BÁO CÁO CHÍNH TRỊ
CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ QUẬN 8 (KHÓA VIII)
TRÌNH ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ QUẬN 8 LẦN THỨ IX (2005 - 2010)
--------------------
Việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận lần thứ VIII diễn ra trong những thuận lợi: Giữ vững sự ổn định chính trị, kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển; nhiều công trình quan trọng được xây dựng; các nguồn lực xã hội được khai thác, đời sống của nhân dân có sự cải thiện khá hơn. Song, nhiều khó khăn đặt ra phải giải quyết: khoảng cách phát triển giữa khu đô thị mới và cũ còn lớn; hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa tương xứng yêu cầu phát triển; nhiều vấn đề bức xúc về đời sống, việc làm, trình độ học vấn, tay nghề lao động, di dời, tái định cư, vệ sinh môi trường, …
Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận lần thứ IX có nhiệm vụ đánh giá đúng những thành tựu đạt được trong 5 năm qua, chỉ rõ những tồn tại, yếu kém và rút ra nguyên nhân - kinh nghiệm thực tiễn; xác định phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp chủ yếu trong 5 năm tới (2005-2010) để Quận 8 tiếp tục phát triển theo hướng văn minh và hiện đại.
Phần thứ nhất
NHỮNG BIẾN ĐỔI CHỦ YẾU CỦA QUẬN 8 TRONG 5 NĂM QUA (2000-2005)
A. NHỮNG THÀNH TỰU
I/ VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN QUẬN
1/ Kinh tế tiếp tục phát triển gắn với tiến trình đô thị hóa và theo quy hoạch tổng mặt bằng được duyệt
Cơ cấu kinh tế quận ngày càng chuyển dịch mạnh hơn theo hướng thương mại, dịch vụ – công nghiệp.
Hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển mạnh với nhiều loại hình đa dạng, phong phú phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, đời sống xã hội, số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tăng gấp rưỡi (11475 so với 7218 doanh nghiệp); trong đó số doanh nghiệp hoạt động thương mại, dịch vụ chiếm tỷ trọng 78,26% với tổng mức hàng hóa bán ra và dịch vụ tăng bình quân 22,47%/năm (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội là 14 – 15%/năm). Đã đầu tư sửa chữa, nâng cấp và xây dựng mới các chợ Xóm Củi, Rạch Ông, Phạm Thế Hiển, Nguyễn Chế Nghĩa, Nhị Thiên Đường, Bình Đông, Rạch Cát, Hưng Phú…; triển khai dự án chuyển đổi công năng chợ Bình Đăng thành trung tâm thương mại – dịch vụ, sắp xếp ổn định và phân cấp quản lý các chợ theo chủ trương chung.
Tốc độ tăng về giá trị sản xuất công nghiệp bình quân đạt 23,17%/năm (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội là 12-15%). Tiềm năng của các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân được khơi dậy, chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngành công nghiệp tuy chỉ chiếm 18,13% trong cơ cấu nhưng hoạt động ổn định, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động. Các doanh nghiệp đã chú trọng hơn đến việc đổi mới trang thiết bị, quy trình công nghệ, xây dựng thương hiệu; tập trung là các ngành may, da-giày, nhựa, cơ khí, hóa chất, điện-điện tử,.. để nâng sức cạnh tranh của sản phẩm. Kinh tế hợp tác, hợp tác xã được quan tâm chỉ đạo củng cố, xây dựng; đã giải quyết cơ bản tình trạng yếu kém kéo dài, phát triển thêm được 6 hợp tác xã mới hoạt động có hiệu quả.
Do tiến trình đô thị hóa, diện tích đất sản xuất nông nghiệp giảm mạnh, nông dân đã chuyển sang hướng làm ăn mới như dịch vụ, kinh doanh, phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thay đổi cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Bộ mặt nông thôn quận 8 thay đổi mạnh theo hướng đô thị, trở thành các khu công nghiệp, thương mại – dịch vụ và khu dân cư mới, đời sống vật chất, tinh thần người dân ở khu vực nông nghiệp có nhiều cải thiện.
