Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Báo cáo tình hình và nhiệm vụ Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quận 3 lần thứ IV

Ba năm qua, tình hình chung còn nhiều khó khăn, từ khi có Nghị quyết hội nghỊ lần thứ 6, 7, 8 của ban chấp hành TW Đảng, các hoạt động kinh tế phát triển ngày càng có nhiều thuận lợi. Nhưng sau khi đổi tiền và tổng điều chỉnh giá (tháng 9/1985) tình hình tiền tệ, giá cả thị trường trở nên phức tạp; các hoạt động kinh tế, xã hội và đời sống đứng trước những khó khăn gay gắt, làm hạn chế những thành quả đạt được.

Trong bối cảnh đó, Đảng bộ và nhân dân Quận 3 đã không ngừng phấn đấu thực hiện những mục tiêu do Đại hội Đảng bộ Thành phố và Đại hội Đảng bộ Quận 3 lần thứ III đề ra. Và, tuy có tạo ra được một số chuyển biến quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội nhưng cũng còn nhiều mặt thiết sót và tồn tại lớn. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá chính xác những kết quả đã đạt được và những thiếu sót, tồn tại, Đảng bộ Quận 3 từ Đại hội lần thứ III đến nay đã thực hiện được một số việc như sau:

PHẦN MỘT

NHỮNG ƯU KHUYẾT ĐIỂM TRONG VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI QUẬN ĐẢNG BỘ LẦN THỨ III, NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI III CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ VÀ CÁC NGHỊ QUYẾT CỦA TRUNG ƯƠNG, THÀNH UỶ.

I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG THIẾU SÓT, TỒN TẠI TRÊN MẶT TRẬN KINH TẾ:

1. Trên lĩnh vực sản xuất:

a. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp:

Trong tình hình vật tư, nguyên liệu, nguồn điện, tiền mặt luân bị căng thẳng, cơ chế gò bó, đời sống người lao động thủ công chưa được cải thiện, Quận đã có nhiều cố gắng tháo gỡ tạo điều kiện cho sản xuất phát triển.

Các cơ sở sản xuất quốc doanh và hợp doanh từng bước được củng cố và phát triển nhanh (năm 1983 có 5 cơ sở thực hiện giá trị sản lượng 3,6 triệu, năm 1985 có 14 cơ sở thực hiện giá trị sản lượng 62,2 triệu); loại hình hợp doanh cũng được vận dụng, triển khai và bước đầu khai thác được tiềm năng về vốn, tay nghề, khoa học kỹ thuật, lao động, mặt bằng. Đối với khu vực kinh tế tập thể đã tích cực củng cố về tổ chức quản lý, xây dựng lực lượng chính trị, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm và cải thiện đời sống người lao động nên số lượng hợp tác xã tăng nhanh (cuối năm 1983 có 13 hợp tác xã đến tháng 8/1986 tăng lên 43 hợp tác xã) và Quậnđã sắp xếp lại sản xuất theo 12 ngành kinh tế kỹ thuật, đang tập trung đầu tư phát triển các ngành may, may da điện tử. Riêng ngành may, may da đã có một bước đổi mới và tăng cường máy móc, thiết bị nhằm tăng năng suất, chất lượng và khả năng xuất khẩu.

Trừ tỷ trọng xuất khẩu (Đại hội Đảng bộ lần III đề ra 25% mới thực hiện được 20%) còn các chỉ tiêu khác như chỉ tiêu về giá trị tổng sản lượng, tỷ trọng kinh tế quốc doanh và tập thể, tỷ trọng hàng hoá giao nộp… đều đạt và vượt mức Đại hội Đảng bộ lần thứ III đề ra. Riêng về giá trị tổng sản lượng đã tăng khánh nhanh. Năm 1985 thực hiện được 510 triệu đồng (theo giá cố định 1982) tăng gần gấp đôi chỉ tiêu mà Đại hội lần III đề ra, trong đó khu vực quốc doanh, hợp doanh và tập thể chiếm 75,5%, sản phẩm giao nộp chiếm 88,4%, tốc độ tăng bình quân trong 3 năm 1983, 1985 là 38,1%, so với tốc độ tăng bình quận trong 3 năm 1980-1982 là 20,1%. Ngành tiểu thủ công nghiệp của quận đã được tặng thưởng Huân chương lao động hạng II.

Tuy có đạt được một số kết quả như trên, nhưng thời gian qua chỉ đạo sản xuất tiểu thủ công nghiệp còn có những tồn tại và thiếu sót: công tác quy hoạch tiến hành chậm, chưa tập trung đầu tư cho ngành điện tử (một trong 3 ngành có khả năng phát triển mạnh ở quận: may, may da, điện tử); một số cơ sở phát triển làm ảnh hưởng môi trường và môi sinh như cao su, thuốc lá, chế biến hải sản… Sản xuất luôn ở tình trạng bấp bênh (vật tư, nguyên liệu Nhà nước chỉ đáp ứng 30% nhu cầu). Việc đầu tư vốn cho sản xuất công nghiệp mới được quan tâm từ đầu năm 1985. Ở một số hợp tác xã năng suất và thu nhập đều thấp hơn tổ hợp, tổ hợp thấp hơn cá thể, cá biệt có tổ hợp còn quan hệ chủ thợ. Chưa khai thác tốt nguồn cán bộ khoa học kỹ thuật để phục vụ cho việc phát triển sản xuất. Đời sống của người lao động chậm cải thiện, hiệu quả kinh tế của một số cơ sở quốc doanh chưa cao. Không có biện pháp khuyến khích sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Mối quan hệ giữa sản xuất với các ngành vật tư, xuất khẩu và các công ty thương nghiệp chưa thật chặt chẽ.

b. Sản xuất ở các khu vực kinh tế mới:

Mặc dù ở xa, việc đi lại khó khăn, điều kiện tự nhiên không thuận lợi nhưng quận đã có nhiều cố gắng thực hiện các nhiệm vụ của Thành phố giao ở Duyên Hải và Đắc Nông.

Nhiệm vụ ở Duyên Hải là trồng cói, lúa, đang triển khai nuôi tôm. Ở Đắc Nông chủ yếu trồng những cây ngắn ngày như sả, đậu, mè phục vụ đời sống, từng bước thực hiện việc trồng cây cao su theo kế hoạch của Thành phố.

Nhìn chung, kết quả thu được ở 2 khu vực này không cao, chi phí ngăn sách lớn, hiệu quả kinh tế kém. Về mặt tổ chức chặm củng cố và ổn định, đối với cán bộ công nhân viên ở những nơi này quận chưa có chế độ khuyến khích thỏa đáng. Chỉ đạo của Quận còn lòng, thiếu kiểm tra giúp đỡ, để xảy ra sai phạm nghiêm trọng trong Ban lãnh đạo trường giáo dục lao động ở Duyên Hải; ngăn chặn không kịp thời việc thường lợi dụng trại dưỡng sinh cưỡng bức lao độngđể tạo thu nhập cho đơn vị trong lúc đời sống trại sinh quá khổ cực, làm hạn chế tác dụng giáo dục. Một số đồng chí lãnh đạo của trường và nông trường Duyên Hải còn năng ở Thành phố hơn ở nông trường. Việc phát triển nuôi trồng ở Duyên Hải cũng như ở Đắc Nông chưa được kết luận khoa học để xác định bước đi thích hợp.

c. Xây dựng cơ bản, Quản lý Nhà đất và Công trình công cộng:

Công tác xây dựng cơ bản trong nhiệm kỳ qua có được quan tâm, một số công trình phục vụ cho hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội lần lượt phát huy tác dụng. Mặt khác, nhờ vận dụng phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, Quận, Phường và nhân dân cùng làm nên đã sửa chữa được một số trường học, đường sá, cống rãnh, xây dựng được hàng chục Nhà văn hoá cấp phường, đặc biệt giải quyết được khâu điện, nước ở khu vực Phường 3, 7, 20, 21 và 22.

Quận đã soát xét lại việc sử dụng nhà do Nhà nước quản lý, giải quyết những trường hợp sử dụng nhà không hợp pháp, từng bước ngăn chặn được tình trạng chiếm nhà bất hợp pháp, tiếp tục cải tạo cho thuê, đưa 250 căn nhà vào diện Nhà nước quản lý.

Việc quản lý các công viên, giữ gìn vệ sinh đường phố đã có những chuyển biến tốt, hoàn thành công trình lát đá chẻ trên các tuyến đường được Thành phố phân cấp.

Tuy nhiên trên lĩnh vực này cũng còn nhiều thiếu sót: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản chưa thật đúng hướng, nguồn vốn đầu tư cho khu vực trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất còn quá ít so với việc xây dựng các chợ, cửa hàng, nhà văn hoá, hội trường… có những công trình chưa nắm bắt được yêu cầu xây dựng nên đã đập sửa, thay đổi thiết kế gây lãng phí. Về nhà ở hiện nay còn bao cấp qúa nặng (cho cả khu vực kinh tế tập thể), thu tiền thuê nhà không đủ cho sửa chữa nhà hư hỏng, nhà cửa xuống cấp nhanh. Trong phân phối có trường hợp cấp nhà không đúng tiêu chuẩn, đối tượng. Chưa xử lý tốt số người chiếm dụng nhà không hợp pháp và không hợp lý.

d. Giao thông vận tải, Bưu điện:

Ngành Vận tải, đã có nhiều cố gng trong việc khắc phục các khó khăn về nhiên liệu, phụ tùng thay thế, bằng cách mở rộng hợp tác kinh tế, trao đổi phụ tùng sửa chữa xăng dầu của chủ hàng tăng cường đầu xe vận tải. Ba năm qua ngành luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra, khối lượng hàng hoá vận chuyển cho các đơn vị của quận mỗi năm một tăng. Các nhiệm vụ duy tu, bảo dưỡng phần diện tích mặt bằng đường được phân cấp quản lý vẫn đảm bảo được yêu cầu trên giao.

Tồn tại khá lớn trong hoạt động này là việc quản lý giá cước vận tải còn lỏng lẻo, đối với các loại xe thô sơ không quản lý được giá cước. Năng lực vận tải chỉ mới khai thác và sử dụng 50%. Các hợp tác xã xe thô sơ chỉ còn mang tính chất hình thức. Những tuyến đường thành phố phân cấp cho quận dù có được duy tu, sửa chữa nhưng vẫn không ngăn được tình trạng xuống cấp hiện nay.

Bưu điện đã bảo đảm được yêu cầu thông tin, liên lạc của các cơ quan đơn vị và nhân dân trong quận. Việc chuyển giao thư từ giữa các cơ quan phường, quận với các cơ quan của Thành phố và trung ương trên địa bàn vẫn còn chậm.

2. Trên mặt trận phân phối lưu thông:

Sau khi có nghị quyết 17 của Thành uỷ về những vấn đề cấp bách trong công tác phân phối lưu thông, quận đã đẩy mạnh phát triển thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, sắp xếp lại tư thương, tích cực đấu tranh quản lý thị trường làm cho thương nghiệp xã hội chủ nghĩa dần dần đóng vai trò quan trọng trên thị trường. Lượng hàng hoá thực hiện được trong năm 1985 đã tăng gấp 2,7 lần năm 1982. Trước tháng 9/1985 các mặt hàng gạo, thịt, cá, rau, nước chấm, đường, bột ngọt đã chiếm từ 75% đến 97% thị trường, tỷ trọng hàng hoá bán lẻ chiếm 50,6% thị trường xã hội. Những hộ kinh doanh thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ loại A và xấp xỉ A được tổ chức lại thành 108 cửa hàng Hợp tác kinh doanh, một bộ phận tiểu thương kinh doanh gạo, thịt, rau, cá, vải được sử dụng làm đại lý cho thương nghiệp xã hội chủ nghĩa.

Ngành lương thực đã có nhiều cố gắng trong việc tổ chức thêm các đại lý và điểm bán phục vụ cho nhu cầu của nhân dân. Tăng cường cải tiến khâu tiếp nhận và phân phối, đồng thời đã tổ chức chà sát lại gạo và chế biến các mặt hàng từ lương thực để phục vụ 2 bữa ăn cho cán bộ công nhân viên và nhân dân lao động.

Ngành dịch vụ quốc doanh cũng đang trên đà phát triển, chất lượng phục vụ được nâng cao, đã có một số mô hình tốt về may đó, uốn tóc.

Từ tháng 9/85 về trước, công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa trong thương nghiệp đã có những kết quả đáng kể. Nhưng từ khi có những sai lầm về đổi tiền và tổng điều chỉnh giá thì vai trò thương nghiệp xã hội chủ nghĩa bị giảm sút và một phần kết quả đạt được trong việc cải tạo thương nghiệp tư nhân đã mất tác dụng.

Trong thời gian qua, quận chưa thật chủ động trong việc đấu tranh kềm giữ giá, ngay trong khu vực quốc doanh còn có công ty nâng giá hàng tuỳ tiện, ghìm hàng, chạy theo kinh doanh những mặt hàng lãi cao, kinh doanh trái ngành nghề, tranh mua tranh bán, giá cả một số mặt hàng của thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã có lúc cao hơn thị trường tư do, xem nhẹ việc phục vụ. Việc quản lý các cửa hàng hợp tác kinh doanh còn nhiều lỏng lẻo, một số cửa hàng hợp doanh còn mang tính hình thức, bị tư thương lợi dụng danh nghĩa Nhà nước để trốn thuế, làm giàu bất chính. Các công ty thương nghiệp chưa tạo được nguồn hàng ổn định và vững chắc, quan hệ với các tỉnh theo từng hợp đồng và từng thời vụ nên thường bị động, chưa khai thác tốt nguồn hàng tiểu thủ công nghiệp tại quận để tạo quỹ hàng hoá phục vụ cho việc trao đổi và đối lưu. Thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã không đủ hàng hoá để bán, một bộ phận khá lớn phục vụ theo giờ hành chính, tư thương thao túng thị trường. Số khá đông mậu dịch viên ở các cửa hàng quốc doanh, hợp tác xã có thái độ cửa quyền hách dịch, thiếu tôn trọng khách hàng. Công tác quản lý tiền hàng đối với khu vực thương nghiệp còn nhiều sơ hở. Còn nhiều công ty, hợp tác xã để mất hàng, mất tiền, tuồn hàng cho tư thương, buôn bán trao tay lấy chênh lệch giá. Thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã chưa phục vụ đúng mức cho phát triển sản xuất và chăm lo đời sống.

Quản lý thị trường có nhiều cố gắng trong việc phát hiện các vụ mua gom buôn lậu, làm hàng giả, kiểm tra kiểm soát số hàng trôi nổi, nhưng cũng thường vắng ở địa bàn các chợ ngoài giờ hành chính và chưa đánh đúng bọn đầu sỏ đầu cơ tích trữ.

Hoạt động của Tài chính, Ngân hàng, Thuế, Giá có nhiều tiến bộ, đã cố gắng phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và phục vụ cho công tác quản lý. Về ngân sách trước đây Thành phố trợ cấp, năm 1985 quận đã tự cân đối được ngân sách, đến nay đã có 14/20 phường cân đối được ngân sách; nhờ cân đối được ngân sách nên quận có chủ động hơn trong việc đầu tư vốn phát triển các hoạt động kinh tế, vân hoá, xã hội. Các hoạt động tín dụng, tiền tệ, thanh toán, tiết kiệm đã góp phần đáng kể trong việc thực hiện các kế hoạch sản xuất, kinh doanh, chủ động và phục vụ tốt cho các nhu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Thuế đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện pháp lệnh thế công thương nghiệp, thu đúng vào những đối tượng chịu thuế, nguồn thu của thuế tăng nhanh, số thuế thu được năm 1985 tăng gấp 3 lần năm 1983. Giá cũng góp phầnvào việc tạo điều kiện cho một số mặt hàng lưu thông ở thị trường nhưng do khung giá quy định của trên có nhiều mặt không hợp lý và chưa phân cấp cụ thể nên hoạt động về giá ở quận còn nhiều khó khăn.

