Thực hiện Nghị định 03 của Chính phủ ngày 06/01/1997 về việc thành lập 5 Quận mới thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Quận 12 đã chính thức được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 01/4/1997. Trong 9 tháng qua, thời cơ và thuận lợi mở ra cho một Quận mới khá nhiều, nhưng khó khăn và thử thách đặt ra cũng không phải ít. Đảng bộ đã kế thừa và tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Hóc Môn lần VII trên cơ sở bổ sung, điều chỉnh phù hợp với đặc điểm tình hình của Quận.
Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quận 12 lần thứ I có nhiệm vụ tổng kết tình hình của Đảng bộ trong 9 tháng qua kể từ ngày công bố thành lập Quận, đồng thời đề ra phương hướng nhiệm vụ 3 năm tới (1998 – 2000), tạo tiền đề xây dựng và phát triển Quận vững mạnh để cùng Thành phố và cả nước chuẩn bị bước vào thế kỷ XXI.
PHẦN THỨ NHẤT
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TRONG THỜI KỲ ĐẦU XÂY DỰNG QUẬN (01/4/1997 – 12/1997)
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Từ ngày thành lập Quận đến nay, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh hơn trước, diện tích đất nông nghiệp giảm dần, các khu dân cư, nhà mới xây dựng ngày càng tăng, cơ cấu kinh tế “công nông nghiệp – thương mại – dịch vụ” tiếp tục được chuyển dịch theo chiếu hướng mới. Do mới được tách ra từ huyện Hóc Môn nên mục tiêu của Quận là tiếp tục ổn định, giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế, từng bước tạo chuyển biến ở các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh, làm cơ sở cho sự phát triển trong những năm tới.
1. Thành tựu:
- Tiếp tục chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng được Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Hóc Môn lần thứ V xác định là “công nông nghiệp – thương mại – dịch vụ”. Trong 9 tháng năm 1997, ước giá trị tổng sản lượng công – nông nghiệp đạt 283,8 tỷ đồng (trong đó tỷ trọng công nghiệp 79%, nông nghiệp 21%). Ngành thương mại, dịch vụ tăng nhanh và ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế Quận (công nghiệp chiếm 38%, nông nghiệp chiếm 10%, thương mại chiếm 35%, dịch vụ chiếm 17%).
* Đã thông qua quy hoạch chung của Quận và đang chờ thành phố phê duyệt quy hoạch chi tiết Khu trung tâm Hành chính – Thương mại dịch vụ Quận, Khu công nghiệp Tân Thới Hiệp, Khu Nhà vườn Thạnh Lộc, Khu dân cư Ngã tư Ga, Khu dân cư Đông Hưng Thuận… Đồng thời, Quận đã xây dựng và thông qua thành phố kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1998 và đang hoàn chỉnh kế hoạch từ 1998 đến 2000, chuẩn bị mọi điều kiện để mời gọi các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư nhằm đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa.
* Sản xuất Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp: Trên địa bàn Quận hiện có một doanh nghiệp do Nhà nước quản lý là Cty Đông Hưng, giá trị sản lượng năm 1997 ước đạt 888 triệu đồng, chiếm 0,41% giá trị tổng sản lượng toàn ngành và doanh thu sản xuất công nghiệp năm 1997 ước đạt 1,382 tỷ đồng, chiếm 0,51% tổng doanh thu toàn ngành. Công nghiệp ngoài quốc doanh có giá trị sản lượng 9 tháng năm 1997 ước đạt 222,645 tỷ đồng, chiếm 99,59% tổng giá trị sản lượng toàn ngành; Doanh thu ước thực hiện 270,392 tỷ đồng, chiếm 99,49% tổng doanh thu toàn ngành. Công nghiệp ngoài quốc doanh có 13.604 lao động chiếm 98% lao động toàn ngành. Một số ngành sản xuất phát triển mạnh và ổn định như may (may mặc và da giày), sản xuất tôn, chế biến nhựa gia dụng…
* Sản xuất nông nghiệp: Qua điều tra tình hình cơ giới hóa trong nông nghiệp, toàn Quận có 7 máy kéo cỡ nhỏ, 5.038 máy bơm nước, 60 thuyền ghe máy, 27 xe kéo có động cơ, 11 máy nghiền thức ăn gia súc. Số liệu này tuy còn khiêm tốn, nhưng cho thấy sản xuất nông nghiệp của Quận đã từng bước được đầu tư theo hướng cơ giới hóa, gắn sản xuất nông nghiệp với chế biến, tuy nhiên kết quả đạt được vẫn còn rất hạn chế so với yêu cầu. Trong những tháng qua, diện tích đất nông nghiệp có khuynh hướng giảm dần, Quận đã tích cực vận động hướng dẫn nông dân thực hiện thâm canh, sản xuất cây, con có giá trị kinh tế cao, từng bước chuyển sang kinh tế vườn. Ước giá trị sản lượng trồng trọt 9 tháng đạt 31,708 tỷ đồng, chiếm 55,61% toàn ngành, chăn nuôi đạt 28,559 tỷ đồng, chiếm 47,39% toàn ngành. Cây lúa, con heo và con bò sữa chiếm vị trí quan trọng. Tuy nhiên, do ảnh hưởng khâu thu mua sữa bò, giá thu mua heo giảm mạnh trong khi thức ăn giá súc tăng nên đàn bò, đàn heo có chiều hướng giảm. Một số cây, con khác từng bước phát triển như: cây kiểng, cá thịt, cá kiểng, trăn, bồ câu, trứng gà…
* Kinh doanh thương mại, dịch vụ: Toàn Quận hiện có 13 chợ hoạt động ổn định và từng bước định hình các khu vực thương mại trung tâm ở: Ngã tư An Sương, ngã tư Tân Thới Hiệp, Ngã tư Ga… Doanh số bán ra ước toàn ngành trong 9 tháng là 302,062 tỷ đồng, trong đó quốc doanh 4,352 tỷ đồng (chiếm 1,44%), HTX 1,397 tỷ đồng (chiếm 0,45%), ngoài quốc doanh 297,710 tỷ đồng (chiếm 98,56%). Ngành hàng phát triển mạnh là lương thực, thực phẩm, kim khí điện máy, hàng tiêu dùng, văn hóa phẩm, ăn uống…
* Công tác kiểm tra quản lý thị trường, chống buôn lậu, chống hàng gian, hàng giả được quan tâm đạt kết quả khá tốt, nhất là từ đầu tháng 7 đến nay, qua đó phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm.
* Thu – chi ngân sách: Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng Quận rất cố gắng để cân đối thu chi, đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi thường xuyên trên tinh thần tiết kiệm và đảm bảo phục vụ nhiệm vụ chính trị của Quận. Tính đến 31/12/1997, tổng thu ngân sách Nhà nước là 40,604 tỷ đồng, đạt 100,08% kế hoạch 9 tháng năm 1997; Tổng chi ngân sách Quận là 16,195 tỷ đồng đạt 139% kế hoạch 9 tháng năm 1997. Toàn Quận phấn đấu thực hiện tốt chỉ tiêu thu chi ngân sách năm 1997. Ngân hàng và Kho bạc có nhiều cố gắng phục vụ yêu cầu tiền mặt cho cả khu vực Hóc Môn và Quận 12, luôn gắn bó với địa phương, đáp ứng khá tốt cho yêu cầu của các đơn vị và nhân dân.
* Về quản lý đô thị: do tốc độ đô thị hóa nhanh có yếu tố tự phát, trong khi quy hoạch chi tiết chưa được duyệt nên công tác quản lý trên lĩnh vực nhà đất, xây dựng gặp nhiều khó khăn. Dù Thành phố và Quận có ban hành một số văn bản hướng dẫn quy trình thực hiện thuộc lĩnh vực nhà, đất nhưng tình trạng lấn chiếm đất công, sang nhượng nhà – đất trái phép, vi phạm trật tự xây dựng… xảy ra khá phổ biến. Một số nỗ lực mà Quận đã thực hiện như: cải tiến thủ tục hành chính, kiểm tra và xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm, kiến nghị Thành phố sớm duyệt quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết… Nhưng kết quả vẫn còn hạn chế. Theo chỉ đạo của UBND Thành phố, Quận đã thực hiện thí điểm đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại phường Đông Hưng Thuận, đến cuối tháng 9 cơ bản hoàn thành bước kê khai đăng ký. Quận đã thành lập Hội đồng xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp Quận, Phường, tổ chức tập huấn công tác kiểm tra hồ sơ đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các phường và các đơn vị bộ đội đóng trên địa bàn Quận.
Tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản trong 9 tháng năm 1997 ước khoảng 9,707 tỷ đồng (chưa tính kinh phí đầu tư điện khí hóa cho các phường An Phú Đông, Thạnh Lộc, Thạnh Xuân là 13,621 tỷ đồng sử dụng nguồn vốn phụ thu của ngành Điện). Một số công trình được tập trung thực hiện tốt như: Trụ sở Hành chính Quận, Trường THCS An Phú Đông… Ngoài ra, ước có hơn 1.250 nhà nhân dân tự xây đã góp phần đổi mới bộ mặt của Quận.
- Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trên địa bàn Quận chuyển đổi khá nhanh. Thực hiện Chỉ thị 657/TTg về việc đăng ký và đăng ký lại sản xuất kinh doanh, toàn Quận có: 1 doanh nghiệp Nhà nước, 3 HTX, 81 Công ty TNHH, 49 doanh nghiệp tư nhân, 3.215 cá nhân và nhóm kinh doanh. Số liệu trên cho thấy thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh, nhiều đơn vị có hiệu quả cao như Cty Thái Tuấn, Cty Quang Minh…
2. Tồn tại yếu kém:
* Do chưa được Thành phố phê duyệt chính thức quy hoạch tổng thể mặt bằng, quy hoạch chi tiết các phường và quy hoạch chi tiết một số khu vực cần thiết nên ảnh hưởng rất lớn cho việc định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Quận trước mắt cũng như lâu dài.
* Công tác quản lý Nhà nước về kinh tế, trật tự xây dựng, về nhà đất… còn nhiều mặt hạn chế. Trong lĩnh vực kinh tế, chưa tổ chức tốt môi trường đầu tư, cơ sở hạ tầng phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội còn thiếu thốn. Mặt khác, nhiều thủ tục, quy định của trên còn rườm rà, trì trệ, chưa kích thích các nhà đầu tư mở rộng sản xuất. Khu nhà ở Ngã tư Ga và Đông Hưng Thuận thực hiện chậm. Dự án Khu công nghiệp Tân Thới Hiệp tiến hành chậm, gây khó khăn trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng và kêu gọi các nhà đầu tư.
* Quy mô, năng lực sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp hiện ở mức độ vừa và nhỏ, trình độ công nghệ, thiết bị lạc hậu… nên tốc độ tăng trưởng chậm. hiệu quả các ngành nông nghiệp còn thấp, giá cả nông sản gia súc, gia cầm còn bấp bênh, không ổn định… dẫn đến thu nhập của nông dân thấp, thậm chí thua lỗ, số lượng đàn bò, heo giảm, tình trạng bán đất, chuyển ngành nghề xảy ra khá phổ biến. Quận chưa định hướng cụ thể phát triển lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Nhìn chung, kinh tế ngoài quốc doanh gần như chiếm lĩnh thị trường, tuy phát triển đa dạng nhưng mang tính tự phát chưa được đầu tư và định hướng hoạt động.
* Quản lý đô thị, xây dựng cơ bản chỉ đạt một số kết quả ban đầu, chưa ngang tầm yêu cầu phát triển của một Quận đô thị hóa.
II. VĂN HÓA XÃ HỘI
9 tháng qua, thời gian chưa đủ dài để Quận có điều kiện chăm lo và phát huy nhân tố con người trong xây dựng và phát triển một Quận mới. Tuy nhiên, bằng những nỗ lực cố gắng, Quận đã dành nhiều thời gian để chỉ đạo các hoạt động văn hóa xã hội của Quận đi đúng hướng.
1. Thành tựu:
* Chăm lo đời sống: Dù còn nhiều khó khăn, Quận vẫn phấn đấu theo mục tiêu “Cùng cả nước cố gắng vượt qua ngưỡng cửa nghèo đói sau năm 2000” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ VIII. Đã xây dựng và triển khai thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo đến cuối năm 1997, hướngdẫn các Phường điều tra bổ sung danh sách các hộ trong diện xóa đói giảm nghèo. Đến cuối tháng 12/1997 đã cho 1.617 hộ vay 1.483.314.000đ trên tổng số vốn 1.797.116.870đ. Toàn Quận vận động quỹ xóa đói giảm nghèo được 400 triệu đồng so chỉ tiêu đạt 100%. Qua trợ vốn và được hướng dẫn, nhiều hộ làm ăn có hiệu quả, giảm được nghèo. Về nguồn lao động, tính đến thời điểm tháng 12/1997 đã giải quyết được 3.020 lao động, trong đó 2.460 có việc làm ổn định, giải quyết cho 1.898 lao động có việc làm từ Quỹ Quốc gia bao gồm 36 Dự án với tổng số vốn 8,289 tỷ.
Chăm lo khá tốt cho 2.300 đối tượng chính sách, vận động xây dựng được 80 căn nhà tình nghĩa, so chỉ tiêu tự phấn đấu 70 căn đạt 114%, sửa chữa chống dột cho 50 hộ, tặng 07 sổ tiết kiệm. Toàn Quận có 50 Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng (trong đó có 06 Bà Mẹ được phong tặng trong tháng 7/1997), đã được các cơ quan, đơn vị trong, ngoài Quận nhận phụng dưỡng đến cuối đời. Quận cũng tổ chức chu đáo việc đi thăm, tặng quà cho các gia đình chính sách trong dịp lễ 30/4, 27/7, Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, 22/12.
* Chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình: đã tập trung phát động cuộc vận động về kế hoạch hóa gia đình, áp dụng các biện pháp tránh thai, nhất là đối với những người trong độ tuổi sinh con. Tổ chức tốt công tác truyền thông dân số sâu rộng trong nhân dân và triển khai Chỉ thị 37 của Chính phủ về đẩy nhanh việc thực hiện chiến lược dân số đến năm 2000.