Tiến trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, diện mạo đô thị của quận 8 có sự thay đổi đáng kể.
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế – xã hội được tập trung đầu tư. Hệ thống giao thông được cải thiện, hình thành các tuyến đường chính kết nối với trung tâm thành phố và khu đô thị mới Nam Sài Gòn như đường trục Tạ Quang Bửu, cầu đường Nguyễn Tri Phương, Chánh Hưng, Nhị Thiên Đường 2; hệ thống đường nội bộ ở các khu dân cư được nâng cấp, các hẻm chính được bê-tông hóa; cải tạo lề đường Tùng Thiện Vương, Hưng Phú, hệ thống thoát nước đường Phạm Thế Hiển, Bông Sao, cống xả đường Âu Dương Lân. Việc triển khai các chương trình chỉnh trang đô thị, xây dựng các trục đường, cầu giao thông trọng yếu, giải tỏa 1.605 căn nhà trên kênh rạch, gắn với việc tái định cư, xây dựng các khu dân cư mới, nhà ở cho người có thu nhập thấp (như khu dân cư Bùi Minh Trực, Chánh Hưng, Bông Sao, Đồng Diều, Phú Lợi, Bình Đăng...) và hệ thống cơ sở vật chất của ngành giáo dục được quan tâm đầu tư đã làm bộ mặt và mỹ quan đô thị của quận ngày càng khang trang hơn.
Công tác quy hoạch và quản lý, thực hiện theo quy hoạch có tiến bộ. Đã điều chỉnh và lập mới quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2000 ở các phường và một số khu vực quy hoạch trước đây không còn phù hợp; ban hành quy chế quản lý đầu tư xây dựng các công trình thuộc nguồn vốn ngân sách tập trung phân cấp cho quận; tổ chức công bố lộ giới hẻm; thành lập các tổ, đội quản lý trật tự đô thị và tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đất đai, xây dựng, xử lý tình trạng lấn chiếm đất công, san lấp kênh rạch, xây dựng bất hợp pháp, thu hồi đất các dự án không thực hiện; đảm bảo việc xử lý rác, giữ gìn vệ sinh đường phố, từng bước khắc phục ô nhiễm môi trường.
Mức đầu tư phát triển trên địa bàn từ nguồn ngân sách Thành phố tập trung, vốn phân cấp giao về cho quận và vốn ngân sách quận trong 5 năm qua đạt 673,099 tỷ đồng với 139 dự án, công trình. Hoạt động đầu tư của các thành phần kinh tế tăng mạnh (tổng vốn đầu tư khoảng 1400 tỷ đồng), đã góp phần phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống nhân dân và thúc đẩy tiến trình đô thị hóa của quận.
Việc cân đối, điều hành ngân sách đảm bảo theo luật định, đáp ứng tốt nhiệm vụ chi thường xuyên và phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội. Công tác quản lý thu ngân sách nhà nước có nhiều tiến bộ, nguồn thu được tập trung vào ngân sách kịp thời, tăng bình quân 19,34%/năm, góp phần tăng quy mô ngân sách địa phương. Cơ cấu chi được bố trí hợp lý, dành tỷ lệ thích hợp cho đầu tư phát triển, chú trọng thực hành tiết kiệm, hạn chế tình trạng dàn đều, kém hiệu quả.
2/ Việc chăm lo đời sống nhân dân và các mặt văn hóa – xã hội cóbước phát triển mới
Đời sống nhân dân được cải thiện hơn, việc thực hiện chính sách xã hội đạt nhiều kết quả. Đã giải quyết việc làm cho hơn 8.300 lao động/năm (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội là 8.000 lao động/năm); con em gia đình chính sách, diện xóa đói giảm nghèo, bộ đội xuất ngũ được quan tâm hỗ trợ kinh phí học nghề, tạo việc làm. Chương trình xóa đói giảm nghèo được đẩy mạnh với nhiều biện pháp tổng hợp, đã giảm mạnh số hộ nghèo từ 9,5% (năm 2001) xuống còn 0,53% theo tiêu chí cũ (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra là 5%) và đang thực hiện giảm nghèo theo tiêu chí mới.