Nhìn chung, các ngành này vốn có cố gắng tháo gỡ một phần những vướng mắc trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu, góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Nhưng ảnh hưởng của cơ chế cũ vẫn còn nặng, đã làm cho vật tư, tiền, hàng quay vòng chậm, tiền mặt nộp vào Ngân hàng ngày càng ít, tọa chi ở cơ sở lớn. Tài chính vẫn chưa sử dụng tốt nguồn vốn để thúc đẩy các ngành hoạt động, quản lý tài chính trong các xí nghiệp chưa tốt, còn nhiều sơ hở trong quản lý tài sản Nhà nước. Ngân hàng làm chưa tốt chức năng quản lý Nhà nước, chưa có phương án đầu tư tập trung cho các ngành mũi nhọn, còn thụ động đầu tư theo nhu cầu phát sinh. Thuế vẫn còn thất thu, chưa thể hiện được chức năng tham gia cải tạo trên các hoạt động kinh doanh thương nghiệp, ăn uống tư nhân tập thể.

Cung ứng hàng xuất khẩu phát triển kha 1nhanh doanh số năm 1985 là 119,8 triệu (tăng 10 lần so năm 1983). Gần đây ngành đã có chú ý đến việc tạo chân hàng tại chỗ và nhập vật tư nguyên liệu phục vụ cho sản xuất nhưng vẫn còn ít. Tác động của xuất nhập khẩu để phát triển nội thương còn yếu. Thiếu sót lớn nhất của ngành trong thời gian qua là khi xây dựng cơ cấu mặt hàng để xuất khẩu chưa đầu tư để khai thác các tiềm năng và khả năng của quận. Cơ cấu mặt hàng để xuất hiện nay chủ yếu là nông, lâm, hải sản, là những mặt hàng quận không có và chân hàng không chắc. Trong kinh doanh còn để tư thương chiếm dụng vốn, còn nặng về những mặt hàng lãi cao. Nhiều đơn vị không có chức năng cũng tranh mua, tranh bán các mặt hàng xuất khẩu.

II. CHĂM LO ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT, TINH THẦN CHO NHÂN DÂN BẰNG VIỆC GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM, ĂN Ở, HỌC HÀNH VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ XÃ HỘI:

Sau khi có Nghị quyết 02/NQ của Thành uỷ, Quận đã có nghị quyết về chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên, lực lượng vũ trang, cán bộ hưu trí, những gia đình chính sách và nhân dân lao động. Nghị quyết đã cu 5thể hoá thêm những nhiệm vụ, mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ Quận 3lần thứ III đề ra và đã được các phường, các ngành triển khai thực hiện được một số kết quả: Giải quyết việc làm cho 21.328 người trong độ tuổi lao động chưa có việc làm theo hướng thu hút vào các khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp, các công trường và các cơ quan Nhà nước. Cán bộ công nhân viên ở các đơn vị của quận cũng như phường trừ khu vực giáo dục đều có thu nhập thêm ngoài mức lương được hưởng tuy mức thu nhập có khác nhau. Quận đã cấp 44 căn nhà bao gồm nhà xây mới và nhà thu hồi, sửa chữa 615 căn cho cán bộ công nhân viên và các đối tượng chính sách. Quận đã cố gắng đảm bảo các mặt hàng thiết yếu như gạo, thịt, cá, rau, nước chấm, chất đốt với giá thấp hơn thị trường cho hơn 45.000 cán bộ công nhân viên và người ăn theo.

Trong tình hình chung còn nhiều khó khăn, làm được một số việc như trên là một sự cố gắng. Nhưng rõ ràng hiện nay chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ III đề ra là “Tập trung sức ổn định và từng bước cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên lao động”. Đặc biệt từ sau khi đổi tiền và tổng điều chỉnh giá đến nay, đời sống của những người hưởng lương và nhân dân lao động, nhất là cán bộ công nhân viên khu vực hành chính, lực lượng vũ trang và cán bộ nghỉ hưu đã giảm sút nghiêm trọng.

Quận có thấy được tình hình trên nhưng chỉ đạo tháo gỡ chậm, còn để cho cơ sở tự lo liệu, thiếu những biện pháp giúp đỡ cụ thể. Ngay những thu nhập chênh lệch quá đáng giữa cán bộ công nhân viên khuvực giáo dục, y tế vẫn không điều chỉnh kịp thời. Khuyết điểm khá lớn trong nhiệm kỳ qua trên lĩnh vực này là số nhà xây mới quá ít, trong lúc yêu cầu của cán bộ công nhân viên khá lớn và cần phải có trên 2.000 căn hộ để giải toả số nhà trên kênh rạch. Ngoài ra đối với số dân từ các vùng kinh tế mới về sống trên các vỉa hè, sạp chợ vẫn chưa có hướng giải quyết tốt. Nhìn chung, việc chỉ đạo của Quận uỷ trên lĩnh vực chăm lo đời sống chưa thật tốt.

Trong tình hình đời sống vật chất còn hiều khó khăn, các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, thương binh xã hội, chữ thập đỏ đã có nhiều cố gắng, từng mặt hoạt động đã đạt được những thành quả đáng kể, góp phần vào việc nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Việc chăm lo sức khỏe, học hành, hướng dẫn quần chúng thực hiện nếp sống mới văn minh, lành mạnh đã có những bước phát triển khá, phong trào hành động cách mạng trong nhân dân tiếp tục chuyển mạnh theo xu thế tốt.

Công tác giáo dục có tiến bộ, nội dung giáo dục truyền thống, đạo đức cách mạng trong các trường phổ thông cơ sở được tích cực thực hiện và bước đầu có chuyển biến trong học sinh. Các hiện tượng vô kỷ luật, bỏ học, quậy phá trong các trường có giảm, ngăn chặn được sự giảm sút về chất lượng học tập văn hoá. Công tác giáo dục kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp đã triển khai khá tốt. Đã giải toả được việc học ca 3. Công tác nuôi dạy trẻ từng bước phát triển và ngày một vững chắc. Bổ túc văn hóa cho cán bộ đảng viên và nhân dân laođộng được quan tâm hơn, gần 100% cán bộ chủ chốt quận và 75% cán bộ chủ chốt phường đã qua chương trình văn hoá cấp II. Đội ngũ giáo viên tiếp tục được kiện toàn. Tuy nhiên, đời sống giáo viên, cô nuôi dạy trẻ và cán bộ công nhân viên ngành giáo dục còn rất nhiều khó khăn; mặt khác việc bồi dưỡng chính trị và giáo dục cho giáo viên cũng chưa tốt nên có một bộ phận giáo viên chưa tập trung vào việc giảng dạy, thậm chí bỏ giờ, bỏ sinh hoạt để kiếm sống do đó chất lượng giảng dạy không bảo đảm, khiến cha mẹ học sinh không an tâm phải cho con học thêm. Các trường lớp xuống cấp nghiêm trọng.

Phong trào văn hoá văn nghệ quần chúng, đặc biệt là các hoạt động văn hoá ở cơ sở phát triển khá mạnh. Các tiết mục tự biên tự diễn đã phản nảnh nhữnghoạt động sinh động phong phú ở cơ sở, có nhiều tiết mục được giải thưởng của Thành phố. Lối sống mới và caon người mới dần dần được hình thành ở các tập thể, các khu phố và tổ dân phố. Quần chúng ngày càng tỏ ra quan tâm chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau, đặc biệt là đối với những gia đình chính sách, các gia đình nghèo khó, neo đơn và các cháu thiếu nhi. Tuy vậy các hoạt động văn hoá văn nghệ chưa được quan tâm đúng múc. Các tệ nạn lạc hậu, mê tín dị đoan còn lén lút hoạt động. Việc sử dụng Nhà truyền thống, Nhà văn hoá để giáo dục nhân dân chưa có tác dụng bao nhiêu.

Các công cụ thông tin rộng rãi như tờ tin, đài truyền thanh quận và hệ thống phát thanh phường đã góp phần phổ biến các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đến cơ sở, giới thiệu được những điển hình tiên tiến.

Các ngành Y tế, Chữ thập đỏ, Thể dục thể thao, bảo vệ bà mẹ và trẻ em đã có nhiều cố gắng trong việc chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. Công tác phòng, trị bệnh, phong trào 5 dứt điểm, phong trào rèn luyện thân thể, đang có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, y tế phường hoạt động chưa đều, chất lượng phục vụ chưa tốt, thuốc trị bệnh thiếu, giá quá cao, nội bộ ban lãnh đạo ngành còn lủng củng, mất đoàn kết, các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho hoạt động chuyên môn còn thiếu, chưa chú trọng đến việc đổi mới. Cơ sở vật chất phục vụ cho việc phát triển phong trào thể dục thể thao thiếu nghiêm trọng, trong khi đó một số cơ sở bị sử dụng bất hợp lý.

Ngành thương binh xã hội đã tích cực phát động phong trào đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ các đồng chí nghỉ hưu, gia đình chính sách và gia đình nghèo khó, neo đơn. Việc xây dựng “Gia đình cách mạng gương mẫu, người công dân kiểu mẫu” có tác dụng tốt, hình thành những tấm gương tiêu biểu trong sinh hoạt đời sống ở từn gkhu phố. Tồn tại hiện nay là chính sách đối với thương binh còn hạn chế, việc giải quyết công ăn việc làm cho thương binh cũng chưa tốt, đối với các đồng chí nghỉ hưu, thương binh, mức trợ cấp quá thấp so với giá sinh hoạt đắt đỏ, nên đời sống ngày càng khó khăn hơn, các tệ nạn xã hội chưa được giải quyết triệt để, thiếu thường xuyên, điều đáng quan tâm là số tệ nạn xã hội phát triển nhiều ở lứa tuổi thanh thiếu niên.

III. TĂNG CƯỜNG AN NINH CHÍNH TRỊ VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI, XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN VỮNG MẠNH, THỰC HIỆN PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội phục vụ đắc lực cho việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của quận, Quận uỷ đã chỉ đạo các ngành Công an, Quân sự và các lực lượng thực hiện các chuyên đề chống chiến tranh tâm lý của địch, chống nhen nhóm phản cách mạng, chống tổ chức móc nối vượt biên, chuyển hoá địa bàn trọng điểm về chính trị, hình sự, địa bàn giáp ranh, truy quét bọn tội phạm hình sự kinh tế theo chỉ thị 28/CT. Nhờ đó, thời gian qua quận đã khám phá kịp thời 6 tổ chức phản cách mạng có ý đồ phá hoại, bắt nhiều tổ chức vượt biên và nhiều tên phản động khác. Đấu tranh khám phá xử lý 70% các vụ xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, làm giảm 40% trọng án và 33% tệ nạn xã hội so nhiệm kỳ trước. Số đơn vị an toàn tăng 11% so với 3 năm 1980-1982, tỷ lệ sai phạm trong ngành công an từ 5% năm 1982 giảm xuống còn 2,2% năm 1985.

Tuy vậy, công tác đấu tranh chống bọn phản cách mạng, bọn tội phạm cũng như công tác phòng ngừa chưa thật tốt, chưa có kế hoạch lâu dài, một số tụ điểm về hình sự giải quyết chậm, xử lý bọn tội phạm theo luật pháp không kịp thời phục vụ cho nhiệm vụ chính trị. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc chưa sâu rộng và liên tục. Ý thức cảnh giác còn thiếu, bảo vệ nội bộ, bảo vệ kinh tế còn nhiều sơ hở. Công tác quản lý giáo dục nội bộ chưa chặt chẽ, tỷ lệ sai phạm còn cao, ý chí chiến đấu, tấn công địch trong một số cán bộ chiến sĩ công an có giảm sút và còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân như ức hiếp quần chúng, cửa quyền, hách dịch, làm phiền hà nhân dân, hối lộ, bao che kẻ xấu… Đấu tranh ngăn chặn và chống tiêu cực nội bộ chưa mạnh dạn còn sợ mất thành tích. Những sai phạm đó đã ảnh hưởng xấu trong nhân dân.

Quán triệt các Nghị quyết 07, Nghị quyết 12, Nghị quyết 24 vủa Bộ Chính trị về đường lối quân sự của Đảng trong tình hình mới. Quận đã chỉ đạo đẩy mạnh công tác quân sự địa phương bằng việc ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trên địa bàn nên thời gian qua đã tạo được những chuyển biến bước đầu về nhận thức tư tưởng và hành động ở một số ngành và phường, đặc biệt đã tác động trực tiếp đến cán bộ chiến sĩ, lực lượng vũ trang trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Ban Chỉ huy quân sự Quận cũng như ở các phường thể hiện được vai trò tham mưu cho cấp uỷ về công tác quân sự địa phương. Công tác tuyển quân 3 năm liền đạt và vượt chỉ tiêu Thành phố giao với chất lượng ngày càng cao, quản lý quân dự bị ngày càng chặt chẽ và nề nếp. Việc tổ chức dân quân tự vệ và tự vệ cơ quan, xí nghiệp có đượccủng cố và có nhiều tiến bộ; hiện nay số dân quân tự vệ ở quận phát triển đến 7,12% dân số. Một số mặt về công tác hậu phương đã được quan tâm giải quyết nên có tác động tốt đến cán bộ chiến sĩ cũng như gia đình có con em tại ngũ. Ngành Quân sự Quận 3 đã dẫn đầu cụm thi đua 3 năm liền.

Bên cạnh những mặt được vẫn còn một số thiếu sót như chất lượng của lực lượng dân quân tự vệ chưa cao; hoạt động dân quân tự vệ còn mang tính hình thức, chưa giáo dục tốt đối với thanh niên về nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc; công tác gọi thanh niên nhập ngũ ở một số nơi còn gò ép, xử lý chưa nghiêm túc số thanh niên đào bỏ ngũ và thanh niên chống lệnh.

Các ngành Kiểm sát, Toà án, Thanh tra, Tư pháp đã có nhiều nỗ lực vươn lên đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, thực hiện tốt chức năng tuyên truyền giáo dục, kiểm tra giám sát việc “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. ba năm qua, ngành kiểm sát, Toà án phối hợp với các cơ quan chức năng điều tra, kiểm tra, khởi tố và đã giải quyết 311 vụ hình sự (tăng gần 30% so với 3 năm trước), 385 vụ dân sự, hơn 1.100 vụ hôn nhân gia đình. Với hơn 2.000 lượt thanh tra, kiểm tra, đã góp phần phòng và chống các hiện tượng tiêu cực trong sản xuất kinh doanh, phục vụ các nhiệm vụ chính trị trong các thời điểm quan trọng. Quần chúng ngày càng hiểu rõ luật pháp hơn và có nhiều chuyển biến trong việc chấp hành pháp luật.

Tồn tại chủ yếu trong lãnh đạo của Quận uỷ là chưa làm quán triệt sâu sắc trong các cấp các ngành về tầm quan trọng của công tác thanh tra kiểm tra, nên một số nơi còn xem nhẹ công tác này, tổ chức hoà giải thanh tra nhân dân có nơi chỉ có trên danh nghĩa. Việc thanh tra, kiểm tra đối với một số vụ tiêu cực trong quản lý kinh tế làm chưa đạt kết quả cao. Hợp đồng giữa các ngành trong khối chưa thật chặt, còn có tính thời vụ thụ động nên chưa phát huy hết sức mạnh tổng hợp của các ngành trong khối.