* Công tác giáo dục đào tạo luôn được Quận quan tâm chỉ đạo, trong đó đã xây dựng và triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết TW2 (khóa VIII) về giáo dục và đào tạo trên địa bàn Quận. Đã tiến hành quy hoạch lại mạng lưới trường, lớp đến năm 2005 trong toàn Quận, kiện toàn và củng cố đội ngũ giáo viên ở các trường, bổ sung 37 giáo viên mới ở các trường, tập huấn chuyên môn cho trên 1.000 giáo viên. Cùng với huyện Hóc Môn tổ chức tốt kỳ thi hết cấp I và tốt nghiệp THCS với kết quả học sinh Tiểu học đạt 94,3%, học sinh THCS đạt 91% tỷ lệ tốt nghiệp. Tổ chức lớp Chính trị hè cho giáo viên đạt kết quả tốt, tạo khí thế sôi nổi ở các trường cùng bước vào khai giảng năm học mới. Tiến hành sửa chữa nhỏ 29 trường học, xây dựng mới 5 phòng học cấp III do Thành Đoàn hỗ trợ kịp phục vụ cho 500 học sinh cấp III trong năm học mới. Năm học 1997 – 1998 có gần 26.000 học sinh các cấp đến lớp, Quận đã phấn đấu đảm bảo đủ trường lớp và giáo viên.
* Trung tâm dạy nghề tổ chức các lớp bao gồm nhiều loại nghề thu hút đông đảo học viên trong và ngoài Quận đến học. Trong năm 1997, đã tuyển 4.048 học viên, tốt nghiệp trên 90%, giới thiệu giải quyết việc làm cho 612 học viên. Trung tâm đã xây dựng đề án thành lập Trường Trung học học nghề chờ Thành phố duyệt thông qua để đáp ứng yêu cầu dạy nghề cho nhân dân trong Quận và khu vực.
Công tác chăm sóc sức khỏe, môi sinh, môi trường được quan tâm mặc dù điều kiện của Quận còn nhiều khó khăn. Với 98 CB.CNV (trong đó có 27 Bác sĩ), Phòng Y tế đã duy trì việc khám và điều trị tại 6 Trạm Y tế cơ sở và 2 phòng khám khu vực, triển khai công tác phòng chống dịch bệnh ở các Phường. Tổ chức khám bệnh và trị bệnh tại nhà cho các bà Mẹ Việt Nam Anh hùng. Về môi sinh, môi trường đã tham gia thực hiện tốt tuần lễ sạch và xanh, kiểm tra môi trường ở các cơ sở sản xuất kinh doanh, tổ chức trồng 700 cây xanh các loại, huy động lực lượng Đoàn viên Thanh niên khai thông cống rãnh, vớt rác ở kênh rạch, hình thành tổ rác dân lập ở cụm dân cư. Kiểm tra giải quyết một số điểm nóng gây ô nhiễm môi trường, trong đó đã tạm ngưng hoạt động 3 doanh nghiệp do đã vi phạm môi sinh, môi trường.
Hoạt động Văn hóa Thông tin – Thể dục Thể thao có nhiều tiến bộ. Dù diều kiện hoạt động cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn nhưng đã tạo được một số hoạt động góp phần chăm lo đời sống tinh thần cho CB.CNV và nhân dân. Gắn theo yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ Quận, hoạt động VHTT-TDTT đã hoàn thành khá tốt nhiệm vụ tuyên truyền cổ động trong các ngày lễ, ngày bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp. Đội Liên kiểm thực hiện Nghị định 87, 88 của Chính phủ, Chỉ thị 814/TTg của Thủ tướng Chính phủ đã liên tục ra quân và đạt nhiều kết quả đáng phấn khởi. Tính đến tháng 12/1997, đã kiểm tra xử phạt 178 trường hợp vi phạm trên lĩnh vực văn hóa, thu hồi tang vật và phạt tiền trên 100 triệu đồng. Chất lượng hoạt động của Trung tâm Văn hóa Quận được nâng lên, nhiều loại hình vui chơi giải trí thu hút đông đảo thanh thiếu niên đến tham gia. Đội Thông tin Lưu động đã phục vụ các ngày lễ lớn với trên 50.000 lượt người xem. Bản tin Quận duy trì việc phát hành hàng tháng, có chú ý cải tiến nội dung và hình thức. Hoạt động thể dục thể thao phát triển khá, các bộ môn võ thuật, thể hình, bơi lội, tennis… ngày càng thu hút nhiều người đến tham gia. Đặc biệt, trong đợt thi đấu giải Taekwondo Quốc tế tổ chức tại Malaysia, 4 vận động viên của Quận đã đạt thành tích xuất sắc với 5 Huy chương Vàng, 1 Huy chương Bạc, 2 Huy chường Đồng.
2. Tồn tại, yếu kém.
- Đời sống CB.CNV khu vực hành chính sự nghiệp, giáo viên còn nhiều khó khăn. Chương trình xóa đói giảm nghèo có tập trung nhưng chỉ mới phát triển chiều rộng, chưa đi vào chiều sâu, chưa phủ vốn hết các đối tượng trong chương trình. Vấn đề giải quyết việc làm hiện nay có khó khăn vì phần lớn số lao động được giải quyết thuộc dạng lao động giản đơn, thời vụ, số lao động có việc làm ổn định còn đạt thấp.
- Tỷ lệ dân số tăng cao do tăng dân số cơ học kéo theo hàng loạt vấn đề xã hội khác về học hành, chữa bệnh, quản lý nhân hộ khẩu. Việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân còn hạn chế do hệ thống y tế chữa bệnh chưa hoàn chỉnh (Trung tâm Y tế Quận mới có quyết định thành lập từ cuối tháng 9/1997).
- Mặt bằng dân trí còn thấp (5,4). Hệ thống trường lớp còn phân tán và bất hợp lý, toàn Quận chưa có một trường cấp III hoàn chỉnh. Nhiều phường còn thiếu các trường lớp cần thiết trong hệ thống giáo dục, cá biệt có hai phường hoàn toàn trắng (Thới An, Thạnh Lộc). Chất lượng dạy và học cần phải được quan tâm đầu tư thêm. Công tác Phổ cập Trung học cơ sở còn nhiều khó khăn, số học sinh tốt nghiệp THCS mới đạt 74,9%, trong khi chỉ tiêu phải đạt 80%.
- Vấn đề vệ sinh, môi trường còn nhiều mặt đáng quan tâm. Việc sản xuất gây ô nhiễm trong dân cư chưa được xử lý dứt điểm. Chương trình nước sạch cho các phường ven sông và thoát nước cho khu vực dân cư bị ngập trong mùa mưa chưa thực hiện được bao nhiêu.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác văn hóa thông tin, thể dục thể thao còn thiếu. Việc chống và xây trên lĩnh vực văn hóa xã hội tuy có nhiều cố gắng nhưng chưa đủ sức ngăn chặn tình hình tệ nạn xã hội đang phát triển, biến tướng dưới nhiều hình thức khá tinh vi, phức tạp. Quận còn thiếu nhiều tụ điểm văn hóa vui chơi, giải trí nên chưa thu hút được đông đảo quần chúng đến tham gia các sinh hoạt văn hóa lành mạnh.
III. AN NINH QUỐC PHÒNG
1. Thành tựu.
- Cơ bản giữ được tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, góp phần giữ vững thế ổn định chính trị, tạo môi trường an ninh trật tự lành mạnh để ổn định và phát triển Quận vững chắc. Trong điều kiện lực lượng còn thiếu, ngành Công an đã cố gắng đeo bám các địa bàn trọng điểm, từng bước bổ sung lực lượng nhất là Cảnh sát khu vực và cán bộ nghiệp vụ để đủ sức đảm đương nhiệm vụ.
- Tổ chức thực hiện các chuyên đề bảo vệ an ninh chính trị theo tinh thần Nghị quyết 03/TU về an ninh quốc phòng, thường xuyên nâng cao cảnh giác, chống các âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Chú trọng công tác xây dựng lực lượng bí mật ở cơ sở, nâng cao khả năng nắm toàn diện tình hình ở các địa bàn trọng điểm. Quan tâm thực hiện tốt các chính sách tôn giáo và chủ động có đối sách phù hợp với các hoạt động phản động lợi dụng tôn giáo.
- Phạm pháp hình sự xảy ra 178 vụ, trong đó có 12 vụ trọng án, đã khám phá 78 vụ đạt tỷ lệ 43,82%. Tiến hành phúc tra 175 đối tượng hình sự. Lực lượng Công an cũng tiến quân mạnh vào việc kiểm tra, xử phạt hàng trăm vụ vi phạm kinh doanh văn hóa trái phép, góp phần làm lành mạnh hóa môi trường xã hội. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được phát huy và nhân rộng, 157 quần chúng được đề nghị khen thưởng do có nhiều thành tích trong phong trào.
- Công tác quân sự địa phương:đã tập trung củng cố biên chế các lực lượng trực thuộc, xây dựng kế hoạch công tác quân sự năm 1997. Hình thành Trung đội Tự vệ tập trung, xây dựng các KH A, A 2 theo chỉ đạo của Bộ Chỉ huy Quân sự Thành phố. Tổ chức phúc tra lên danh sách biên chế Tiểu đoàn Bộ binh DBĐV của Quận và tiến hành ra mắt vào đầu tháng 10/1997. Xây dựng các kế hoạch tham gia diễn tập phòng thủ BĐ-97 cụm Quận, Huyện liên hoàn bảo vệ Thành phố đạt kết quả tốt. Đảng ủy quân sự ra Nghị quyết để thực hiện Chỉ thị 1020 của Bộ Quốc phòng về xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện và nề nếp chính quy. Tổ chức hội thao quốc phòng chào mừng kỷ niệm 53 năm thành lập Quân đội và Ngày Hội quốc phòng toàn dân.
Hoạt động các ngành thuộc khối nội chính có nhiều cố gắng, trong đó đã xây dựng quy chế làm việc của khối nội chính, giúp cho mối quan hệ làm việc giữa các ngành được thống nhất. Viện Kiểm sát thể hiện khá tốt là cơ quan giám sát việc chấp hành pháp luật trong các hoạt động tố tụng; Bắt, giam đúng người, đúng tội, tham mưu Quận ủy - Ủy ban Nhân dân Quận giải quyết một số vụ về nợ đọng thuế, kháng nghị một số văn bản phát hành chưa đúng luật… góp phần đưa hoạt động quản lý Nhà nước đi vào nề nếp. Công tác xét xử giai đoạn đầu chưa thực hiện được do thiếu Hội thẩm Nhân dân, nay đã đi vào ổn định. Hoạt động Thanh tra Nhà nước đã thực hiện 3 cuộc thanh tra, thu hồi về ngân sách hàng trăm triệu đồng. Tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu tố của nhân dân trên tinh thần tích cực, không để tồn đọng. Công tác tư pháp hoàn thành khá tốt chức năng tuyên truyền pháp luật, giải quyết nhanh các hồ sơ hộ tịch của dân.
2. Tồn tại.
- Lĩnh vực an ninh chính trị được gữ vững, nhưng trật tự an toàn xã hội còn nhiều vấn đề đáng quan tâm. Tệ nạn xã hội chưa đưọc giải quyết căn cơ (cờ bạc, mại dâm, ma túy…), phạm pháp hình sự có khuynh hướng phát triển, nhất là trộm cắp, cướp giật tài sản công dân, tỷ lệ phá án còn thấp, trọng án tuy không nhiều nhưng tính chất và mức độ tội phạm khá nghiêm trọng. Lực lượng Công an ở cơ sở còn mỏng và yếu, các Ban, Đội nghiệp vụ chưa nắm chắc địa bàn. Quản lý di biến động về nhân hộ khẩu chưa chặt chẽ. Một bộ phận cán bộ chiến sĩ Công an trình độ nghiệp vụ và trách nhiệm còn yếu, làm hạn chế đến hiệu quả hoạt động chung.
- Công tác quân sự địa phương tuy có cố gắng nhưng chưa đáp ứng ngang tầm trong điều kiện mới, địa bàn mới. Việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ chưa đều. Chính sách hậu phương quân đội chưa thực hiện được bao nhiêu. Các chế độ bồi dưỡng lực lượng tự vệ ở các phường không có, chưa động viên và khuyến khích anh em làm tốt nhiệm vụ.
- Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân trên lĩnh vực tranh chấp về nhà đất còn chậm, một bộ phận CB.CNV và nhân dân ý thức chấp hành pháp luật chưa cao, thi hành án còn tồn đọng nhiều.
IV. XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Thành tựu.
- Tình hình quần chúng và công tác vận động quần chúng.
Tâm trạng quần chúng từ ngày thành lập Quận cho đến nay thể hiện sự phấn khởi, hy vọng việc đô thị hóa sẽ tạo điều kiện phát triển nhiều mặt của đời sống. Tuy nhiên, người dân cũng còn nhiều lo lắng: sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong việc chuyển đổi ngành nghề. Việc quy hoạch và hợp thức hóa quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất chậm, cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi xã hội còn yếu kém, tham nhũng, tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi. Dù còn những lo lắng, nhưng đại đa số vẫn tham gia tích cực các cuộc vận động của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và Mặt trận.
* Công tác vẫn động quần chúng của Đảng luôn được xem trọng. Quận ủy kịp thời bố trí cán bộ, ổn định tổ chức từ Quận đến cơ sở. Tập trung chỉ đạo sơ tổng kết, triển khai một số Nghị quyết, Chỉ thị quan trọng của Đảng về công tác tôn giáo, vận động người Hoa, đại đoàn kết dân tộc, công tác Mặt trận… Xây dựng chương trình công tác vẫn động quần chúng của Đảng bộ hết năm 1997.
* Công tác quần chúng ở khối chính quyền chuyển biến khá tốt. Việc thực hiện cơ chế một cửa một dấu đã giảm bớt phiền hà cho nhân dân. Chế độ tiếp dân được duy trì thường xuyên. Kịp thời xử lý một số điểm nóng về tranh chấp đất đai, giải tỏa, đền bù. Quan tâm đảm bảo các điều kiện hoạt động cho Mặt trận và các đoàn thể.