Phong trào đền ơn đáp nghĩa, các chế độ chính sách xã hội được thực hiện đầy đủ kịp thời, đã góp phần nâng đời sống của những người có công với nước, các gia đình thương binh, liệt sĩ ngang bằng với mức sống trung bình của dân cư. Nhu cầu về nhà ở của các gia đình chính sách được giải quyết cơ bản (xây dựng và sửa chữa 108 căn nhà tình nghĩa); tất cả các Bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống đều được phụng dưỡng, nhiều thương binh nặng được đỡ đầu. Từ nguồn quỹ “Vì người nghèo” đã góp phần xây dựng 190 căn nhà tình thương và sửa chữa chống dột, chống ngập cho hàng trăm hộ dân nghèo; cấp học bổng cho 12.000 lượt học sinh nghèo... Các hoạt động xã hội nhân đạo, cứu trợ đồng bào bị thiên tai, hỏa hoạn, đời sống đồng bào vùng căn cứ cách mạng cũ cũng được quan tâm chăm lo khá tốt.
Công tác giáo dục có chuyển biến. Đã đầu tư nâng cấp và xây dựng mới 27 trường (trong đó có 2 trường cấp III, 1 trường tiểu học Nguyễn Trung Ngạn đạt chuẩn quốc gia), bổ sung trang thiết bị dạy học, phát triển các loại hình trường lớp mầm non tư thục, dân lập, các nhóm trẻ gia đình, Cơ bản hoàn thành việc tách cấp các trường phổ thông cơ sở;5/21trường tiểu học và 5/11 trường trung học cơ sở có lớp 2 buổi/ngày; tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học và trung học cơ sở hàng năm đều tăng; tỷ lệ trẻ 6 tuổi ra lớp đạt 99%, trẻ 5 tuổi học mẫu giáo đạt 77%. Giữ vững kết quả chống mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Ngành giáo dục có nhiều nỗ lực mở rộng quy mô giáo dục đáp ứng yêu cầu đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ quản lý về trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức; nâng chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh về đạo đức, thể chất và xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, ngăn chặn tệ nạn ma túy xâm nhập học đường.
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ hướng mạnh vào việc phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Số lượng gia đình, cơ quan, trường học tham gia phong trào xây dựng gia đình và đơn vị văn hóa ngày càng tăng. Đến cuối năm 2005, có 30 khu phố đạt chuẩn khu phố văn hóa, 1 phường đạt chuẩn phường văn hóa, 2 chợ đạt danh hiệu chợ văn minh. Công tác bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa, phát triển văn hóa của đồng bào các dân tộc, các loại hình văn hóa truyền thống ca nhạc tài tử, cải lương, thơ… được chú trọng; hướng dẫn các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo đúng pháp luật, hạn chế được các vi phạm trong hoạt động dịch vụ, kinh doanh văn hóa. Các thiết chế văn hóa, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động văn hóa, thể dục thể thao được đầu tư, như Trung tâm thể dục thể thao, sân bóng đá, đường chạy, phòng tập thể thao, nhà văn hóa, các điểm sinh hoạt văn hóa ở các khu dân cư, hệ thống trạm phát thanh, bản tin nội bộ ở cơ sở…, đã góp phần phát triển hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao sâu rộng ở cơ sở.
Phong trào thể dục thể thao trong thanh thiếu niên, học sinh, cán bộ công chức và người cao tuổi phát triển rộng, số người tập luyện thường xuyên đạt 16% tổng số dân; các bộ môn thể thao phát triển tương đối đều và đa dạng hơn. Lực lượng vận động viên năng khiếu được quan tâm bồi dưỡng, góp phần cung cấp vận động viên tài năng cho quận và Thành phố.