IV. HỆ THỐNG CHÍNH QUYỀN KHÔNG NGỪNG ĐƯỢC CỦNG CỐ NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN THẮNG LỢI CÁC NHIỆM VỤ KINH TẾ XÃ HỘI ĐỀ RA:

Hội đồng nhân dân Quận cũng như các phường đã được củng cố về nội dung và chất lượng sinh hoạt, các đại biểu của Hội đồng nhân dân phát huy được chức năng của mình, các tổ Hội đồng giữ được chế độ sinh hoạt định kỳ đối với cử tri. Vừa qua hội đồng đã góp phần giải quyết được một số nguyện vọng chính đáng của cử tri đặt ra.

Uỷ ban Nhân dân Quận cũng như các phường ngày càng có kinh nghiệm trong việc tổ chức thực hiện các chỉ thị nghị quyết của Đảng và của chính quyền. Riêng Uỷ ban Nhân dân Quận và các phòng ban của Quận đã được tăng cường đ5i ngũ cán bộ tương đối mạnh, hầu hết các chức danh đều được chọn lựa những đồng chí có năng lực thực tiễn. Những nhiệm vụ kinh tế, xã hội mà Đại hội đề ra đã được chính quyền tổ chức thực hiện khá nghiêm túc, linh hoạt và đạt được kết quả tốt. Chức năng quản lý của chính quyền càng thể hiện rõ nét hơn trong cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ, nhà nước quản lý. Ở một số lĩnh vực, nhất là trong sản xuất quần chúng có phát huy được quyền làm chủ tập thể của mình. Việc xét giải quyết thô từ, khiếu nại, khiếu tố có được chú ý hơn.

Đội ngũ cán bộ phường được quan tâm đào tạo, phần lớn chủ tịch phường được huấn luyện qua các lớp Bí thư, Chủ tịch hoặc các lớp cán bộ kế cận.

Việc liên doanh, liên kết và quan hệ kết nghĩa, hợp tác ngoài các huyện Ô Môn, Nhà Bè trước đây quận còn mở rộng mới quan hệ hợp tác về chính trị, kinh tế, văn hoá với mộ số quận huyện khác. Mối quan hệ này đã góp phần tích cực vào việc giải quyết một số khó khăn cho nhau, đồng thời cũng tăng cường sự hiểu biết, thông cảm, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của nhau. Tuy vậy có nơi hiện nay chỉ còn quan hệ trên danh nghĩa, không đạt được hiệu quả, trong quan hệ giao tiếp có lúc còn lãng phí. Công tác chính quyền còn có những khuyết nhược điểm: một số Nghị quyết của Quận uỷ chậm được cụ thể hoá, Uỷ ban nhân dân Quận có nhiều khả năng và nhạy cảm trong chỉ đạo ứng phó, tác chiến, nhưng còn hạn chế trong chỉ đạo kế hoạch, quy hoạch dài hạn. chỉ đạo đối với công tác quản lý xã hội chưa có hiệu quả cao, chưa phát huy được sức mạnh của các cơ quan, đơn vị, của lực lượng khoa học kỹ thuật trên địa bàn. Tệ hành chính, cửa quyền, móc ngoặc, lãng phí còn khá nặng ở một số cơ quan kinh doanh. Việc phân cấp cho phường chậm, một số ngành chưa quan tâm đúng mức đến việc phân cấp, bộ máy chính quyền còn nặng nề, cồng kềnh.

V. KHÔNG NGỪNG CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN CÁC ĐOÀN THỂ THAO HƯỚNG VỮNG MẠNH NHẰM THÚC ĐẨY PHONG TRÀO HÀNH ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA QUẦN CHÚNG.

Mặc dù tình hình chung còn nhiều khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo của Quận uỷ và các cấp uỷ cơ sở, những người lao động Quận 3 vẫn giữ được truyền thống tốt đẹp của mình, chịu đựng thiếu thốn, khắc phục khó khăn, thực hiện các phong trào hành động cách mạng với nhiều hình thức phong phú, góp phần hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế xã hội mà Đại hội Quận Đảng bộ đã đề ra.

Giai cấp công nhân và những người lao động tiểu thủ công Quận 3 đã vượt qua nhiều khó khăn trong cuộc sống, khắc phục những thiếu thốn về vật tư, nguyên liệu, năng lượng, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật thi đua tăng năng suất cùng với phong trào thi tay nghề, thực hành tiết kiệm, thực hiện 10 điều cam kết với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về trước kế hoạch… đã góp phần đáng kể vào việc hoàn thành kế hoạch sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của quận.

Tổ chức công đoàn đã tích cực đi sâu vào việc kiểm tra thực hiện các chế độ, chính sách đối với công nhân viên chức. Công đoàn cơ sở được củng cố và tăng cường, hiện có 101 tổ chức công đoàn cơ sở trong đó có 24 công đoàn cơ sở mạnh. Số công nhân viên chức đã sinh hoạt trong tổ chức công đoàn đạt 96,83%, tăng 0,9% so với năm 1983. Tổ chức lao động hợp tác ở cơ sở đã được củng cố, có nhiều mặt tiến bộ. Đến nay có 16/20 Hội Lao động hợp tác phường mạnh, chất lượng cũng tăng lên đáng kể.

Lực lượng phụ nữ đã tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, nổi rõ nhất là trên lĩnh vực sản xuất, phân phối lưu thông, công tác hậu phương quân đội, giáo dục tiểu thương và các phong trào người phụ nữ mới, nuôi con khoẻ dạy con ngoan, sinh đẻ có kế hoạch. Nhiều loại hình sinh hoạt thu hút được quần chúng của giới như Câu lạc bộ bạn gái, lớp tìm hiểu hôn nhân gia đình…

Hội phụ nữ quận, các phường và chợ đã có nhiều cố gắng trong việc giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức cách mạng, nhận thức về đường lối chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước. Củng cố và tăng cường cán bộ cho hội từ Quận đến các tiểu tổ, đưa số tổ tiên tiến từ 530 tổ năm 1983 lên 718 tổ vào cuối năm 1985 , 18/20 phường có phong trào phụ nữ tiên tiến (tăng 3 phường so năm 1983). Ba năm qua Hội phát triển được 8860 hội viên, Số hội viên phụ nữ phát triển đến cuối năm 1985 là 37.260, chiếm tỷ lệ 92,2%.

Mặt trận Tổ quốc đã có nhiều tiến bộ trong việc tập họp, giáo dục động viên các tầng lớp quần chúng, các tôn giáo, dân tộc tham gia vào các phong trào cung của quận với nhiều nội dung khá phong phú, đã gắn được việc động viên nghĩa vụ với giải quyết quyền lợi thiết thực của quần chúng, đề cao tinh thần tương trợ, giúp đỡ nhau, vượt qua những khó khăn và hoàn thành nhiệm vụ của địa phương. Mặt trận Tổ quốc phát huy được chức năng trung tâm phối hợp hành động, đã có phong trào tốt như phong trào vì tuyến đầu tổ quốc, vận động mua công trái, công trình thuỷ điện Trị An, giúp đỡ đồng bào Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên.

Phụ lão cũng đã nhiệt tình tham gia vào các hoạt động xã hội theo sức lực và tuổi tác của mình. Các hoạt động giáo dục thế hệ trẻ, chính sách hậu phương quân đội, xây dựng quỹ bảo thọ, chăm sóc sức khoẻ người già đã thực hiện có kết quả tốt. Số hội viên phụ lão đến năm 1985 là 22.259 chiếm 94,5%.

Công tác bảo vệ và chăm sóc thiếu niên nhi đồng đã có những chuyển biến tích cực, phong trào toàn Đảng, toàn dân chăm sóc thiếu niên nhi đồng đã có tác dụng thiết thực và thúc đẩy hoạt động chăm sóc thiếu niên nhi đồng ở quận ngày càng tốt hơn.

Trong các phong trào hành động cách mạng của quần chúng đã xuất hiện nhiều tập thể và cá nhân có thành tích nổi bật. Ba năm 1983-1985 đã có 14 đơn vịnhận Huân chương lao động, 22 đơn vị nhận bằng khen của Hội đồng Bộ trưởng, có 7 lượt chiến sĩ thi đua, 10.920 lao động tiên tiến.

Tóm lại, nhiệm kỳ qua quần chúng các tầng lớp, các giới đã góp phần đáng kể vào việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn. Bộ phận lớn quần chúng vẫn vững vàng trước những khó khăn về kinh tế, về cuộc sống và đặt niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Tuy vậy, công tác vận động quần chúng của Đảng bộ vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Lực lượng quần chúng có tổ chức chưa mạnh, tính tự giác của phong trào chưa cao. Mặt trận và các đoàn thể chưa thật sự là chỗ dựa để phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng. Quyền làm chủ của quần chúng ở một số nơi còn vi phạm nghiêm trọng. Việc phát triển vào tổ chức chưa bắt nguồn từ thực tiễn đấu tranh cách mạng nên chất lượng của đoàn thể chưa cao, có nơi đoàn thể hoạt động theo kiểu hành chính. Mặt khác, còn có những cấp uỷ cơ sở chưa quan tâm đúng mức đến công tác quần chúng, chưa thấy đây là công tác đặc biệt quan trọng trong điều kiện Đảng cầm quyền. Trong cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, chính quyền quản lý thì nhân tố nhân dân làm chủ chưa được chú ý phát huy, có lúc còn bị coi nhẹ. Nhiều Công đoàn cơ sở, đặc biệt ở các khu vực hành chính, hoạt động còn hình thức, chưa tạo được sự gắn bó giữa đoàn viên với tổ chức công đoàn. Hội viên phụ nữ thực chất hoạt động còn ít, tiểu tổ phụ nữ ít sinh hoạt, một số nơi không sinh hoạt. Công tác tập hợp, vận động giới trí thức và khoa học kỹ thuật chưa tốt, không phát huy được chất xám, tiềm năng to lớn trên địa bàn. Chỉ đạo của Quận uỷ và các cấp uỷ cơ sở nhằm tạo ra sự gắn bó giữa Uỷ Ban Thiếu niên nhi đồng với đoàn thể, các ngành chưa tốt; thiếu niên hư hỏng còn nhiều; có một bộ phận thiếu niên không thích sinh hoạt trong tổ chức của mình.

VI. KHÔNG NGỪNG ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, TỔ CHỨC VÀ GIỮ GÌN KỶ LUẬT NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC LĐÃNH ĐẠO VÀ TÍNH CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG, XÂY DỰNG ĐOÀN THANH NIÊN NGÀY CÀNG VỮNG MẠNH

Thấy rõ được những mặt yếu của cán bộ Đảng viên về lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như những kiến thức về quản lý kinh tế, xã hội, nên nhiệm kỳ qua Quận uỷ đã cử cán bộ đi học ở nhiều lớp lý luận tập trung và tại chức, đặc biệt đã tổ chức tốt việc học tập Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ V, các nghị quyết của Ban chấp hành TW Đảng và các Nghị quyết của Thành uỷ nhằm trang bị thêm những kiến thức về đường lối chung, đường lối kinh tế và nhất là những quan điểm kinh tế trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cải tạo và xây dựng. Trong 3 năm có 211 đồng chí được học các lớp đào tạo, bồi dưỡng do Thành phố và trung ương tổ chức. Trường Đảng Quận liên tục mở các lớp bồi dưỡng ngắn ngày cho 620 cán bộ đảng viên học các chương trình cơ sở, sơ cấp và quản lý kinh tế. Về văn hoá, Quận đã hoàn thành phổ cập cấp 2 cho cán bộ chủ chốt quận và đang tiếp tục hoàn thành chương trình này cho một số cán bộ chủ chốt ở phường. Số đảng viên trong quận có trình độ lý luận trung cấp chiếm tỷ lệ 29% và đảng viên có trình độ văn hoá từ cấp 3 trở lên chiếm 65%.

Hầu hết các cấp uỷ Đảng cơ sở, tuy mức độ có khác nhau, đều đã thể hiện được bước trưởng thành về nhận thức, về sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ, về năng lực tổ chức thực hiện và kết quả cụ thể của công tác.

Tuy vậy, công tác giáo dục chính trị tư tưởng vẫn còn ở dạng chung chung chưa sát với thực tế. Việc tổ chức học tập lý luận, nghiên cứu các chỉ thị nghị quyết, các báo cáo tình hình chính trị, thời sự chưa gắn chặt với thực tiễn công tác cụ thể địa phương. Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, giáo dục truyền thống chưa thật sâu nhuyễn đến từng loại cơ sở Đảng và cán bộ Đảng viên, chưa làm cho cán bộ đảng viên đặc biệt là các đồng chí nghỉ hưu có những thông tin cần thiết về kinh tế xã hội để các đồng chí tham gia đóng góp cho địa phương., giáo dục quần chúng và hướng dẫn dư luận. Do đó trong một bộ phận đảng viên có hiện tượng giảm sút nhiệt tình cách mạng, sa sút phẩm chất, một số khác thì lại công tác theo lối hành chính hoá, tác phong công chức, nhất là có một số đã lợi dụng sự non yếu và sơ hở trong công tác quản lý để vun vén tư lợi. Sinh hoạt Đảng ở một số cơ sở Đảng hiện nay cũng hành chính hoá, không thể hiện được tính chất lãnh đạo, tính chiến đấu và giáo dục. Từ khi có những sai lầm trong tổ chức thực hiện nghị quyết hội nghị Ban chấp hành TW lần thứ 8, tình cảm, tư tưởng, lòng tin ở một số cán bộ Đảng viên và quần chúng giảm sút rõ rệt.

Ba năm qua Quận đã kết nạp được 617 đảng viên mới trong khối quận, phường là 336 đồng chí, tuổi đời bình quận của số đảng viên mới kết nạp là 34 tuổi, thành phần công nhân chiếm 5%, phần lớn số đảng viên mới kết nạp phát huy được tác dụng tốt.

Thông qua việc xây dựng các cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, chất lượng hoạt động của các cơ sở Đảng tăng lên. Tổng số cơ sở Đảng được Thành uỷ xét công nhận vững mạnh trong đợt 1983-1984 là 24 cơ sở, tăng hơn đợt xét 1982 là 11 cơ sở.

Công tác cán bộ cũng đang có nhiều chuyển biến, đã sắp xếp, hoán chuyển, bố trí lại và đề bạt 154 lượt cán bộ chủ chốt như Bí thư, Chủ tịch phường, trưởng phó các ban ngành, đoàn thể, công ty, xí nghiệp. Trong sắp xếp bố trí cán bộ đã thực sự quan tâm và mạnh dạn đề bạt một số cán bộ trẻ, nữ có phẩm chất và năng lực, đa số được bổ nhiệm đều phát huy tốt, góp phần nhất định vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị.

Công tác quy hoạch cũng được quan tâm hơn, mạnh dạn đưa đi đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kế cận cho các chức danh ở quận cũng như phường.

Đối với cán bộ đã thực hiện đúng chính sách quy định, không định kiến, hẹp hòi, không tình cảm cục bộ trong việc xem xét đánh giá, cất nhắc đề bạt cán bộ, nhất là chú ý xem xét cân nhắc cả phẩm chất đạo đức và năng lực cán bộ. Đối với các đồng chí nghỉ hưu ngoài những chế độ chung, Quận đã có nhiều cố gắng trong việc chăm lo đời sống vật chất tinh thần.

Tuy nhiên, về sắp xếp bố trí cán bộ và công tác phát triển Đảng, công tác quy hoạch chúng ta còn những thiếu sót. So với các chỉ tiêu nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ 3 thì công tác phát triển đảng viên 3 năm qua vẫn còn chậm, chưa tập trung vào các khu vực trọng điểm và chưa đáp ứng kịp yêu cầu lãnh đạo của Đảng bộ. Cho đến nay các HTX sản xuất, các cửa hàng thương nghiệp, cửa hàng hợp tác kinh doanh, khu vực trường học, mẫu giáo đảng viên còn ít. ở phường cán bộ phụ trách Đoàn thanh niên, Hội lao động hợp tác và các trạm y tế, đa số chưa phải là đảng viên.

