tổ Đảng Chi bộ lãnh đạo. Trong phát triển Đảng chú ý không quá khắt khe nhưng cũng không quá vì số lượng tránh đưa vào Đảng chưa đúng chuẩn chất, vô tình làm cơ thể Đảng yếu đi.

* Trong củng cố nâng cao sức chiến đấu của Đảng: Chú trọng tiếp tục thực hiện tốt mối quan hệ trong cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ theo quy chế làm việc Ban Chấp hành – Huyện ủy, trong đó Đảng phải làm chức năng vạch chủ trương lãnh đạo và đôn đốc, kiểm tra, giám sát chính quyền thực hiện, không lấn sang lãnh vực chính quyền. Đặt nặng yêu cầu phải thực hiện dân chủ hóa, công khai hóa tổ chức tự phê, phê bình thường xuyên, coi đây vừa là yêu cầu, vừa mang tính biện pháp chung để nâng lòng tin quần chúng với Đảng, bảo đảm được khâu đoàn kết nội bộ, tạo tiền đề xây dựng Đảng vững mạnh. Tập trung củng cố Chi bộ, Đảng bộ cơ sở, cải tiến và nâng cáo chất lượng sinh hoạt Chi bộ theo từng loại hình phù hợp. Các Chi bộ nhỏ phải sinh hoạt có nề nếp, có chương trình công tác chặt chẽ và làm tốt công tác quản lý Đảng viên.

* Công tác kiểm tra: Để tiếp tục đổi mới công tác kiểm tra các Cấp ủy vả Đảng viên cần phải hiểu đúng và làn tốt toàn diện công tác kiểm tra của Đảng, từng bước đưa công tác này vào nề nếp. Mỗi Cấp ủy, Chi bộ khi ra quyết định, chủ trương công tác thì phải gắn liền với lập chương trình, kế hoạch và phân công người kiểm tra việc thực hiện Quyết định, chủ trương, công tác đó để tránh lệch lạc tiêu cực, đạt kết quả cao. Đẩy mạnh công tác kiểm tra Đảng viên chấp hành để phát hiện điển hình tốt và xử lý nghiêm minh Đảng viên sai phạm góp phần nâng cao sức chiến đấu của Đảng và làm lành mạnh các quan hệ xã hội theo Nghị quyết 4/BCT.

2. Trong xây dựng chính quyền:

Với xu thế chuyển mới, vai trò chính quyền vô cùng quan trọng. Bộ máy Nhà nước từ Huyện đến cơ sở phải được chấn chỉnh và tiếp tục xóa bỏ các đầu mối trung gian không cần thiết, tinh giản tiếp những nơi bộ máy còn cồng kềnh và tiếp tục theo dõi sức hoạt động sau kiện toàn bộ máy để chỉ đạo phù hợp. Phải thể hiện cho được chính quyến là của dân, do dân, vì dân và chính quyền trong giai đoạn mới phải nâng cao hiệu lực quản lý, giải quyết bằng được những yêu cầu bức thiết của xã hội đặt ra. Thông qua bầu cử HĐND lần này, bộ máy Ủy ban từ Huyện đến xã phải được kiện toàn, bổ sung cán bộ đủ năng lực để chuyển mạnh sang chức năng quản lý kinh tế xã hội về mặt Nhà nước. Đội ngũ làm công tác chính quyền các cấp phải thực sự đổi mới, phải nhanh nhạy vừa chấp hành chỉ đạo trên, vừa vận dụng “cơ chế mềm”, bắt kịp những tư tưởng chuyển đổi chung, tổ chức bằng được chủ trương chính sách Nghị quyết của Huyện Đảng bộ và giám sát chặt chẽ việc thực hiện liên doanh, liên kết giữa các cơ sở, giữa các thành phần kinh tế với nhau, chỉ đạo tốt việc cho tư nhân mở rộng sản xuất.

Hội đồng Nhân dân từ Huyện đến xã phải tiếp tục đổi mới hoạt động, từng bước nâng lên vai trò là cơ quan quyền lực của địa phương. Huyện ủy và các Cấp ủy xã chú trọng nghiên cứu, nắm vững “quy chế tổ chức và hoạt động HĐND các cấp” của Hội đồng Nhà nước để lãnh đạo tốt việc thi hành nghiêm chỉnh quy chế đó. Gắn theo chủ trương kiện toàn tổ chức chung, HĐND Huyện, xã cũng cần chú trọng kiện toàn tổ chức, lựa chọn những cán bộ có năng lực để lãnh đạo các Ban Chuyên trách HĐND và củng cố Ban Thư ký HĐND, liên tục soát xét và kiên quyết bãi nhiệm của người đại biểu. Đảng, Đoàn trong HĐND cũng phải nâng khả năng hoạt động để kết hợp tạo lực thúc đẩy hoạt động HĐND ngày càng phát huy. Giữa HĐND và Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể cũng phải phối hợp chặt chẽ để thật sự tạo được những chuyển biến mới trong hoạt động của cơ quan dân cư địa phương, cùng góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội trên địa bàn Huyện phát triển.

