Thứ Sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024

Báo cáo chính trị tại Hội nghị đại biểu Đảng bộ huyện Nhà Bè giữa nhiệm kỳ (khoá VI)

Ngày 7 tháng 6 năm 1994

PHẦN THỨ NHẤT

TÌNH HÌNH CHUNG

Hơn 2 năm thực hiện NQ Đại hội Huyện Đảng bộ lần VI bên cạnh những thuận lợi khó khăn chung đã được nêu trong báo cáo chính trị của Thành phố, Huyện còn những thuận lợi khó khăn như sau:

* THUẬN LỢI :

- Chủ trương, Nghị quyết, chánh sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước được bổ sung sửa đổi từng bước đi vào cuộc sống; thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hoá – xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị.

- Thành phố tiến hành quy hoạch tổng thể của Huyện từ đây đến năm 2010: Khu chế xuất Tân Thuận, Khu công nghiệp Hiệp Phước và các khu dân cư đường Bắc Nhà Bè, từ đó tác động thuận lợi đến việc phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm cho nhân dân trong Huyện.

- Thành phố quan tâm đầu tư giúp cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình: Cầu đường, điện nước, trường học, trạm xá… là cơ sở cho việc phát triển sản xuất - đời sống và từng bước nâng cao dân trí của Huyện.

Các cấp uỷ, chánh quyền, Đoàn thể từ Huyện đến xã được củng cố kiện toàn một bước. Chất lượng đội ngũ cán bộ được nâng lên và đảm đương được nhiệm vụ. Nhân dân trong Huyện nỗ lực thực hiện có kết quả một số nhiệm vụ, mục tiêu mà Đại hội đặt ra.

* KHÓ KHĂN:

- Một số đơn vị kinh tế quốc doanh làm ăn thua lỗ, tuy có quan tâm chỉ đạo và giải quyết một bước, nhưng hiện nay cũng chưa khắc phục được. Trong lúc chuyển sang cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế cạnh tranh, các đơn vị kinh tế quốc doanh thiếu vốn, công nghệ lạc hậu.

Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý Nhà nước yếu chưa chuyển biến kịp với xu thấ phát triển của Huyện , nên chưa đề ra được các giải pháp và đề án cụ thể nhằm khai thác tiềm năng thế mạnh. Bên cạnh đó cơ sở hạ tầng tuy có được tập trung đầu tư nhưng vẫn còn rất hạn chế làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của Huyện.

Hội nghị Đại hội Đảng bộ giữa nhiệm kỳ có nhiệm vụ kiểm điểm, đánh giá đúng đắn thực trạng và đề ra các nhiệm vụ, biện pháp thích hợp nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi các Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Huyện và NQ hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Thành phố khoá V.

I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:

1. Kinh tế có bước tăng trưởng và chuyển dịch theo cơ cấu hợp lý:

Sau khu sút giảm mạnh vào năm 1991, những năm 1992-1993 sản xuất đã được phục hồi và có những bước phát triển về chất. Các ngành sản xuất tăng bình quân 3,2%, thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm xã hội tăng 4,8%/năm (giá cố định 89).

Sản xuất công nghiệp.TTCN đã lấy lại thế ổn định (như năm 90, với chất lượng cao hơn), phát triển trên 10%/năm. Riêng năm 1993 tăng 15,82% so với năm 1992. Sản phẩm và thị trường được sắp xếp lại, đầu tư có trọng điểm và có chất lượng hơn (về công nghệ), kể cả trong và ngoài quốc doanh. Các ngành chế biến thực phẩm, may da, vật liệu xây dựng và cơ khí sửa chữa đang có hướng phát triển tốt, góp phần tăng trưởng của toàn ngành.

Sản xuất nông nghiệp đã chuyển hẳn sang mô hình kinh tế hộ gia đình. Nhờ nguồn vốn của Ngân hàng, chương trình XĐGN và dự án nhỏ đã thúc đẩy chăn nuôi phát triển (tăng bình quân 9,7%), khuyến khích nông dân làm thuỷ lợi nội đồng kết hợp nuôi trồng thuỷ sản (trong năm đã làm thuỷ lợi được 300ha, trong đó Nhà nước đầu tư 86ha).

Mặc dù bị thiên tai dịch bệnh ba năm liền, nhưng giá trị sản lượng toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp vẫn giữ được mức của năm 1990 (giá cố định). Cơ cấu nội bộ ngành đang từng bước chuyển đổi: giảm trồng trọt, tăng chăn nuôi (chăn nuôi chiếm 36% so năm 90 chiếm 26,7%).

Xây dựng cơ sở hạ tầng được quan tâm, vốn đầu tư xây dựng cơ bản tăng khá nhanh. Trong 3 năm gần đây tổng vốn đầu tư của toàn xã hội ước đạt 65 tỷ đồng, tăng hơn 7 lần so với 3 năm trước đó. Trong đó vốn ngân sách Thành phố chiếm 53,4% xây dựng trong dân chiếm 29% các nguồn vốn khác 17,6%. Tốc độ đầu tư tăng bình quân 63,55%, tập trung vào các công trình trọng điểm, từng bước cải tạo cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng của Huyện, đồng thời đã chú trọng đầu tư ở khu vực nông thôn, nâng cấp cơ sở vật chất các ngành giáo dục, y tế… Nhiều công trình trọng điểm đang chuẩn bị khởi công, phấn đấu hoàn thành vào dịp kỷ niệm 20 năm giải phóng Thành phố.

Thương mại và dịch vụ phát triển, thị trường tương đối ổn định. Mạng lưới Thương nghiệp phân bố tập trung các xã đô thị hoá. Hoạt động Thương mại và giao lưu hàng hoá trên các cảng và bến bãi phát triển nhanh.

Thu chi Ngân sách được sự quan tâm thông qua điều tiết và trợ cấp của Thành phố, đồng thời công tác thu thuế trên địa bàn 2 năm đều vượt chỉ tiêu (năm 1993 tăng 6,47 lần so với năm 1991) nên Ngân sách Huyện đã chủ động được yêu cầu chi thường xuyên và một phần chi xây dựng cơ bản.

Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hoạt động đan xen và cùng trưởng thành. Kinh tế quốc doanh đang được sắp xếp lại, một số đơn vị đã phục hồi và ổn định, kinh tế ngoài quốc doanh hình thành và phát triển tương đối mạnh.

Kinh tế ngoài quốc doanh đã chiếm tỷ trọng gần 50% trong sản xuất CN.TTCN, gần 100% trong sản xuất nông nghiệp, hơn 90% trong thương mại và dịch vụ, khoảng 80% trong vận tải hàng hoá và hành khách…

Kinh tế hộ đang bắt đầu phát triển cùng với các chánh sách khuyến khích phát triển của Nhà nước.

Cơ cấu ngành kinh tế đang chuyển dịch theo chiều hướng thuận lợi, phù hợp với cơ cấu kinh tế và thế mạnh của Huyện nhất là 3 mảng kinh tế đã phát huy tác dụng, từ đó khẳng định cơ cấu kinh tế Đại hội VI đề ra là đúng. Năm 1993, trong giá trị tổng sản lượng các ngành sản xuất, tỷ trọng 32% (năm 1990 chiếm 40%). Tương tự nông nghiệp 27,5% (30%), các ngành khác 40,7% (29,3%).

2. Các mặt về đời sống văn hoá xã hội có tiến bộ:

Trong những năm qua, với sự quan tâm của cấp uỷ, chính quyền và ban ngành từ Thành phố đến Huyện, xã, đã thực hiện tốt một số chính sách XH: vận động xây dựng nhà tình nghĩa (122 căn), sửa chữa chống dột cho diện chính sách và dân nghèo, đồng thời mở được 203 sổ tiết kiệm tình nghĩa.

Xác định XĐGN là một công tác trọng tâm và thường xuyên, Huyện uỷ, Uỷ ban cũng như các ban ngành các cấp hết sức quan tâm và tăng cường việc tổ chức thực hiện chương trình. Tính từ đầu chương trình đến nay đã cho 1.631/2300 hộ vay với số tiền 1 tỷ 260 triệu. Bước đầu đã có một số hộ ổn định cuộc sống. Mặt khác, chương trình còn góp phần giảm bớt tệ cho vay nặng lãi, thể hiện được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân lao động nghèo.

Hàng năm, huyện đã giải quyết được trên 3.000 lao động (đạt chỉ tiêu NQ Đại hội). Ngoài ra việc phát triển chăn nuôi, làm kinh tế gia đình nhờ nguồn vốn vay tín dụng, dự án nhỏ và XĐGN cũng đã giải quyết được phần lớn lao động nông nhàn. Nét nổi bật so với thời gian trước là đã giải quyết lao động có tay nghề nhiều hơn, nhờ đã tranh thủ vốn tập trung đầu tư xây dựng, trang thiết bị cho Trung tâm dạy nghề. Bên cạnh đó, Huyện cũng đã giành một số kinh phí cho hoạt động bảo trợ học nghề, thành lập Văn phòng giới thiệu việc làm. Đồng thời do quá trình phát triển khu chế xuất, ý thức học nghề trong nhân dân gần đây có chuyển biến nhất định.

Công tác huy động lao động công ích, hai năm đều có tăng so với những năm trước và đạt chi tiêu của Huyện đã đề ra, góp phần xây dựng nông thôn mới, thực hiện NQTW5, NQ8/TU.

Trên cơ sở triển khai chương trình phát triển giáo dục trên địa bàn (93-95), bước đầu đã đẩy mạnh công tác phổ cập giáo dục cấp 1, áp dụng các biện pháp để qui tụ các em đến lớp. Song song đó, đã có chủ trương xây dựng quỹ bảo trợ giáo dục để khen thưởng học sinh giỏi và hỗ trợ học sinh nghèo được nhiều giới ủng hộ. Ngoài ra còn mở các lớp đào tạo sư phạm tại chức thu hút được nhiều giáo viên tại địa phương tham gia học. Phương tiện dạy học được quan tâm đầu tư nhiều hơn. Tỷ lệ học sinh ra lớp đạt trên 85%.