* Hoạt động của các đoàn thể - Mặt trận: Tiếp tục duy trì và đẩy mạnh một số phong trào trọng điểm: Chăm lo đời sống, nâng cao tay nghề và giải quyết việc làm cho các giới. Tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, công tác xã hội; Đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư. Có nhiều nội dung và hình thức sáng tạo tham gia các đợt hoạt động chính trị tập trung như: Bầu cử Quốc hội, bổ sung Hội đồng Nhân dân các cấp, kỷ niệm 50 năm Ngày Thương binh Liệt sĩ… Một số phong trào đã thể hiện được tính xã hội hóa cao, khơi dậy được ý thức tự nguyện, tinh thần tương trợ lẫn nhau giữa các tầng lớp nhân dân. Nhìn chung, phong trào từng bước đi vào chiều sâu gắn với các nhiệm vụ chính trị trọng tâm của Đảng bộ, bám sát được nhu cầu và quyền lợi chính đáng của nhân dân. Qua phong trào, bước đầu đã xác lập được sự gắn bó tin tưởng giữa quần chúng với Đảng, chính quyền, Mặt trận – các đoàn thể, mở rộng được diện tập hợp, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đoàn thể ở cơ sở. Công tác tôn giáo được quan tâm, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo duy trì các sinh hoạt bình thường, vận động và giúp đỡ tín đồ, chức sắc hành đạo theo đúng chủ trương của Đảng và luật pháp Nhà nước.
* Hoạt động quản lý Nhà nước: Bộ máy quản lý Nhà nước quận, phường được hình thành ngay từ khi công bố thành lập Quận. Trong 9 tháng qua, công tác quản lý Nhà nước không ngừng được củng cố, tăng cường và từng bước hoàn thiện theo mô hình một cửa một dấu. Đại biểu HĐND quận, phường đều được bầu bổ sung và đi vào hoạt động chính thức từ tháng 8/1997. Đội ngũ cán bộ viên chức đa số đã kinh qua công tác quản lý hành chính nên thích ứng nhanh với công việc, giải quyết kịp thời các yêu cầu theo cơ chế một cửa một dấu, tuy bước đầu còn gặp khó khăn do người mới, việc mới nhưng đã sớm đi vào ổn định, đảm bảo được yêu cầu công việc. Hệ thống quản lý Nhà nước Quận có đầu tư chiều sâu và tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Quận ủy đạt kết quả khá tốt.
* về xây dựng Đảng:
Xác định công tác xây dựng Đảng là công tác trọng tâm hàng đầu nên từ tháng 5/1997 (sau 1 tháng thành lập) Ban Chấp hành Đảng bộ Quận đã xây dựng chương trình công tác xây dựng Đảng đến cuối năm 1997, tạo điều kiện để các ngành, các cấp cùng ra sức thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng.
Công tác chính trị tư tưởng được Đảng bộ quan tâm đúng mức. Trong điều kiện Quận mới hình thành, cán bộ được tập trung từ nhiều nguồn, Đảng bộ đã xây dựng tư tưởng nội bộ đoàn kết thống nhất, quyết tâm khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ chung. Quan điểm tư tưởng này được thể hiện rõ nét qua buổi lễ công bố thành lập Quận, qua phát động phong trào thi đua mừng sinh nhật Bác, qua đợt lãnh đạo bầu cử Quốc hội, bổ sung HĐND các cấp đạt kết quả cao, tạo được khí thế sôi nổi từ trong nội bộ đến quần chúng nhân dân. Trong dịp kỷ niệm các ngày lễ, Quận đã tổ chức các cuộc sinh hoạt truyền thống với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Tổ chức chặt chẽ các buổi học tập quán triệt Nghị quyết 2/TW, Nghị quyết 5/TU và các Nghị quyết khác của Trung ương, Thành phố cho cán bộ Đảng viên và một số quần chúng cốt cán ngoài Đảng. Báo cáo thời sự được duy trì hàng tháng, gắn theo các ngày lễ đều có những buổi báo cáo chuyên đề, giúp cho cán bộ Đảng viên nâng cao nhận thức trong điều kiện chuyển Huyện thành Quận, Xã thành Phường. Qua những hoạt động trên, đã góp phần tích cực vào việc khơi dậy truyền thống cách mạng, nâng cao tinh thần đoàn kết nội bộ, tạo động lực mạnh mẽ để cùng giúp nhau hoàn thành nhiệm vụ. Về thực trạng tư tưởng của cán bộ Đảng viên có chuyển biến theo chiều hướng tích cực, tiếp tục khẳng định niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Nhiều thế hệ cán bộ Đảng viên giữ được lối sống giản dị, lành mạnh, tiết kiệm. Các Đảng viên trẻ, cán bộ chủ chốt có tinh thần cầu tiến, tích cực học tập để nâng cao trình độ trước yêu cầu xây dựng Quận mới.
Tình hình Đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng: Toàn Đảng bộ Quận có 41 tổ chức cơ sở Đảng, trong đó có 13 Đảng viên, 28 Chi bộ trực thuộc với tổng số 1.134 Đảng viên. Chất lượng tổ chức cơ sở Đảng do Hóc Môn chuyển sang có 4 Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, 3 Đảng bộ khá, 1 Chi bộ trong sạch, vững mạnh. Thực hiện phân loại Đảng viên theo Nghị quyết TW 3 toàn Quận có 933 Đảng viên loại 1 (86,14%), 142 Đảng viên loại 2 (13,11%), 7 Đảng viên loại 3 (0,63%). Về chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, có 5 đơn vị đạt trong sạch, vững mạnh, 27 đơn vị khá và 2 đơn vị trung bình (có 6 đơn vị không phân loại do mới thành lập Chi bộ). Công tác phát triển Đảng được quan tâm đúng mức, đã tổ chức 2 lớp đối tượng Đảng có 214 người dự học. Tính đến tháng 12/1997, đã phát triển được 24 Đảng viên mới, chuyển Đảng chính thức cho 9 đồng chí Đảng viên dự bị.
Công tác cán bộ được quan tâm, tạo sự kết hợp hài hòa giữa các độ tuổi và giữa ba nguồn cán bộ. Đã tiếp nhận cán bộ từ Huyện Hóc Môn chuyển sang 57 đồng chí, thành phố tăng cường 8 đồng chí, tiếp nhận từ các nơi khác về 118 CBNV. Trong buổi đầu, việc tuyển chọn và bố trí cán bộ được thông qua quy trình chặt chẽ, đã đề bạt được 7 cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trong tổng số CB.CNV đã bố trí có 83 đồng chí có trình độ Đại học (45,4%), 92 đồng chí trình độ cấp 3 (50,3%), 8 đồng chí trình độ cấp 2 (4,3%), tổng số nữ có 50 đồng chí (chiếm 27,3%). Công tác đào tạo được Quận quan tâm chú trọng, đã cử 7 đồng chí học các lớp Đại học Chính trị, Đại học Luật, Cao cấp Chính trị, Trung cấp chuyên môn, 52 đồng chí học Trung học Chính trị. Đánh giá chung, các trường hợp đề bạt, bố trí cán bộ đa số đều phát huy được tác dụng và hoàn thành được nhiệm vụ.
Công tác kiểm tra được xác định là chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Đã chủ động kiểm tra các tổ chức cơ sở Đảng và Đảng viên có dấu hiệu sai phạm. Quá trình kiểm tra đã đảm bảo việc xác minh làm rõ, kiểm điểm nghiêm túc từ Chi bộ lên. Đã tiếp nhận và tiến hành kiểm tra 7 đơn vị khiếu nại, tố cáo có liên quan đến Đảng viên, xử lý kiểm điểm 4, kỷ luật 1 Đảng viên. Qua kiểm tra cho thấy các sai phạm của Đảng viên chủ yếu là do thiếu rèn luyện phẩm chất đạo đức, có biểu hiện tư lợi cá nhân để các phần tử xấu lợi dụng, một số Đảng viên có phong cách lãnh đạo thiếu dân chủ, có trường hợp biểu hiện tính gia trưởng, độc đoán. Thực hiện tốt công tác kiểm tra về thực hiện Nghị quyết Đảng, Đảng viên chấp hành Nghị quyết thu nộp Đảng phí và chế độ sinh hoạt Chi bộ ở cơ sở. Kiểm tra và uốn nắn một số mặt hoạt động còn hạn chế ở một số tổ chức cơ sở Đảng và Ủy ban Kiểm tra cơ sở.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ: đã xây dựng chương trình công tác đến cuối năm 1997. Dù mới được hình thành, nhân sự mới nhưng đã bám sát các yêu cầu, chủ trương lãnh đạo của Thành ủy, Quận ủy về chính trị nội bộ để triển khai thực hiện đạt kết quả khá tốt. Đã tiến hành kiểm tra xác minh lý lịch của cán bộ Đảng viên, CNV theo quy định chung. Tổ chức triển khai việc khảo sát tình hình chính trị nội bộ cho các Chi, Đảng bộ cơ sở.
Về đổi mới phong cách lãnh đạo: Từ sau khi công bố thành lập Quận, Quận ủy đã xây dựng quy chế làm việc và phân công Ban Chấp hành tổ chức thực hiện quy chế. Nguyên tắc tập trung dân chủ được chú trọng và thực hiện nghiêm túc. Mối quan hệ làm việc giữa thường trực Quận ủy, thường trực HĐND, thường trực UBND, giữa thường trực Quận ủy với các ban Đảng, các đoàn thể không ngừng được tăng cường, củng cố. Lịch làm việc hàng tuần của Quận ủy – UBND có được cải tiến, tập trung chỉ đạo những vấn đề trọng tâm trong tuần, dành nhiều thời gian để đi sâu và chỉ đạo cơ sở. Những công tác trọng tâm đều được tập trung chỉ đạo sâu và tổ chức sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời. Tổ chức phân công các Ủy viên Thường vụ Quận ủy và một số Quận ủy viên trực tiếp phụ trách cơ sở để có điều kiện sâu sát tình hình chỉ đạo cơ sở. Trong thời kỳ đầu còn nhiều khó khăn, thử thách, Quận ủy – UBND đã phát động phong trào thi đua, tạo khí thế sôi nổi, cùng quyết tâm vượt mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.
2. Tồn tại:
Công tác vận động quần chúng còn nhiều tồn tại cần khắc phục. Các quan điểm cơ bản về công tác dân vận của Đảng chưa được quán triệt đầy đủ và rộng khắp trong toàn Đảng bộ. Một số Cấp ủy chưa nắm vững nội dung các Nghị quyết của Đảng về công tác dân vận. Một số đoàn thể - Mặt trận ở cơ sở còn yếu, cán bộ còn làm việc nặng phong cách hành chính. Phong trào chưa phát triển rộng khắp, chưa vững chắc, thiếu chiều sâu. Một bộ phận Đoàn viên, Hội viên còn yếu về năng lực, trình độ, chưa làm nòng cốt được ở cơ sở. Một số cán bộ đoàn thể chưa thật sự an tâm trong công việc. Chế độ và điều kiện hoạt động của cơ sở rất eo hẹp và hạn chế, nhất là vấn đề kinh phí. Trong hoạt động của khối chính quyền và các lực lượng vũ trang, có nơi có lúc còn hoạt động chuyên môn đơn thuần, xem nhẹ việc vận động, thuyết phục, chưa xác lập được quy chế phối hợp giữa đoàn thể với chính quyền. Việc kiểm tra thực hiện các chế độ, chính sách của Nhà nước chưa thường xuyên.
Công tác quản lý Nhà nước còn hạn chế và thiếu đồng bộ. Đội ngũ cán bộ viên chức tuy có nhiệt tình, có bề dày công tác nhưng thiếu về số lượng và yếu về kiến thức, kinh nghiệm trong quản lý đô thị. Một số cán bộ chính quyền chưa được chuyên môn hóa. Quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực về xây dựng cơ bản, tranh chấp nhà đất, trật tự đường bộ, đường thủy, bài trừ tệ nạn xã hội… chưa ngang tầm với yêu cầu thực tế. Công tác tổ chức thực hiện còn lúng túng, thiếu đeo bám, có những việc còn để kéo dài, hiệu quả chưa cao. Chưa có chính sách thu hút chất xám từ các nơi về, từ đó trong quản lý Nhà nước còn thiếu nhiều chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực quy hoạch xây dựng đô thị, quản lý hành chính Nhà nước, kế hoạch đầu tư.
Công tác xây dựng Đảng còn nhiều mặt đáng quan tâm. Lĩnh vực chính trị tư tưởng, nhiều cán bộ Đảng viên có băn khoăn trước tình hình tham nhũng, quan liêu, tiêu cực xã hội chưa được đẩy lùi, lo lắng phát triển kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh tế quốc doanh chưa là chỗ dựa vững chắc. Mặt trái của kinh tế thị trường dẫn đến việc phân hóa giàu nghèo, tác động xấu đến phẩm chất, đạo đức, làm phai mờ lý tưởng trong một bộ phận cán bộ Đảng viên. Xung quanh việc việc quy hoạch giải tỏa, biện pháp quản lý trật tự đô thị, giải quyết việc làm do thiếu thông tin công khai và chậm xúc tiến các giải pháp khả thi đã gây thắc mắc, lo âu trong cán bộ Đảng viên và quần chúng nhân dân. Chưa quán triệt cho cán bộ Đảng viên và quần chúng nhân dân nhận thức một cách đầy đủ tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh trong thời kỳ xây dựng và phát triển mới. Từ đó, ý thức cảnh giác cách mạng chưa cao, chưa thấy hết âm mưu xâm nhập về văn hóa tư tưởng, chi phối về kinh tế dẫn đến chi phối về chính trị hòng làm suy yếu nội bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể với mưu đồ “chuyển hóa” chế độ.