3. Trong phong trào quần chúng và hoạt động các đoàn thể:

Trước hết, cần xóa quan điểm xem công tác vận động quần chúng là chức năng của Khối Vận, tất nhiên đây là nhiệm vụ chính của các đoàn thể.

Trên cơ sở xác định: Mọi Nghị quyết, chủ trương của Đảng, Nhà nước chỉ có thể thực hiện tốt nếu thật sự biết dựa vào dân và thúc đẩy được động lực cách mạng của quần chúng, cần chú trọng cùng đoàn thể đẩy mạnh công tác vận động quần chúng theo phương châm “Lấy dân làm gốc”, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Hai năm tới, phải làm cho quần chúng thông hiểu về pháp luật, pháp chế XHCN, truyền thống địa phương, từ đó khơi dậy lòng tự ái dân tộc, cùng thực hiện mục đích “Dân giàu, nước mạnh”. Đặc biệt, cần làm cho quần chúng quán triệt đường lối chủ trương mới của Đảng, Nhà nước và của Huyện hiện nay về việc cho phát triển mạnh kinh tế gia đình, tư nhân, để khôi phục lại lòng tin, tạo động lực cách mạng trong quần chúng cùng tham gia đầu tư đẩy mạnh sản xuất, tạo nhiều sản phẩm phục vụ tốt hơn cho xã hội.

Về tổ chức: phải để quần chúng tự nguyện vào và sinh hoạt trong từng đoàn thể thích hợp, không gò ép. Phải đặt nặng vấn đề chất lượng hơn số lượng, tránh tình trạng hình thức kết nạp theo thành tích. Cụ thể: Các đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc, cần có kế hoạch chặt chẽ củng cố tổ Hội, Chi đoàn nhỏ tận màng lưới chân rết tổ Nhân dân. Nên có chủ trương quản chặt Hội viên bằng biện pháp phổ biến rộng rãi yêu cầu Hội viên nào không thích ở đoàn thể, làm đơn xin ra, không gò ép. Đoàn thể phải đổi mới phương thức hoạt động, có nội dung gắn bó thiết thực đến đời sống tình cảm quần chúng, vận động nghĩa vụ phải đi đôi quyền lợi. Huyện ủy chủ trương cho các đoàn thể tham gia các dịch vụ trong sản xuất – kinh doanh. Như vậy, vai trò đoàn thể mới thật sự cần thiết với quần chúng và đoàn thể mới thúc đẩy được phong trào quần chúng phát triển.

Huyện ủy - Ủy ban sẽ tiếp tục nâng lên yêu cầu làm việc định kỳ với từng đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc, trong đó chú ý bố trí cán bộ có năng lực, đạo đức, làm công tác đoàn thể và giải quyết những yêu cầu đặt ra cho hoạt động đoàn thể phát triển như sẽ tiến hành quy hoạch cán bộ đoàn thể gắn theo quy hoạch cán bộ chung của Huyện. Ở khối xã, thị trấn, cũng cần phát huy và thực hiện cách làm như Huyện, trong đó chú ý chăm lo các điều kiện vật chất tối thiểu để đoàn thể hoạt động. Ở cấp Huyện, từng đơn vị cơ quan, xí nghiệp, công ty tiếp tục phát huy vai trò bộ tứ, trong đó chú ý củng cố lại Bí thư Đảng, Bí thư Đoàn Thanh niên, Thư ký Công đoàn và tôn trọng vai trò chủ trương của Giám đốc, Trưởng Ngành để bộ tứ đủ sức bàn tính công việc chung, vừa đảm bảo, bảo vệ quyền làm chủ tập thể của quần chúng, đồng thời cũng đảm bảo quyền chủ động quyết đoán mạnh của Giám đốc, Trưởng Ngành, mở đường đưa đơn vị đi lên.

Với yêu cầu chung trong công tác vận động quần chúng, khối Vận tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chính trị, gắn chặt theo Nghị quyết Đảng bộ Huyện và chỉ đạo ngành dọc để thật sự tạo được động lực cách mạng trong quần chúng.