Công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em cũng được quan tâm, đã chỉ đạo các ngành, các cấp phối hợp UB-BVCS trẻ em vận động các hội, đoàn từ thiện xã hội, các nhà hảo tâm chăm lo sức khoẻ, trao học bổng, giáo dục trẻ em hư hỏng, giúp đỡ trẻ em nghèo, trẻ mồ côi khuyết tật… đã đạt được một số kết quả nhất định.

Ngoài sự hỗ trợ của Thành phố, Huyện còn đầu tư sửa chữa bệnh viện, trạm xá… Chất lượng điều trị bệnh, phòng chống dịch bệnh, tiêm chủng mở rộng và kế hoạch hoá gia đình có tiến bộ.

Công tác thông tin tuyên truyền, các hoạt động văn hoá văn nghệ cũng được quan tâm chỉ đạo nhân các đợt sinh hoạt chính trị, các ngày lễ, Tết… bằng nhiều loại hình. Ngoài ra, Huyện đã chỉ đạo củng cố hoạt động thư viện, xây dựng mở rộng Nhà văn hoá, Nhà thiếu nhi và hai điểm sinh hoạt giải trí ở 2 xã nông thôn (Hiệp Phước và Nhơn Đức) tạo điều kiện cho nhân dân, nhất là thanh thiếu niên có nơi sinh hoạt, vui chơi.

Huyện đã chỉ chấn chỉnh công tác quản lý Nhà nước ở lĩnh vực văn hoá, thực hiện Thông báo 06/HU và qui định 1196/UBND. TP đã làm giảm một bước các tệ nạn xã hội như: tụ điểm mãi dâm, bia ôm, văn hoá phẩm đồi truỵ… được đa số cán bộ Đảng viên và nhân dân đồng tình.

Trên cơ sở phát triển kinh tế kết hợp với việc thực hiện một số chính sách xã hội vừa nêu, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân có những chuyển biến tốt hơn, một bộ phận nhỏ dân cư có thu nhập tương đối khá, ở khu vực nông thôn đã có những thay đổi đáng kể tạo điều kiện cho nhân dân từng bước ổn định cuộc sống, an tâm chăm lo sản xuất, tin tưởng và hăng hái tham gia vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Huyện Đảng bộ.

3. Về an ninh quốc phòng:

Trong hai năm qua, tình hình an ninh chính trị trật tự xã hội diễn biến phức tạp, gay gắt hơn trước. Hoạt động của bọn phản động chống phá ta càng rõ nét trên các mặt tôn giáo, văn hoá tư tưởng, an ninh nội bộ và an ninh kinh tế. Trật tự xã hội, nhất là tình hình trọng án, cướp giật, thanh thiếu niên đánh nhau có hung khí, tệ nạn mãi dâm… khá phức tạp, là vấn đề bức xúc của Huyện cần giải quyết. Trước tình hình trên Huyện uỷ tập trung lãnh đạo bằng các Nghị quyết, Thông tri, kế hoạch chuyên đề, từng thời điểm có xác định trọng tâm trọng điểm, có kiểm tra uốn nắn. Do đó đã đạt được một số kết quả, góp phần giữ vững ổn định chính trị, tổ chức thực hiện nhiều chuyên đề chống tội phạm, từng bước ngăn chặn có hiệu quả về trật tự xã hội; bảo vệ an toàn các mục tiêu trọng điểm, các ngày lễ, Tết, kỷ niệm lớn hằng năm. Quan tâm xây dựng thế trận an ninh nhân dân.

Về nhiệm vụ quốc phòng và công tác quân sự địa phương có nhiều mặt tiến bộ so với trước: đã xây dựng khu vực phòng thủ của Huyện và các địa bàn giáp ranh, tổ chức diễn tập hàng năm đạt kết quả; công tác gọi thanh niên nhập ngũ hàng năm đạt 100% chỉ tiêu; xây dựng củng cố từng bước về số lượng và chất lượng lực lượng Dân quân Tự vệ, bảo đảm tổ chức và biên chế lực lượng dự bị động viên. Công tác xây dựng lực lượng, thực hiện chính sách hậu phương quân đội.

Hoạt động các ngành nội chính bảo đảm đúng luật pháp, có mặt chuyển biến tích cực như công tác xét xử, công tác kiểm sát chung, công tác thanh kiểm tra định kỳ. Việc chăm lo các điều kiện vật chất, tinh thần và trang bị cho các ngành nội chính được quan tâm hơn.

4. Hiệu lực quản lý Nhà nước và hoạt động của cơ quan dân cử đã được chuyển biến ở một số mặt:

Chuyển biến rõ nét của HĐND Huyện, là cụ thể hoá kịp thời các chủ trương, NQ của Huyện Đảng bộ và các vấn đề bức xúc mà cử tri quan tâm thành các chủ trương, NQ của HĐND để lãnh đạo chỉ đạo thực hiện. Kết hợp tốt với Thường trực Huyện uỷ, Thường trực Uỷ ban trong việc điều hành và kiểm tra việc thực hiện NQ thông qua giao ban ba Thường trực hàng tuần, trong việc tiếp dân và giải quyết khiếu tố, khiếu nại. Vai trò giám sát của các ban HĐND Huyện có tiến bộ, chất lượng thẩm định báo cáo ở các kỳ họp được nâng lên. Bên cạnh đó thực hiện các cuộc vận động có mặt chuyển biến tốt hơn như giải quyết những vụ việc tồn đọng sau đại hội; chống buôn lậu đạt được một số kết quả nhất định.

UBND Huyện đã xây dựng và ban hành quy chế làm việc, trên cơ sở đó có phân công nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể, nêu cao vai trò trách nhiệm của Chủ tịch và các thành viên Uỷ ban. Công tác quản lý xã hội, quản lý Nhà nước dần dần đi vào nề nếp, triển khai những quy định của cấp trên và ban hành một số văn bản, quy trình, quy định tạm thời nhằm giảm bớt thủ tục phiền hà trong công tác tiếp dân, và giải quyết khiếu tố, khiếu nại có liên quan đến nhà , đất… Việc điều hành, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Huyện uỷ, HĐND đạt kết quả ở một số lĩnh vực, nhất là công tác điều hànhthu chi Ngân sách, quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho lĩnh vực văn hoá xã hội, tạo tiền đề nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Đã tích cực sắp xếp, giải quyết những tồn đọng ở một số đơn vị doanh nghiệp Nhà nước, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện để các đơn vị trụ lại được và giữ vững sản xuất. Ngoài ra chỉ đạo củng cố kiện toàn một bước ở xã, ấp, tổ dân phố, cảnh sát khu vực và dân quân tự vệ, nhất là ở khu vực nông thôn.

5. Công tác VĐQC của Đảng bộ từ sau Đại hội VI, có chuyển biến thiết thực:

Do tác động của các chủ trương của Đảng và Nhà nước sát hợp với lợi ích của nhân dân, cùng sự nỗ lực tích cực của Mặt trận, Đoàn thể và Hội Cựu chiến binh các cấp.

Từ khi có Nghị quyết 8B/TW, về công tác vận động quần chúng và qua thực hiện NQTW3, một số cấp uỷ đã cụ thể hoá các NQ đưa vào chương trình hành động; định kỳ làm việc để nắm bắt tâm tư quần chúng các giới, kịp thời giải quyết và chỉ đạo hướng hoạt động; mở rộng dân chủ lấy ý kiến quần chúng đóng góp xây dựng Đảng…

Hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể và Hội CCB từng bước đổi mới: từ nội dung và phương thức hoạt động gắn quyền lợi và nghĩa vụ của Đoàn viên, hội viên. Trên cơ sở đó các đoàn thể, MTTQ, CCB đẩy mạnh thực hiện chương trình XĐGN, dự án nhỏ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, thực hiện chương trình khuyến nông trong sản xuất nông nghiệp, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất trong CN.TTCN… gắn với các hoạt động xã hội, từ thiện với chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu và các hoạt động bảo vệ an ninh chính trị, vận động thực hiện NVQS cũng như các hoạt động vui chơi giải trí. Qua đó mà mở rộng tập hợp các tầng lớp nhân dân vào các tổ chức đi đôi với việc giáo dục truyền thống, giáo dục về lý tưởng, cũng từ đó đã một bước nâng cao chất lượng Đoàn viên, hội viên với việc xây dựng lực lượng nòng cốt (nổi bật là” MTTQ, Hội Nông dân, Phụ nữ, CCB, đồng thời Công đoàn, Huyện đoàn cũng được củng cố và bước đầu có chuyển biến.

6. Công tác xây dựng Đảng:

Hơn 2 năm thực hiện NQ Đại hội V Thành phố và NQ Đại hội VI của Huyện Đảng bộ, Ban chấp hành, Ban Thường vụ tập trung lãnh đạo các mặt công tác xây dựng Đảng theo trọng tâm đổi mới và chỉnh đốn Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

Đến nay đã triển khai thực hiện NQTW3 ở 49/49 cơ sở Đảng trực thuộc. Qua thực hiện NQTW3 về đổi mới chỉnh đốn Đảng bước đầu tạo sự chuyển biến ở các cơ sở Đảng: Về củng cố nhận thức chính trị, tư tưởng trước thời cuộc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, tin tưởng đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn. Kiện toàn về công tác tổ chức, cải tiến nội dung sinh hoạt Đảng, đưa sinh hoạt Đảng từng bước vào nề nếp, quan tâm công tác quản lý cán bộ Đảng viên, thực hiện công tác bảo vệ nội bộ, công tác phát triển đảng viên mới có chuyển biến tốt hơn. Cán bộ, Đảng viên nêu cao được tinh thần trách nhiệm trước công việc mình phụ trách và ý thức tổ chức kỷ luật thực hiện tốt hơn, tích cực học tập văn hoá, chính trị và nghiệp vụ chuyên môn để không ngừng nâng cao trình độ nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Các Chi Đảng bộ tích cực xây dựng quy chế làm việc để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tóm lại bước đầu thực hiện đổi mới và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần NQTW3 có chuyển biến trên một số mặt, góp phần hoàn thành cơ bản nhiệm vụ mục tiêu phát triển KT XH – ANQP và xây dựng lực lượng cách mạng trên địa bàn Huyện.