- Công tác tổ chức cán bộ có cố gắng nhưng chưa đáp ứng ngang tầm trong điều kiện xây dựng và phát triển Quận mới. Một số Chi bộ hoạt động yếu, vai trò lãnh đạo lu mờ, bị hành chính hóa bởi công tác sự vụ. Hiệu quả hoạt động của một số tổ chức phòng ban còn yếu, trình độ năng lực của một số cán bộ chưa ngang tầm nhiệm vụ. Trong bố trí cán bộ, có cơ quan đơn vị đến nay chưa bố trí được trưởng hoặc phó, làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động chung. Cán bộ đa số trẻ, nhiệt tình nhưng do được tập hợp từ ba nguồn nên chưa có điều kiện hiểu nhau nhiều, công việc mới lại chưa được đào tại nghiệp vụ nên trong xử lý công việc còn lúng túng, hiệu quả chưa cao.
Chưa chủ động xây dựng kế hoạch kiểm tra thực hiện Nghị quyết Đảng. Công tác kiểm tra tổ chức Đảng, Đảng viên có dấu hiệu sai phạm còn lúng túng. Đội ngũ làm công tác kiểm tra ở cơ sở còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa phát huy vai trò chủ động, nhạy bén trong việc quản lý và sưu tra lý lịch cán bộ Đảng viên, CNV phục vụ cho công tác phát triển Đảng, đề bạt bố trí cán bộ, đưa người vào Cấp ủy, góp phần làm trong sạch hóa đội ngũ.
Về phong cách lãnh đạo: Có nhiều cuộc họp công tác chuẩn bị chưa tốt, chưa đảm bảo nội dung và thời gian, đối tượng dự họp không đúng thành phần hoặc dự không đầy đủ. Một số cán bộ chủ chốt chưa thể hiện vai trò gương mẫu trong nghiên cứu, học tập và chấp hành giờ giấc hội họp chưa nghiêm. Thời gian đi cơ sở tuy có được quan tâm nhưng còn ít, hội họp ở cấp Quận còn nhiều. Có ý thức đổi mới phong cách lãnh đạo nhưng sự chuyển động còn ít, còn nặng sự vụ, tính kế hoạch và định hướng chưa sâu.
V. NHẬN ĐỊNH CHUNG, NGUYÊN NHÂN, BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Trong 9 tháng qua, Quận đã nỗ lực phấn đấu để vừa nhanh chóng sắp xếp mọi hoạt động đi vào ổn định, vừa cố gắng vươn lên để hòa mình vào xu thế phát triển chung của thành phố và cả nước. Điều đáng phấn khởi là Quận đã nhanh chóng ổn định tổ chức bộ máy, nhân sự từ Quận đến phường và thật sự đi vào hoạt động từ ngày công bố thành lập. Khó khăn về cơ sở vật chất, kinh phí ban đầu, phương tiện làm việc đã không làm cán bộ Đảng viên, CNV lùi bước. Trái lại, chính từ trong vô vàn khó khăn đó, đã tạo nên sự gắn kết chặt chẽ với nhau, cùng xác định vinh dự và trách nhiệm được phân công xây dựng Quận mới để cùng nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ.
Các kế hoạch chỉ tiêu, nhiệm vụ được tách ra từ Huyện Hóc Môn đã được Đảng bộ tập trung lãnh đạo và đạt kết quả tương đối tốt, trên từng lĩnh vực đều có những chuyển biến đáng kể, tuy hãy còn khiêm tốn nhưng đã thể hiện tinh thần quyết tâm khắc phục khó khăn để từng bước vươn lên trong toàn Đảng bộ.
Từ những thành tựu và tồn tại nêu trên, Quận rút ra những nguyên nhân cũng là bài học kinh nghiệm như sau:
1. Trong bước chuyển tiếp từ Huyện thành Quận, Xã thành Phường phải xây dựng định hướng phát triển kinh tế - xã hội dài hạn nhưng cũng cần có bước đi, giải pháp quá độ trên cơ sở tiếp thu những thành quả của Hóc Môn đã làm trước đây, chọn lọc và bổ sung phù hợp với điều kiện, đặc điểm của Quận.
2. Bên cạnh những chủ trương, định hướng đúng đắn phải có những giải pháp tương ứng và đội ngũ tương ứng để thực hiện chủ trương, định hướng đó đạt kết quả cao nhất. Từ ngày thành lập đến nay, Quận luôn chú ý xây dựng hệ thống các giải pháp để thực hiện theo từng chuyên đề, trong lãnh đạo, có xem xét và tập trung theo thứ tự ưu tiên của từng loại công việc đúng trọng tâm, trọng điểm, sơ, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời và có chú ý tạo động lực thi đua.
3. Quan tâm lãnh đạo công tác vận động quần chúng, phát huy cao độ vai trò của quần chúng trong công cuộc xây dựng và phát triển Quận vững mạnh trên mọi lĩnh vực. Trong những thành tựu đạt được kể từ ngày thành lập Quận đến nay, vai trò của quần chúng đã đóng góp rất quan trọng, tạo động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển Quận.
4. Tinh thần đoàn kết, nhất trí cao của toàn thể cán bộ Đảng viên, CNV, lực lượng vũ trang đã góp phần làm nên những thành quả trong 9 tháng qua. Đây cũng là bài học kinh nghiệm đáng giá nhất trong quá trình hình thành và xây dựng Quận mới.
5. Vấn đề cán bộ luôn giữ vai trò, yếu tố quyết định sự tiến bộ vươn lên hay trì trệ tụt hậu trong mọi công việc. Nhìn chung, cán bộ ở vị trí chủ chốt đều giữ được bản chất tốt, tận tâm với công việc, có trình độ tổ chức và tập hợp lực lượng, có bản lĩnh trong điều hành và xử lý công việc, có tư duy sáng tạo và đột phá vào những cái mới để tìm hướng đi phù hợp cho Quận trong quá trình đô thị hóa.
PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ I (1998 – 2000)
Ba năm tới, cùng với xu thế phát triển chung của Thành phố và cả nước, tốc độ đô thị hóa trên địa bàn Quận sẽ phát triển nhanh hơn, kéo theo hàng loạt vấn đề về kinh tế - xã hội phải phát triển tương ứng như kết cấu hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chăm lo phúc lợi xã hội v.v… Trong bối cảnh chung đó, Quận xác định những thuận lợi và khó khăn tác động đến quá trình phát triển như sau:
* Thuận lợi.
- Tình hình kinh tế chính trị của cả nước và Thành phố phát triển ổn định, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII được Trung ương và Thành phố cụ thể hóa giúp cho Quận có điều kiện phát triển thuận lợi.
- Kế thừa truyền thống cách mạng của Hóc Môn, quê hương Nam kỳ khởi nghĩa, giúp cho mỗi cán bộ Đảng viên, CNV, lực lượng vũ trang nâng cao tinh thần cách mạng, phát huy truyền thống anh hùng bất khuất, đoàn kết gắn bó trong công cuộc xây dựng và phát triển Quận ngày càng vững mạnh.
- Thế mạnh về vị trí địa lý, tiềm năng về đất đai, lao động sẽ giúp Quận có điều kiện phát triển mạnh các khu công nghiệp tập trung, khu trung tâm thương mại dịch vụ và du lịch sinh thái, tạo điều kiện từng bước đổi mới bộ mặt của Quận.
- Thành quả trong 9 tháng xây dựng Quận kể từ ngày thành lập là một động lực để các cấp, các ngành hun đúc tinh thần tiến công, quyết tâm xây dựng Quận ngày càng vững mạnh hơn, tiến bộ hơn, từng bước kịp sánh vai với các Quận ven Thành phố. Tinh thần đoàn kết nội bộ, sức tư duy sáng tạo của mỗi cán bộ lãnh đạo, Đảng viên, CNV, lực lượng vũ trang sẽ làm tăng sức chiến đấu của Đảng bộ, tạo bước phát triển vững chắc đến năm 2000.
* Khó khăn.
- Trong điều kiện mới chuyển Huyện thành Quận, Xã thành Phường, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, mặt bằng dân trí còn thấp, chưa quen công tác quản lý đô thị, đội ngũ cán bộ nhiều nguồn, về chuyên môn chưa thích ứng quá trình xây dựng đô thị nên một số mặt còn lúng túng, thiếu giải pháp khả thi, chưa thích ứng kịp theo yêu cầu phát triển Quận mới. Trình độ, năng lực cán bộ chưa đồng đều, công việc mới đòi hỏi cần có thời gian tích lũy kinh nghiệm và bản lĩnh lãnh đạo. Một vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển đô thị, chăm lo đời sống còn phải được quan tâm đầu tư nhiều hơn.
- Công tác quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết chưa hoàn chỉnh, hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém, làm ảnh hưởng đến việc định hướng và xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Quận.
- Trình độ lãnh đạo, quản lý của một số cán bộ Quận, Phường chưa ngang tầm nhiệm vụ, cần phải có quyết tâm cao để vượt qua.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII, Đại hội Đảng bộ Thành phố lần VI, căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ và tình hình thực tế. Quận xác định mục tiêu chung của phương hướng nhiệm vụ 3 năm tới (1998 – 2000) như sau:
- Giữ vững thế ổn định chính trị, khơi dậy tinh thần truyền thống cách mạng của quê hương Nam kỳ khởi nghĩa, chiến khu An Phú Đông – Thạnh Lộc tạo bước phát triển vững chắc về kinh tế - xã hội.
- Đón lấy thời cơ để xây dựng các tiền đề nhằm phát huy, khai thác thế mạnh về tiềm năng, vị trí địa lý, mời gọi đầu tư, phát triển hạ tầng, khắc phục và đẩy lùi khó khăn để không tụt hậu so với các Quận mới và các Quận ven Thành phố.
- Trên cơ sở nắm chắc tiềm năng, thế mạnh địa phương, cần tập trung đi sâu vào phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa,hiện đại hóa. Tăng cường các biện pháp chăm lo đời sống, vật chất, tinh thần của CB.CNV, lực lượng vũ trang và nhân dân cao hơn mức hiện nay. Đẩy mạnh việc thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, từng bước rút ngắn khoảng cách giàu nghèo trong nhân dân. Các vấn đề về văn hóa xã hội cần được tập trung thực hiện tốt, hạn chế thấp nhất phức tạp phát sinh trong quá trình xây dựng và phát triển đô thị, xây dựng nếp sống văn minh đô thị trong từng hộ gia đình. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang và các ngành thuộc khối nội chính.
- Nâng cao sức chiến đấu của cả hệ thống chính trị, trong đó Đảng giữ vị trí hạt nhân lãnh đạo, Đảng bộ phải thật sự trong sạch, vững mạnh để đáp ứng ngang tầm trong thời ký mới. Phát huy hiệu quả quản lý Nhà nước cấp Quận, Phường tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân, tạo thành sức mạnh cùng phấn đấu xây dựng Quận từng bước phát triển vững chắc.
Để thực hiện mục tiêu, phương hướng trên, cần đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể trên từng lĩnh vực, trong đó xác định tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu, chăm lo cơ sở hạ tầng là quan trọng. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, vừa là mục tiêu nhiệm vụ, vừa là yếu tố động lực quan trọng cho quá trình phát triển của Quận. Phương hướng nhiệm vụ 3 năm tới (1998 – 2000) của Quận được xác định cụ thể như sau:
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Xác định mục tiêu chung giai đoạn 1998 – 2000 là thời kỳ đầu của sự chuẩn bị đô thị hóa. Trọng tâm của thời kỳ này là tiếp tục kế thừa và phát huy những kết quả đạt được từ huyện Hóc Môn trước đây, từng bước tạo sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế. Trước mắt, giai đoạn từ 1998 – 2000 vẫn thực hiện theo cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp – thương mại – dịch vụ, đồng thời khẩn trương chuẩn bị mọi điều kiện để chuyển sang cơ cấu kinh tế công nghiệp – thương mại dịch vụ - nông nghiệp vào những năm sau. Đẩy mạnh sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – nông nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phấn đấu đưa sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân hàng năm từ 14 – 16%.
1. Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp.
- Đẩy mạnh sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tỷ trọng ngành nghề phù hợp đô thị hóa và nhiệm vụ của vùng phía Tây Bắc Thành phố. Phấn đấu đạt giá trị sản lượng từ 324 đến 341 tỷ đồng vào năm 2000 (tăng 14 – 16% hàng năm), trong đó giá trị xuất khẩu chiếm từ 25 – 30%. Ưu tiên phát triển ngành giải quyết nhiều lao động như dệt, may mặc, nhựa gia dụng…; Phát triển ngành công nghiệp sạch, công nghiệp tiên tiến, mở rộng công nghệ chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng điện tử… Phấn đấu nâng cao cả chất lượng và số lượng, chủng loại mặt hàng hướng tới xuất khẩu, trong đó chú trọng các mặt hàng truyền thống.
- Tập trung xây dựng khu công nghiệp Tân Thới Hiệp, mời gọi các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia đầu tư, tranh thủ vốn đầu tư của Quỹ Đầu tư Phát triển Đô thị Thành phố. Đồng thời, chú trọng phát triển các cụm công nghiệp ở Tân Thới Nhất, Trung Mỹ Tây, Hiệp Thành, Tân Chánh Hiệp, Đông Hưng Thuận… Hạn chế bố trí cơ sở sản xuất xen cài trong khu dân cư.
* Các giải pháp.
- Tập trung mọi nguồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng (đường, điện, nước, bưu điện).
- Sắp xếp công nghiệp – tiểu thủ công nghiệpl ại và mở rộng các cơ sở công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp hiện có, vận động các doanh nghiệp đổi mới thiết bị, máy móc và đầu tư công nghệ tiên tiến.
- Tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý để các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất (đất, thủ tục hành chính, thuế…). Xác định kinh tế hộ giữ vai trò quan trọng. Xây dựng phong trào liên kết, hợp tác từ quy mô nhỏ đến quy mô vừa, từ hình thức thấp đến hình thức cao. Phát huy tính nhạy bén, năng động của doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, tạo điều kiện cho doanh nghiệp này nhanh chóng thích nghi điều kiện thị trường và phù hợp trình độ cơ sở hạ tầng của Quận. Quan tâm và tạo điều kiện phát triển kinh tế HTX.