Cần lưu ý trong Đại hội đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc sắp tới, từng đoàn thể Mặt trận Tổ quốc, Ủy ban Thiếu niên Nhi đồng phải vạch được phương hướng, bước đi phù hợp với tình hình chuyển mình chung của Huyện, trong đó Đoàn Thanh niên phải thể hiện tốt vai trò “mũi nhọn” trong hoạt động khối vận, quy tụ được đông đảo thanh thiếu niên vào sinh hoạt trong tổ chức, để Đảng và Đoàn có trong tay một lực lượng xung kích hùng hậu. Hội Nông dân và Liên Đoàn Lao động cần phối hợp để thúc đẩy phong trào quần chúng trong Công nghiệp lẫn Nông nghiệp phát triển theo hướng phát huy tốt mối quan hệ liên minh công nông. Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ là những tổ chức mang tính chất tập hợp các tầng lớp quần chúng, cần chú trọng giáo dục, phổ biến rộng rãi chủ trương của Huyện để cùng quy tụ và thúc đẩy các thành phần kinh tế bung mạnh sản xuất theo chủ trương của Huyện Đảng bộ. Ủy ban Thiếu niên Nhi đồng: Cần chú trọng củng cố lại bộ máy và hoạt động để đủ sức tham mưu Đảng bộ Huyện đẩy mạnh phong trào chăm sóc bảo vệ giáo dục trẻ em. Các Cấp ủy, Ủy ban xã, thị trấn phải xem xét, bố trí ở từng đơn vị có một chuyên trách làm công tác này, để góp phần cùng chăm sóc tốt những mầm non tương lai của Huyện.

TỐ CHỨC CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN

Trong từng lãnh vực, đã có nêu biện pháp cụ thể. Ở góc độ chỉ đạo chung, cần khẳng định nhiệm kỳ V là một thời kỳ mới với nhiều chuyển động mới. Toàn Đảng bộ phải có nhận thức nhanh nhạy, tự đổi mới cho kịp tình hình. Trong thực hiện đổi mới, không nêu khẩu hiệu chung chung. Từ Huyện đến cơ sở đều phải tự chọn lựa những phương án tối ưu, mang lại hiệu quả cao nhất. Phải biết khai thác tối đa thế mạnh của địa phương bao gồm đất đai, vị trí giao thông, tay nghề, tiền vốn v.v… để làm đòn bẫy tạo điều kiện thuận lợi, rút ngắn thời gian phát triển. Huyện ủy - Ủy ban tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phong cách lãnh chỉ đạo, trong đó chú trọng đúng mức công tác tổ chức, cán bộ đào tạo quy hoạch bố trí một lực lượng cán bộ có năng lực ngang tầm nhiệm vụ chính trị đặt ra, cần thì có chính sách thỏa đáng để chiêu tập chất xám ngoài Huyện về địa phương phục vụ, đồng thời tiến hành thành lập Ban Kinh tế Huyện ủy để tập trung tính toán giải quyết các vấn đề lớn nhằm mở ra được những hướng đi thật mới về mặt kinh tế cho Huyện vươn lên mạnh mẽ.

Với những biện pháp chung nêu trên, cần tập trung:

- Làm tốt bước cụ thể về quy hoạch tổng mặt bằng của Huyện, để phân rõ vùng sản xuất công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, khu du lịch, dịch vụ v.v… để phát huy đúng mức tiềm năng, thế mạnh về đất đai của Huyện.

- Cần tổ chức một số cuộc họp chuyên đề để định hướng phát triển ngành kinh tế kỹ thuật công nghiệp gì trên địa bàn trong những năm tới phù hợp xu thế chung.

- Tổ chức một số bộ môn chuyên sâu về các ngành kinh tế kỹ thuật công nghiệp, nông nghiệp phải phát triển thời gian tới để tổ chức này làm tốt vai trò “tư vấn” chuyên viên cho Huyện ủy, UBND Huyện chọn lựa phương án, hạn chế tối đa các phương án khi triển khai thực hiện cho hiệu quả thấp.

- Trong chỉ đạo luôn chú trọng: Tập trung cho công việc trọng tâm, trọng điểm, đi sâu giải quyết các quyết định lớn mang tính đòn bẩy, bản lề, từ đó xốc nền kinh tế đi lên. Để nâng hiệu lực, hiệu quả công việc, Ban Chấp hành Huyện ủy phải thảo luận phân định chức năng, vai trò tập thể và cá nhân trong việc lãnh chỉ đạo điều hành. Tránh chồng chéo, dẫm đạp chức năng hoặc chờ đời, đỗ lỗi, khi cần quy trách nhiệm thì không có ai chịu trách nhiệm cụ thể.

- Cần phát động sâu rộng trong nội bộ Đảng đến CB-CNV liên tục ý thức trách nhiệm chung, chống tư tưởng cục bộ, địa phương đồng thời phải thực sự tiết kiệm để xây dựng cơ quan, xí nghiệp, xây dựng Huyện. Phải làm cho mọi người nhận thức sâu sắc: Không tiết kiệm sẽ không có sức phát triển, làm bao nhiêu tiêu chừng ấy, không khác nào “gió vào nhà trống”. “Chỉ có để dành” mới có tích lũy, phát triển.

- Sau Đại hội cần tập trung tháo gỡ giải quyết hai vấn đề trọng tâm là cán bộ và vốn, để đáp ứng cho yêu cầu phát triển kinh tế.

ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ HUYỆN HÓC MÔN LẦN V

Thông báo