Công tác dân số và chăm lo sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ. Ý thức của người dân về HIV/AIDS, ma túy và phòng chống dịch bệnh, bảo vệ môi trường được nâng lên. Cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư khá hiện đại sau khi xây dựng mới Trung tâm y tế, Phòng khám đa khoa Rạch Cát và nâng cấp một số trạm y tế phường, có 10/16 phường đạt chuẩn quốc gia về y tế đã góp phần nâng chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân của tuyến y tế cơ sở. Các hoạt động chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, trẻ em khuyết tật, người cao tuổi được quan tâm thực hiện tốt; khống chế được tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên còn 0,964% (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội là 1,1%).
3/ Nhiệm vụ quốc phòng – an ninh và hoạt động tư pháp được tập trung thực hiện có kết quả
Tình hình an ninh chính trị luôn được giữ vững và ổn định. Ý thức cảnh giác cách mạng, tinh thần chủ động phòng ngừa đấu tranh chống các âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong cán bộ, đảng viên và nhân dân được thường xuyên củng cố; công tác bảo vệ an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa, an ninh nội bộ được tăng cường hơn; kịp thời giải quyết các vụ khiếu nại, kiến nghị của nhân dân có liên quan đến công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng... nên không để phát sinh thành điểm nóng.
Tình hình trật tự xã hội có chuyển biến. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được duy trì và phát triển với nhiều mô hình tự quản trong nhân dân. Các hoạt động liên tịch, mối quan hệ hiệp đồng chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang, Mặt trận, các đoàn thể trong giữ gìn an ninh - trật tự ngày càng chặt chẽ. Đã ngăn chặn, kéo giảm các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, ma túy, đưa hơn 2000 người nghiện ma túy vào các trường cai nghiện; chuyển hóa cơ bản các địa bàn trọng điểm phức tạp về ma túy.
Công tác xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân đảm bảo theo yêu cầu và ngày càng vững mạnh. Công tác quốc phòng – quân sự địa phương đạt nhiều tiến bộ trong hiệp đồng tác chiến trị an, phòng chống tội phạm, xây dựng và thực hành các phương án, kế hoạch diễn tập phòng thủ, phương án phòng chống gây rối, biểu tình, bạo loạn, lật đổ. Công tác tuyển gọi công dân nhập ngũ hàng năm đều đạt chỉ tiêu và ngày càng nâng lên về chất lượng chính trị.
Tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang được tập trung củng cố, kiện toàn và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đã chú trọng hơn việc tổ chức bồi dưỡng lực lượng an ninh cơ sở, mạng lưới quân báo nhân dân; xây dựng lực lượng thường trực đủ quân số, số lượng dân quân tự vệ đạt 3% tổng số dân; thường xuyên tổ chức huấn luyện lực lượng thường trực và dự bị động viên nâng trình độ khả năng sẵn sàng chiến đấu, hội thao quốc phòng. Công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ chủ chốt và giáo dục quốc phòng toàn dân trong quần chúng, thanh niên, học sinh được quan tâm thực hiện.
Cải cách tư pháp đạt kết quả bước đầu. Công tác điều tra, truy tố, xét xử,thi hành án dân sự có chuyển biến; tỷ lệ điều tra khám phá án được nâng lên, tránh được oan sai; trụ sở làm việc của ngành tòa án, công an được đầu tư xây dựng, nâng cấp, đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp được củng cố, bồi dưỡng nâng lên về trình độ, năng lực.