- Thu hút các ngân hàng mở chi nhánh trên địa bàn Quận, tổ chức các quỹ tín dụng nhân dân, qua đó hỗ trợ tích cực cho các hộ sản xuất, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả vay vốn ưu đãi.
- Khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu và tham gia xuất khẩu. Có biện pháp cụ thể để ưu tiên cho các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu. Vận động các doanh nghiệo đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu.
2. Kinh doanh thương mại, dịch vụ, du lịch.
Tinh thần chung, Quận sẽ tập trung thực hiện việc định hướng phát triển các ngành dịch vụ - thương mại chủ yếu đến năm 2000 theo Nghị quyết hội nghị Thành ủy lần thứ 7. Phấn đấu tăng bình quân hàng năm từ 15 đến 16%, từng bước nâng tỷ lệ dịch vụ, du lịch trong cơ cấu kinh tế Quận. Quy hoạch mạng lưới thương mại, dịch vụ trên địa bàn, ưu tiên cho dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và du lịch vườn. Xác định trung tâm thương mại – dịch vụ của Quận tại phường Tân Chánh Hiệp và các trung tâm khu vực ở Ngã tư An Sương, Ngã tư Tân Chánh Hiệp, Ngã tư Ga Thạnh Lộc. Quy hoạch phát triển du lịch vườn dọc sông Sài Gòn ở các phường An Phú Đông, Thạnh Lộc. Trên cơ sở quy hoạch chi tiết được duyệt, mời gọi các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia đầu tư.
* Các giải pháp.
- Mở rộng và nâng cấp các chợ sẵn có, bố trí các chợ nằm trong lộ giới. Đầu tư các khu thương mại tập trung ở khu dân cư và chợ trung tâm.
- Hỗ trợ HTX thương mại, dịch vụ hoạt động và phát triển. Xây dựng các quỹ tín dụng để giúp các hộ tiểu thương vay vốn.
- Xây dựng các khu du lịch, vui chơi giải trí ở Hiệp Thành, An Phú Đông, Thạnh Lộc, xem đây là một trong những mũi nhọn nhằm phát triển dịch vụ du lịch.
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát quản lý thị trường, xử lý kiên quyết các vụ buôn lậu hàng gian, hàng giả đến tận phường, khu phố, tổ dân phố.
- Cải tiến thủ tục hành chính để thu hút vốn trong nhân dân và kêu gọi đầu tư vào Quận, giảm tối đa việc gây phiền hà cho mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong sản xuất kinh doanh.
3. Sản xuất nông nghiệp.
Phấn đấu tăng giá trị sản lượng nông nghiệp từ 5 đến 6%/năm, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng giảm dần diện tích nông nghiệp, tăng dần chăn nuôi để đến năm 2000 tỷ trọng chăn nuôi đạt 60%, trồng trọt đạt 40%. Tích cực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất. Từ nay đến năm 2000, xác định phát triển cây lúa, con heo, con bò sữa là chủ yếu. Đồng thời, phải có hướng đi thích hợp, kế hoạch cụ thể cho từng Phường vận động nông dân chuyển sang vườn chuyên, cây kiểng, ngâu, lài, nuôi gia cầm, bồ câu, trăn, ba ba… phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
* Giải pháp.
- Chú trọng công tác khuyến nông, hướng dẫn kỹ thuật theo điều kiện đặc biệt của một Quận ven. Vận động nông dân nuôi trồng giống mới có năng suất và giá trị kinh tế cao phục vụ mô hình kinh tế vườn gắn với du lịch sinh thái. Đầu tư đúng mức để xây dựng mô hình vườn cây phục vụ du lịch ở Thạnh Lộc có diện tích khoảng 10ha, từ đó nhân rộng và thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư. Tận dụng lợi thế sông, nước để tổ chức các dịch vụ du lịch, chuyển dần một bộ phận lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp – thương mại – dịch vụ - du lịch.
- Xác định kinh tế hộ có vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp, đồng thời với việc phát huy các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh phát triển kinh tế gia đình, phổ biến rộng, kịp thời những mô hình sản xuất giỏi. Tạo thuận lợi cho nhân dân vay vốn làm ăn, ưu tiên vay để cơ giới hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
- Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp. Phấn đấu năm 1998 hoàn thành điện khí hóa trong toàn Quận. Sớm thực hiện quy hoạch chi tiết mạng lưới giao thông ở các Phường, nhằm tạo điều kiện cho nhân dân yên tâm sản xuất. Tranh thủ với Thành phố đưa nước máy về phục vụ nhân dân trong Quận.
- Trên cơ sở thực hiện chủ trương chuyển đổi HTX, củng cố hoạt động HTX trong Quận, hướng dẫn và phát triển các hình thức hợp tác trong nông nghiệp trên cơ sở tự nguyện.
4. Về Tài chính – Kế hoạch và Đầu tư.
Thu ngân sách Nhà nước mỗi năm tăng từ 10 – 15%. Chi ngân sách tập trung cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ bản và chi phát triển sự nghiệp kinh tế. Đảm bảo cân đối thu chi ngân sách hàng năm theo hướng tiết kiệm nhưng phải đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi thường xuyên và phục vụ nhiệm vụ chính trị.
* Các giải pháp.
- Nâng cao tỷ trọng đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo khoa học công nghệ, môi trường, văn hóa, thể dục thể thao; Bên cạnh đó, thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa việc huy động các nguồn lực của toàn xã hội để đầu tư phát triển trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế.
- Dự toán ngân sách phải đúng luật, đầy đủ các khoản chi, khai thác mọi nguồn thu và phải được lập từ cơ sở để đảm bảo thực hiện đúng chế độ, định mức chi ngân sách được cấp có thẩm quyền ban hành.
- Đảm bảo tốc độ tăng chi thường xuyên thấp hơn tăng chi đầu tư phát triển, không giải quyết chi bổ sung ngoài dự toán trừ những trường hợp thật sự bức bách, sắp xếp lại các nhiệm vụ chi đảm bảo nhu cầu cấp thiết. Số thu tăng ưu tiên chi bổ sung cho: cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi, đào tạo cán bộ khoa học công nghệ - môi trường…
- Phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu thu thuế hàng năm. Ngành thuế cần đảm bảo việc thu thuế công khai, đúng luật và phấn đấu ổn định thuế trong nhiều tháng để nhân dân an tâm làm ăn. Hạn chế thấp nhất thất thu và đọng thuế.
- Trong sử dụng vốn xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách, phải ưu tiên những công trình trọng điểm, tập trung vốn cho các công trình hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm, tránh tình trạng bố trí tràn lan, phân tán không phát huy hết hiệu quả sử dụng vốn gây nên lãng phí.
- Tạo vốn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, kêu gọi các ngân hàng mở chi nhánh tại địa bàn Quận 12, tiến hành các thủ tục thành lập quỹ tín dụng nhân dân, trước mắt thành lập quỹ tín dụng nhân dân tại phường Thạnh Lộc.
5. Về quản lý đô thị.
Công tác quy hoạch và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là vấn đề tiên quyết để phát triển kinh tế - xã hội của Quận. Đầu tư cải tạo, nâng cấp và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ yêu cầu bố trí dân cư, phục vụ sản xuất và đời sống, du lịch nghỉ ngơi, cải tạo môi trường và nhu cầu sinh hoạt ngày càng cao của nhân dân. Sớm hoàn thành quy hoạch tổng thể mạng lưới giao thông, cấp thoát nước, mạng lưới trường lớp, y tế, thể dục thể thao… và khu quy hoạch chi tiết các Phường, các cụm dân cư, cụm công nghiệp, khu thương mại, dịch vụ… trên cơ sở đó, khẩn trương thực hiện các dự án cụ thể để kịp thời mời gọi các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư. Khai thác tốt thế mạnh của Quận về đất đai, vị trí địa lý. Quản lý chặt chẽ tài sản công, nhất là đất công, khai thác hợp lý tài nguyên như nước ngầm, hầm đất, cảnh quan thiên nhiên. Đẩy mạnh tiến độ xây dựng cơ bản, tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư góp phần làm thay đổi bộ mặt Quận tương xứng với Quận đô thị hóa.
* Các giải pháp.
- Đẩy mạnh công tác quản lý Nhà nước, nghiêm chỉnh thực hiện trật tự trong quản lý đô thị và thực hiện đúng quy hoạch được duyệt. Kiến nghị Thành phố tập trung giải quyết việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân. Đẩy mạnh việc giải quyết tranh chấp đất đai, sớm giải quyết các trường hợp tồn đọng kéo dài.
- Do nguồn vốn ít, Quận cần tập trung vào các công trình trọng điểm như xây dựng cơ sở hạ tầng có tính đòn bẩy để thúc đẩy tiến trình đô thị hóa. Tranh thủ nhiều nguồn, mời gọi và đón nhận các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu thương mại dịch vụ, khu du lịch, khu chỉnh trang dân cư (ấp Quang Trung, phường Trung Mỹ Tây…). Ngoài việc đầu tư xây dựng khu dân cư Đông Hưng Thuận (cụm 1), vận động quỹ đầu tư phát triển đô thị Thành phố tiếp tục đầu tư vào những công trình khác.
- Chú trọng nguồn vốn trong nhân dân.Vận động nhân dân, nhất là những hộ từ nơi khác chuyển đến xây dựng nhà ở đúng quy hoạch của Quận và chấp hành đúng quy định của Nhà nước. Đẩy mạnh thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Xã hội hóa hoạt động vệ sinh công cộng để bảo đảm cảnh quan, môi trường đô thị sạch đẹp. Trên cơ sở sơ kết thực hiện Nghị định 60/CP về việc thí điểm đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại phường Đông Hưng Thuận, triển khai thực hiện tại các Phường khác theo kế hoạch của Thành phố.
- Tập trung xây dựng tuyến đường Đông – Tây, đường Bắc – Nam là trục giao thông chủ yếu trong nộ bộ Quận. Phát triển và nâng cấp mạng lưới giao thông nội bộ Phường với kết cấu mặt đường nhựa hoặc bê tông xi măng. Cải tạo, nâng cấp và xây dựng các cầu có quy cách và tải trọng thích hợp ở các trục đường. Phấn đấu đến năm 2000, xóa hẳn các cầu nông thôn trên địa bàn Quận.
- Xây dựng hệ thống cấp nước, thoát nước và đèn chiếu sáng công cộng dọc các tuyến đường nâng cấp, các trục lộ chính và khu đông dân cư. Do yêu cầu phát triển đô thị, tất cả các công trình khi xây dựng đều phải hình thành hệ thống thoát nước, xử lý nước mưa, nước thải, bãi đậu xe và cân đối mảng cây xanh, công viên… theo quy chuẩn để góp phần điều hòa sinh thái, cảnh quan, bảo đảm môi sinh môi trường và trật tự giao thông, trật tự đô thị. Triển khai dự án xây dựng chung cư để giải quyết nhà ở cho CBNV và người lao động có thu nhập thấp.
II. VĂN HÓA XÃ HỘI
1. Chăm lo đời sống.
Xác lập quy mô dân số đến năm 2000 để có hướng phát triển không gian đô thị phù hợp theo quy hoạch và mật độ dân số, giải quyết nhu cầu về nhà ở của nhân dân. Tiếp tục thực hiện và đẩy mạnh chương trình xóa đói giảm nghèo, vận động sức đóng góp của toàn xã hội cùng chăm lo phát triển quỹ xóa đói giảm nghèo. Phấn đấu thu hẹp các đối tượng nghèo, nâng 20% số hộ từ nghèo lên khá, đưa ra khỏi chương trình 18% các hộ ổn định, tạo điều kiện giúp đỡ để các hộ chương trình sử dụng nguồn vốn có hiệu quả. Toàn Quận quyết tâm thực hiện đạt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII đặt ra “đến năm 2000 cùng cả nước thoát qua ngưỡng cửa đói nghèo”. Tiếp tục phát huy và nhân rộng mô hình sản xuất giỏi từ quỹ Quốc gia giải quyết việc làm.
Chăm lo cải thiện và hỗ trợ đời sống CB.CNV khu vực HCSN, giáo viên, nhân dân các phường ở vùng xa trung tâm Quận theo hướng hình thành doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Thường xuyên theo dõi, có biện pháp bảo vệ quyền lợi người lao động ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Thể hiện tốt tinh thần đền ơn đáp nghĩa, chăm lo tốt các đối tượng chính sách.
* Các giải pháp.
- Tăng cường hoạt động của Ban Chỉ đạo xóa đói giảm nghèo, nhất là ở cấp Phường. Tổ chức bồi dưỡng, nâng cao năng lực của cán bộ chuyên trách. Phấn đấu tập hợp 90% hộ chương trình vào tổ tự quản và đi vào hoạt động, hỗ trợ giúp đỡ nhau hướng làm ăn có hiệu quả. Kết hợp tạo nhiều nguồn vốn khác cho hộ nghèo như vốn vay ngân hàng người nghèo, quỹ Quốc gia giải quyết việc làm, tín dụng tiết kiệm phụ nữ v.v… Phấn đấu năm 1998 nâng tổng quỹ xóa đói giảm nghèo đạt 2,4 tỷ, chống tái đói và giảm nghèo cho 2.300 hộ chương trình. Đến năm 2000, đưa 80% hộ nghèo lên mức ổn định, giảm hộ nghèo xuống dưới 10%.
- Thực hiện các chính sách xã hội về chương trình di dân, tái ổn cư khu vực giải tỏa, các chương trình về chăm sóc sức khỏe, nước sạch, xóa mù chữ, chống suy dinh dưỡng trẻ em sâu rộng trong nhân dân.
- Làm tốt công tác chăm lo diện chính sách, thực hiện đầy đủ pháp lệnh ưu đãi người có công, không để tình trạng sai sót, thiếu công bằng. Thường xuyên thăm hỏi, chăm lo về tinh thần, vật chất các bà Mẹ Việt nam Anh hùng. Có chính sách truy tìm hài cốt liệt sĩ để quy tập về nghĩa trang liệt sĩ Thành phố. Phấn đấu đến cuối năm 1998 hoàn thành công tác xây dựng nhà tình nghĩa trên địa bàn Quận.