- Lãnh đạo công tác giáo dục chính trị tư tưởng có tiến bộ hơn so với các nhiệm kỳ trước, đã quán triệt cho cán bộ, đảng viên, quần chúng hiểu, thống nhất với chủ trương, NQ của Đảng và đấu tranh chống các quan điểm sai trái với đường lối chủ trương của Đảng, chống các biểu hiện tiêu cực trong nội bộ Đảng. Tuyên truyền giáo dục trong Đảng bộ và quần chúng tinh thần cảnh giác cách mạng, chống âm mưu và thủ đoạn về “chiến lược diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, giáo dục về ý thức tổ chức kỷ luật và rèn luyện đạo đức cách mạng, phát huy tính năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước công việc. Chống tư tưởng thụ động, trông chờ ỷ lại tự do vô tổ chức, lối sống tha hoá, thực dụng, tin tưởng vào sự lãnh đạo đổi mới của Đảng và ra sức góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị đã đề ra.

Công tác huấn học có cố gắng, mở nhiều lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ ở các ngành, các cấp trên các lĩnh vực để nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công tác trong tình hình hiện nay. Công tác khoa giáo có chuyển biến, đã góp phần lãnh đạo tốt ở lĩnh vực văn hoá giáo dục và xã hội của Huyện.

Quan điểm đánh giá, bố trí và sử dụng cán bộ có được đổi mới, mạnh dạn đề bạt cán bộ theo hướng phát huy năng lực chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu. Thông qua Đại hội Đảng các cấp và thực hiện NQTW3 đã cơ bản sắp xếp, thay đổi cán bộ lớn tuổi, cán bộ yếu năng lực, kém phẩm chất, góp phần kiện toàn tổ chức lãnh đạo và quản lý của các ngành, các cấp (thay đổi, bố trí, đề bạt 25 cán bộ). Bên cạnh đó để chuẩn bị đội ngũ cán bộ đủ sức đáp ứng tình hình ở những năm sau, Huyện uỷ đã quan tâm đến công tác quy hoạch cán bộ kế thừa; ban hành tiêu chuẩn cán bộ, qui hoạch 13 chức danh chủ chốt cấp Huyện, tổ chức các lớp bồi dưỡng tại chức hoặc gởi đi đào tạo tại chức (488 lượt cán bộ) về lý luận, quản lý nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ… Từ đó trình độ cán bộ chủ chốt có được nâng lên so với trước, 23% đã tốt nghiệp đại học, 64% tốt nghiệp cấp 3, 65,7% có trình độ lý luận Trung cấp, 13% có trình độ lý luận cao cấp.

Công tác chính sách đối với cán bộ, kể cả cán bộ đã nghỉ hưu và cán bộ đương chức, có quan tâm hơn làm cho đảng viên gắn bó mật thiết với tổ chức Đảng hơn, tạo được sự đồng tình, động viên được sự đóng góp của các cán bộ hưu trí vào công việc chung.

Công tác kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy ở các ban Đảng, các đơn vị SXKD, các phòng ban Nhà nước có chú trọng hơn, đã sát nhập, giải thể, thành lập mới 1 số đơn vị nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình… Mặt khác, gắn với việc thực hiện NQTW3 đã quan tâm chỉ đạo củng cố xã, ấp, tổ dân phố, nhất là nâng cao vai trò của các chi bộ ấp. Kết quả thực hiện NQTW3, tổ chức Đảng và đội ngũ Đảng viên được khảo sát và đi vào chỉnh đốn tương đối toàn diện. Sau kiểm điểm phân loại có 16,2% đảng viên loại 1; 79,4% đảng viên loại 2; 3,7% đảng viên loại 3; chủ yếu do không hoàn thành nhiệm vụ và sai phạm trong sinh hoạt.

Nhìn chung, sau củng cố, kiện toàn, sắp xếp hiệu quả hoạt động của các bộ máy có được nâng lên, đã tạo tiền đề cơ bản cho việc tinh gọn, nâng chất trong thời gian tới.

Lãnh đạo công tác kiểm tra Đảng có nhiều tiến bộ, tổ chức kiểm tra đảng viên chấp hành điều lệ (2 đợt – 453 đảng viên), kiểm tra việc thực hiện quy chế và chấp hành Nghị quyết cấp trên (21 cơ sở Đảng), kiểm tra tài chánh Đảng… đã góp phần đưa hoạt động của đảng viên, và các tổ chức đảng đi vào nề nếp, chấp hành nguyên tắc và điều lệ Đảng… Đồng thời đã có một bước củng cố, nâng chất đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, do vậy cách thức tiến hành xác minh, xử lý vi phạm của đảng viên đúng mức và kịp thời. Công tác thông tin giải đáp, trả lời những vướng mắc, khiếu nại của đảng viên và cơ sở được chú trọng hơn.

Phong cách, lề lối làm việc đã có nhiều tiến bộ hơn trước: đã xây dựng và thực hiện theo quy chế làm việc. Trong lãnh đạo tổ chức thực hiện có bám sát Nghị quyết, kế hoạch đã đề ra, có chỉ đạo trọng tâm, trọng điểm, biết kết hợp công tác đột xuất với công tác thường xuyên có phân công và kiểm tra việc thực hiện. Công tác chỉ đạo phối hợp ở từng nơi, từng lúc có chú trọng hơn. Có sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm qua đó có điều chỉnh bổ sung các chủ trương, Nghị quyết và nhân rộng, những nhân tố mới. Vai trò của bộ phận 3 Thường trực phát huy tốt.

II. NHỮNG TỒN TẠI YẾU KÉM:

1. Kinh tế tăng trưởng thiếu vững chắc, quy mô còn nhỏ:

Kinh tế Huyện cẫn đang ở điểm xuất phát thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém. Việc tích luỹ để tái đầu tư còn thấp. Tốc độ phát triển chưa cao, chưa có sự ổn định và hiệu quả thấp, chậm xây dựng được quy hoạch ngành nên việc phát triển sản xuất, kinh doanh địa ốc, dịch vụ kho bãi, thương mại chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của Huyện. Công nghiệp chưa có yếu tố phát triển vững chắc: do thiếu vốn, bộ máy quản lý còn yếu chưa theo kịp tình hình, đổi mới trang thiết bị công nghệ còn chậm, không đồng đều, thị trường tiêu thụ còn hạn hẹp… Nông nghiệp còn độc canh. Việc hướng dẫn ứng dụng KHKT vào sản xuất nông nghiệp chưa được quan tâm đúng mức.

Một số doanh nghiệp Nhà nước còn lúng túng, chưa có phương hướng sản xuất rõ ràng, trình độ quản lý và chuyên môn còn yếu, chậm thích nghi với nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu được hình thành và tự củng cố song chưa có thị trường ổn định. Đồng thời thiếu sự hướng dẫn, quản lý chặt chẽ của các ngành chức năng. Kinh tế tập thể, hợp tác xã nay chỉ còn là hình thức, chưa quan tâm giải quyết những tồn đọng, chưa tìm được hình thức và nội dung hoạt động cho phù hợp với cơ chế thị trường.

Nguồn thu ngân sách hàng năm vẫn còn thất thu rất lớn, nhất là lĩnh vực xây dựng cơ bản, vận tải, dịch vụ thương mại ngoài quốc doanh. Nhu cầu chi ngày càng tăng, nhất là chi xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng chưa được đáp ứng, do cơ chế quản lý và phân cấp ngân sách Nhà nước chưa hợp lý, chưa tạo sự chủ động trong việc thực hiện công tác ngân sách. Bên cạnh đó, tình trạng lãng phí và thất thoát trong xây dựng cơ bản còn lớn, chất lượng công trình chưa cao, công tác giám sát chưa chặt.

Chỉ thị 52/UBND Thành phố về việc tạm ngưng cấp giấy phép xây dựng ở các xã phía Bắc của Huyện đã làm ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế - xã hội ở Huyện.

2. Trong lĩnh vực văn hoá xã hội còn một số tồn tại:

- Mặc dù đã có chỉ thị của Huyện uỷ về việc vận động bổ sung nguồn vốn cho chương trình XĐGN, nhưng việc tổ chức triển khai thực hiện chậm, thiếu đồng bộ. Việc hướng dẫn sử dụng và quản lý vốn chưa được quan tâm đúng mức.

- Từng lúc, từng nơi chưa có sự phối hợp tốt giữa các ngành giáo dục, y tế và các cấp uỷ, Uỷ ban xã, các đoàn thể, mặt trận trong việc thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm như: xoá mù, phổ cập cấp 1, trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng và kế hoạch hoá gia đình. Một phần cũng do ngân sách còn hạn chế nên chỉ mới tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa đồng bộ, còn cũ kỹ, lạc hậu. Chế độ đãi ngộ cho CBCNV các ngành hành chính sự nghiệp, nhất là y tế, giáo dục còn thấp, ngân sách Huyện còn hạn hẹp, nên chỉ có thể khen thưởng vào các dịp lễ, tết và cũng còn thấp. Nên chưa động viên phát huy nâng cao chất lượng hoạt động của 2 ngành này. Bên cạnh đó, việc vận động toàn xã hội, nhất là các đơn vị kinh tế của Trung ương, Thành phố đóng trên địa bàn cùng chăm lo phúc lợi xã hội còn hạn chế.

- Hoạt động TDTT chưa trở thành phong trào thường xuyên, đều khắp.

- Lãnh đạo công tác văn hoá – tuyên truyền vẫn chưa rộng khắp (nhất là các xã nông thôn), chưa phục vụ kịp thời một số nhiệm vụ trọng tâm của Huyện. Công tác quản lý văn hoá chưa thành nề nếp. Công tác phòng chống, ngăn ngừa tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan chưa thường xuyên, chỉ đạo thiếu kiên quyết. Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các đoàn thể, các xã. Phong trào xây dựng nếp sống mới, gia đình văn hoá mới chưa được quan tâm của các ngành, các cấp và các xã thị. Chưa chú trọng xây dựng phong trào văn nghệ quần chúng.