II. VỀ XÂY DỰNG, KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1/ Sức chiến đấu và năng lực hoạt động thực tiễn của Đảng bộ được nâng lên theo yêu cầu mới
Công tác chính trị tư tưởng được tăng cường thường xuyên. Đã tổ chức sâu rộng việc học tập, quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, chủ nghĩa Mác–Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bồi dưỡng đạo đức cách mạng, kiến thức pháp luật, giáo dục truyền thống và thông tin rộng rãi tình hình đất nước, địa phương cho đội ngũ cán bộ đảng viên, cán bộ hưu trí, cựu chiến binh và các giới quần chúng. Hình thức tuyên truyền giáo dục phong phú, sinh động, hướng mạnh về cơ sở, lắng nghe ý kiến của cán bộ, đảng viên và quần chúng. Công tác nắm, xử lý và điều chỉnh dư luận xã hội được cải tiến kịp thời. Phát huy được hiệu quả hoạt động của Trung tâm bồi dưỡng chính trị, góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và chuẩn hóa cán bộ. Nhiều cán bộ, đảng viên thể hiện sự nêu gương trong học tập nâng cao trình độ, năng lực hoạt động thực tiễn, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và Chỉ thị 15 của Thành ủy. Do vậy, sự đoàn kết thống nhất về tư tưởng trong toàn Đảng bộ được giữ vững và phát huy, niềm tin của nhân dân vào sự phát triển của đất nước, Thành phố, quận dưới sự lãnh đạo của Đảng được củng cố và nâng cao.
Công tác tổ chức và cán bộ có nhiều tiến bộ. Đã tiến hành đồng bộ quy trình đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sắp xếp cán bộ, khắc phục một bước tình trạng đào tạo tràn lan, tạo điều kiện đưa dần đội ngũ cán bộ dự bị vào vị trí kế cận, nhất là cán bộ nữ, trẻ; hoàn thành công tác quy hoạch cán bộ dự bị các chức danh diện Quận ủy, Thành ủy quản lý đến năm 2010 và nguồn cán bộ dự bị dài hạn, cán bộ trẻ cho những năm tiếp theo. Công tác cán bộ nữ được quan tâm thực hiện; tỉ lệ cán bộ nữ chủ chốt tăng (cấp quận chiếm 26,86%, cấp phường là 18,52%). Đã quyết định đề bạt, luân chuyển 252 cán bộ lãnh đạo, quản lý; đa số cán bộ sau luân chuyển đều phát huy nhiệm vụ được phân công. Đội ngũ cán bộ luôn được bồi dưỡng, nâng cao trình độ học vấn, lý luận chính trị theo yêu cầu chuẩn hóa; có 61,16% đội ngũ cán bộ chủ chốt quận và cơ sở có trình độ chuyên môn nghiệp vụ đại học, 62,42% có trình độ lý luận cao cấp chính trị trở lên.
Cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) được tập trung thực hiện. Chất lượng hoạt động của các cơ sở đảng có nhiều tiến bộ; nhiều cấp ủy chú trọng thực hiện chế độ tự phê bình – phê bình, đảm bảo dân chủ trong sinh hoạt, giữ vững sự đoàn kết thống nhất, kịp thời chấn chỉnh những biểu hiện tiêu cực, mất đoàn kết nội bộ; trực tiếp phân công đảng viên làm công tác quần chúng, công tác xã hội. Hàng năm, số lượng đảng viên đủ tư cách, cơ sở đạt trong sạch vững mạnh đều tăng; từ năm 2002 đến nay không còn cơ sở yếu kém. Các tổ chức Đảng trong trường học, công an, quân sự trực thuộc Đảng bộ phường sau thành lập đã thể hiện được vai trò lãnh đạo, làm tốt công tác phát triển đảng; sắp xếp và phát triển 7 chi bộ khu vực ngoài quốc doanh theo Chỉ thị 11-CT/TU, trong đó hình thành 2 chi bộ doanh nghiệp tư nhân.
Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị quận được sắp xếp, kiện toàn, thể hiện rõ chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình cơ sở, kịp thời chấn chỉnh những vướng mắc trong quan hệ phối hợp. Hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở phường có nhiều tiến bộ về hiệu quả công tác và chất lượng tổ chức bộ máy, phát huy được vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, hiệu lực quản lý của chính quyền và vai trò nòng cốt của Mặt trận, các tổ chức quần chúng; hoạt động của các chi bộ khu phố cũng có sự tiến bộ, giải quyết kịp thời nhiều vấn đề đặt ra tại cơ sở.