Mặt khác, cơ cấu thành phần của đội ngũ đảng viên mới kết nạp chưa được hợp lý, tỷ lệ đảng viên mới là công nhân chỉ chiếm % tổng số đảng viên mới phát triển, thành phần tiểu tư sản học sinh chiếm số đông (2%); tuổi đời bình quân đảng viên mới phát triển còn cao (34 tuổi), nhất là ở các cơ quan TW và Thành phố. Sở dĩ có tình hình trên là do Quận chưa có những biện pháp cụ thể để tất cả cơ sở Đảng quan tâm đúng mức trong việc tạo nguồn và phát triển Đảng. Năm 1985, có 40% cơ sở Đảng không phát triển được đảng viên mới. Ở một số nơi có phát triển, cũng còn hiện tượng chưa bám sát yêu cầu để tăng cường bồi dưỡng, mà còn đưa vào khả năng sẵn có, nên chưa tập trung phát triển vào số cơ sở cần thiết, còn để tình trạng dồn thúc vào cuối năm, ít nhiều đã ảnh hưởng đến chất lượng.

Về công tác bố trí sắp xếp cán bộ, còn tình trạng thiếu kiên quyết và không kịp thời bố trí lại một số trường hợp nên không phát huy được tác dụng, để kéo dài tình trạng chồng chéo, gây cản ngại cho công tác. Ngoài ra cũng còn một số trường hợp cán bộ được bố trí chưa phù hợp hoặc một số cán bộ phải chuyển công tác 2, 3 lần khó phát huy tác dụng.

Công tác quy hoạch cán bộ triển khai chậm, chưa làm cho những đồng chí được quy hoạch thấy rõ trách nhiệm để không ngừng học hỏi, phấn đấu vươn lên đảm nhận nhiệm vụ khi được giao.

Song song với các tồn tại trên, chất lượng lãnh đạo ở một số cơ sở Đảng vẫn chưa tốt, còn có cơ sở Đảng chưa thực sự làm công tác Đảng mà chỉ làm một số công tác Đảng vụ. Hiện nay mặt yếu phổ biến của các cơ sở Đảng là công tác giáo dục quản lý đảng viên, lãnh đạo công tác vận động quần chúng và tổ chức các phong trào hành động cách mạng.

Đối với các cơ sở Đảng của Thành phố và TW trực thuộc, việc theo dõi chỉ đạo chưa thật chặt, chưa giúp được các đơn vị này trong việc lãnh đạo đảng viên thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Khuyết điểm này có từ nhiệm kỳ trước đến nay vẫn chưa sửa được.

Cùng với việc đẩy mạnh công tác tư tưởng và tổ chức, việc giữ gìn kỷ luật của Đảng đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, tính chiến đấu của Đảng bộ và đã góp phần đáng kể vào việc xử lý kịp thời những sai phạm và các vụ việc vi phạm điều lệ, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực trong nội bộ Đảng. Nhờ vậy mà số đảng viên sai phạm đã xử lý trong năm 1984 chiếm 1,9% đến năm 1985 giảm xuống còn 1,5% và 6 tháng đầu năm tiếp tục giảm. Trong 180 vụ được xét xử trong suốt nhiệm kỳ thì vi phạm về chính sách, pháp luật dưới các hình thức: tham ô, móc ngoặc, làm ăn phi pháp, hối lộ chiếm 35%, vi phạm về sinh hoạt chiếm 32,2%, nhưng thường những vi phạm về sinh hoạt hay dẫn đến suy thoái về chính trị và lập trường quan điểm; đã khai trừ 30 đồng chí. Hầu hết các vụ xét xử đều đúng mức và đạt được yêu cầu giáo dục.

Bên cạnh việc tăng cường kiểm tra các cơ sở Đảng và đảng viên chấp hành điều lệ, Quận còn đẩy mạnh việc kiểm tra thực hiện các quyết địnhvà xây dựng 4 nền nếp giữ gìn kỷ luật của Đảng, phần lớn các cơ sở Đảng đã có lập sổ tu dưỡng rèn luyện cho từng đảng viên. Công tác kiểm tra thực hiện và đã phát huy được hiệu quả ở một số cơ sở Đảng khối phường.

Tuy nhiên, về xây dựng 4 nền nếp gĩ gìn kỷ luật của Đảng còn khoảng 30% số cơ sở chưa thực hiện nghiêm túc, chưa đạt yêu cầu về quản lý tư tưởng, quản lý sinh hoạt. Về kiểm tra các quyết định, Quận uỷ cũng như các cấp uỷ cơ sở chưa quan tâm đúng mức trong chỉ đạo thực hiện, chưa làm tốt việc chỉ đạo thực hiện các chương trình kiểm tra. Kiểm tra việc thực hiện các quyết định và giữ gìn 4 nền nếp kỷ luật của Đảng chưa trở thành đòi hỏi thường xuyên của mỗi cơ sở Đảng. Trong kiểm tra vẫn chưa làm tốt việc kiểm tra phát hiện mà thường đi vào việc kiểm tra xử lý.

Đoàn thành niên cộng sản ngày càng thể hiện được vai trò xung kích trên các lĩnh vực sản xuất, phân phối lưu thông, tham gia giữ gìn an ninh trật tự, xây dựng quốc phòng. Đoàn đã thực hiện có kết quả phong trào xung kích làm chủ tập thể, thực hiện tốt cuộc hành quân theo bước chân những người anh hùng và hành quân theo chân Bác. Các loại hình hoạt động trên đều có tác dụng tốt đến việc giáo dục, rèn luyện lứa tuổi thanh thiếu niên. Lực lượng Đoàn, Đội khưng ngừng được củng cố và phát triển. Trong 3 năm kết nạp được 8.300đoàn viên, nâng số đoàn viên hiện nay lên 26,9% tổng số thanh niên, giới thiệu 1.205 đoàn viên ưu tú cho Đảng (đã kết nạp vào Đảng được 411 đồng chí); 76% thanh niên được tập hợp vào Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam; kết nạp 7.900 em vào Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh.

Phong trào Thanh thiếu niên Quận 3, những năm qua đã chuyển động mạnh, xứng đáng là đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua 3 năm liền 1983, 1985 ở thành phố. Tuy nhiên, do những tác động về cuộc sống và việc trang bị lý tưởng cộng sản cho thanh niên còn hạn chế nên đã dẫn đến tình trạng có một bộ phận đoàn viên yếu kém, không thể hiện được tính xung kích của Đoàn, một bộ phận thanh niên có thái độ bàng quan trước những khó khăn chung của đất nước, số khác vừa hết tuổi Đội vài ba năm do công tác giáo dục và tự rèn luyện kém đã trở thành tội phạm (trộm cắp, xì ke, mãi dâm…). Có những nơi tổ chức Đoàn chưa thật sự đại diện quyền làm chủ tập thể, là chỗ dựa chủ yếu của thanh niên, từ đó dẫn đến tình trạng thanh niên không muốn vào Đoàn. Hơn nữa đội ngũ cán bộ đoàn chưa được quan tâm đào tạo bồi dưỡng đúng mức nên chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của phong trào hiện nay.

BA NĂM QUA THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẠI HỘI ĐÃ NÓI LÊN MỘT SỐ ƯU KHUYẾT ĐIỂM CHỦ YẾU VÀ NGUYÊN NHÂN NHƯ SAU:

A. ƯU ĐIỂM CHỦ YẾU VÀ NGUYÊN NHÂN:

1. Trong điều kiện của một địa bàn hành chính cư trú, ít cơ sở sản xuất, đặc biệt là tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về vật tư, nguyên liệu, năng lượng, tiền mặt, Quận vẫn ra sức phấn đấu hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu về sản xuất thủ công nghiệp, và đưa tốc độ phát triển tăng nhanh. Sản xuất khu vực quốc doanh, hợp doanh dần dần chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở Quận, hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa không ngừng lớn mạnh về quy mô và tổ chức, những mặt hành thiết yếu phục vụ 2 bữa ăn chiếm tỷ trọng khá cao ở thị trường. Quận đã tự cân đối được ngân sách, chủ động được nguồn vốn cho việc xây dựng và phát triển địa phương.

2. Giữ vững được an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tương đối phức tạp, xây dựng được phong trào quần chúng bảo vệ tổ quốc rộng khắp. Quận uỷ đã có nghị quyết 134/NQ về xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh và đã triển khai thực hiện.

3. Phong trào văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, chăm sóc sức khoẻ, chăm lo gia đình chính sách, xây dựng nếp sống mới, sự nghiệp giáo dục, chữ thập đỏ đều có bước phát triển mới rõ nét.

4. Tổ chức Đảng, Chính quyền và các đoàn thể ngày được kiện toàn, đội ngũ cán bộ, đảng viên được trang bị thêm những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin, về đườn glối chính sách của Đảng và những kiến thức về quản lý kinh tế, xã hội; đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực, có kiến thức ngày một đông, số đảng viên phát triển mới đã phát huy được tác dụng.

Có được những ưu điểm trên xuất phát từ những nguyên nhân:

Một là, phát huy được bản chất tốt đẹp của giai cấp công nhân, của những người lao động và truyền thống cách mạng của quần chúng; biết tin dựa vào quần chúng, coi lợi ích quần chúng và lợi ích của Đảng là một thể thống nhất, từ đó phát huy được sức mạnh của quần chúng trong thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Hai là, có sự chỉ đạo trực tiếp của Thành uỷ và Uỷ ban Nhân dân Thành phố, sự giúp đỡ của các ngành, Sở của Thành phồ, một số đơn vị có liên doanh liên kết. Đặc biệt là những chỉ đạo kịp thời của Thường trực Thành uỷ và Thường trực Uỷ ban.

Ba là, nội bộ đoàn kết thống nhất từ trong Ban Thường vụ, Ban chấp hành đến Uỷ ban và các Ngành, các phường, đảm bảo thống nhất ý chí hành động, nghiêm túc thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Trong lãnh đạo biết nắm vững những khâu trọng tâm, trọng điểm, dám nghĩ dám làm và dám chịu trách nhiệm. Mặt khác, Đảng bộ đã chấp hành nghiêm chỉnh và vận dụng một cách sáng tạo những chỉ thị, nghị quyết của TW mà trực tiếp là của Thành uỷ và UBND Thành phố. Trong những trường hợp khó khăn vẫn tìm mọi cách để thực hiện bằng được nghị quyết của cấp trên phù hợp với điều kiện thực tế của Quận.

Bốn là, đội ngũ cán bộ ngày càng vững vàng và có kiênh nghiệm, nhất là cán bộ ở cơ sở trưởng thành nhanh chóng có nhiều năng động, không bó tay trước khó khăn, biết tin dựa vào quần chúng, luôn có tinh thần phấn đấu thực hiện các nhiệm vụ quận giao.

B. NHỮNG KHUYẾT ĐIỂM CHỦ YẾU VÀ NGUYÊN NHÂN:

1. Việc hăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên, lực lượng vũ trang, các đồng chí nghỉ hưu, các gia đình chính sách và quần chúng lao động chưa tốt. Do tác động của những sai lầm trong thực hiện Nghị quyết 8, từ đầu năm 1986 đến nay tình hình giá cả thị trường tăng đột biến làm cho đời sống của những người ăn lương và đặc biệt là đội ngũ giáo viên, cán bộ nghỉ hưu trở nên căng thẳng gay gắt, Quận vẫn còn lúng túng chưa có cách tháo gỡ. Chưa kiên quyết điều chỉnh thu nhập những nơi thu nhập quá cao, chưa xử lý nghiêm khắc đối với những kẻ làm giàu bất chính.

2. Quan điểm phát triển kinh tế, trước hết là phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nội thương, xuất khẩu chưa thể hiện được tính chất “làm ăn lớn”, chưa xây dựng những mô hình đầu đàn, mũi nhọn trong các ngành sản xuất.

3. Còn mắc bệnh quan liêu không sát cơ sở, chỉ đạo thiếu kiểm tra đôn đốc, có những nghị quyết thực hiện chưa đến nơi đến chốn, không kịp thời sơ kết rút kinh nghiệm, cửa quyền, xa rời quần chúng, giấy tờ phiền hà tổ chức cồng kềnh.

4. Công tác chỉ đạo điều hành và tổ chức thực hiện chưa tốt, hội họp còn nhiều nhưng hiệu quả ít; một số vấn đề không bàn luận đến nơi đến chốn có kết luận dứt khoát để đảm bảo tính thống nhất và nguyên tắc dân chủ trong Đảng.

5.Tinh thần cảnh giác cách mạng của một bộ phận cán bộ đảng viên trước âm mưu của kẻ thù có bị giảm sút, việc giáo dục nâng cao cảnh giác trong nội bộ Đảng và quần chúng về kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt, vạch trần âm mưu thủ đoạn của địch cũng chưa tốt. Lực lượng dân quân tự vệ, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc mới có về số lượng, chất lượng còn kém.

6. Kỷ cương của Đảng trên một số mặt còn buông lỏng, chất lượng sinh hoạt Đảng còn thấp. Thực hiện tự phê bình và phê bình thiếu nề nếp. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa làm cho cán bộ đảng viên nhận thức đúng đắn tình hình nhiệm vụ. Quy hoạch cán bộ tiến hành chậm, phát triển Đảng chưa tập trung vào những nơi có yêu cầu cần thiết. Công tác vận động quần chúng chưa thật tốt, chưa tạo điều kiện đảm bảo cho quần chúng phát huy quyền làm chủ tập thể. Một số nơi vi phạm quyền làm chủ Tập thể của quần chúng khá nghiêm trọng. Lòng tin của quần chúng đối với Đảng giảm sút, có tình trạng nghi ngờ thiếu tin vào một số chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.

Có những khuyết điểm trên là do:

Một là, trình độ và năng lực lãnh đạo về quản lý kinh tế, quản lý xã hội của Quận uỷ và Uỷ ban Quận cũng như các ngành và phường còn hạn chế. Chưa nhận thức đầy đủ tính chất gay go phức tạp của nền kinh tế còn 5 thành phần trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, nên vận dụng có mặt chưa phù hợp, thậm chí có những quyết định chưa đầy đủ cơ sở khoa học, còn nóng vội, chủ quan nên không thực hiện được hoặc thực hiện kém hiệu quả, gây lãng phí.

Hai là, lãnh đạo thường bị cuốn vào những vấn đề ứng phó tác chiến trước mắt, thiếu thời gian để đầu tư suy nghĩ vào những vấn đề cơ bản có tính cách lâu dài, như xây dựng quy hoạch tổng thể, quy hoạch sản xuất, quy hoạch các khu vực văn hoá…

Ba là, thành phần đảng viên công nhân của Đảng bộ quá ít (17,54%) đảng viên thuộc thành phần nông dân và tiểu tư sản quá cao (70,83%). Trong các cấp uỷ thành phần nông dân và tiểu tư sản còn chiếm tỷ lệ khá cao tuy có rất nhiều đồng chí đã được rèn luyện, thử thách, thường xuyên học tập trau dồi lập trường giai cấp công nhân, nhưng trong lãnh đạo, chỉ đạo không tránh khỏi ảnh hưởng của tư tưởng tiểu tư sản, nêng dân nên có lúc chủ quan, có lúc chần chừ, trì trệ.