- Mức sống của một bộ phận nhân dân vẫn còn quá khó khăn, đời sống CBCNV khu vực hành chánh sự nghiệp, diện chính sách thu nhập cũng còn thấp. Bên cạnh đó đã có một bộ phận nhân dân biết cách tổ chức SXKD trở nên khá, giàu làm xuất hiện sự phân hoá giàu nghèo trên địa bàn Huyện.

3. Về an ninh quốc phòng:

Một bộ phận cán bộ đảng viên và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ âm mưu của địch về chiến lược “diễn biến hoà bình”. Trật tự xã hội còn khá phức tạp, đặc biệt là việc đấu tranh đối với một số tội phạm trọng điểm hiệu quả còn hạn chế; công tác nắm tình hình, công tác quản lý địa bàn dân cư có lúc có nơi thiếu chặt chẽ; lực lượng an ninh cơ sở chất lượng còn yếu; một bộ phận cán bộ, chiến sĩ, công an năng lực chưa đáp ứng kịp yêu cầu, nhiệm vụ mới; phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc còn yếu so với yêu cầu công tác. Công tác chuyển hóa địa bàn còn chậm, việc phối hợp với các ngành chưa đồng bộ, nhận thức về nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và công tác quân sự địa phương có những mặt hạn chế; công tác gọi thanh niên nhập gnũ chưa thật vững chắc và bị động; đối với thanh niên trốn thi hành nghĩa vụ quân sự và quân nhân đào ngũ tuy có chủ trương giải quyết nhưng trong tổ chức thực hiện chưa tốt, do thiếu chủ động phối hợp và kiên quyết xử lý, chưa lập quỹ ANQP ở các xã, thị; chưa nhân rộng mô hình ở xã Phú Xuân về hoạt động dân quân, dân phòng; thiếu quan tâm đúng mức củng cố tự vệ ở các cơ quan xí nghiệp; chất lượng hoạt động dân quân các xã, thị còn yếu; gặp nhiều khó khăn; việc giáo dục rèn luyện chiến sĩ có lúc, có nơi chưa tốt. Giải quyết khiếu kiện còn chậm; giáo dục tuyên truyền pháp luật còn yếu; việc thi hành pháp luật một số trường hợp chưa nghiêm minh. Đời sống, cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ.

4. Quản lý Nhà nước và hoạt động của cơ quan dân cử vẫn còn hạn chế:

Hoạt động của HĐND Huyện có mặt còn hạn chế, chưa thể hiện rõ là cơ quan quyền lực ở địa phương. Công tác tiếp xúc với cử tri, báo cáo kết quả các kỳ họp, vai trò giám sát, chất vấn chưa được thực hiện tốt.

Quản lý Nhà nước chưa chặt chẽ, còn lúng túng, thiếu biện pháp kiên quyết ở một số lĩnh vực (trật tự lòng lề đường, quản lý đất công...). Việc tạo điều kiện tác động đến sự phát triển của các thành phần kinh tế còn hạn chế. Công tác quản lý hành chính kinh tế đối với các đơn vị kinh tế chưa thường xuyên, thiếu kiểm tra, giám sát hoạt động các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh về thực hiện chức năng kinh doanh, thực hiện pháp lệnh thống kê - kế toán, thực hiện pháp lệnh thuế, công tác quản lý kinh tế tập thể có lúc buông lơi, chưa có biện pháp củng cố hoặc giải thể đối với những đơn vị chỉ còn là hình thức hoặc làm ăn thua lỗ.

Thực hiện “4 cuộc vận động”, chưa quan tâm đúng mức; công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, khiếu tố chất lượng chưa cao, thậm chí có những quyết định của UBND nhưng không được tổ chức thi hành, gây phiền hà đối với nhân dân, làm giảm lòng tin của quần chúng đối với Huyện uỷ, UBND. Năng lực hoạt động của các cơ quan Nhà nước chưa đồng đều, thủ tục vẫn còn rườm rà, chồng chéo và kém hiệu lực. Việc điều hành phối hợp thực hiện ở một số trường hợp cụ thể chưa tốt. Chậm triển khai rộng việc đổi mới cơ cấu tổ chức xã, việc củng cố đội ngũ cán bộ ấp (khu phố), tổ nhân dân (tổ dân phố). Bộ máy nhà nước sau nhiều lần giảm biên hiệu quả hoạt động chưa cao. Chưa chú trọng đào tạo cán bộ quản lý nhà nước nhất là cấp xã.

5. Công tác vận động quần chúng chưa đồng bộ, chưa theo kịp với tình hình (nhất là Đoàn thanh niên và tổ chức Công đoàn các cấp). Trong lãnh, chỉ đạo công tác vận động quần chúng, một số cấp uỷ Đảng, chính quyền chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động của các đoàn thể. Mặt khác, đội ngũ cán bộ làm công tác đoàn thể luôn biến động, lực lượng nòng cốt của các đoàn thể còn mỏng. Bộ máy tổ chức mặt trận, đoàn thể và dân vận các cấp tuy có được củng cố nhưng chưa đáp ứng yêu cầu tình hình mới, chất lượng hoạt động cơ sở không đồng đều, chưa quan tâm xây dựng tổ chức ở khu vực sản xuất ngoài quốc doanh, ngoài ra tổ chức thanh thiếu niên ở địa bàn dân cư chưa được chú ý. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, đoàn thể chưa đáp ứng yêu cầu. Bên cạnh đó, do thu nhập thấp, đời sống còn khó khăn, chưa động viên cán bộ yên tâm làm việc.

6. Cần quan tâm đến một số mặt tồn tại, yếu kém trong xây dựng Đảng:

Lãnh đạo công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa tập trung chú ý phát hiện và phát huy những nhân tố mới. Giáo dục lý tưởng cách mạng, giáo dục truyền thống, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, về Đảng và công tác đấu tranh giai cấp có làm nhưng chưa sâu. Nắm và hướng dẫn dư luận có lúc chưa kịp thời, chưa có biện pháp tốt để giáo dục ý thức cảnh giác chống diễn biến hoà bình, chống lối sống thực dụng, xa hoa lãng phí. Tính đấu tranh xây dựng nội bộ trong Đảng chưa cao. Công tác huấn học và khoa giáo có tiến bộ nhưng chưa đáp ứng yêu cầu.

Công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ kế thừa, công tác đào tạo cán bộ có lúc có nơi chưa theo quy hoạch, chưa được quan tâm đúng mức, nhất là ở các cấp uỷ Đảng mà trước hết là Bí thư và thủ trưởng. Thực tế đội ngũ cán bộ bị hụt hẫng ở nhiều lĩnh vực. Qua phân loại ở NQ TW3 cho thấy có 78% là cán bộ loại 2, tuy đảm đương được nhiệm vụ nhưng cần phải tiếp tục bồi dưỡng và đào tạo, nhất là về năng lực điều hành, quản lý và chuyên môn nghiệp vụ; chỉ có 10% là đạt loại 1 có nhiều triển vọng, còn lại 6% là số lớn tuổi phải thay thế, và 6% không đảm đương được nhiệm vụ phải bố trí lại.

Tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên có chuyển biến nhưng chưa đều, số cơ sở Đảng vững mạnh còn ít 8 đơn vị (16,3%) chiếm đa số là những cơ sở Đảng khá đạt 33 đơn vị (67,4%), trong đó có 21 đơn vị yếu mới phấn đấu vươn lên từ sau Đại hội vòng 2 kết hợp với thực hiện NQTW3, số chi Đảng bộ yếu chiếm tỷ lệ cũng khá cao – 8 cơ sở (16,3%), còn nhiều cơ sở chưa quan tâm đến công tác phát triển Đảng (2 năm: 24 cơ sở không phát triển, nhất là các chi bộ ấp), công tác bảo vệ nội bộ (15 đơn vị chưa thực hiện bước 2). So với trước khi thực hiện NQTW3, đội ngũ Đảng viên được nâng lên một mức về chất, nhưng chưa nhiều, số đảng viên bị kỷ luật so với nhiệm kỳ trước không giảm (31/33) Đảng viên là cán bộ chủ chốt Huyện bị kỷ luật vẫn còn nhiều (11 đ/c), xoá tên 14 trường hợp do sai phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng. Trong lúc đó phát triển đảng vẫn còn rất chậm (38 đảng viên mới, 46,4% so với nhiệm kỳ V).

Công tác kiểm tra có được tăng cường, nhưng xử lý sau kiểm tra còn chậm (một số là những giám đốc, phó giám đốc ở các đơn vị kinh tế làm ăn thua lỗ), cấp uỷ cơ sở có nơi chưa quan tâm đúng mức đến công tác kiểm tra, do vậy chưa chủ động ngăn ngừa. Đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra còn thiếu, năng lực tuy có được nâng lên nhưng vẫn chưa đáp ứng được tình hình.

7. Trong toàn Đảng bộ, việc lãnh, chỉ đạo tổ chức thực hiện tuy có trọng tâm, trọng điểm, nhưng có lúc chưa xuyên suốt, thiếu những biện pháp cụ thể, có phân công phân nhiệm nhưng còn trường hợp chưa gắn trách nhiệm cá nhân với hiệu quả công việc được giao. Công tác sơ, tổng kết có nơi, có lúc chưa quan tâm đúng mức. Đôi khi còn sa vào sự vụ, nội dung chất lượng một số cuộc họp chưa cao, hội họp nhiều ảnh hưởng đến công việc đi cơ sở.

III. NGUYÊN NHÂN, BÀI HỌC THỰC TIỄN:

Cùng với Thành phố, hơn hai năm qua Đảng bộ và nhân dân Huyện đã phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thử thách và đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực, mặc dù bên cạnh đó còn nhiều tồn tại yếu kém phải tiếp tục khắc phục. Quá trình thực hiện nhiệm vụ mục tiêu Nghị quyết Đại hội V Thành phố và Nghị quyết Đại hội Huyện Đảng bộ lần thứ VI đặt ra một số vấn đề vừa là nguyên nhân của kết quả, của tồn tại vừa mang tính chất bài học thực tiễn như sau:

1. Những kết quả mà Đảng bộ và nhân dân Huyện Nhà Bè đã đạt được trong hai năm qua bắt nguồn từ đường lối, chủ trương, Nghị quyết, chính sách đổi mới đúng đắn của Trung ương và Thành phố, phù hợp với nguyện vọng nhân dân. Được Thành phố thông qua quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng. Từ đó, BCH đã vận dụng sáng tạo phù hợp với địa phương, thể hiện bằng các nghị quyết, các chuyên đề để lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng hệ thống chính trị, góp phần ổn định và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân và ổn định chính trị. Qua đó khơi dậy nhiều phong trào hành động: tập hợp được lực lượng, củng cố các tổ chức đoàn thể quần chúng và bước đầu khôi phục niềm tin của quần chúng đối với Đảng.