Công tác phát triển đảng viên mới có chuyển biến tích cực. Các cấp ủy chú ý hơn công tác tạo nguồn, bồi dưỡng đối tượng. Đã kết nạp được 476 đảng viên mới, tăng 71,22% so với nhiệm kỳ VII; chuyển biến nhất là khu vực phường, lực lượng vũ trang, dân quân, thanh niên sẵn sàng nhập ngũ, trường học.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được chỉ đạo thực hiện đúng theo Quy định 75-QĐ/TW, phục vụ tốt yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác cán bộ và phát triển đảng viên mới.
Công tác kiểm tra của Đảng được tiến hành có trọng tâm, trọng điểm gắn với việc thực hiện chuyên đề ”Tăng cường công tác giáo dục, quản lý và kiểm tra nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” nhằm giữ gìn kỷ cương, kỷ luật của Đảng, bảo vệ sự đoàn kết thống nhất của Đảng bộ. Hàng năm, Đảng bộ đều tổ chức kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng ở cơ sở; việc chấp hành nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kiểm tra ngăn ngừa tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, quy định về những điều đảng viên không được làm; công tác chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm; tích cực giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo không để tồn đọng. Năm năm qua, ủy ban kiểm tra đã tiến hành kiểm tra 10 lượt cơ sở đảng, 39 lượt cấp ủy viên, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; xử lý kỷ luật 123 cấp ủy viên, đảng viên, 2 tập thể đảng ủy, 1 chi ủy, tăng so nhiệm kỳ trước.
Phương thức lãnh đạo và hoạt động của Quận ủy tiếp tục được đổi mới. Đảng bộ chú trọng hơn về tính thuyết phục và nêu gương trong quá trình lãnh đạo; đồng thời tăng cường kiểm tra chính quyền và cơ sở trong việc cụ thể hóa thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng và công tác cán bộ. Quy trình xây dựng nghị quyết được cải tiến theo hướng sát thực tế, có tính khả thi cao; trong tổ chức thực hiện không dàn đều, biết xác định những vấn đề quan trọng, bức xúc nhất để tập trung chỉ đạo. Xây dựng và thực hiện tốt quy chế làm việc, thể hiện vai trò lãnh đạo toàn diện, tạo mọi điều kiện để phát huy tính chủ động, trí tuệ, sáng tạo của chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể và nêu cao trách nhiệm cá nhân của từng cấp ủy viên; tăng cường chế độ đi cơ sở, làm việc với cơ sở, kịp thời phát hiện và xử lý những khó khăn, vướng mắc nảy sinh từ cơ sở.
2/ Hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước có nhiều tiến bộ
Hội đồng nhân dân Quận, phường hoạt động ngày càng hiệu quả, thể hiện vai trò cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Những quyết định của hội đồng nhân dân đều thiết thực, tác động tốt đến sự phát triển kinh tế – xã hội, an ninh trật tự của địa phương. Thường trực Hội đồng nhân dân và các Ban của Hội đồng nhân dân thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền, việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân, chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước và chấn chỉnh thiếu sót của các cơ quan, đơn vị. Đa số đại biểu thể hiện tốt trách nhiệm, phát huy vai trò giám sát và đề xuất với chính quyền giải quyết các kiến nghị, nhu cầu bức xúc của cử tri, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan dân cử và tăng cường pháp chế, trật tự kỷ cương trên địa bàn.
Hoạt động của bộ máy nhà nước có chuyển biến tích cực theo hướng đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, điều hành. Các thủ tục hành chính được sửa đổi, công khai hóa và giải quyết nhanh hơn, đáp ứng được nhu cầu phục vụ nhân dân. Các cơ quan nhà nước duy trì nề nếp chế độ tiếp dân, tăng cường giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc thẩm quyền. Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ cơ sở, những vấn đề bức xúc của nhân dân trên địa bàn dân cư đều được chính quyền các cấp quan tâm giải quyết, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia phát triển địa phương, góp phần củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, chính quyền và nhân dân.