2. Về dân số, việc làm.
Phấn đấu giảm tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên xuống còn 1,40 – 1,45%. Vận động mỗi gia đình chỉ sinh từ 1 – 2 con, cán bộ Đảng viên phải gương mẫu và không được sinh con thứ ba. Chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để đón số dân tăng cơ học theo chương trình di dân ra Quận ven của Thành phố. Dự kiến lao động đến năm 2000, có 76.351 đối tượng trong độ tuổi (bình quân hàng năm tăng 1.400 lao động). Phấn đấu giải quyết mỗi năm 4.000 lao động có việc làm ổn định, đến cuối năm 2000 giải quyết được 10.000 lao động có việc làm ổn định. Mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả của trung tâm dạy nghề (Trường Trung học nghề), đáp ứng yêu cầu đào tạo, dạy nghề trên địa bàn và khu vực. Tạo điều kiện thuận lợi để đạt từ 15 – 20% số tốt nghiệp nghề đạt trình độ tương đương bậc 2 đến 3/7.
* Các giải pháp.
- Đẩy mạnh công tác truyền thông dân số đến tận hộ gia đình, tuyên truyền các biện pháp kế hoạch hóa gia đình góp phần giảm tỷ lệ phát triển dân số. Vận động mỗi gia đình chỉ nên sinh từ 1 đến 2 con, phát động phong trào nuôi con khỏe, dạy con ngoan, phòng chống trẻ em suy dinh dưỡng.
- Trong quá trình phát triển đô thị hóa, cùng với việc hình thành các cơ sở sản xuất kinh doanh mới, phấn đấu giới thiệu số lao động địa phương vào làm việc.
- Đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy nghề, đào tạo nghề để hình thành nguồn nhân lực và đội ngũ lao động trẻ được đào tạo chuyên môn kỹ thuật, đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp. Nghiên cứu thành lập từ 1 đến 2 chi nhánh dạy nghề.
- Phát huy các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, các Câu lạc bộ, hiệp hội trong sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, góp phần giải quyết lao động nhàn rỗi trong các hộ gia đình.
- Tổ chức các hình thức hội thảo chuyên đề về dân trí, học nghề, giải quyết việc làm, tìm biện pháp tốt nhất để quản lý và sử dụng lực lượng lao động trên địa bàn.
3. Giáo dục – Đào tạo.
Nâng cao mặt bằng dân trí toàn Quận đến năm 2000 đạt ở lớp 6, 5 góp phần đáp ứng yêu cầu xây dựng Quận trong thời kỳ phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hoàn thành giáo dục phổ cập cấp II đạt ở 2 Phường trong năm 1998, 5 Phường vào năm 2000 và hoàn thành ở cả 10 Phường vào năm 2002. Phấn đấu huy động trẻ 5 tuổi vào Mẫu giáo đạt mỗi năm trên 90%, vào lớp 1 đạt 100%. Tiếp tục thực hiện công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục Tiểu học, không để tái mù chữ. Xây dựng 120 phòng học mới, sửa chữa các trường đã xuống cấp nặng. Đến năm 2000, xây dựng một trường cấp III hoàn chỉnh của Quận. Quan tâm nâng cao chất lượng dạy và học ở các trường.
* Các giải pháp.
- Quy hoạch và phát triển mạng lưới giáo dục, đảm bảo đáp ứng yêu cầu dạy và học ở các lớp trong toàn Quận, không để tái ca ba. Ưu tiên dành đất để xây dựng và phát triển hệ thống trường lớp.
- Quan tâm bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn và trình độ nhận thức chính trị cho đội ngũ giáo viên, chăm lo đời sống của giáo viên, nhất là những giáo viên ở nội thành đang làm việc tại Quận.
- Tiếp tục có chính sách bồi dưỡng học sinh giỏi, hình thành quỹ bảo trợ tài năng trẻ. Phát động và nâng cao hiệu quả các giải thưởng, học bổng hàng năm như: Lê Quý Đôn, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Thị Minh Khai.
4. Chăm lo tốt sức khỏe của nhân dân.
Tập trung kiện toàn củng cố mạng lưới y tế cơ sở. Hình thành Trung tâm Y tế Quận với 30 giường bệnh, đến hết năm 1998, các Phường mới đều xây dựng xong Trạm Y tế. Phát huy hoạt động của các phòng khám khu vực, xây dựng thái độ phục vụ đúng đắn trong đội ngũ y, bác sĩ. Thực hiện tốt việc khám và điều trị bệnh cho CB.CNV và nhân dân, nhất là các đối tượng hưởng chế độ BHYT. Tổ chức khám, chữa bệnh miễn phí cho dân nghèo và các đối tượng chính sách. Mở rộng ,mạng lưới chữ thập đỏ ở tận khu phố. Tuyên truyền cho nhân dân có ý thức tự phòng chống các bệnh truyền nhiễm như lao, bệnh phong, sốt rét, các bệnh xã hội, nhất là phòng chống bệnh AIDS.
* Các giải pháp.
- Kiện toàn và củng cố đội ngũ y bác sĩ hiện có, có biện pháp tăng cường các bác sĩ giỏi cho Trung tâm Y tế Quận. Tranh thủ sự giúp đỡ của Sở Y tế Thành phố về điều kiện trang thiết bị, máy móc chữa bệnh của trung tâm, phục vụ tốt sức khỏe nhân dân.
- Tuyên truyền trong nhân dân chế độ ăn sạch, ở sạch, phòng chống các bệnh thông thường. Kiểm tra các quy định về vệ sinh thực phẩm ở các điểm kinh doanh ăn uống, giải khát. Tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh, thực hiện chương trình y tế quốc gia. Xây dựng và phổ biến cách phòng chống các bệnh xã hội, nhất là bệnh AIDS, đưa chương trình giáo dục giới tính, phòng chống bệnh AIDS trong các trường cấp II, III.
- Tăng cường các biện pháp bảo vệ môi sinh, môi trường trong kêu gọi đầu tư phát triển kinh tế, cần chú ý đưa các ngành công nghiệp không gây ô nhiễm để bảo vệ sức khỏe nhân dân. Xử lý kiên quyết các điểm sản xuất gây ô nhiễm môi trường ở khu dân cư. Quan tâm đầu tư, tạo nguồn nước sạch ở các Phường ven sông và ở các nơi dân cư tập trung.
5. Hoạt động Văn hóa Thông tin – Thể dục thể thao.
Mục tiêu chính của lĩnh vực văn hóa xã hội là chăm lo phát triển nhân tố con người. Đó là con người có văn hóa (theo nghĩa rộng), sống có lý tưởng, có hoài bảo tốt đẹp, có đạo đức và lối sống lành mạnh. Mặt trái của kinh tế thị trường tạo ra nhiều tiêu cực xã hội dẫn đến suy đồi về đạo đức, điều đó càng khẳng định mục tiêu chăm lo, phát triển nhân tố con người là điều rất quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển Quận. Đề cao và giữ gìn bản sắc dân tộc trong các hoạt động văn hóa văn nghệ, các điểm vui chơi giải trí, giao lưu học hỏi nền văn hóa bên ngoài có chọn lọc, ngăn chặn xu hướng lai căng, mất gốc. Đến năm 2000, phấn đấu xây dựng cụm văn hóa giữa các Phường, phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí của thanh thiếu niên và nhân dân. Phát động trong trào xây dựng nếp sống văn hóa lành mạnh, sống khỏe, sống đẹp trong các tầng lớp nhân dân, thường xuyên rèn luyện thân thể. Phát triển mạnh các bộ môn thể thao như: tennis, bóng đá, cầu lông, các môn võ thuật, tập dưỡng sinh. Thường xuyên tổ chức các trận đấu trong nội bộ Quận, giao hữu với các đơn vị, địa phương bạn và tham gia thi đấu quốc tế.
* Các giải pháp.
- Xây dựng các cụm văn hóa, tạo sân bãi hoạt động thể dục thể thao, sân khấu ngoài trời của các Phường. Phát động và tổ chức phong trào văn hóa văn nghệ lành mạnh, bảo tồn vá phát huy văn hóa dân tộc.
- Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị định 87/CP, 88/CP, tạo sự chuyển biến góp phần làm lành mạnh môi trường văn hóa xã hội. Phát huy cao vai trò của Đội Thanh tra 814, tập trung truy quét, xử lý các văn hóa phẩm độc hại, các tệ nạn xã hội, nhất là ma túy, mại dâm, mê tín, cờ bạc… kiên quyết lập lại trật tự trên lĩnh vực văn hóa. Thực hiện đồng bộ giữa Quận và Phường, giữa tuyên truyền giáo dục với kiểm tra xử lý, giữa xây và chống.
- Quy hoạch mạng lưới cơ sở vật chất về văn hóa thông tin – thể dục thể thao. Mở rộng quy mô và nâng chất hoạt động Trung tâm Văn hóa, Trung tâm Thể dục Thể thao Quận.
- Thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực văn hóa, thể thao. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa mới, phong trào người tốt việc tốt, gương sáng những người con hiếu thảo gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”.
- Nâng cao chất lượng nội dung, hình thức của Bản tin Quận, Đài Phát thanh Phường, góp phần tích cực vào việc cung cấp thông tin, hướng dẫn nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
III. AN NINH, QUỐC PHÒNG, NỘI CHÍNH
Trên cơ sở thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, gắn chặt nhiệm vụ an ninh và quốc phòng để bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng của Quận trong giai đoạn mới. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng Công an và Quân sự địa phương. Xây dựng lực lượng vũ trang mạnh về chất lượng, vững về số lượng, đủ sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
1. Công tác an ninh.
Tiếp tục giữ vững thế ổn định về an ninh chính trị, từng bước đẩy lùi các phức tạp về trật tự an toàn xã hội. Xây dựng và thực hiện các chuyên đề về bảo vệ an ninh văn hóa tư tưởng, an ninh nội bộ, an ninh kinh tế, củng cố vững chắc an ninh cơ sở. Gắn chặt hai biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ và phòng ngừa xã hội, hạn chế thấp nhất trọng án, nâng cao tỷ lệ phá án. Xây dựng ý thức nâng cao cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Làm tốt công tác nắm hộ, nắm người, quản lý chặt địa bàn, nhất là các địa bàn trọng điểm. Gắn theo yêu cầu thực hiện Chỉ thị 13/TU, bố trí lực lượng Công an khu vực theo địa bàn dân cư, xây dựng mạng lưới đặc tình, lực lượng nòng cốt từ các khu phố, tổ dân phố. Thường xuyên theo dõi nắm tình hình hoạt động của các loại đối tượng, các Việt kiều, người nước ngoài tạm trú trên địa bàn Quận để chủ động có kế hoạch, đối sách phù hợp. Liên tục tấn công trấn áp các loại tội phạm hình sự, kinh tế, tệ nạn xã hội. Tích cực giải quyết các phức tạp về trật tự xây dựng, trật tự đô thị, quản lý nhân hộ khẩu. Phát huy và đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc rộng khắp ở các tổ dân phố. Phấn đấu đến năm 2000, có trên 80% khu phố vững mạnh.
2. Công tác quân sự địa phương.
Nâng cao chất lượng quân thường trực, dự bị động viên và dân quân tự vệ. Thường xuyên bổ sung kế hoạch diễn tập phòng thủ hàng năm, thực hiện vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan Công an – Quân sự làm tham mưu”. Phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu nghĩa vụ quân sự hàng năm, có biện pháp xử lý kiên quyết quân nhân đào bỏ ngũ và thanh niên 3 trốn tránh. Tiếp tục xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt số lượng quy định từ 2 – 3% trên tổng số dân. Xây dựng hoàn chỉnh mạng lưới trinh sát, quân báo nhân dân, phấn đấu xây dựng hoàn chỉnh 20 cơ sở quân báo, nắm và xử lý chính xác các thông tin quân sự. Tăng cường mối liên hệ với các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn, tổ chức hợp đồng tác chiến với các Quận, Huyện giáp ranh.
3. Các ngành thực thi và bảo vệ pháp luật.
Xây dựng mối quan hệ cùng phối hợp, giám sát trong trình tự, điều tra, tố tụng, truy tố, xét xử. Đẩy mạnh việc tuyên truyền luật pháp trong nhân dân, vận động nhân dân “Sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật”. Thực hiện tốt công tác xét xử và thi hành án, không để án tồn đọng. Tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ ở các cơ quan thực thi pháp luật đảm bảo đúng chuẩn chất, không để xảy ra tình trạng tiêu cực trong ngành.
* Các giải pháp.
- Ngành Công an, Quân sự phối hợp tham mưu Quận ủy lãnh đạo công tác quốc phòng và an ninh trong tình hình mới, mỗi năm đều xây dựng Nghị quyết an ninh quốc phòng. Triển khai thực hiện các chuyên đề an ninh, bảo vệ an ninh nội bộ, chống âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch.
- Chú trọng xây dựng lực lượng an ninh cơ sở, bồi dưỡng nghiệp vụ của Công an Phường và Cảnh sát khu vực, chủ động giải quyết các tình huống ở cơ sở, đảm bảo sự vững chắc từ bên dưới. Xây dựng lực lượng Công an biết làm công tác vận động quần chúng, nâng cao lòng tin của nhân dân đối với lực lượng Công an.
- Phát huy vai trò của Ban Chấp hành thống nhất, từng bước đẩy lùi các loại tội phạm. Đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, tiến hành sơ tổng kết hàng năm và nhân rộng những gương điển hình trong phong trào. Thường xuyên kiểm tra nắm hộ, nắm người, có biện pháp giải quyết tình hình vi phạm về cư trú ở các phòng trọ.
- Bổ sung kế hoạch huấn luyện quân sự hàng năm theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Quận, đảm bảo hoạt động tác chiến trên mọi địa hình. Thường xuyên phúc tra, tổ chức huấn luyện cho lực lượng dự bị động viên. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, góp phần tích cực cho công tác tuyển quân hàng năm.