Bên cạnh đó, đã bộc lộ một số tồn tại khá phổ biến trong công tác quản lý Nhà nước: mua bán đất đai, xây dựng, chiếm lòng lề đường, đô thị, tệ nạn xã hội, vấn đề quy hoạch khu dân cư, quy hoạch CN.TTCN… Mặt khác công nghệ còn lạc hậu, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, quản lý kinh tế và tổ chức điều hành còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Huyện.

Từ thực tiễn cho thấy, ngoài chủ trương, nghị quyết đúng đắn kịp thời sát với thực tế, thì công tác quản lý Nhà nước và tổ chức thực hiện rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định việc thực hiện thắng lợi hoặc thất bại các chủ trương nghị quyết của Đảng. Vì vậy đòi hỏi phải cụ thể hoá các nghị quyết Đảng bằng quy hoạch, kế hoạch, biện pháp và các chính sách cụ thể thực hiện trong từng giai đoạn. Việc lãnh đạo, chỉ đạo có xác định trọng tâm, trọng điểm, phải biết kết hợp công tác thường xuyên với công tác đột xuất, biết sơ kết, tổng kết việc thực hiện từng nhiệm vụ, để nâng cao trình độ lãnh đạo và quản lý cũng như nhân rộng những nhân tố mới. Có phân công, phân cấp, giao nhiệm vụ cụ thể cho các ngành, các cấp và cơ sở, có kiểm tra, giám sát và phát hiện uốn nắn kịp thời những lệch lạc hoặc tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở thực hiện nghị quyết, kịp thời xử lý những tồn tại hoặc những vấn đề phát sinh mới trong việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết Huyện uỷ - HĐND, UBND Huyện.

Mặt khác, phải giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ, mà trước hết trong Ban Thường vụ, BCH là một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi. Do đó, đoàn kết thống nhất phải thể hiện quan điểm chủ trương, nghị quyết và biện pháp tổ chức thực hiện; nhưng không đoàn kết thống nhất một chiều mà phải có thảo luận, đấu tranh trong nội bộ để đi đến nhất trí cao và thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của BCH Đảng bộ, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của BCH, BTV, Thường trực Huyện uỷ cũng như mối quan hệ giữa 3 Thường trực và Khối dân vận rõ ràng, không chồng cháo, dẫm chân lên nhau, bảo đảm thống nhất sự lãnh đạo của Đảng từng bước tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân. Sự phối hợp giữa 3 Thường trực ngày càng đi vào nề nếp và đồng bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo và điều hành, thực hiện tốt chố độ thỉnh thị báo cáo, vì vậy trong lãnh đạo, chỉ đạo phải thực hiện tốt quy chế làm việc đồng thời hàng năm phải có sơ kết rút kinh nghiệm bổ sung quy chế cho phù hợp với sự phát triển của Huyện.

2. Trong điều kiện hiện nay, phải hết sức đề cao cảnh giác và làm toàn Đảng bộ, nhân dân hiểu rõ âm mưu thủ đoạn của chiến lược diễn biến hoà bình mà thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa chủ nghĩa đế quốc và CNXH với hình thức và nội dung mới. Dựa vào thời cơ thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đưa đời sống nhân dân trong Huyện lên một bước cao hơn nhưng vẫn phải xem trọng ổn định chính trị, giữ vững định hướng XHCN, điều cần làm là củng cố, tăng cường chống buôn lậu, tham nhũng, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm, chống gây phiền hà nhân dân. Kiện toàn và làm trong sạch bộ máy Đảng, Nhà nước và đoàn thể, tiếp tục đào tạo và rèn luyện đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực, vì vai trò cán bộ có ý nghĩa quyết định, dù chủ trương nghị quyết của Đảng có đúng đắn nhưng đội ngũ cán bộ năng lực phẩm chất yếu kém, không thể biến các chủ trương Nghị quyết của Đảng thành hiện thực, đồng thời phải giữ nghiêm kỷ cương kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước. Vừa xem trọng phát triển kinh tế, vừa chăm lo tốt chính sách xã hội, nhất là về giáo dục và đào tạo. Chú ý gắn sự phát triển của Huyện với sự phát triển của Thành phố và tăng cường huy động sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân tham gia chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Huyện.

3. Công tác xây dựng Đảng:

Trong mấy năm qua, từ khi thực hiện nghị quyết 11 của Thành uỷ đến việc thực hiện nghị quyết TW3 về đổi mới chỉnh đốn Đảng đã giúp cho Đảng bộ nhìn rõ thực trạng bộ máy tổ chức các Chi Đảng bộ, các phòng ban, các đơn vị và xã - thị, cũng như đội ngũ cán bộ và Đảng viên mạnh yếu khác nhau. Thực tế chỉ ra rằng nơi nào quan tâm công tác Đảng và công tác xây dựng Đảng thì ở đó Chi Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh. Chi Đảng bộ thật sự là hạt nhân lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị tạo sự chuyển biến trong việc phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế, chăm lo tốt những vấn đề văn hoá giáo dục xã hội, đời sống nhân dân ở đó được cải thiện, khơi dậy phong trào hành động cáhc mạng của quần chúng, mạnh dạn đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong nội bộ, giữ vững an ninh quốc phòng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng, quần chúng tin Đảng, Đảng tin và dựa vào quần chúng. Ngược lại, nơi nào công tác xây dựng Đảng bị xem nhẹ thì nơi đó Chi Đảng bộ yếu kém, không thực hiện được vai trò hạt nhân lãnh đạo, dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ, nội bộ mất đoàn kết, một bộ phận cán bộ Đảng viên vi phạm sa sút về mặt đạo đức và vi phạm quyền làm chủ nhân dân, có trường hợp nghiêm trọng gây hậu quả về kinh tế - xã hội làm cho quần chúng ở đó thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo của Chi Đảng bộ.

Do đó, việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng bộ hết sức quan tâm tổ chức thực hiện. Việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng đạt kết quả hay không, ngoài yếu tố quyết định trong nội bộ Đảng, đều có vai trò quần chúng trực tiếp tham gia. Vì vậy kết quả đổi mới và chỉnh đốn Đảng không chỉ để Đảng mạnh mà còn thể hiện ra các hoạt động trong đời sống xã hội, thực tế đã đòi hỏi phải thông qua phong trào hành động cách mạng của quần chúng mà xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh. Mặt khác thông qua các hoạt động kinh tế - xã hội… mà tập hợp quần chúng vào các tổ chức thích hợp, qua đó giáo dục, giác ngộ quần chúng, vừa thực hiện chăm lo lợi ích vừa giáo dục quần chúng có nghĩa vụ đối với quê hương.

PHẦN THỨ HAI

NHỮNG NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TRONG THỜI GIAN TỚI

Trong thời gian 94-95 còn lại của nhiệm kỳ, để hoàn thành vượt mức các nhiệm vụ mục tiêu đề ra. Chúng ta cần quyết tâm giải quyết những khó khăn, tồn tại đang gây trở ngại cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Huyện Đảng bộ Nhà Bè.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu từ đây đến năm 1995 sẽ có những khó khăn và thuận lợi mới. Trước hết bốn nguy cơ mà hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Trung ương và Thành phố chỉ ra, không những là thử thách lớn của Thành phố mà còn tác động không ít đến Huyện nhà. Các đơn vị kinh tế nói chung bước đầu ổn định và có bước phát triển, tuy nhiên các doanh nghiệp Nhà nước còn thiếu vốn, kỹ thuật công nghệ lạc hậu, thị trường chưa được mở rộng và ổn định, đội ngũ cán bộ quản lý thiếu, yếu chưa thích nghi cơ chế thị trường. Cơ sở hạ tầng tuy được tập trung xây dựng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là ở các xã vùng sâu. Trình độ dân trí còn thấp, thất nghiệp còn nhiều. Trật tự và tệ nạn xã hội còn phức tạp. Đó là những khó khăn và thách thức, đòi hỏi Đảng bộ chúng ta phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tỉnh táo để nắm lấy thời cơ, khai thác thuận lợi, khắc phục khó khăn, đẩy lùi thách thức. Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn nêu trên, chúng ta đã co 1một số thuận lợi: Thành phố thông qua quy hoạch Tổng thể Huyện đến năm 2010 , nhằm xây dựng Khu công nghiệp Tân thuận, Nhà máy điện Hiệp Phước, Khu công nghiệp Hiệp Phước và các cụm công nghiệp phụ cận, hình thành con đường Bắc Nhà Bè, đầu tư mở rộng Liên tỉnh 15, Hương lộ 34, cũng như hình thành các cụm dân cư mới… Từ đó tác động thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần tăng tốc độ đô thị hoá, thu hẹp nông thôn, làm thay đổi bộ mặt Huyện. Song song đó, những kinh nghiệm được rút ra từ quá trình thực hiện các nhiệm vụ chính trị lãnh đạo của Huyện Đảng bộ vừa qua đã giúp cho đội ngũ cán bộ trưởng thành hơn, bước đầu có thêm kiến thức tiếp cận với cơ chế mới. Đó là những kết quả đạt được đã làm quần chúng nhân dân, cán bộ đảng viên tăng thêm lòng tin tưởng, tín nhiệm vào sự lãnh đạo của Đảng bộ. Đồng thời Huyện cũng được quan tâm tâm đầu tư, tiếp sức của Thành phố đối với việc xây dựng cơ sở hạ tầng, trường học, trạm xá, hỗ trợ chương trình XĐGN, nhà tình nghĩa…

Hơn hai năm qua, Đảng bộ và nhân dân Huyện Nhà Bè đã không ngừng phấn đấu vươn lên khắc phục khó khăn và vượt qua thử thách, đạt được những thành tích quan trọng theo mục tiêu nhiệm vụ mà Đại hội Huyện Đảng bộ lần thứ VI đề ra. Phát huy những thắng lợi đó, khắc phục những khó khăn tồn tại, chúng ta phải động viên toàn Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân tận dụng thời cơ, quyết tâm phấn đấu và hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu nghị quyết Đại hội V của toàn thành phố, Nghị quyết Đại hội VI và Nghị quyết hội nghịa giữa nhiệm kỳ của Huyện Đảng bộ, tạo tiền đề cho bước phát triển cao hơn trong những năm sau. Đảng bộ Nhà Bè quyết tâm xây dựng cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh phát triển kinh tế - ổn định chính trị, nâng cao dân trí và từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần nhân dân.