Bốn là, Quận uỷ, Uỷ ban và các ngành chưa có quy chế làm việc hoàn chỉnh, nên mối quan hệ làm việc giữa Quận uỷ, Uỷ ban cũng như các ngành có lúc còn chồng chéo, bao biện, dẫm chân, có lúc trông chờ, ỷ lại. Các đồng chí trong Thường vụ, trong cấp uỷ cũng như ở các ngành không dành nhiều thời gian đi cơ sở để giải quyết kịp thời những yêu cầu của cơ sở, tìm hiểu tâm tư tình cảm của quần chúng, soi rọi lại các chủ trương chính sách của Đảng.

Năm là, chưa phát huy đúng mức vai trò tham mưu của các ban Đảng và các ngành tham mưu tổng hợp. Ngược lại, các cơ quan tham mưu cũng chưa đủ sức phục vụ tốt yêu cầu của cấp uỷ nên có lúc Thường trực Quận uỷ, Thường trực Uỷ ban làm thay cho các cơ quan tham mưu, mất nhiều thời gian mà hiệu quả không cao.

Tóm lại, nhiệm kỳ qua có làm được một số việc tốt, nhưng cũng còn những khuyết điểm thiếu sót. Từ những nguyên nhân đã phân tích, với phong cách làm việc mới, đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, Đảng bộ chúng ta ra sức phát huy những ưu điểm và kiên quyết khắc phục những thiếu sót, phấn đấu đưa Quận 3 chuyển biến mạnh mẽ và toàn diện hơn trong thời gian tới.

PHẦN HAI

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU BIỆN PHÁP CỤ THỂ TỪ NAY ĐỐN NĂM 1988 VÀ NĂM 1990

Trong những năm tới, Quận 3 vẫn là một quận hành chính cư trú, địa bàn trọng điểm bảo vệ, có sản xuất tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, xuất khẩu, văn hoá phát triển. Từ đặc điểm đó, mô hình xây dựng Quận 3 trong thời gian tới là một quận hành chính, văn hoá, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, xuất khẩu. Thế mạnh sản xuất là may, may da, điện tử, thủ công mỹ nghệ, chế biến lương thực, thực phẩm.

Căn cứ vào đặc điểm mô hình, cơ cấu kinh tế và thế mạnh sản xuất; căn cứ vào những kết quả đạt được vừa qua và việc thực hiện các nghị quyết mới đây của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Thành uỷ, dựa vào quy hoạch tổng thể của Quận và nghị quyết xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh của Quận uỷ, Đảng bộ Quận 3 đề ra phương hướng, mục tiêu và các biện pháp thực hiện chủ yếu từ nay đến năm 1988-1990 như sau:

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CHỦ YẾU CỦA QUẬN 3:

1. Đẩy mạnh phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập trung cho hàng xuất khẩu, nâng cao sản lượng hàng tiêu dùng nội địa, theo hướng nâng cao năng suất chất lượng và hiệu quả. Trên cơ sở quy hoạch lại sản xuất mà đầu tư chiều sâu, trang bị mới, kết hợp tận dụng công suất máy móc, tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nhằm khai thác các tiềm năng, nhất là tay nghề, khoa học kỹ thuật, phục vụ cho phát triển sản xuất. Song song đó, tổ chức lại sản xuất trên địa bàn theo ngành kinh tế kỹ thuật, nhóm sản phẩm, theo hướng tập thể hoá và chuyên môn hoá, khuyến khích đúng mức các thành phần kinh tế, đưa dần sản xuất quốc doanh lên chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong toàn ngành và ở các ngành hàng thế mạnh của Quận.

2. Lập lại trật tự trên mặt trận phân phối lưu thông, xây dựng chân hàng, nguồn hàng ổn định, tạo ra quỹ hàng hoá đê 3phục vụ cho sản xuất và đời sống nhân dân, đấu tranh quản lý thị trường có hiệu quả, nhất là về giá cả. Quy hoạch lại mạng lưới thương nghiệp dịch vụ trên địa bàn, nâng cao hiệu quả hoạt động, từng bước chiếm lĩnh và làm chủ trên thị trường xã hội. Đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết kinh tế và sản xuất chế biến hàng xuất khẩu tại quận.

Tiếp tục củng cố và tăng cường cải tạo công thương nghiệp tư doanh.

3. Trên cơ sở sản xuất phát triển và đẩy mạnh hoạt động các ngành thương nghiệp, dịch vụ, từng bước ổn định đời sống nhân dân lao động, cán bộ công nhân viên, lực lượng vũ trang trên các mặt: giải quyết việc làm, ăn ở, đi lại, học hành, chữa bệnh…

4. Từng bước xây dựng quận có bộ mặt văn hóa phát triển, giải uqyết các nhu cầu văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao chăm lo gia đình chính sách, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, kiên quyết xoá bỏ tàn dư văn hoá cũ, chống văn hoá đồi truỵ, phản động.

5. Bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội bằng sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản, xây dựng lực lượng công an vững mạnh toàn diện. Phát động mạnh mẽ phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, xây dựng quốc phòng toàn dân vững mạnh, chống phá hoại, gây rối và bạo loạn, chủ động và kiên quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống chiến tranh xâm lược. Tăng cường giáo dục pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nếp sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.

6. Nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và tính chiến đấu của Đảng bộ, phát huy hiệu lực quản lý kinh tế, xã hội của chính quyền, bảo đảm phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tạo ra phong trào hành động cách mạng tự giác sâu rộng, liên tục trong quần chúng.

NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU CỤ THỂ VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN CHỦ YẾU:

Từ nay đến năm 1988 và năm 1990, Đảng bộ Quận 3 ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi 9 nhiệm vụ cụ thể như sau:

1. Phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp:

Trên cơ sở quy hoạch lại sản xuất trên địa bàn tăng cường đầu tư, trang thiết bị máy móc, đồng thời khai thác sử dụng hết công suất thiết bị đã có, khai thác mọi tiềm năng khác, chú ý tay nghề, ứng dụng khoa học kỹ thuật, đẩy nhanh tốc độ sản xuất, làm ra nhiều sản phẩm, nhất là hàng xuất khẩu và hàng tiêu dùng nội địa có chất lượng tốt. Hướng tập trung đầu tư là các ngành may, may da, điện tử, thủ công mỹ nghệ và chế biến lương thực thực phẩm. Trọng điểm đầu tư là ba ngành: may, may da, điện tử, chú ý xây dựng xí nghiệp quốc doanh đầu đàn cho ngành may, may da, điện tử, cơ khí. Trên cơ sở quy hoạch đó mà phát triển các ngành khác một cách hợp lý và đưa vào quản lý theo ngành kinh tế kỹ thuật.

Phát triển xí nghiệp quốc doanh, chủ yếu là loại vừa và nhỏ với trang thiết bị hiện đại. Nâng cao chất lượng các HTX và tổ sản xuất. Tổ chức cho quần chúng sản xuất theo quyết định 34/QĐ-UB của Uỷ ban Nhân dân Thành phố, chú ý các ngành nghề truyền thống đồng thời giúp đỡ các xí nghiệp đời sống hoạt động có hiệu quả, quản lý chặt chẽ các xí nghiệp công tư hợp doanh.

Tốc độ phát triển bình quân hàng năm tăng 20%. Chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng:

- Năm 1986: 650 triệu đồng

- Năm 1987: 780 triệu đồng

- Năm 1988: 930 triệu đồng

- Năm 1990: 1.346 triệu đồng

(Tính theo giá cố định 1982).

Tỷ trọng hàng xuất khẩu trong toàn ngành từ 22%năm 1986, mỗi năm sau tăng 2% và đến năm 1990 chiếm 30% giá trị tổng sản lượng toàn ngành. Từ nay đến cuối năm 1988, vận động được 350 hộ sản xuất theo quyết định 34-QĐ/UB của UBND Thành phố. Mỗi năm thu hút 1.000 lao động vào các cơ sở sản xuất, đến năm 1990 lực lượng lao động toàn ngành tăng lên 15.000 người. Tỷ trọng quốc doanh và tập thể trong toàn ngành chiếm 75%. Tỷ lệ giao nộp và bán sản phẩm cho Nhà nước là 80% trên giá trị tổng sản lượng.

Để đạt được kết quả đó, mỗi năm quận đầu tư 24% ngân sách cho sản xuất. Các ngành thương nghiệp, vật tư, xuất khẩu cung ứng 40% vật tư nguyên liệu cho sản xuất, qua liên doanh liên kết và hợp tác kinh tế bảo đảm 30% vật tư nguyên liệu, còn lại 30% là từ nguồn vật tư nhà nước. Các ngành kinh tế tổng hợp và các ngành công nghiệp khác phải tập trung phục vụ sản xuất. Các xí nghiệp, HTX, cơ sở sản xuất phải phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá các quy trình công nghệ, quy trình sản xuất. Các xí nghiệp, HTX, cơ sở sản xuất phải phát huy sáng kiến, cải tiến ky 4thuật, hợp lý hoá các quy trìnhcông nghệ, quy trình sản xuất. Sử dụng điện năng hợp lý, tiết kiệm, tận dụng các nguồn năng lượng khác. Chăm lo đời sống người lao động, phát triển các lực lượng chính trị, tổ chức phong trào thi đua tăng năng suất, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm lao động, vật tự và nguyên liệu.

Mục tiêu chính của sản xuất ở khu vực kinh tế mới là thực hiện hiệm vụ thành phố giao và thông qua lao động sản xuất mà giáo dục rèn luyện con người, xây dựng lớp người lao động mới.

Chăm lo giáo dục, củng cố tổ chức, thực hiện đúng các chính sách với đội viên của Liên đội thanh niên xung phong, làm cho đơn vị này trở thành trường học chính trị, lao động của thành niên. Nông trường Đắc Nông, trước mắt là trồng cây ngắn ngày như sả, gừng, đậu, mè… và làm nghĩa vụ trồng và chăm sóc cây cao su cho thành phố, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất tiến đến định cư 100 hộ dân vào năm 1990.

Trường giáo dục lao động công nông nghiệp cần được tăng cường cán bộ quản lý, thường xuyên giáo dục chính trị cho trại sinh, cung cấp lao động cho nông trường Duyên Hải để xây dựng con người lao động mới và làm ra sản phẩm. Phương hướng sản xuất của Duyên Hải là nuôi tôm, cá, trồng cói, dệt chiếu, tạo cơ sở vật chất đi đến định cư 50 hộ dân vào năm 1990.

Định kỳ 3 tháng 1 lần UBND Quận kiểm tra công tác ở hai nông trường nói trên, chăm sóc tốt đời sống vật chất và tinh thần cho anh, chị em lao động và thực hiện đúng chính sách khuyến khích cán bộ công nhân viên công tác xa thành phố.

Các ngành công nghiệp khác:

Ngành giao thông vận tải quận, củng cố đội vận tải thuỷ bộ cơ giới, quản lý chặt chẽ xe thô sơ trong các HTX, tận dụng năng lực vận tải để đáp ứng 80% yêu cầu vận tải cho sản xuất và lưu thông hàng hoá, đi lại của nhân dân trong quận. Chú ý quản lý giá cước vận tải đúng qui định. Duy tu, bảo dưỡng đường xá, các hẻm đã được thành phố phân cấp, ngăn chặn tình trạng đường xá xuống cấp, không để các hẻm lầy lội, ngập nước trong mùa mưa, bắc cầu liên phường 21 và 22.

Về bưu điện quận, bảo đảm thư tín nội hạt nhanh chóng, xây dựng mạng lưới điện thoại công cộng phục vụ tốt các yêu cầu thông tin dân dụng, quân sự và Nhà nước.

Về xây dựng cơ bản, quản lý nhà đất, công trình công cộng; quận kiên quyết cắt giảm các công trình phi sản xuất để tập trung vốn đầu tư cho các công trình trực tiếp sản xuất và một số công trình phúc lợi bức thiết cho nhân dân.

Kiên quyết xử lý tình trạng chiếm nhà bất hợp pháp, sử dụng nhà bất hợp lý một cách triệt để. Hóa giá 80% nhà cấp 3, cấp 4, cố gắng thu tiềnhoá giá nhà theo quy định. Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm để xây dựng 100 căn hộ cấp cho cán bộ công nhân viên, diện gia đình chính sách và quần chúng lao động nghèo không có nhà ở. Sửa chữa các trường học Hoàng Tuyền, Trần Văn Đang, Trương Quyền và cống rãnh ở một số phường. Tiến hành sửa chữa nhà cho cán bộ công nhân viên, nhà diện chính sách, đảm bảo 70% diện tích, xử lý rác không để ô nhiễm môi trường và tăng cường trồng, bảo vệ cây xanh, chăm sóc tốt các công viên… Thành lập xí nghiệp xây dựng và tổ chức sản xuất một số mặt hàng vật liệu xây dựng phục vụ cho nhu cầu sửa chữa, xây cất của nhân dân.

2. Lập lại trật tự trên mặt trận phân phối lưu thông và phát triển các ngành thương nghiệp, dịch vụ, xuất khẩu:

Từ nay đến năm 1988, các ngành hàng phân phối lưu thông phải có chuyển biến tốt rõ nét trong việc phục vụ sản xuất và chăm lo đời sống nhân dân. Trước hết, qua hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết kinh tế với các nơi và đầu tư nắm hàng tiểu thủ công nghiệp sản xuất trong quận để tạo chân hàng, nguồn hàng ổn định xây dựng quỹ hàng hoá để chủ động trong sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống nhân dân trong quận. Quy hoạch lại mạng lưới thương nghiệp quốc doanh và HTX của Quận.

Lập lại trật tự kinh doanh trong tất cả các ngành kể cả các đơn vị kinh doanh của Thành phố, Trung ương trên địa bàn quận, kinh doanh đúng qui định Nhà nước, giữ đúng kỷ luật giá, không tranh mua tranh bán, hỗ trợ nhau trong kinh doanh, chống các hiện tượng ghìm hàng, tuồn hàng, nâng giá vượt khung. Từ đó tạo nên sứ cmạnh tổng hợp giữa các công ty quốc doanh và HTX, từng bước tiến lên chi phối và làm chủ thị trường xã hội. Trước mắt cần chấn chỉnh một số ngành hoạt động cho đúng hướng như: ngành ăn uống cần qui hoạch lại mạng lưới phục vụ thiết thực người lao động, chỉ giữ lại một số cửa hàng kinh doanh ăn uống giá cao cần thiết. Triệt để xoá các quán nhậu ngay trong năm 1986. Ngành dịch vụ căn cứ vào nhu cầu sản xuất, đời sống của nhân dân mà mở rộng các dịch vụ sản xuất trong quận, phục vụ đời sống người lao động, chống hiện tượng mua bán đơn thuần. Ngành lương thực cải tiến việc nhận và phân phối lương thực nhanh chóng, chú ý lương thực chế biến.

Doanh số của ngành thương nghiệp hàng năm tăng 30%. Năm 1987 là 5,2 tỷ đồng năm 1988 là 6,760 tỷ đồng và năm 1990 là 11,420 tỷ đồng (loại trừ yếu tố tăng giá). Số lượng các mặt hàng thiết yếu cũng phải tăng, đảm bảo hàng định lượng cho hộ dân và tham gia đấu tranh thị trường. Đến năm 1988, thươg nghiệp xã hội chủ nghĩa chiếm lĩnh từ 60-70% thị trường xã hội, các mặt hàng thiết yếu chiếm 90-95%. Riêng hợp tác xã giữ tỷ lệ bán lẻ từ 80-90%.

Xuất nhập khẩu là một mũi kinh tế của quận, ngay trong năm 1986 cần củng cố, tăng cường cán bộ và có chế độ quản lý chặt chẽ. Trước mắt Công ty cung ứng hàng xuất khẩu quận phải đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu tại quận để có nguồn hàng xuất khẩu ổn định (chú ý ngành thủ công mỹ nghệ), đồng thời hợp tác đầu tư với các huyện, tỉnh để nắm chắc nguồn hàng chân hàng nông, lâm, thuỷ hải sản, dược liệu đem về chế biến tại quận hoặc chế biến tại chỗ.