- Xây dựng mới 2 Đại đội cơ động, 6 binh chủng, củng cố 1 Trung đội Dân quân. Mỗi khu phố xây dựng ít nhất 2 Tiểu đội dân quân. Phấn đấu thực hiện chỉ tiêu xây dựng dân quân đạt 3% dân số, 100% cơ quan xí nghiệp đều có lực lượng tự vệ tại chỗ. Quan tâm chăm lo đời sống và trang bị phương tiện chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ.
- Thường xuyên khảo sát việc tuân thủ pháp luật trong công tác quản lý Nhà nước của địa phương, các tổ chức kinh tế - xã hội và của mọi công dân. Các ngành thực thi pháp luật chủ động phối hợp xử lý kịp thời các vụ vi phạm pháp luật. Phấn đấu thực hiện việc kiểm sát điều tra ngay từ đầu 100% án khởi tố, giải quyết từ 85% trở lên án thụ lý. Đảm bảo 100% các vụ án được xét xử và luậh tội công minh đúng pháp luật. Thực hiện xử lưu động một số trường hợp nổi cộm như: trốn thuế, trốn nghĩa vụ quân sự, mua bán ma túy… để răn đe và giáo dục chung trong nhân dân.
- Tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật trong các tầng lớp nhân dân. Tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân kịp thời.
IV. TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
Các cấp, các ngành, mọi cán bộ, Đảng viên, công nhân viên đều phải làm công tác vận động quần chúng. Công tác dân vận trong thời gian tới nhằm đạt được mục tiêu chung là: Đẩy mạnh các hoạt động thiết thực chăm lo cho các tầng lớp nhân dân, góp phần nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, giải quyết việc làm. Duy trì và phát triển các phong trào hành động cách mạng trong lao động sản xuất, học tập, bảo vệ an ninh trật tự, xây dựng nếp sống mới. Thực hiện đền ơn đáp nghĩa cho các đối tượng chính sách. Thông qua phong trào mở rộng diện tập hợp quần chúng, chú trọng xây dựng tổ chức và lực lượng nòng cốt trong các giới và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đa dạng hóa việc tập hợp theo nhu cầu, sở thích và hoạt động nghề nghiệp. Tăng cường phát triển và nâng cao chất lượng Đoàn viên, Hội viên. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động Mặt trận – đoàn thể theo hướng đưa hoạt động về cơ sở, hướng về cơ sở. Củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của cơ sở, phát hiện và nhân rộng các điển hình tiên tiến. Xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho Đoàn viên, Hội viên. Tập trung bồi dưỡng lòng yêu nước và tự tôn dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào truyền thống, tinh thần nhân ái, cảnh giác âm mưu chia rẽ và “diễn biến hòa bình” của kẻ thù.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động quần chúng. Trong nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ sẽ ra Nghị quyết chuyên đề về công tác thanh vận và xây dựng giai cấp công nhân trong tình hình mới. Thường xuyên kiểm tra và kịp thời sơ tổng kết các Nghị quyết, Chỉ thị liên quan đến công tác dân vận. Lãnh đạo các ngành, các cấp nghiêm túc thực hiện có hiệu qủa các Nghị quyết của Đảng về công tác vận động quần chúng. Định kỳ tổ chức việc lấy ý kiến nhân dân đóng góp xây dựng cho tổ chức Đảng và Đảng viên. Các Chi, Đảng bộ phải bố trí cấp ủy viên phụ trách công tác đoàn thể và nắm dư luận quần chúng, lãnh đạo Đảng viên, cán bộ, công nhân viên làm tốt công tác vận động quần chúng.
Hệ thống chính quyền từ Quận đến cơ sở đều phải làm công tác vận động quần chúng. Thể chế hóa thành cơ chế phối hợp giữa chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tổ chức xã hội. Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính ở các cấp, các ngành. Giải quyết kịp thời khiếu nại và tố cáo của công dân. Đưa chế độ tiếp dân đi vào nề nếp. Thường xuyên kiểm tra ý thức chấp hành của các ngành, các cấp đối với việc thực hiện các Nghị quyết của Đảng có liên quan đến công tác dân vận. Thủ trưởng các đơn vị cần nắm vững và có trách nhiệm trang bị những quan điểm cơ bản về công tác vận động quần chúng cho đội ngũ cán bộ công nhân viên chức Nhà nước, lực lượng vũ trang. Thường xuyên kiểm tra và xử lý kịp thời các hành vi trái quan điểm quần chúng của cán bộ nhân viên thuộc đơn vị mình. Tạo điều kiện về cơ sở vật chất giúp cho Mặt trận, các đoàn thể tham gia hoạt động kinh tế - dịch vụ tạo nguồn thu. Tiến hành việc ký kết liên tịch nhằm góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị giữa các ngành và các đoàn thể.
Mặt trận – các đoàn thể tiếp tục đổi mới mạnh về phương thức và nội dung hoạt động. Mặt trận Tổ quốc tiếp tục củng cố mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, theo tinh thần Nghị quyết 07 Bộ Chính trị (khóa VII). Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư. Có biện pháp cụ thể và hữu hiệu làm tốt chức năng xây dựng, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước. Làm tốt việc phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên trong Mặt trận, tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp trong Mặt trận hoạt động có hiệu quả. Thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn Quận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, phối hợp chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của các Cấp ủy Đảng, chính quyền thực hiện chức năng quản lý tôn giáo bằng pháp luật. Các đoàn thể, Mặt trận có trách nhiệm vận động quần chúng tín đồ, chức sắc góp phần tích cực trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của Quận. Quan tâm tạo điều kiện phát huy hiệu quả hoạt động của Hội Người cao tuổi. Liên đoàn Lao động phối hợp với các ban, ngành có liên quan thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII) về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng giai cấp công nhân. Tham mưu cho Ban Chấp hành Đảng bộ ra Nghị quyết về xây dựng giai cấp công nhân trong tình hình mới. Phối hợp với các ban, ngành giám sát việc thực hiệnLuật Lao động. Giáo dục công nhân, người lao động và cán bộ Công đoàn nắm được Luật Công đoàn và Luật Lao động. Có biện pháp góp phần nâng cao trình độ văn hóa tay nghề của công nhân và người lao động. Can thiệp và bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của công nhân, người lao động ở tất cả khu vực kinh tế. Hội Liên hiệp Phụ nữ tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp phụ nữ. Tổ chức tốt các hoạt động tương trợ giúp nhau làm kinh tế gia đình, chăm lo đời sống, xây dựng gia đình hạnh phúc, đẩy mạnh phong trào tự rèn luyện nhằm nâng cao kiến thức mọi mặt cho phụ nữ. Hội cần nỗ lực phấn đấu cho sự bình đẳng và tiến bộ phụ nữ, bảo vệ nhân phẩm và các quyền lợi chính đáng của phụ nữ. Phối hợp với các ban, ngành giám sát việc thực hiện tốt và đầy đủ các chính sách đối với phụ nữ, nhất là lao động nữ trong các đơn vị kinh tế. Tích cực tham gia các hoạt động xã hội từ thiện, đền ơn đáp nghĩa, phòng chống các tệ nạn xã hội. Hội Nông dân tiếp tục có các biện pháp huy động, khai thác mọi nguồn vốn giúp nông dân phát triển sản xuất. Cần tạo ra mô hình và tuyên truyền hướng nông dân vào các hoạt động sản xuất hợp tác, tập thể. Bên cạnh việc tạo vốn, Hội cần có hình thức tư vấn cho nông dân về ngành nghề đầu tư, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, liên kết nhau làm ăn. Kịp thời phát hiện và nhân rộng các mô hình làm ăn giỏi. Tham gia xây dựng, củng cố và phát triển các tổ chức kinh tế tập thể. Hội Cựu Chiến binh và Câu lạc bộ Truyền thống kháng chiến: phấn đấu nâng cao hiệu quả thiết thực các hoạt động chính trị xã hội, làm tốt hơn nữa việc chăm lo đời sống vật chất tinh thần, bảo vệ các quyền lợi chính đáng và giám sát việc thực hiện các chính sách đối với Cựu chiến binh. Tích cực tham gia các hoạt động góp phần ổn định chính trị, xây dựng quốc phòng, bảo vệ an ninh trật tự xã hội. Tham gia bảo vệ môi trường văn hóa, đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, tiêu cực, tham nhũng trong hệ thống chính trị. Làm tốt việc giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên, truyền truyền viên.
* Các giải pháp.
- Tiến hành việc quy hoạch, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng về văn hóa, chuyên môn cho cán bộ đang làm công tác dân vận và đội ngũ kế thừa, từng bước tiêu chuẩn hóa cán bộ của Mặt trận, đoàn thể.
- Thường xuyên kiểm tra và thực hiện tốt quy chế làm việc của Quận ủy, của Ban Dân vận Quận có liên quan đến hoạt động của Mặt trận, đoàn thể. Xây dựng quy chế phối hợp hoạt động giữa chính quyền và Mặt trận, đoàn thể. Xây dựng cơ chế cụ thể thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
- Tổ chức ký kết liên tịch giữa chính quyền, ban ngành và đoàn thể. Kiến nghị bổ sung sửa đổi một số chính sách liên quan đến điều kiện hoạt động và chế độ đãi ngộ cán bộ Mặt trận, đoàn thể nhất là ở cơ sở. Ban Chấp hành Đảng bộ Quận sẽ ra hai Nghị quyết chuyên đề về công tác thanh niên và xây dựng giai cấp công nhân trong tình hình mới.
V. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
Tập trung thực hiện việc đổi mới hoạt động của HĐND, UBND Quận, Phường theo tinh thần Nghị quyết TW 3 (khóa VIII). Nâng cao hoạt động giám sát của HĐND, hai ban chuyên trách, các tổ đại biểu và từng đại biểu HĐND đối với hoạt động của UBND Quận. Cải tiến quy chế làm việc của UBND Quận, thực hiện chế độ phân công, phân cấp trách nhiệm cụ thể của các thành viên. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn bộ máy các phòng, ban theo Quyết định 442 và bộ máy Phường theo Quyết định 231 của UBND Thành phố. Đẩy mạnh cải cách hành chính theo cơ chế một cửa một dấu theo Chỉ thị 13 của Thành ủy. Tiếp tục bổ sung đội ngũ cán bộ, viên chức còn thiếu, nhất là ở các phòng, ban và đơn vị sự nghiệp mới hình thành. Nâng cao trình độ năng lực, phẩm chất chính trị, kiến thức về quản lý Nhà nước, quản lý đô thị cho cán bộ viên chức để đáp ứng ngang tầm với yêu cầu thực tế. Xây dựng bộ máy Nhà nước Quận, Phường trong sạch, vững mạnh, phát hiện và xử lý nghiêm khắc những trường hợp tham nhũng, lãng phí trong đội ngũ cán bộ Nhà nước.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, cần quan tâm tăng cường sự lãnh đạo của Quận ủy đối với công tác quản lý Nhà nước, góp phần đưa công tác quản lý Nhà nước từng bước đáp ứng ngang tầm của công cuộc đổi mới. Quan tâm lãnh đạo việc tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước, đủ sức đảm đương và phát huy tốt vai trò, nhiệm vụ. Thực hiện việc bồi dưỡng văn hóa hết cấp III cho cán bộ, nhân viên UBND các Phường. Phấn đấu đến năm 2000, cán bộ, công chức Nhà nước của Quận vừa có phẩm chất chính trị, vừa có khả năng chuyên môn, phục vụ tốt nhân dân.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng chính quyền bằng hình thức đại diện hoặc trực tiếp, trong đó chú ý phát huy quyền làm chủ trực tiếp. Duy trì lịch tiếp dân hàng tuần, cải tiến và nâng cao hiệu quả thiết thực trong công tác tiếp dân.
* Các giải pháp.
- Xây dựng chương trình hoạt động cụ thể của HĐND, UBND, các ban chuyên trách, tổ đại biểu theo từng tháng, quý, tiến hành bổ sung, sửa đổi quy chế hoạt động của các phòng ban chuyên môn thuộc Quận.
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng về văn hóa, chính trị, nghiệp vụ cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ. Thực hiện chính sách đãi ngộ cán bộ viên chức trong đào tạo.
- Thông qua tổ chức Mặt trận, đoàn thể để vận động nhân dân tham gia góp ý xây dựng chính quyền. Duy trì chế độ giao ban giữa Chủ tịch UBND Quận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Thực hiện hòm thư dân nguyện để nhân dân tham gia góp ý xây dựng chính quyền. Theo định kỳ, tổ chức cho các đại biểu HĐND tiếp xúc với cử tri, lắng nghe và giải quyết những nguyện vọng chính đáng của cử tri.
- UBND Quận, Phường tổ chức định kỳ thường xuyên tự phê bình và phê bình trước dân. Phát huy tinh thần dân chủ của nhân dân qua việc tham gia đóng góp xây dựng chính quyền. Tiếp tục hoàn chỉnh và nâng cao hiệu quả qua thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế một cửa, một dấu. Xây dựng quy chế hoạt động cụ thể của HĐND, UBND, trong đó phân rõ trách nhiệm lãnh đạo của Đảng để không dẫm chân bao biện làm thay, tạo được sự đồng bộ trong cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, nhân dân làm chủ.
PHẦN THỨ BA
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
-------
I. XÂY DỰNG ĐẢNG
Tập trung nâng cao sức chiến đấu của toàn Đảng bộ, đáp ứng ngang tầm trong điều kiện, tình hình mới. Ba năm tới, đất nước sẽ có nhiều thay đổi từ những thành tựu của sự nghiệp đổi mới mang lại. Điều đó đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng bộ Quận cũng phải có những bước chuyển tương ứng để bắt kịp tình hình, nâng cao bản lĩnh lãnh đạo trong giai đoạn mới.