Sau đây là những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu:

1. Chương trình phát triển kinh tế:

- Từ những tiềm năng và thế mạnh của Huyện Đại hội VI đã xác định cơ cấu kinh tế chung của Huyện là: Dịch vụ - Công – Nông nghiệp, cơ bản là đúng đắn. Tuy nhiên, do xu thế phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố và vận dụng quan điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá với cơ cấu bước đi thích hợp, vì vậy điều chỉnh bổ sung cơ cấu kinh tế Huyện theo hướng Dịch vụ - Thương mại – Công – Nông nghiệp.

Để biến cơ cấu kinh tế thành hiện thực, trước hết phải nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực quản lý các ngành, các cấp để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, đòi hỏi quyết tâm và nỗ lực phấn đấu. Việc tạo vốn bằng nhiều nguồn cho xây dựng cơ sở hạ tầng, cho công nghiệp hoá hiện đại hóa, việc mở rộng thị trường và tạo thị trường mới nhằm bảo đảm sản xuất tiếp tục tăng trưởng chung, bình quân hàng năm 12%. Trong đó sản xuất CN.TTCN đạt mức tăng 17% -18%/năm, nông nghiệp tăng 2,4%/năm, các ngành SXKD - dịch vụ - thương mại tăng tối thiểu 20%/năm.

Coi trọng việc khai thác và cung ứng dịch vụ cảng, cung ứng tàu biểu và các khu công nghiệp trên một số lĩnh vực như: mua bán vật tư, phân bón, nhiên liệu, nông thuỷ hải sản, hàng kim khí điện máy… trên địa bàn từ đường Trần Xuân Soạn đến mũi Nhà Bè. Cung ứng lao động bốc xếp, bến bãi, kho hàng, dịch vụ sửa chữa tàu, xe và lương thực thực phẩm cho cảng tàu và khu công nghiệp, đi đôi với đẩy mạnh, mở rộng khu du lịch và các trung tâm vui chơi giải trí. Tập trung kiến nghị Thành phố cho Huyện tham gia san lấp mặt bằng, làm đường ở một số công trình Thành phố xây dựng trên địa bàn Huyện, tích cực kinh doanh mặt bằng, kinh doanh địa ốc. Chú trọng phát triển vận tải thuỷ - bộ.

Phát triển mạnh mẽ công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng, chế biến nông thuỷ hải sản và thủ công mỹ nghệ, ngành may, ngành xây dựng và cơ khí, sản xuất gỗ gia dụng… nhằm phục vụ thị trường trong nước, khu công nghiệp, trong đó chú trọng những mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao như: sản phẩm tinh chế nông, thuỷ hải sản, thủ công mỹ nghệ, và sản phẩm của ngành may… Phấn đấu kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm 5-6 triệu USD.

Huyện phải có chủ trương chính sách để huy động vốn bằng nhiều hình thức: liên doanh liên kệt, hợp tác kinh tế các thành phần kinh tế trong và ngoài Huyện kể cả nước ngoài (cá nhân hoặc tổ chức có đủ tư cách pháp nhân), hình thành công ty cổ phần, nghiên cứu hình thành công ty tài chánh qua đó thu hút vốn đầu tư thiết bị công nghệ hiện đại phục vụ SXKD.

Trong những năm trước mắt sản xuất nông nghiệp còn giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của Huyện, do đó, cần tập trung quy hoạch vùng và chương trình phát triển nông nghiệp. Đưa chăn nuôi trở thành một ngành sản xuất chính trong nông nghiệp. Trong trồng trọt chủ yếu cây lúa, phát triển mạnh cây dừa nước, nghiên cứu nhân rộng cây táo; đi đôi với việc tập trung phát triển chăn nuôi; chú trọng việc nuôi vịt đàn, vịt đẻ; nuôi tôm cá và kết hợp với đánh bắt, khai thác tôm cá tự nhiên, nghiên cứu nuôi bò sữa thí điểm ở các xã đô thị.

Thực hiện thâm canh tăng năng suất, đưa cây – con giống mới vào sản xuất, thực hiện chương trình khuyến nông, vận động nhân dân làm thuỷ lợi nội đồng, áp dụng quy trình kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, củng cố va 2mở rộng màng lưới thú y, bảo vệ thực vật.

Phấn đấu đến quý 1/95 hoàn thành việc cấp giấy sử dụng ruộng đất cho nông dân.

Tiếp tục lấy hộ nông dân làm đơn vị SXKD tổng hợp, hình thành các tổ nhóm để hướng dẫn hỗ trợ nhau trong sản xuất và đời sống.

- Kiến nghị Thành phố hỗ trợ cho việc điều chỉnh quy hoạch tổng thể và quy hoạch chuyên ngành như: quy hoạch CN.TTCN, quy hoạch nông nghiệp, giao thông cầu đường, điện, nước, trường học và khu dân cư… Ngoài nguồn vốn Nhà nước cấp để xây dựng cơ sở hạ tầng, Huyện cần có chính sách để huy động vốn của các thành phần và nguồn lao động của nhân dân để xây dựng cầu đường, điện, nước chủ yêu cho các xã nông thôn. Phấn đấu từ đây đến cuối năm 95, cơ bản thay cầu khỉ bằng cầu bêtông, bán kiên cố, cầu gỗ; cố gắng trải đá đỏ những đường chính vào xóm, ấp; điện khí hoá một xã (Phước Kiển) và kéo điện trung thế đến các ấp trong toàn Huyện, trừ những ấp kéo qua sông (Phước Lộ, Hiệp Phước)… Những năm trước mắt vấn đề giải quyết nước còn nhiều khó khăn, để khắc phục Huyện đầu tư phương tiện vận chuyển nước đổi cho nhân dân các xã nông thôn, và ở một số khu vực thuộc các xã đô thị. Đồng thời, quan tâm sửa chữa xây dựng trường mới, xoá bỏ ca 3.

Đổi mới cơ chế củng cố tổ chức quản lý vốn xây dựng cơ bản để bảo đảm hiệu quả cao, ngăn chặn tiêu cực, lãng phí, thất thoát vốn, kém chất lượng, phát huy nhanh và có hiệu quả các công trình xây dựng mới.

Trên cơ sở đảm bảo đúng định mức và chất lượng, phấn đấu tiết kiệm 7% trong xây dựng cơ bản.

- Tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN:

Khẩn trương hoàn thành sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước từ 11 đơn vị thành 4-5 đơn vị. Kiến nghị Thành phố chỉ đạo về việc giải quyết chiếm dụng vốn, giải quyết vấn đề thiếu vốn để đổi mới thiết bị, đầu tư công nghệ mới. Đờng thời củng cố kiện toàn về tổ chức và cán bộ làm cho mỗi công ty đẩy mạnh SXKD và làm nòng cốt cho sự tăng trưởng kinh tế; hình thành công ty cổ phần với những hình thức thích hợp, nghiên cứu hình thành công ty tài chánh.

Đối với kinh tế tập thể, nghiên cứu rà soát lại các HTX chuyên ngành như: HTX vận tải, HTX cơ khí, HTX nông nghiệp… Những HTX nào không có hiệu quả thì tiến hành thanh tra giải thể và chuyển sang hình thức tư nhân.

Đối với kinh tế cá thể, tư nhân có chính sách và tạo điều kiện dễ dàng để họ làm ăn có hiệu quả, tạo thêm công ăn việc làm.

Quản lý và thực hiện tốt các chính sách bảo đảm cho các hình thức kinh tế tư bản tư nhân, Công ty TNHH, công ty cổ phần phát triển đúng hướng; chống kinh doanh sai chức năng, làm ăn phi pháp, trốn thuế, đồng thời bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ. Thực hiện đúng pháp lệnh thống kê, kế toán. Tăng cường nguồn thu cho ngân sách. Mặt khác, phải sớm có quy chế và chính sách thực hành tiết kiệm chống lãng phí, phấn đấu tiết kiệm trên 5% trong chi thường xuyên. Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, tài sản công hiện có.

2. Tiếp tục chăm lo các vấn đề xã hội với hiệu quả cao hơn:

- Tích cực thực hiện chương trình XĐGN, phấn đấu đến 30/4/1975 cơ bản xoá hộ đói, tăng số hộ khá, giàu.

Thực hiện chủ trương xã hội hoá trong việc XĐGN huy động các tầng lớp nhân dân tham gia bằng nhiều hình thức với phương châm “lá lành đùm lá rách” và tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau: giúp vốn, kỹ thuật và hướng dẫn tổ chức SXKD.

Quản lý chặt chẽ nguồn vốn, trợ vốn đúng đối tượng, có kiểm tra hướng dẫn sữ dụng vốn đúng mục đích và đạt hiệu quả cao.

- Tổ chức thực hiện tốt chương trình phát triển giáo dục (93-95), nâng cao chất lượng dạy và học. Tập trung chỉ đạo công tác xoá mù và phổ cập tiểu học trên địa bàn Huyện. Phấn đấu đạt 95% các em đến tuổi đi học vào trường.

Nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học. Có biện pháp nâng cao đạo đức, chính trị và chuyên môn cho đội ngũ giáo viên, đồng thời tích cực đào tạo giáo viên tại chỗ là người địa phương, nhất là ở các xã xa. Vận động và giáo dục nhân dân trong Huyện khôi phục và phát triển tinh thần “tôn sư trọng đạo”, giúp đỡ chăm sóc thầy cô giáo trong lúc gặp khó khăn, và nghiên cứu vận dụng một số chế độ đối với giáo viên giúp cho họ yên tâm công tác, nâng cao chất lượng giảng dạy. Vận động xây dựng quỹ bảo trợ giáo dục chăm lo cho các em học sinh nghèo, học giỏi. Kiến nghị Thành phố có chính sách đối với giáo viên ở các xã nông thôn.

Phát động mạnh mẽ việc học BTVH trong thanh thiếu niên nhất là các xã nông thôn. Củng cố và phát triển trường BTVH, hình thành bộ phận chuyên trách chăm lo cho công tác này. Gắn học văn hoá với học nghề, học nghề với học văn hoá. Tiếp tục đầu tư mở rộng Trung tâm dạy nghề, tăng cường trang thiết bị máy móc tương đối hiện đại để phục vụ cho việc đào tạo. Củng cố bộ máy quản lý, ổn định đội ngũ giảng viên. Nâng cao chất lượng đào tạo, đào tạo theo chương trình mục tiêu phát triển kinh tế của Huyện, Thành phố, đáp ứng yêu cầu lao động có kỹ thuật cho khu công nghiệp và các công ty xí nghiệp.

- Phấn đấu thực hiện công tác thu tiền lao động công ích đạt chỉ tiêu Thành phố giao. Quan tâm đến công tác di dời dân vào các khu định cư mới để có cuộc sống ổn định. Phấn đấu giải quyết việc làm hàng năm cho 4000-5000 laođ ộng.

- Đẩy mạnh và mở rộng chương trình sửa chữa, xây dựng nhà ở trong Huyện. Có chính sách huy động tất cả các thành phần xã hội, các ngành, các cấp, các cơ quan đóng trên địa bàn tham gia chương trình trên. Nghiên cứu hình thức xây dựng nhà bán trả góp cho cán bộ , công nhân và nhân dân lao động. Kiến nghị Thành phố cho giải toả khu vực Cầu hàn (giải quyết tệ nạn xã hội) thực hiện theo quy hoạch của Huyện, Thành phố.

Tiếp tục thực hiện công tác vận động xây dựng nhà tình nghĩa, hoàn thành chỉ tiêu 150 căn nhà từ nay đến 30/4/1995 và sửa chữa cho các gia đình chính sách. Đồng thời cấp sổ tiết kiệm tình nghĩa cho các đối tượng chính sách.

- Tăng cường công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em, tranh thủ các nguồn vận động và hỗ trợ để có những hoạt động thiết thực chăm lo các em.

Đẩy mạnh hoạt động Nhà thiếu nhi nhằm quy tụ các em sau giờ học tập được vui chơi giải trí và phát triển năng khiếu bằng các loại hình thích hợp. Đầu tư kinh phí hợp lý để mở rộng hoạt động.

- Thực hiện chủ trương săn sóc sức khoẻ cho nhân dân, tổ chức thực hiện tốt chương trình săn sóc sức khoẻ ban đầu trên cơ sở phối hợp nhiều ngành, phấn đấu thực hiện công tác tiêm chủng mở rộng đạt trên 80% (số trẻ tiêm đủ mũi), hạ thấp tỷ lệ sinh đẻ từ 1,7% xuống 1,5% (mức tăng tự nhiên). Tổ chức đào tạo bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ ngành y, nâng cao chất lượng điều trị và phòng chống bệnh. Trang bị mới một số máy móc, dụng cụ khám và điều trị. Quản lý các bệnh xã hội, truyền nhiễm để ngăn ngừa lây lan và điều trị có hiệu quả. Từng bước xã hội hoá các hoạt động giữ gìn vệ sinh công cộng, duy trì và phát triển phong trào xanh sạch.

- Kiến nghị Thành phố hỗ trợ kinh phí để xây dựng sân bóng đá và từng bước xây dựng, trang bị thêm phương tiện cho các hoạt động khác, nhằm đẩy mạnh phong trào rèn luyện thân thể một cách rộng rãi.

- Đẩy mạnh các hoạt động thông tin tuyên truyền bằng nhiều hình thức, củng cố tăng cường vật chất kỹ thuật cho đài truyền thanh các xã, quy hoạch các cụm văn hoá phù hợp nhu cầu nhân dân; tiếp tục hoàn chỉnh hai điểm vui chơi giải trí ở Nhơn Đức và Hiệp Phước; đồng thời phân kỳ xây dựng các hạng mục của nhà văn hoá Huyện. Từng bước củng cố và phát triển phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng. Đẩy mạnh công tác quản lý và kiểm tra văn hoá trên địa bàn Huyện, kiên quyết dẹp những nơi vi phạm quy định.

Củng cố và phát triển phong trào nếp sống mới và gia đình văn hoá mới rộng khắp Huyện. Nâng đời sống tinh thần của nhân dân lên một bước. Giáo dục truyền thống, lòng yêu nước, yêu CNXH, yêu tổ quốc, quê hương, sống có lý tưởng, hoài bão, yêu lao động, ham học hỏi, cầu tiến, phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc. Đồng thời chú ý làm tốt công tác bảo tồn, bảo tàng các di tích, hiện vật truyền thống. Chống tàn dư phong kiến, văn hoá đồi truỵ, lối sống thực dụng, ngán ngại học tập, lao động.

- Quan tâm chăm lo đời sống vật chất tinh thần đối với cán bộ cách mạng lão thành, cán bộ nghỉ hưu và gia đình có công với cách mạng, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.

- Kiên quyết ngăn chặn và tiếp tục đẩy lùi các tệ nạn mại dâm, xì ke, ma tuý, các nhà hàng, quán kinh doanh ăn uống không lành mạnh, với các kế hoạch đồng bộ theo thông báo 06/HU và quy định 1196 của UBND Thành phố. Tạo sự chuyển biến mới các vấn đề xã hội theo tinh thần nghị quyết TW4 và NQ7/TU đã được cụ thể hóa bằng các chương trình hành động cụ thể của Huyện uỷ.

3. Tiếp tục củng cố an ninh quốc phòng:

Lãnh đạo giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ an toàn các mục tiêu trọng điểm trên địa bàn Huyện. Cùng với Thành phố đấu tranh chống âm mưu chiến lược “diễn biến hoà bình” của địch, tăng cường công tác phản gián, chống xâm nhập; phối hợp thực hiện tốt công tác bảo vệ an ninh nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh văn hoá và tư tưởng. Tích cực chuyển hoá các địa bàn trọng điểm như Cầu Hàn. Chú trọng phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả trọng án hình sự, các tội phạm trọng điểm, kiên quyết bài trừ tệ nạn xã hội; lãnh đạo trật tự công cộng đi vào nề nếp ổn định. Tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng lực lượng công an nhất là cảnh sát khu vực, công an viên, củng cố phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc trên cơ sở xây dựng lực lượng an ninh cơ sở vững mạnh và xây dựng địa bàn an toàn, tuyến an toàn liên hoàn.

Lãnh đạo nhiệm vụ quốc phòng và công tác quân sự địa phương trước hết phải bảo đảm số lượng và chất lượng; công tác gọi thanh niên nhập ngũ; kiên quyết xử lý số quân nhân đào ngũ và thanh niên trốn NVQS. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, huấn luyện xây dựng kế hoạch phòng thủ khu vực và tổ chức diễn tập theo chủ trương chung của cấp trên. Chăm lo thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, thực hiện tốt công tác Đảng, công tác chính trị nhằm cổ vũ, động viên và xây dựng quân đội nhân dân vững mạnh. Tiếp tục xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đủ số lượng và nâng cao chất lượng, mở rộng việc xây dựng quỹ quốc phòng ở các xã (thị trấn).

4. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước:

Tiếp tục củng cố, kiện toàn bộ máy các phòng ban, tham mưu UBND Huyện và các xã theo hướng tin gọn, đảm bảo thực hiện công tác quản lý Nhà nước trên địa bàn. Thực hiện theo quy chế làm việc đã ban hành để vừa phát huy tốt vai trò của các thành viên trong UBND, vừa phân định rõ trách nhiệm. Đồng thời chuẩn bị bầu cử HĐND các cấp. Tiếp tục cải tiến các thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho nhân dân.

Bồi dưỡng, đào tạo cán bộ theo quy hoạch, trên cơ sở tiêu chuẩn các chức danh cán bộ chủ chốt và tiêu chuẩn công chức Nhà nước.

Đưa công tác quản lý Nhà nước vào nề nếp. Cương quyết xử lý nghiêm các vi phạm theo quy định của pháp luật. Tăng cường quản lý công tác xây dựng, đất đai, quản lý đô thị, tăng cường công tác quản lý nghiệp vụ đối với các đơn vị kinh tế, tăng cường kiểm tra giám sát các hoạt động thuế, tài chánh…

Tiếp tục củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền xã - thị, ấp – khu phố, tổ dân phố - tổ nhân dân gắn với củng cố an ninh cơ sở nhằm bảo đảm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý dân cư và quản lý địa bàn, bảo vệ an ninh trật tự và chăm lo đời sống nhân dân.

Tiếp tục thực hiện 4 cuộc vận động lớn đạt hiệu quả: đẩy mạnh công tác chống buôn lậu, chống tham nhũng, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm, chống gây phiền hà nhân dân. Định kỳ kiểm điểm hiệu quả hoạt động. Củng cố các cơ quan bảo vệ pháp luật, phối hợp với ngành dọc Thành phố để kiện toàn cả về tổ chức, nhân sự lẫn việc bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm không ngừng tăng cường pháp chế XHCN, kỷ cương pháp luật của Nhà nước.

5. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận, các Đoàn thể và Hội Cựu chiến binh đẩy mạnh công tác vận động quần chúng:

Mặt trận, các đoàn thể và Hội CCB tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động theo hướng thiết thực và đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng. Lấy lợi ích quần chúng gắn với nghĩa vụ là mục tiêu cho các phong trào hành động. Các đoàn thể và Mặt trận Huyện cùng cấp uỷ, chính quyền cơ sở tiến hành quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác đoàn thể.