Vận động Việt kiều gửi máy móc, thiết bị, nguyên liệu và kiều hối từ nước ngoài về để đầu tư cho sản xuất, nhất là sản xuất hàng xuất khẩu, kể cả việc hợp tác với kiều bào nước ngoài tổ chức sản xuất hàng xuất khẩu.

Kim ngạch xuất khẩu 1987 là 6,5 triệu R/USD và mỗi năm sau tăng 30%. Hàng nhập khẩu là tư liệu sản xuất phải chiếm 75%, chú ý nhập khẩu các mặt hàng thích hợp cho sản xuất trong quận. Hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, không nhập khẩu hàng xa xỉ phẩm.

Để thực hiện các yêu cầu trên, các ngành thương nghiệp dịch vụ, xuất khẩu phải đổi mới cơ chế quản lý, chuyển sang hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nâng cao năng lực quản lý kinh doanh cho cán bộ công nhânviên, giáo dục cho mậu dịch viên ý thức phục vụ và thực hiện văn minh thương nghiệp. Liên kết kinh tế phải thực chất hai bên cùng có lợi, bình đẳng và thực hiện đúng luật pháp quản lý của nhà nước. Ngành vật tư đi vào chức năng chủ yếu là cùng thương nghiệp và xuất khẩu cung ứng cho sản xuất 40% vật tư nguyên liệu.

Quản lý thị trường kết hợp cùng an ninh kinh tế và các ngành liên quan để tăng cường việc kiểm tra, kiểm soát, cùng các ngành thương nghiệp lập lại trật tự kinh doanh trên thị trường xã hội, quản lý chặt chẽ đăng ký kinh doanh, giá cả, kinh doanh đúng chức năng, đúng hướng, chống các hiện tượng tiêu cực, đánh trúng bọn đầu cơ, buôn lậu hàng gian, hàng giả, kinh doanh trái phép, bọn buôn vàng, đô la, bọn phá giá. Địa bàn tập trung là các chợ, khu vực buôn bán lớn, ga xe lửa… Một mặt, phải củng cố hoạt động các tổ quản lý thị trường ở phường, chợ. Mặt khác, cùng các đoàn thể, vận động phong trào quần chúng rộng rãi tham gia quản lý thị trường.

Thuế - Tài chính giá – Ngân hàng:

Ngành thuế: Nắm chắc nguồn thu, xem xét lại định mức thuế phù hợp với tình hình kinh doanh giá cả. Tiến hành phân cấp nguồn thu cho phường, thu đúng đối tượng, thu đủ vả thu đúng chính sách góp phần điều tiết thu nhập, thúc đẩy sản xuất, phục vụ cải tạo, không để thiếu quá 3 tháng.

Tài chính – Ngân sách:

Tài chính phát huy chức năng giám đốc, giám sát tài chính, cân bằng thu chi. Kiểm tra các ngành trong thực hiện kế hoạch, kiên quyết cắt các khoản chi phí không cần thiết, phát động các ngành tiết kiệm chi. Về giá cả, tất cả các ngành các đơn vị phải giữ vững kỷ luật giá, không được tuỳ tiện nâng giá. Việc duyệt giá phải nhanh chóng, kịp thời có kiểm soát, kiểm tra nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển và lưu thông hàng hoá.

Ngân sách tích luỹ chủ yếu từ nội bộ kinh tế quận, trong đó thu quốc doanh là chủ yếu. Nguồn thu từ sản xuất mỗi năm tăng từ 10%-20%. Cơ cấu đầu tư ngân sách quận được phân bổ như sau: 24% cho sản xuất, 16% cho xây dựng cơ bản, 18,6% sự nghiệp kinh tế, 21,5% cho văn hoá xã hội (có 1% cho khoa học kỹ thuật) và 13,3% cho các nhu cầu khác; giảm chi hành chính xuống dưới 4% và có dự bị chi 2,8%. Đầu tư phải có trọng điểm không dàn đều, chú ý hiệu quả kinh tế, hiệu quả sử dụng. Phấn đấu năm 1987 bội thu và có dự trữ ngân sách để đầu tư thêm cho sản xuất.

Ngân sách nhanh chóng chuyển sang hạch toán kinh tế kinh doanh XHCN, tạo điều kiện cho các cơ sở thực hiện quyền tự chủ tài chính trong sản xuất kinh doanh, đồng thời tăng cường giám sát kiểm tra, có biện pháp thích hợp để thu hút tiền mặt vào ngân hàng. Các đơn vị sản xuất, kinh doanh phải thanh toán qua tài khoản và nộp tiền mặt theo kế hoạch. Ngân hàng có kế hoạch chi trả tiền mặt nhanh chóng,.thuận lợi thúc đẩy sản xuất và phân phối lưu thông hàng hoá. Đẩy mạnh tín dụng và đầu tư vốn có trọng điểm. Phát động phong trào tiết kiệm XHCN, tăng số dư 30% mỗi năm. Chủ ý thay đổi phương thức làm việc, tăng cường giáo dục cán bộ nhân viên, ngăn ngừa tiêu cực.

3. Giải quyết việc làm và từng bước ổn định đời sống cán bộ công nhân viên, lực lượng vũ trang, gia đình thuộc diện chính sách và nhân dân lao động:

Mỗi năm, quận phấn đấu giải quyết việc làm cho 4.000 laođ ộng, bằng cách thu hút vào cơ sở sản xuất 1.000 người, tuyển sinh tuyển dụng 2.000 người, lao động các công nông trường thanh niên xung phong, hợp tác lao động và các yêu cầu khác 1.000 người. Ưu tiên giải quyết việc làm cho thanh niên làm tròn nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ kinh tế quốc phòng, thanh niên xung phong con em gia đình diện chính sách.

Đối với cán bộ công nhân viên, lực lượng vũ trang, cán bộ nghỉ hưu, các ngành thương nghiệp bảo đảm mặt hàng định lượng, đủ số lượng và có chất lượng tốt. Các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp tuỳ theo điều kiện khả năng tổ chức xí nghiệp đời sống (theo quyết định 54/QĐ-UB) để tăng thêm thu nhập cho cán bộ công nhân viên các đơn vị sản xuất kinh doanh không thành lập xí nghiệp đời sống. Quận chú ý giúp đỡ các cơ quan hành chính sự nghiệp, giúp đỡ cán bộ công nhân viên nhất là cán bộ nghỉ hưu, sản xuất phụ gia đình, làm gia công… bằng cách cho vay vốn, giảm thuế…

Quận có kế hoạch sớm để giải toả 100 căn hộ trên dòng kinh Nhiêu Lộc và nẹo vét lòng kinh tránh ngập úng trong mùa mưa (phường 21).

Giải quyết 100 căn nhà cho cán bộ nhân viên, gia đình chính sách bằng cách đầu tư xây mới, điều chỉnh nhà ở không hợp lý, thu hồi nhà bị chiếm dụng không hợp pháp, tận dụng mặt bằng các cư xá… Sửa chữa nhà, chống dột hoặc bán vật liệu cho cán bộ công nhân viên tự sửa chữa nhà đã hoá giá.

Đối với nhân dân lao động nghèom HTX phường đảm bảo các mặt hàng thiết yếu định lượng và tuỳ khả năng từng nơi có bán thêm từ 5-10 mặt hàng khác với giá đảm bảo kinh doanh, rẻ hơn thị trường 10-20%. Bán vật liệu chống dột trước mùa mưa cho nhân dân lao động, đồng thời các ngành chức năng cần sửa sang cống rãnh, hẻm, đèn đường, nước sinh hoạt… Mỗi đầu năm học xem lại trường lớp, bàn ghế, chuẩn bị đủ sách vở, giấy bút cho học sinh, thường xuyên chăm lo chữa bệnh, bảo đảm thuốc thông thường cho nhân dân. Xem xét kịp thời và cứu trợ cho những người quá thiếu thốn, vận động phong trào đoàn kết tương trợ lẫn nhau.

4. Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư doanh và các ngành khác:

Qúa trình phát triển sản xuất cũng là quá trình xây dựng quan hệ sản xuất mới. Ngoài việc tổ chức quản lý các cơ sở sản xuất theo ngành kinh tế kỹ thuật, các nhóm sản phẩm… cần kiểm tra chặt chẽ, xoá dần quan hệ chủ thợ trong tổ sản xuất. Xem xét các tổ sản xuất đủ điều kiện mới nâng lên HTX, các tổ sản xuất không quản lý đúng điều lệ, tổ hợp trá hình thì trở trở về dạng cá thể. Cải tạo phải nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển nâng cao năng suất chất lượng và hiệu quả.

Với xí nghiệp công tư hợp doanh, xí nghiệp đời sống cần có kiểm soát thường xuyên, hướng dẫn hoạt động đúng hướng, đúng qui định. Khuyến khích đúng mức thành phần kinh tế cá thể, kinh tế goa đình, kinh tế phụ gia đình. Chấp hành đúng những qui định theo quyết định 34/QĐ-UB của UBND Thành phố sản xuất đúng ngành hàng, mặt hàng và thực hiện các biện pháp quản lý chặt chẽ.

Với ngành thương nghiệp, trọng điểm là sắp xếp lại ngành ăn uống cho hợp lý và quản lý chặt giá cả, kế đến là các cửa hàng hợp tác kinh doanh, trước mắt sắp xếp lại các ngành hàng do Nhà nước quản lý như cơ kim khí cao cấp, vật tư, vật liệu xây dựng, vải sợi… không còn hình thức hợp tác kinh doanh ở các mặt hàng này. Tiến hành các biện pháp quản lý chặt chẽ khâu mua bán chống tranh mua bán, tuỳ tiện nâng giá, đầu cơ tích trữ… không để tư nhân lợi dụng doanh nghĩa nhà nước để làm giàu bất chính, gây rối ren thị trường, mất niềm tin với nhân dân. Vận động các hộ hợp tác kinh doanh có điều kiện vật chất, tay nghề chuyển sang sản xuất mặt hàng đang kinh doanh.

Với các ngành văn hoá nhỏ như in ấn, ronéo , photocopy đánh máy… cần tiếp tục củng cố, quản lý hoạt động đúng qui định.

Để công tác cải tạo có hiệu quả và đúng hướng, trước nhất là các ngành tăng cường việc quản lý kiểm tra, kiểm soát, đầu tư cán bộ có năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, xây dựng lực lượng chính trị, giáo dục cổ động, đồng thời nghiêm trị những kẻ vi phạm; để làm tốt công tác cải tạo phải kết hợp chặt chẽ các ngành và phường, vận dụng đúng 3 biện pháp giáo dục, hành chính, kinh tế.

5. Đổi mới cơ chế quản lý chuyển sang hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa

Trước hết, quận cần phân biệt và xác định rõ chức năng quản lý hành chính kinh tế của các phòng, ban ngành và quản lý sản xuất kinh doanh của xí nghiệp, công ty; khắc phục tình trạng chồng chéo gây trở ngại cho nhau và đi vào quản lý theo chức năng qui định, sắp xếp, củng cố ban ngành, phòng đúng biên chế, tinh gọn, hoạt động có hiệu quả.

Kế hoạch sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp, công ty, HTX… đều phải được xây dựng thực sự từ cơ sở, khắc phục tình trạng cấp trên gò ép, đồng thời cũng tránh tình trạng các cơ sở định mức chỉ tiêu không sát đúng khả năng và không tiên tiến.

Thực hiện nghị quyết 306/NQ-TW của Bộ Chính trị dành quyền tự chủ cho cơ sở, trước hết là quyền tự chủ về tài chính, tự chủ về kế hoạch. Ngay từ đầu năm, ngân hàng phải có hợp đồng kế hoạch đầu tư vốn, kế hoạch tiền mặt với các công ty, xí nghiệp để các đơn vị đó chủ động trong xây dựng kế hoạch, trong sản xuất kinh doanh, mạnh dạn đầu tư vốn cho các công ty có nhu cầu phát triển.

Các xí nghiệp, công ty trong quận đều phải nhanh chóng chuyển sang hạch toán kinh tế kinh doanh XNCN, làm ăn có hiệu quả, kinh doanh có lãi. Soát xét lại các khâu trong sản xuất kinh doanh, khâu nào còn bao cấp thì nhanh chóng xoá bỏ hoặc kiến nghị trên sửa đổi cho phù hợp. Tiến hành việc giảm biên chế hành chính, phát huy quyền làm chủ c ủa công nhân viên chức và lao động. Tăng cường 4 chế độ trách nhiệm theo nghị định 182/CP và quyết định 217/QĐ của Hội đồng chính phủ.

Các cơ quan quản lý cũng phải đổi mới phương thức quản lý, sâu sát cơ sở, giải quyết nhanh chóng các yêu cầu sản xuất kinh doanh đặt ra, sửa đổi nhanh chóng những quy định lỗi thời, lề lối làm việc thiếu khoa học, gò bó gây trở ngại, chậm trễ cho cơ sở.

6. Xây dựng bộ mặt văn hoá của quận ngày càng phát triển tổ chức tốt đời sống văn hoá tinh thần và các phúc lợi xã hội khác của nhân dân:

- Hình thành một khu văn hoá cấp quận. Tổ chức mạng lứi thông tin đại chúng ở cơ sở, nâng cao chất lượng tờ tin và đài truyền thanh quận thành công cụ của Đảng bộ, đáp ứng yêu cầu tuyên truyền và phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ; phản ánh và tổ chức phong trào văn nghệ quần chúng rộng rãi trong nhân dân và cơ quan, xí nghiệp, phục vụ thiết thực cho lao động, tập hợp và đào tạo đội ngũ sáng tác văn nghệ. Vận động phong trào xây dựng nếp sống mới, gia đình văn hoá mới. Giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, giữ gìn những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc tốt đẹp, đồng thời phê phán lối sống ăn bám bê tha, xoá dần các tệ nạn lạc hậu, mê tín, dị đoan, chống văn hoá đồi truỵ, phản động, không để địch phá hoại trên mặt trận văn hoá tư tưởng. Chấn chỉnh hoạt động hiệu sách, nhà truyền thống phục vụ trực tiếp người lao động. Nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá cơ sở nhất là phường. Đến năm 1988 có 80% cơ quan, đơn vị và phường có nếp sống văn hoá mới.

- Nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các ngành học. Tuyên truyền phổ biến rộng rãi kiến thức nuôi dạy trẻ theo phương pháp khoa học trong quần chúng. Nhà trẻ thu hút 40% các cháu trong độ tuổi, mẫu giáo thu hút 95% các cháu 5 tuổi. Trường cấp I, II chú ý chất lượng cải cách giáo dục, trường cấp III (sắp phân cấp cho quận) cần quản lý chặt chẽ chất lượng học tập, nhất là các trường có các lớp bổ túc văn hoá và lớp vừa học vừa làm. Giữ vững số lượng học sinh đầu năm học, đảm bảo 100% học sinh cấp I được lên cấp II và học sinh thi hết cấp II và thi chuyển cấp lên cấp III đậu trên 80%. Chú ý giáo dục đạo đức cho học sinh bằng kết hợp chặt chẽ 3 môi trường giáo dục. Các cụm phường đều có cấp I bán trú hoặc ít nhất có lớp 1, 2 bán trú. Chú ý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh, bồi dưỡng chính trị nghiệp vụ cho giáo viên. Vận động phong trào bổ túc văn hoá rộng rãi trong cán bộ công nhân viên và quần chúng, cán bộ chủ chốt cấp Quậnđều học hết cấp III (có 15% đại học), cán bộ chủ chốt cơ sở 50% hết cấp II và 50% đang học cấp III, không còn cấp I. Phổ cập văn hoá cấp I cho nhân dân và cấp II cho thanh niên.