1. Công tác chính trị tư tưởng.
Xác định công tác chính trị tư tưởng là trận địa nóng bỏng, là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng ở thời kỳ mới. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ Đảng viên và quần chúng nhân dân, trang bị nhận thức về yêu cầu phát triển của Quận mới để tạo cho cán bộ Đảng viên, CNV và quần chúng nhân dân có sự chuyển biến về phong cách trong sinh hoạt và làm việc. Tiếp tục giáo dục cán bộ Đảng viên kiên định lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Tăng cường và phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất nội bộ từ những ngày đầu thành lập Quận, tiếp tục khắc phục khó khăn, xây dựng ý chí phấn đấu không mệt nỏi vì mục tiêu, lý tưởng CNXH. Làm cho mỗi cán bộ, Đảng viên có nhận thức đúng đắn về phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Từ đó, ra sức học tập, nâng cáo trình độ năng lực, rèn luyện phẩm chất đạo đức, tạo mối quan hệ gần gũi, mật thiết với nhân dân. Quan tâm xây dựng lực lượng Đảng viên trẻ, cán bộ chủ chốt có đầy đủ đức, tài, trong đó xem đức là gốc. Giáo dục ý thức nâng cao cảnh giác cách mạng, bảo vệ chính trị nội bộ, chống âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Công tác chính trị tư tưởng cần đi sâu vào chống các biểu hiện tư tưởng của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân (tham danh, tham lợi, tham quyền), chống cục bộ địa phương. Xây dựng thái độ đúng đắn cho cán bộ Đảng viên và quần chúng trước những tiêu cực xã hội, tệ tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Chống thái độ thiếu kiên quyết trước những tiêu cực, sai trái; Chống thái độ thờ ơ, bàng quang vô trách nhiệm trước những vấn đề bức xúc của xã hội và những nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
* Các giải pháp.
- Có kế hoạch chỉ đạo, hướng dẫn cán bộ, Đảng viên thực hiện nghiêm túc chế độ học tập. Nâng cao chất lượng các lớp bồi dưỡng, học tập Nghị quyết, trong đó mở lớp bồi dưỡng Cấp ủy, Ban Điều hành khu phố, Tổ dân phố; Mở lớp lý luận phổ thông cho quần chúng cốt cán ngoài Đảng, lực lượng dân quân Phường… Công tác huấn học phải tham gia vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng, tiêu chuẩn hóa cán bộ.
- Quan tâm lãnh đạo những vấn đề liên quan đến điểm nóng như: giải tỏa đền bù, tranh chấp đất đai ở các công trình, vấn đề ô nhiễm môi trường, dân nhập cư… Phát huy dân chủ ở cơ sở, dân chủ được tôn trọng nhưng phải có lãnh đạo, không dân chủ quá trớn, cực đoan.
- Xây dựng Trung tâm bồi dưỡng chính trị Quận để từng bước thật sự là nơi bồi dưỡng, sinh hoạt chính trị của Quận. Duy trì thông tin báo cáo thời sự hàng tháng, mở rộng báo cáo chuyên đề, phát huy hiệu quả sử dụng các loại tài liệu từ Chi bộ cơ sở, bộ phận. Tổ chức lớp Trung cấp Chính trị tại Quận cho cán bộ Đảng viên, phục vụ cho công tác quy hoạch sắp tới. Xây dựng hệ thống nắm bắt dư luận xã hội để lãnh đạo kịp thời, hình thành và củng cố lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên từ Quận đến cơ sở.
- Tiếp tục nghiên cứu xây dựng lịch sử truyền thống Đảng bộ Quận, làm tốt công tác giáo dục truyền thống bằng các hình thức sinh động, hấp dẫn thông qua các ngày lễ lớn trong năm. Quan tâm đến giá trị giáo dục truyền thống trong lực lượng thanh thiếu niên của Quận.
- Hướng dẫn đổi mới nội dung sinh hoạt Đảng, phân công quản lý Đảng viên, đẩy mạnh tự phê bình, phê bình, phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức văn hóa xã hội trong công tác tuyên truyền giáo dục. Có định hướng hoạt động văn hóa trong tình hình mới. Chú trọng xây dựng các loại hình văn hóa ngay từ cơ sở.
2. Công tác tổ chức cán bộ.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 3 Trung ương (khóa VII), Chỉ thị 13 của Thành ủy về việc thực hiện cuộc vận động đổi mới và chỉnh đốn Đảng ở Đảng bộ Phường. Xây dựng mỗi Chi bộ đều có ý thức tự đổi mới, tự chỉnh đốn và phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị của từng loại hình tổ chức cơ sở Đảng. Nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên, chú trọng xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng ở các đơn vị hành chính sự nghiệp và các Phường trọng điểm. Tạo điều kiện hỗ trợ và giúp đỡ để các Chi bộ khu phố phát huy được vai trò, nhiệm vụ khi đã chuyển từ Ấp thành Khu phố. Đẩy mạnh việc đánh giá phân loại tổ chức cơ sở Đảng và phân tích chất lượng Đảng viên. Phấn đấu đến năm 2000 có 2/3 cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh, 2/3 Đảng viên phấn đấu tốt. Quan tâm đẩy mạnh công tác phát triển Đảng, chú ý cả về chất lượng và số lượng. Phấn đấu cả nhiệm kỳ phát triển được trên 200 Đảng viên mới. Thực hiện Nghị quyết 3 Trung ương (khóa VIII) về chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tiến hành quy hoạch và đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ, công chức của Quận, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục giữa các thế hệ cán bộ. Quan tâm thực hiện tốt công tác chính sách cán bộ (cử đi học, đề bạt, nâng lương, thăm hỏi khi đau yếu…).
* Các giải pháp.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Tổ chức Quận ủy, Phòng Tổ chức Chính quyền, thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Quận về công tác tổ chức cán bộ. Nghiên cứu sắp xếp lại các tổ chức cơ sở Đảng phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính Nhà nước. Dành một tỷ lệ ngân sách Nhà nước thỏa đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
- Kiện toàn đội ngũ Cấp ủy cơ sở có đầy đủ chuẩn chất và năng lực lãnh đạo, được cán bộ và quần chúng tín nhiệm. Thực hiện việc cải tiến, nâng cao chất lượng nội dung sinh hoạt Chi bộ thường kỳ, lấy hiệu quả công việc làm thước đo đánh giá trình độ năng lực của cán bộ, Đảng viên. Nâng cao vai trò hoạt động của các Tổ Đảng, nắm bắt diễn biến tư tưởng của Đảng viên từ cơ sở.
- Tổ chức khảo sát nguồn phát triển Đảng trong công nhân, học sinh, con em gia đình chính sách, quần chúng lao động ưu tú, người có đạo, người Hoa để không ngừng bổ sung cho Đảng lực lượng Đảng viên trẻ đạt cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Đẩy mạnh công tác cán bộ nữ, quan tâm đào tạo và bố trí cán bộ nữ ở những vị trí quan trọng để chị em có điều kiện tham gia lãnh đạo các mặt công tác trọng tâm của Quận.
- Có kế hoạch triển khai thực hiện hàng năm nhằm cụ thể hóa chương trình hành động của Quận ủy về thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) đối với công tác cán bộ. Tiến hành rà soát đánh giá phân loại để hoàn thiện công tác quy hoạch từ Quận đến cơ sở. Có kế hoạch gởi cán bộ đi đào tạo theo hướng tiêu chuẩn hóa. Phấn đấu đến năm 2000, có 70% cán bộ cấp Quận, 25% cán bộ cấp Phường đạt trình độ Đại học (hoặc đang học). Bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hóa hết cấp II và 90% hết cấp III cho cán bộ cơ sở.
- Đổi mới quan điểm và phương pháp đánh giá cán bộ theo quy trình chặt chẽ, thể hiện tính khách quan, dân chủ. Hàng năm tổ chức lấy ý kiến của nội bộ Đảng và quần chúng đóng góp cán bộ Đảng viên, công khai cho cán bộ Đảng viên biết mạnh yếu của mình.
- Thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ chủ chốt cấp Quận, không giữ một chức vụ lãnh đạo quá 2 nhiệm kỳ theo tinh thần Nghị quyết TW 3 (khóa VIII).
3. Công tác kiểm tra.
Kiểm tra được xác định là công tác chủ yếu, thường xuyên và quan trọng trong những đường lối lãnh đạo của Đảng. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, của từng tổ chức cơ sở Đảng và của mỗi Đảng viên. Trong 3 năm tới, ra sức giáo dục, nhắc nhở Đảng viên thường xuyên tự rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng, không để sa vào sai phạm. Chú trọng công tác kiểm tra Đảng viên chấp hành Điều lệ, Nghị quyết Đảng, kiểm tra việc thực hiện quy chế làm việc của Cấp ủy. Chủ động ngăn ngừa các sai phạm, phát hiện và kiểm tra kịp thời các tổ chức, Đảng viên có dấu hiệu sai phạm. Những trường hợp sai phạm, phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời, đảm bảo tính khách quan và chính xác.
* Các giải pháp.
- Việc giải quyết đơn tố cáo, khiếu nại có liên quan đến Đảng viên phải được tiến hành chặt chẽ, thận trọng theo đúng quy trình.
- Tập trung kiểm tra tổ chức Đảng, Đảng viên xung quanh việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ sinh hoạt, lãnh đạo tổ chức quần chúng, mối quan hệ với quần chúng, rèn luyện năng lực công tác và phẩm chất đạo đức.
- Củng cố tổ chức bộ máy Ủy ban Kiểm tra từ Quận đến cơ sở. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra hội đủ các điều kiện chuẩn chất về tư cách đạo đức, giỏi về nghiệp vụ. Kết hợp chặt giữa Kiểm tra Đảng với tổ chức cơ sở Đảng trong việc giải quyết xử lý những Đảng viên vi phạm pháp luật.
4. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Tập trung thực hiện tốt công tác sưu tra lịch sử chính trị của các đối tượng, phục vụ cho yêu cầu tuyển chọn, bố trí, đề bạt, điều chuyển cán bộ. Tăng cường các biện pháp xác minh nắm chắc lịch sử cán bộ, không để sơ hở cho phần tử xấu lọt vào hàng ngũ lãnh đạo chủ chốt của Quận.
* Các giải pháp.
- Thường xuyên theo định kỳ có kế hoạch khảo sát và bổ sung lý lịch cán bộ, Đảng viên, CNV. Với những trường hợp có lịch sử phức tạp, cần xin ý kiến Quận ủy để có hướng lãnh đạo, giải quyết.
- Kết hợp chặt cùng Ban Tổ chức Quận ủy, Phòng Tổ chức Chính quyền. Đội An ninh Nhân dân thường xuyên nắm chắc hồ sơ cán bộ. Kịp thời phát hiện và đề xuất biện pháp xử lý đối với các trường hợp không đảm bảo về lịch sử chính trị.
- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ đủ sức đảm đương nhiệm vụ trong tình hình mới.
II. XÂY DỰNG ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh luôn được xác định là cánh tay đắc lực, là đội hậu bị đáng tin cậy của Đảng. Để xây dựng và phát triển Quận vững mạnh trong thời kỳ đổi mới, Đoàn thanh niên cần phát huy tốt vai trò xung kích trên mọi lĩnh vực, góp phần mang lại thành quả chung trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tập trung củng cố tổ chức cơ sở Đoàn vững mạnh, nhất là ở khu vực khối Phường (Chi đoàn khu phố). Phấn đấu mỗi năm có 80% Chi đoàn vững mạnh, 80% Đoàn viên tiên tiến, không có Chi đoàn yếu kém. Đa dạng hóa hình thức sinh hoạt và phương thức tập hợp Đoàn viên thanh niên, tạo sự thu hút để tổ chức Đoàn thật sự là chỗ dựa của thanh niên. Phát huy và nâng cao vai trò của Hội Liên hiệp Thanh niên, đẩy mạnh hoạt động của các Chi hội, nhóm công tác, Câu lạc bộ thanh niên giúp nhau mưu sinh lập nghiệp, giúp thanh niên nỗ lực học tập văn hóa, nghề nghiệp, khoa học kỹ thuật… Đoàn cần tích cực thể hiện vai trò là trường học cộng sản của thanh niên, giúp thanh niên giác ngộ lý tưởng cách mạng và tự nguyện đứng vào hàng ngũ của Đoàn. Tham gia giải quyết các nguyện vọng chính đáng của thanh niên, động viên Đoàn viên thanh niên thực hiện tốt luật Nghĩa vụ quân sự, bảo vệ chăm sóc trẻ em, chống tệ nạn xã hội. Xây dựng và phát triển Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, củng cố Hội đồng phụ trách Đội ở các Trường. Tăng cường các biện pháp để thu hút thanh niên vào tổ chức, hướng thanh niên vào các hoạt động xã hội, đền ơn đáp nghĩa, văn hóa văn nghệ lành mạnh, thể dục thể thao, bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh công tác phát triển Đoàn viên mới, làm tốt chức năng giới thiệu Đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp. Phấn đấu phát triển Đoàn viên mới và xây dựng một số Chi đoàn trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
* Các giải pháp.
- Cấp ủy cơ sở cần quan tâm lãnh đạo để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Đoàn thanh niên; Đặc biệt là các Chi đoàn khu phố. Duy trì chế độ làm việc giữa Cấp ủy – chính quyền và Đoàn Thanh niên theo định kỳ. Lựa chọn những cán bộ trẻ, có năng lực trình độ để bố trí nhân sự Bí thư Phường Đoàn, Chi đoàn.
- Quận quan tâm tạo điều kiện cho Đoàn thanh niên mở rộng chức năng hoạt động, như xây dựng sân chơi cuối tuần, khu vui chơi giải trí để có điều kiện thu hút, tập hợp thanh niên và tạo thêm kinh phí để đầu tư cho các hoạt động của Đoàn.
- Có chính sách chăm lo bồi dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ Đoàn. Chọn những cán bộ Đoàn giỏi, Đoàn viên thanh niên ưu tú, những Đảng viên trẻ có triển vọng còn sinh hoạt Đoàn để quy hoạch và đưa đi đào tạo các lớp về kinh tế, chính trị, quản lý Nhà nước, pháp luật, chuẩn bị đội ngũ cán bộ chiến lược kế thừa từ sau năm 2000./.
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ QUẬN 12
LẦN THỨ NHẤT