Để tổ chức thực hiện cần kiện toàn Ban Dân vận, củng cố Đoàn thanh niên và Liên đoàn Lao động các cấp theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Xây dựng các tổ chức như công đoàn và Đoàn thanh niên, các Ban đại diện công nhân trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Củng cố hệ thống chân rết của Mặt trận và các đoàn thể ở ấp, tổ. Các cấp uỷ Đảng, thủ trưởng các đơn vị có Nghị quyết chuyên đề về công tác vận động quần chúng, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện NQ8. Có chế độ, chính sách đúng mức với cán bộ làm công tác đoàn thể, thực hiện tốt việc định kỳ làm việc giữa Đảng, chính quyền và các đoàn thể để kịp thời nắm bắt tình hình và lãnh đạo giải quyết các vấn đề từ thực tiễn đặt ra. Chăm sóc lực lượng hưu trí, CCB để động viên, phát huy trí tuệ của các đồng chí trong mọi lãnh vực. Phân công cán bộ phụ trách đoàn thể, có mục tiêu, chỉ tiêu rõ ràng để phấn đấu, cho phép việc tự tạo quỹ hoạt động của các đoàn thể song phải trong khuôn khổ pháp luật quy định.

6. Tiếp tục đổi mới và chỉnh đồn Đảng:

- Tiến hành thường xuyên công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng; kết hợp quán triệt nghị quyết hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, hội nghị Đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá 5 của Thành phố với việc giáo dục chính trị thường xuyên làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng có chuyển biến thực sự về nhận thức trên các mặt sau đây:

Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu XHCN và đường lối đổi mới của Đảng. Giữ vững độc lập tự chủ, hợp tác, phát triển theo định hướng XHCN trong tất cả các lĩnh vực hoạt động; kiên quyết đấu tranh khắc phục những khuynh hướng lệch lạc, hoặc có quan điểm sai trái với chủ trương đường lối của Đảng, nhất là hướng tự phát TBCN coi nhẹ kinh tế quốc doanh và xem nhẹ vai trò quản lý Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.

Nâng cao cảnh giác cách mạng trong toàn Đảng bộ và nhân dân để bảo vệ an ninh chính trị, an ninh quốc gia, bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ, chống các âm mưu và thủ đoạn “chiến lược diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, các nhen nhóm chống đối phản cách mạng.

Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ; phát huy dân chủ đi đôi giữ vững kỷ cương và tôn trọng pháp luật. Tăng cường đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trong BCH và toàn Đảng bộ. Chống biểu hiện tuỳ tiện, vô tổ chức, vô kỷ luật, chống cục bộ bè phái trong Đảng.

Mỗi cán bộ, đảng viên rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, xây dựng nếp sống giản dị, lành mạnh, văn minh. Chống thoái hoá biến chất, nếp sống thực dụng, ích kỷ, hẹp hòi, cục bộ. Mỗi đảng viên phải tích cực đấu tranh chống tham nhũng, chống tiêu cực và quan liêu, cửa quyền. Kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng thụ động ỷ lại, ngại khó, ngại khổ không tích cực học tập và công tác, sợ đụng chạm không dám đấu tranh; thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám phê bình. Mỗi chi Đảng bộ phấn đấu trở thành một tổ chức trong sạch vững mạnh, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi các hành vi tham nhũng, buôn lậu và các hiện tượng tiêu cực khác, góp phần bảo vệ thanh danh và uy tín Đảng.

Coi trọng công tác thực tiễn, lấy đó làm một trong nội dung giáo dục chính trị tư tưởng trong Đảng bộ và nhân dân, cải tiến việc quán triệt học tập nghị quyết. Tổ chức tuyên truyền miệng, nói chuyện thời sự theo từng chuyên đề, cung cấp thông tin, cung cấp báo chí, sổ tay, tạp chí xây dựng Đảng. Củng cố kiện toàn mở rộng mạng lưới báo cáo viên, tuyên truyền viên đi đôi với việc củng cố kiện toàn Trung tâm bồi dưỡng cán bộ, chú trọng công tác sơ tổng kết rút kinh nghiệm công tác chính trị tư tưởng. Đẩy mạnh công tác huấn học và khoa giáo.

- Củng cố, nâng cao vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên.

Tổ chức sơ kết 2 bước thự hiện Nghị quyết TW3 đánh giá kết quả chung, rút ra bài học kinh nghiệm, chỉ đạo phương hướng đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong thời gian tới. Hướng dẫn các chi Đảng bộ xây dựng các chuyên đề về công tác củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy: Đảng, chính quyền, đoàn thể, nhất là xây dựng chi bộ bộ phận ở ấp, khu phố và những đơn vị quan trọng. Xây dựng quy chế làm việc, xây dựng chuyên đề bảo vệ Đảng, quản lý đảng viên, phát triển đảng viên mới và chuyên đề công tác vận động quần chúng… trong đó, coi trọng xây dựng, củng cố chi bộ bộ phận vì đây là nơi triển khai tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng và các chủ trương chính sách của Nhà nước, là nơi trực tiếp quan hệ mật thiết giữa đảng viên với quần chúng. Do đó, phải quan tâm cải tiến nângcao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tổ Đảng, phân công kiểm tra công tác đảng viên, đặc biệt là công tác quần chúng.

Tập trung chỉ đạo đại hội chi đảng bộ, thông qua đại hội mà củng cố kiện toàn các chi bộ yếu. Từ đây đến năm 1995 phấn đấu xây dựng 40-45% chi đảng bộ trong sạch vững mạnh, từ 50-55% chi đảng bộ khá, không còn chi đảng bộ yếu.

Nâng cao chất lượng đảng viên: qua kiểm điểm phân loại Đảng, hướng dẫn cho các chi đảng bộ và đảng viên làm chương trình hành động khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm, đăng ký công tác với chi bộ (trừ đồng chí bệnh, hoàn cảnh khó khăn đi làm xa, hoặc miễn sinh hoạt) tổ chức học tập bồi dưỡng về trình độ học vấn chính trị, nghiệp vụ chuyên môn, nâng cao bản lĩnh chính trị, qua đó bồi dưỡng tăng thêm đảng viên đủ tư cách phấn đấu tốt giảm số đảng viên đủ tư cách còn yếu kém một số mặt, xử lý kịp thời dứt điểm số đảng viên vi phạm tư cách và không đủ tư cách đảng viên. Do đó trong 2 năm 94-95 phấn đấu có 50% đảng viên đủ tư cách phấn đấu tốt và 50% đảng viên đủ tư cách nhưng còn yếu một số mặt.

- Làm tốt công tác phát triển Đảng, đạt chỉ tiêu nghị quyết Đại hội đề ra, song phảo đảm bảo chất lượng, chú trọng ở các lĩnh vực hiện nay còn ít đảng viên và những đơn vị quan trọng.

- Quan tâm củng cố kiện toàn nâng cao năng lực và vai trò tham mưu các ban Đảng; Văn phòng Huyện uỷ trong công tác lãnh đạo chung và công tác xây dựng Đảng cũng như thực hiện tốt công tác chuyên môn.

- Chú trọng nâng cao phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc: sắp xếp đi cơ sở, giảm bớt hội họp, quan tâm công tác kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, công tác lãnh đạo phối hợp thực hiện các mặt công tác và cuối cùng là gắn trách nhiệm từng cá nhân, đơn vị với nhiệm vụ được giao.

7. Tiếp tục đổi mới và tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác cán bộ:

Từ đây đến cuối năm 1995, phải khắc phục một bước tình trạng hụt hẫng cán bộ, phải đáp ứng yêu cầu sắp xếp, điều chỉnh bổ sung và chuẩn bị trước mắt cán bộ BCH nhiệm kỳ VII của Huyện Đảng bộ, đồng thời chuẩn bị đội ngũ cán bộ đến năm 2000.

Đổi mới và tạo chuyển biến tích cực trong công tác cán bộ, trước hết đổi mới quan niệm, phương pháp công tác cán bộ trong đánh giá, tuyển chọn sử dụng, đề bạt, bố trí cán bộ, phát hiện đào tạo và bồi dưỡng tạo điều kiện phát huy cán bộ có đức có tài. Trẻ hoá đội ngũ cán bộ và trân trọng phát huy cán bộ lớn tuổi có lập trường chính trị vững vàng. Thực hiện quy hoạch đào tạo cán bộ, sử dụng cán bộ nữ theo đúng chỉ thị 44 của BBT Trung ương Đảng chống hẹp hòi, thành kiến, cục bộ, khép kín trong công tác cán bộ.

Quy hoạch, đào tạo cán bộ theo đúng tiêu chuẩn nghị quyết TW3 đề ra và kế hoạch số 10 của Thành uỷ, Kế hoạch 13 của Huyện uỷ, trong đó chú trọng quy hoạch theo tiêu chuẩn và từng chức danh, đối với cán bộ kế cận và cán bộ dự bị, từng bước đào tạo bố trí sử dụng theo chuyên môn hoá.

Các cấp uỷ mà trực tiếp là Bí thư và thủ trưởng ở các đơn vị, ban ngành địa phương là người trực tiếp làm công tác quy hoạch đào tạo cán bộ, còn các ban Đảng là người hướng dẫn công tác chuyên môn, đồng thời giúp cho BCH về công tác cán bộ.

Dành ngân sách thoả đáng mới đáp ứng yêu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ trước mắt cũng như lâu dài cho Huyện.

Để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ trên, hội nghị đại biểu Huyện Đảng bộ giữa nhiệm kỳ kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên, công nhân viên và các tầng lớp nhân dân trong Huyện phát huy tinh thần cách mạng, khắc phục khó khăn, đoàn kết thống nhất thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Đại hội VI mà hội nghị giữa nhiệm kỳ tiếp tục khẳng định và bổ sung.

BAN CHẤP HÀNH HUYỆN ĐẢNG BỘ NHÀ BÈ

Thông báo