- Bố trí y, bác sĩ và bổ sung phương tiện điều trị bệnh đề hình thành một phòng khám trị bệnh có 50 giường lưu và hoạt động vào năm 1987. Tăng cường y, bác sĩ cho trạm y tế phường. Hiệu thuốc của quận phân phối đủ các loại thuốc thông thường cho các đủ thuốc phường và trạm xá cơ quan.Tập trung phòng chống dịch bệnh, nhất là lúc thời tiết thay đổi không để dịch bệnh lây lan, tiếp tục vận động thực hiện tốt phong trào 5 dứt điểm trong đó có 10.000 người sinh đẻ có kế hoạch (5% dân số), giảm tỷ lệ tăng dân số xuống còn 1,2% vào năm 1988, 15/20 phường đạt 5 dứt điểm vào năm 1988. Xoá chợ trời thuốc tây, quản lý chặt chẽ các cửa hàng thuốc ngoại nhập. khuyến khích trồng và sử dụng cây thuốc nam.

- Hội chữ thập đỏ: là một tổ chức quần chúng rộng rãi cần được Quận uỷ quan tâm lãnh đạo. Trước hết là củng cố tổ chức, phát triển hội viên ở từng hộ, từng cơ quan đơn vị, phường. Huấn luyện kiến thức y tế thường thức cho hội viên và đưa vào hoạt động xã hội rộng rãi.

- Vận động và tổ chức phong trào rèn luyện thân thể rộng rãi trong cán bộ công nhân viên và quần chúng nhất là thanh thiếu niên, chú ý phong trào tập thể dục buổi sáng, tập dưỡng sinh. Xây dựng phong trào cơ sở bằng vận động tuyên truyề, đào tạo huấn luyện viên cho cơ sở, tận dụng mặt bằng, cơ sở vật chất cho hoạt động thể dục thể thao. Sửa chữa sân số 2 Hồ Xuân Hương đáp ứng yêu cầu luyện tập và thi đấu. Xây dựng các lớp năng khiếu, đào tạo vận động viên các bộ môn làm nồng cốt cho phong trào. Áp dụng các hình thức câu lạc bộ bộ môn thể dục thể thao. Đến năm 1988, 15/20 phường đạt tiên tiến về phong trào thể dục thể thao.

- Thực hiện kịp thời và đúng chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công cách mạng nhất là cán bộ nghỉ hưu. Định kỳ thông báo tình hình chính trị, thời sự, chính sách cho các đồng chí nghỉ hưu, vận động các đồng chí còn sức khoẻ tham gia hoạt động, giáo dục vận động quần chúng, giúp đỡ cho phường nhất là công tác xây dựng Đảng, tạo điều kiện cho các đồng chí tham gia sản xuất. Vận động phong trào đền ơn đáp nghĩa, xây dựng gia đình cách mạng gương mẫu, người công dân kiểu mẫu đạt 80% các đối tượng vào năm 1988. Ngành thương binh xã hội cùng các ngành liên quan giải quyết cơ bản các tụ điểm ăn xin, mãi dâm và các tệ nạn xã hội khác… Đến năm 1988, 20/20 phường đạt tiên tiến về hoạt động thương binh xã hội.

- Hoạt động khoa học kỹ thuật của quận tập trung phục vụ cho sản xuất. Khai thác khả năng lực lượng khoa học kỹ thuật trên địa bàn phục vụ cho yêu cầu phát triển của quận bằng cách tập hợp khuyến khích, giúp đỡ lực lượng này trong việc ứng dụng những sáng chế phát minh khoa học kỹ thuật vào sản xuất để làm ra mặt hàng mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến quy trình công nghệ, đào tạo tay nghề… Về khoa học xã hội, tiến hành công tác điều tra cơ bản địa chỉ của quận.

- Trung tâm dạy nghề của quận đào tạo mỗi năm 4.000 người, chú ý các ngành nghề thích hợp với sản xuất tiểu thủ công nghiệo trong quận. Tích cực hợp đồng với các xí nghiệp và đơn vị trong thành phố có yêu cầu để đào tạo và phân bổ lao động cho các nơi đó. Tại trung tâm dạy nghề đào tạo 2.000 người, chú ý các đối tượng trên và học sinh thi rớt cấp III và đại học.

Để cho hoạt động văn hóa xã hội phát triển nhanh, 3 năm tới đầu tư hàng năm 21,5% ngân sách cho khu vực này, trong đó chú ý đầu tư cho các công trình khoa học kỹ thuật có giá trị thực tiễn. Trong năm 1987, tiến hành việc quy hoạch tổng thể văn hoá xã hội trên địa bàn. Các ngành văn xã lên phương án cụ thể cho ngành mình. Quận uỷ xây dựng xong chương trình văn hoá xã hội trong 3 năm và đến năm 1990.

7. Bảo vệ vững chắc an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội, xây dựng quốc phòng toàn dân vững mạnh, đưa pháp luật, pháp chế vào quản lý và nếp sống xã hội:

Tiếp tục thực hiện nghị quyết 03/NQ-TW của Bộ chính trị và Nghị quyết 126/NQ-HĐBT, với những nội dung công tác cụ thể là:

- Phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc sâu rộng, thường xuyên, liên tục. Xây dựng đơn vị an toàn đều khắp trên địa bàn thành thế trận an ninh vững chắc. Đến hết năm 1988 có 90% phường và cơ quan an toàn, không còn đơn vị yếu kém.

- Kết hợo chặt chẽ công tác nắm nhân hộ khẩu và các biện pháp chuyên sâu để chống bọn phản cách mạng và bọn tội phạm khác. Phát hiện xử lý kịp thời các nhen nhóm phản cách mạng, tình báo, xâm nhập, bọn đầu sỏ tổ chức vượt biên, các băng ổ nhóm hình sự, giảm hẳn trọng án, thường án và tệ nạn xã hội.

- Xây dựng lực lượng công an vững mạnh toàn diện, chăm lo giáo dục chính trị, nâng cao nghiệp vụ, quản lý chặt chẽ nội bộ, giảm đến mức thấp nhất vi phạm kỷ luật (năm 1988 còn dưới 1%). Xử lý nghiêm khắc cán bộ chiến sĩ sai phạm, nhất là ức hiếp quần chúng, hối lộ…

- Tiếp tục quán triệt và thực hiện Nghị quyết 24/NQ-TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết 134/NQ-QU của Quận uỷ (khóa 3) về xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trên địa bàn Quận với nội dung cụ thể như sau:

Giáo dục quốc phòng toàn dân kết hợp với giáo dục truyền thống dân tộc, truyền thống quân đội. Xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trong thời bình cũng như thời chiến và các phương án tác chiến phòng thủ trong các tình huống chiến tranh. Xây dựng lực lượng quân sự quận và phường vững mạnh. Quản lý chặt chẽ quân dự bị. Xây dựng dân quân tự vệ năm 1988 đạt 9% dân số, năm 1990: 10-12% dân số (mỗi phường có 1 đại đội. Quận có 1 trung đoàn). Ở các cơ quan, xí nghiệp có điều kiện thì tổ chức dân quân tự vệ. Các đơn vị trên đều phải có kế hoạch chiến đấu.

Hoàn thành chỉ tiêu pháp lệnh tuyển quân hàng năm với chất lượng tốt. Củng cố phường đội, đến năm 1987 có 20/20 phường đạt tiên tiến và năm 1988 có từ 12 đến 15 phường đội trưởng vào cấp uỷ.

- Các ngành luật pháp tăng cường giáo dục pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa cho cán bộ, công nhân viên và quần chúng. Xây dựng phong cách sống và \làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Chính quyền quản lý kinh tế và xã hội bằng pháp luật.

- Viện kiểm sát và toà án quận kết hợp xét xử và nghiêm trị bọn tội phạm đầu sỏ, lưu manh, chuyên nghiệp, phục vụ kịp thời yêu cầu chính trị từng lúc của quận. Xét xử phải đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Thanh tra, tư pháp, trọng tài kinh tế giúp Uỷ ban nhân dân quản lý, theo dõi các ngành trực hiện kế hoạch kinh tế xã hội, phục vụ đổi mới cơ chếquản lý, ngăn ngừa việc làm sai luật pháp và các hiện tượng tiêu cực khác, giúp Uỷ ban nhân dân và các ngành giải quyết khiếu tố, khiếu nại của nhân dân kịp thời.

Quận uỷ định kỳ làm việc với các ngành khối nội chính của quận, giúp các ngành đi vào hoạt động đồng bộ. Xem xét bố trí cán bộ có năng lực, đạo đức phẩm chất tốt cho các cơ quan nội chính. Các ngành có chân rết như thanh tra, tư pháp cần phải đi sâu củng cố cơ sở.

8. Nâng cao năng lực quản lý của chính quyền, chất lượng hoạt động của các đoàn thể Mặt trận, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tạo ra phong trào hành động cách mạng tự giác của quần chúng.

Quận uỷ và các cấp uỷ phường cần quan tâm phát huy vai trò quyền lực của HĐND. Các đại biểu thực sự hoạt động, thực hiện đúng chức năng quyền hạn nhiệm vụ của mình, nhất là phải sâu sát cử tri. Các ban chuyên môn của hội đồng phải hoạt động thật sự. Uỷ ban nhân dân và thủ trưởng các ngành có trách nhiệm báo cáo trước HĐND về những hoạt động của ngành mình khi đại biểu chất vấn. Trước mắt là chuẩn bị tốt cuộc bầu cử HĐND quận, phường khoá V.

UBND quận và phường phải thường xuyên củng cố về chất lượng, nâng cao năng lực quản lý kinh tế xã hội, trước hết là xây dựng kế hoạch kinh tế xã hội, phân bổ cơ cấu, đầu tư ngân sách phải có căn cứ khao học và sát thực tế. Qua đổi mới cơ chế quản lý mà tinh gọn bộ máy, giảm biên chế hành chính, tăng cường cán bộ có năng lực cho các ban ngành cấp quận để làm tham mưu tốt cho UBND, nhất là bảo đảm công tác thông tin phải chính xác và đi vào chế độ.

Tiếp tục hoàn chỉnh việc xây dựng cơ chế phường theo Quyết định 30/QĐ-TU của Thành uỷ. Tiếp tục phân cấp cho phường, hướng dẫn phường xây dựng và cân đối thu chi ngân sách. Chú ý củng cố hoạt động của khu phố và tổ dân phố. Đến năm 1988 có 75% khu phố và tổ dân phố tiên tiến, 20% đạt loại khá và không còn khu phố và tổ dân phố kém.

Các công ty, xí nghiệp phải xây dựng cơ chế xí nghiệp, theo chế độ thủ trưởng, đồng thời kết hợp hoạt động đồng bộ ăn khớp giữa bí thư chi bộ, thủ trưởng, thư ký công đoàn và bí thư đoàn TNCS.

Phát động phong trào thi đua liên tục, mạnh mẽ, xây dựng và nhân rộng các điển hình tiên tiến. Tổ chức hội nghị bình chọn, học tập và nhân điển hình trong ngành, phường và toàn quận.

Với các cơ quan đơn vị TW và Thành phố đóng trên địa bàn quận, UBND quận cần đặt mối quan hệ thường xuyên, tranh thủ sự giúp đỡ về kinh nghiệm, khoa học ky 4thuật, cơ sở vật chất cho các yêu cầu phát triển của quận.

- Tiếp tục thực hiện nghị quyết 11/NQ-TU của Thành uỷ (khoá 3) về công tác dân vận, giáo dục sâu rộng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho các tầng lớp quần chúng; trên cơ sở quyền lợi và nghĩa vụ mà vận động quần chúng tham gia các phong trào hành động cách mạng trên mọi lĩnh vực. Nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể, cán bộ đoàn thể phải sát dân, bàn bạc với nhân dân trong việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ở cơ sở. Cải tiến nội dung, phương pháp vận động quần chúng, củng cố các tổ đoàn thể, uỷ ban mặt trận ở cơ sở. Hoạt động của đoàn thể mặt trận cũng như tất cả các hoạt động khác của Đảng và chính quyền đều phải quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc, mọi chủ trương của quận phải xuất phát từ quyền lợi của nhân dân lao động.

- Công đoàn đi sâu giáo dục công nhân lao động về ý thức giai cấp, vai trò làm chủ tập thể ở cơ sở. ở khu vực sản xuất, công đoàn và hội lao động hợp tác vận động công nhân lao động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí tham ô, ở cơ quan xí nghiệp cần phát huy quyền làm chủ của công nhân viên chức trong việc bàn bạc, xây dựng và thực hiện kế hoạch nhà nước. Công đoàn cùng chíng quyền chăm lo đời sống vật chất, văn hoá cho công nhân viên chức, thực hiện đúng các chính sách chế độ và bảo hiểm xã hội. Công đoàn quận hướng dẫn hoạt động cho công đoàn phường, qui hoạch đội ngũ cán bộ công đoàn và giới thiệu đoàn viên công đoàn ưu tú cho Đảng.

- Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc gắn với các phong trào của giới, nhất là vai trò của phụ nữ trong sản xuất, phân phối lưu thông, giáo dục tiểu thương, hậu phương quân đội, nuôi con khoẻ, dạy con ngoan, sinh đẻ có kế hoạch… Thực hiện đúng chính sách lao động nữ, cán bộ nữ theo chỉ thị 44/CT-BBT của Ban Bí thư, chú ý giáo dục giúp đỡ chị em chậm tiến.

- Vận động các tầng lớp quần chúng đoàn kết chung quanh Mặt trận tổ quốc, giáo dục động viên quần chúng tham gia các phong trào hành động cách mạng. Hội phụ lão cần phát huy tác dụng trong việc giáo dục con em, làm gương cho thế hệ trẻ và trong công tác vận động quần chúng thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước như tiết kiệm, cứu trợ xã hội… Mặt trận tổ quốc cần phát huy khả năng này, đồng thời cùng các ngành chăm lo đến sức khoẻ của phụ lão. Giáo dục sâu sắc các chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo, dân tộc trong quần chúng có đạo, người Hoa và các dân tộc khác. Vận động trí thức, nhân sĩ, các nhà công thương góp công sức vào mọi mặt phát triển của quận. Đối với quần chúng theo đạo Thiên chúa cần giáo dục sâu sắc tinh thần yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội, truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng đồng thời vạch trần âm mưu bọn lợi dụng công giáo, mị dân, lôi kéo tranh thủ quần chúng. Đối với sĩ quan viên chức chế độ cũ học tập cải tạo về, cần tạo điều kiện giúp đỡ, giáo dục để xoá dần mặc cảm và đưa họ vào các hoạt động thích hợp phục vụ sản xuất, phục vụ xã hội. Cần xây dựng lực lượng chính trị trong các tầng lớp quần chúng nói trên.

- Quán triệt trong các ngành các cấp về pháp lệnh chăm sóc, bảo vệ và giáo dục thiếu niên nhi đồng, đi đôi với việc củng cố các Uỷ ban thiếu niên nhi đồng cơ sở và các ban chăm sóc thiếu niên nhi đồng ở khu phố, từng bước xây dựng kế hoạch thực hiện 5 quyền cơ bản của trẻ em đã được pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước qui định. Nội dung hoạt động đi vào hướng chủ yếu là giáo dục trong gia đình, người lớn gương mẫu, trẻ em chăm ngoan, giáo dục kết hợp 3 môi trường, bảo vệ quyền lợi thiếu niên nhi đồng, chú ý các em trong diện chính sách, các em bị khuyết tật và các em chậm tiến.

Các đoàn thể, mặt trận thu hút từ 80%-98% quần chúng vào sinh hoạt trong các tổ chức. Đến năm 1988 có 60% đoàn thể, mặt trận cơ sở đạt yêu cầu vững mạnh.

9. Nâng cao năng lực lãnh đạo, tính chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng quan điểm lập trường giai cấp công nhân kiên định, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản vững mạnh.

Mục tiêu bao trùm trong công tác xây dựng Đảng bộ Quận 3 trong nhiệm kỳ tới và đến năm 1990 là xây dựng Đảng bộ Quận 3 vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; có năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, có tính chiến đấu cao, có quan điểm lập trường giai cấp công nhân kiên định, có quan điểm quần chúng sâu sắc, có phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.

Về công tác chính trị tư tưởng, Quận uỷ và cấp uỷ cơ sở phải quán triệt sâu sắc đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho cán bộ đảng viên và quần chúng. Nâng cao nhận thức về đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa 2 con đường, nội dung chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, các kiến thức về quản lý kinh tế, xã hội, vấn đề cải tạo xây dựng và tình hình thực tiễn. Từ đó xây dựng Đảng bộ nhất trí cao với đường lối, có quan điểm lập trường giai cấp công nhân kiên định, quan điểm quần chúng sâu sắc. Trước mắt là quán triệt nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ toàn quốc lần thứ VI, nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ IV và nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận 3 lần thứ IV. Qua đó nhận thức đúng đắn 2 nhiệm vụ chiến lược, đường lối chung, đường lối kinh tế, chiến lược kinh tế xã hội của Đản, nhận thức và đánh giá đúng đắn tình hình thực tiễn và đi vào thực hiện đúng đắn, sáng tạo, năng động. Giáo dục sâu sắc quan điểm quần chúng, tính tổ chức kỷ luật và phẩm chất đạo đức Cộng sản cho Đảng viên, Mỗi đảng viên phải quán triệt và thực hiện nhuần nhuyễn các nguyên tắc sinh hoạt của Đảng. Đấu tranh chống tiêu cực trong đảng viên, nhất là chống tàn dư tư tưởng phong kiến, tư tưởng tiểu tư sản, các tệ quan liêu nóng vội, bảo thủ trì trệ.

Giáo dục lý luận cơ bản cho đảng viên, quần chúng trước khi vào Đảng đều phải qua lớp đối tượng Đảng. Đại bộ phận đảng viên học xong chương trình sơ cấp. Cán bộ chủ chốt qua chương trình trung cấp. Quận uỷ viên đều qua chương trình trung cấp và có 30% học xong hoặc đang học chương trình cao cấp. Cán bộ quản lý chủ chốt có trình độ trung cấp chính trị, trung cấp chuyên môn, ít nhất cũng phải qua một lớp ngắn hạn bồi dưỡng kiến thức chuyên môn.

Tiếp tục hoàn chỉnh sơ thảo lịch sử Đảng bộ quận 3 thời kỳ 1930-1975, hoàn thành sơ thảo lịch sử thời kỳ 1975-1985 để làm tài liệu giáo dục truyền thống cho đảng viên và quần chúng trong quận.

Đổi mới công tác tổ chức của Đảng, trước hết là đổi mới quan điểm, nội dung phương châm, phương pháp về công tác tổ chức. Phải nâng cao năng lực lãnh đạo, tính chiến đấu ở cơ sở bằng cách xây dựng Đảng bộ cơ sở vững mạnh. Phấn đấu đến năm 1988, Đảng bộ có 40% cơ sở Đảng vững mạnh, 50% cơ sở Đảng đạt loại khá và không có cơ sở đảng kém. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Quận uỷ phải có kế hoạch chỉ đạo cụ thể cho từng chi bộ ở các khối, tổng kết rút kinh nghiệm ở những cơ sở đã vững mạnh và phổ biến cho các cơ sở khác.

Trọng tâm thứ hai trong công tác tổ chức là kiện toàn cấp uỷ cơ sở và công tác cán bộ. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Quận uỷ và các cấp uỷ phải có quy hoạch cán bộ, chọn lựa cán bộ trẻ, nữ, thành phần công nhân lao động, có trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ, có năng lực phẩm chất đạo đức tốt và có triển vọng để xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận, chú ý chức danh bí thư chi bộ các phường và các đơn vị sản xuất kinh doanh. Theo qui hoạch đó mà đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện để trong một thời gian có thể đưa vào giữ các nhiệm vụ chủ chốt. BTC Quận uỷ cùng các ngành qui hoạch cán bộ cho ngành. Mỗi cán bộ chủ chốt trong quận cần xác định cán bộ kế cận của mình, mỗi cấp uỷ đều có qui hoạch cấp uỷ kế cận kể cả Quận uỷ cũng phải quy hoạch nhân sự Quận uỷ khoá V.

Mỗi năm Quận uỷ có đánh giá cán bộ, lấy tiêu chuẩn hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo, kể cả việc cất nhắc đề bạt, bố trí cán bộ kế cận vào các nhiệm vụ thích hợp. Tiến hành từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ về trình độ chính trị, văn hoá, nghiệp vụ và tuổi đời. Trong bố trí cán bộ cần kết hợp cán bộ nhiều nguồn, kết hợp cán bộ đã qua thử thách và cán bộ trẻ. Đối với cán bộ đến tuổi nghỉ hưu hoặc sức khoẻ yếu thì thực hiện đúng chính sách nghỉ hưu. Đến năm 1990 quận 3 có đội ngũ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Ở cơ sở phường lãnh đạo toàn diện, cần bố trí nhiều cán bộ tại chỗ, trẻ, năng động, sáng tạo, tháo vát, có năng lực hoạt động thực tiễn, có quan điểm, tác phong quần chúng và thành thạo công tác vận động quần chúng. ở cơ sở Đảng các công ty xí nghiệp thực hiện chức năng chủ yếu là hạt nhân lãnh đạo, cần tăng cường công tác kiểm tra giám sát chính quyền thực hiện kế hoạch Nhà nước, vận động cán bộ công nhân viên thực hiện nhiệm vụ chính trị. ở quận 3 có nhiều Đảng bộ, chi bộ ở cơ quan TW, Thành phố trực thuộc quận uỷ với nhiều loại hình khác nhau, Quận uỷ cần lãnh đạo chỉ đạo toàn diện công tác xây dựng Đảng và giúp cho các cơ sở Đảng này lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ chính trị của đơn vị.

Để bố trí lại cơ cấu đảng viên đều khắp, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Quận uỷ vá các cấp uỷ phải có qui hoạch phát triển Đảng, giải quyết các nhận thức tư tưởng đưa đúng về công tác phát tiển Đảng. Phát triển Đảng chú ý đảm bảo chất lượng, tiêu chuẩn không chạy theo số lượng, nhưng phải quan tâm nhiều đến các cơ sở chưa có hoặc có ít đảng viên.

Đến năm 1988, ở khu vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có chi bộ trong các xí nghiệp quốc doanh (có trước 1985), có tổ chức Đảng hoặc đảng viên trong xí nghiệp công tư hợp doanh và trong một số HTX xây dựng trước 1985 có quần chúng trung kiên trong các tổ sản xuất.

Khu vực phân phối lưu thông, ngoài chi bộ các công ty, cần có chi bộ hoặc tổ Đảng trong HTX tiêu thụ phường, trong cửa hàng quốc doanh lớn, có đảng viên và quần chúng trung kiên ở các loại cửa hàng. Trong khu vực văn hoá, xã hội đều phải có tổ Đảng hoặc đảng viên trong các bộ phận đầu mối. Ngành văn hoá thông tin có tổ Đảngtrong Công ty chiếu bóng, hiệu sách, tờ tin, đài truyền thanh. Ngành giáo dục xây dựng chi bộ hoặc tổ Đảng ở các trường đã có đản viên, phát triển đảng viên ở các trường chưa có đảng viên, 50% hiệu trưởng trường mẫu giáo và chủ nhiệm nhà trẻ là đảng viên. Ngành y tế có tổ Đảng ở các phòng khám đa khoa, các khoa chuyên môn và có đảng viên ở trạm y tế phường.

Khu vực nội chính: 80% cảnh sát đường phố phải là đảng viên sau 2 năm công tác, 10/20 phường đội có 2 đảng viên.

Khu vực đoàn thể, mặt trận: đồng chí trưởng hoặc phó phụ trách đoàn thể, mặt trận cơ sở phải là đảng viên. Riêng hội lao động hợp tác 80% hội trưởng phải là đảng viên, 100% bí thư Đoàn TNCS cơ sở là đảng viên.

Ngoài ra trong công tác xây dựng Đảng, cần tiếp tục thực hiện chỉ thị 33/CT-TW của Ban bí thư Trung ương Đảng về bảo vệ nội bộ Đảng trong sạch chính trị.

- Về công tác kiểm tra Đảng: khâu quan trọng trong công tác kiểm tra Đảng là thường xuyên kiểm tra việc thi hành chỉ thị nghị quyết, các quyết định của TW, Thành uỷ và Quận uỷ. Để thực hiện yêu cầu này mỗi Quận uỷ viên, cấp uỷ viên cơ sở phải tăng cường trách nhiệm đối với công tác kiểm tra. Uỷ ban kiểm tra Quận uỷ giúp Quận uỷ kiểm tra việc quản lý đảng viên thông qua thực hiện 4 nền nếp giữ gìn kỷ luật trong Đảng, nâng cao tính chiến đấu, tính tích cực của cán bộ đảng viên và ngăn ngừa sai phạm, tiêu cực.

- Phòng chống các biểu hiện tiêu cực trong Đảng gắn với phòng chống tiêu cực ngoài xã hội, trước hết là khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng, thiếu trách nhiệm, chấp hành không đầy đủ hoặc không chấp hành cố ý làm sai chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, không hoàn thành nhiệm vụ, mất đoàn kết, suy thoái phẩm chất đạo đức, vi phạm luật pháp… giữ gìn kỷ cương của Đảng và sự tín nhiệm của quần chúng đối với đảng viên. Xét xử kỷ luật nghiêm minh, thoả đáng, không để kéo dài và phải kiên quyết đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng. Để hoàn thành các nhiệm vụ này. Quận uỷ cần tăng cường cán bộ cho Uỷ ban kiểm tra Quận và các cấp uỷ đều phải có đồng chí phụ trách kiểm tra. Quận uỷ và cấp uỷ cơ sở phải tăng cường chỉ đạo công tác kiểm tra và đưa công tác thành nề nếp, có chương trình kế hoạch cụ thể.

XÂY DỰNG ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN TRỞ THÀNH ĐỘI QUÂN XUNG KÍCH THỰC HIỆN THẮNG LỢI NGHỊ QUYÊT CỦA ĐẢNG VÀ LÀ LỰC LƯỢNG KẾ TỤC ĐÁNG TIN CẬY CỦA ĐẢNG BỘ

Tiếp tục thực hiện nghị quyết Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Đoàn TNCS.

- Giáo dục rèn luyện thanh niên trong thực tiễn phong trào hành động cách mạng, giáo dục lý tưởng cộng sản, truyền thống cách mạng, truyền thống dân tộc cho đoàn viên và thanh niên.

- Tổ chức cho đoàn viên thanh niên tham gia các phong trào hành động cách mạng, xây dựng các công trình thanh niên trên lĩnh vực kinh tế, xã hội để nâng cao lòng tự hào, tự tin, rèn luyện khả năng những người cộng sản trẻ tuổi biết quản lý và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Quận đoàn thanh niên và các cấp bộ Đoàn cơ sở đã vững mạnh tiếp tục giữ vững danh hiệu mạnh trong những năm tới với chất lượng cao hơn. Quận uỷ và các cấp uỷ chăm lo kiện toàn Quận đoàn và các cán bộ Đoàn cơ sở, bồi dưỡng chính trị, kiến thức kinh tế cho cán bộ đoàn. Quận đoàn cần có quy hoạch cán bộ Đoàn và mỗi năm giới thiệu 700 đoàn viên ưu tú cho Đảng để xem xét kết nạp.

Tập hợp 80% thanh niên vào Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam với những hình thức phong phú, hấp dẫn, nhất là các công trình thanh niên, văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, tìm hiểu khoa học kỹ thuật… Quan tâm thanh niên trong tôn giáo, người Hoa. Đoàn Thanh niên cần sâu sát kiên trì giáo dục, giúp đỡ thanh niên chậm tiến.

ĐỔI MỚI PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO, TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ THỰC HIỆN QUI CHẾ LÀM VIỆC

Nhanh chóng đổi mới phong cách làm việc, trước hết là ở các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Chính quyền, Đoàn thể, Cán bộ lãnh đạo phải sâu sát cơ sở, tiếp xúc quần chúng, chỉ đạo và giải quyết công việc nhanh chóng với tác phong năng động, sáng tạo và có trách nhiệm cao. Phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan đơn vị, tăng cường quyền chủ động cho cơ sở. Tăng cường trách nhiệm các cơ quan tham mưu nhất là các ban Đảng, Văn phòng thực hiện chế độ thông tin có chất lượng, đúng định kỳ và chuẩn bị tốt để các cơ quan lãnh đạo ra quyết định.

Đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng, chính quyền, đoàn thể, có biện pháp tốt phát huy trí tuệ tập thể, giảm bớt hội họp, hội họp có chuẩn bị tốt nội dung và có kết luận, quyết nghị. Tôn trọng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách. Các cơ quan lãnh đạo phải kiểm tra định kỳ giúp cho cơ sở thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết, uốn nắn các lệch lạc.

Quận Uỷ, UBND Quận và Ban chấp hành các đoàn thể ban Đảng xây dựng quy chế làm việc, thường xuyên bổ sung qui chế cho hoàn chỉnh và gương mẫu thực hiện qui chế đó.

Ban chấp hành đảng bộ khoá IV phân công các đồng chí Quận uỷ viên vào các khối công tác. Từng khối sẽ lên kế hoạch, phương án khối mình, đồng thời tham mưu cho Quận uỷ ra những nghị quyết chuyên đề cần thiết. Quận uỷ phải có chươn gtrình hoạt động toàn khoá.

Yêu cầu chỉ đạo phải toàn diện, khẩn trương đồng bộ, cụ thể, kiên quyết, kịp thời và hiệu quả. Phương châm chỉ đạo là chủ động, sáng tạo, tháo gỡ, kỷ luật và chất lượng. Phương pháp chỉ đạo là từ điểm ra diện, thường xuyên sơ tổng kết rút kinh nghiệm, xây dựng và nhân điển hình tiên tiến. Khẩu hiệu hành động toàn Đảng bộ là: “Tất cả cho sản xuất, tất cả cho cơ sở, tất cả vì đời sống và hạnh phúc của nhân dân” lấy đó làm thước đo phẩm chất đạo đức và năng lực của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên.

Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận 3 lần thứ IV diễn ra trong tình hình Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố và đại hội đại biểu toàn quốc chưa tiến hành. Vì vậy những phương hướng mục tiêu và các mặt công tác cụ thể chắc chắn phải có bổ sung mới hoàn chỉnh theo yêu cầu của TW và Thành phố. Đại hội giao nhiệm vụ này cho BCH Đảng bộ khoá IV thực hiện.

Thực hiện thắng lợi nghị quyết trên đây, đòi hỏi sự nỗ lực vược bậc của toàn thể cán bộ đảng viên và nhân dân trong Quận. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành các cấp, tích cực đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, phong cách và lề lối làm việc, tổ chức cán bộ, thấm nhuần các bài học lấy dân làm gốc, nắm vững và vận dụng đúng đắng quy luật khách quan, nhằm tạo cho được phong trào hành động cách mạng của quần chúng, nhất định chúng ta sẽ hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang.

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ QUẬN 3

Thông báo