Ủy ban nhân dân quận có nhiều đổi mới về chỉ đạo, điều hành theo hướng sát dân, giảm hội họp, giải quyết kịp thời những khó khăn của cơ sở và vướng mắc của doanh nghiệp. Tổ chức có hiệu quả việc phân công, phân cấp đối với phường, các phòng ban trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ; phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng Thành phố và tranh thủ được sự hỗ trợ của Thành phố tháo gỡ khó khăn cho quận. Công tác thanh tra, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm được tăng cường, nhất là ở lĩnh vực quản lý quy hoạch, sử dụng đất đai, xây dựng, tài chính, xử lý nghiêm những hành vi sai phạm.
Tổ chức bộ máy chính quyền quận, phường được củng cố, kiện toàn thông qua thực hiện chủ trương khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính. Đội ngũ cán bộ công chức được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học và chuyên môn nghiệp vụ theo hướng chuẩn hóa; có ý thức kỷ luật, phong cách và tinh thần phục vụ nhân dân. Sự phối hợp giữa thường trực Hội đồng nhân dân – Ủy ban nhân dân – Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng, mối quan hệ phối hợp, liên tịch giữa các cơ quan chức năng và phường ngày càng chặt chẽ hơn.
3/ Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp phát triển của địa phương được phát huy có hiệu quả
Việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường. Trong đó, chú trọng phát huy năng lực trí tuệ, vốn, tay nghề, kinh nghiệm của trí thức, doanh nhân, người Hoa, đồng bào các tôn giáo, góp phần giải quyết các nhu cầu học hành, giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc… Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên đã mở rộng việc tập hợp lực lượng, các hội nghề nghiệp theo nhu cầu, sở thích. Phối hợp tốt với chính quyền thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị về quy chế dân chủ cơ sở, giúp nhân dân hiểu được chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao ý thức làm chủ trong tham gia giám sát hoạt động của chính quyền và chủ động giải quyết những vấn đề bức xúc tại địa bàn dân cư.
Mặt trận, các đoàn thể có nhiều cố gắng trong việc đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động, tích cực chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể đã hướng mạnh về cơ sở, khu dân cư, tổ chức các phong trào, các cuộc vận động xã hội đạt được kết quả thiết thực, như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, người tốt việc tốt, đóng góp xây dựng hẻm, đền ơn đáp nghĩa, giúp nhau làm kinh tế gia đình, giúp đỡ người nghèo, phòng chống ma túy, tệ nạn xã hội, khuyến học, xây dựng nếp sống văn minh đô thị, phong trào tình nguyện của thanh niên…
Bộ máy tổ chức Mặt trận, các đoàn thể được củng cố, cán bộ làm công tác quần chúng được quan tâm bồi dưỡng, bổ sung; trình độ năng lực, bản lĩnh công tác được nâng lên. Các đoàn thể đã thực hiện đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội về xây dựng tổ chức: tập hợp hơn 70% người lao động vào tổ chức công đoàn, xây dựng 80% công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh ở các doanh nghiệp có đủ điều kiện; hơn 30% thanh niên vào các loại hình tổ chức, trong đó có 10% là đoàn viên thanh niên cộng sản; phát triển hội viên phụ nữ đạt 45% tổng số phụ nữ toàn quận. Việc xây dựng lực lượng nòng cốt chính trị trong các giới quần chúng được chú trọng, đã giới thiệu nhiều quần chúng ưu tú cho Đảng.
B. NHỮNG TỒN TẠI, YẾU KÉM
1/ Về kinh tế – xã hội
Sức cạnh tranh của nhiều sản phẩm còn thấp; tỉ trọng đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp chưa nhiều. Kinh tế hợp tác và hợp tác xã còn nhiều lúng túng trong chuyển đổi mô hình hoạt động mới. Mạng lưới thương mại chưa phát triển phù hợp với tiến trình đô thị hóa.
Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển, nhất là hệ thống đường trục, các tuyến đường chính chưa được đầu tư nâng cấp. Việc chỉnh trang đô thị ở một số khu vực trung tâm quận triển khai chậm. Tình trạng ngập nước ở một số khu vực chưa được cải thiện (phường 15, 16); công tác tái định cư, giải quyết nhà ở cho người có thu nhập thấp, việc bồi thường giải phóng mặt bằng các công trình trọng điểm còn khó khăn. Công tác quy hoạch, quản lý thực hiện quy hoạch còn một số mặt chưa tốt (tình trạng vi phạm có lúc có nơi không giảm, hiệu lực các quyết định xử lý vi phạm chưa nghiêm, nhiều dự án đầu tư chậm triển khai chưa kiên quyết xử lý…).
Đời sống của một bộ phận nhân dân và gia đình chính sách còn khó khăn, nhất là nguy cơ tái nghèo của các hộ trong chương trình giảm nghèo cần được tập trung cải thiện. Chất lượng giáo dục có tiến bộ nhưng chưa tương xứng với mức tập trung đầu tư cơ sở vật chất; công tác phổ cập giáo dục bậc trung học chưa được tập trung thực hiện. Phong trào xây dựng đời sống văn hóa phát triển rộng, nhưng các loại hình hoạt động văn hóa văn nghệ chưa thật đa dạng. Ý thức chấp hành pháp luật, xây dựng nếp sống văn minh đô thị của người dân trong giữ gìn vệ sinh môi trường, trật tự giao thông đô thị còn hạn chế.
2/ Về quốc phòng – an ninh và hoạt động tư pháp
Tuy có cố gắng thực hiện nhiều biện pháp đấu tranh quyết liệt với các loại tội phạm, song do có một số người tha hóa dung dưỡng, bao che nên có nơi chưa kịp thời phát hiện, đấu tranh với bọn tội phạm cờ bạc có tổ chức; công tác điều tra khám phá án có nâng lên nhưng chưa đạt chỉ tiêu. Công tác giáo dục ý thức quốc phòng còn có mặt hạn chế về hiệu quả và tác dụng; chất lượng chính trị của lực lượng dân quân còn thấp. Hoạt động các cơ quan tư pháp của quận chuyển biến chưa thật mạnh mẽ, số lượng án dân sự, thi hành án dân sự còn tồn đọng khá lớn.
3/ Về củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị
Sự chuyển biến trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở chưa đều. Một số cấp ủy Đảng trong chỉ đạo thiếu quyết tâm, thực hiện còn dàn đều, chưa đột phá vào khâu trọng tâm, tạo ra những mô hình tốt trong công tác xây dựng Đảng. Vai trò của tổ chức đảng ở các doanh nghiệp tư nhân còn hạn chế, chủ yếu tập trung cho sản xuất kinh doanh, chưa chú trọng đến công tác đảng và đoàn thể.
Công tác quy hoạch, tạo nguồn, luân chuyển cán bộ ở cơ sở gặp nhiều khó khăn, nhất là quy hoạch cán bộ dài hạn phục vụ cho việc chuyển tiếp các thế hệ cán bộ. Một bộ phận cán bộ đảng viên trình độ, năng lực yếu không theo kịp yêu cầu nhiệm vụ mới, ý thức rèn luyện, giữ gìn kỷ luật kém dẫn đến tình hình cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, bị xử lý kỷ luật có năm tăng.
Công tác phối hợp trong quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân còn nhiều mặt chưa chặt chẽ. Việc quản lý quy hoạch, đất đai, xây dựng chưa theo kịp yêu cầu. Tổ chức bộ máy và hoạt động của Nhà nước còn nhiều bất cập trước yêu cầu, nhiệm vụ.
Nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể tuy có nhiều cố gắng đổi mới nhưng vẫn chưa theo kịp tình hình; tập hợp quần chúng vào tổ chức chưa cao, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các phong trào thi đua yêu nước phát triển thiếu tính liên tục và chưa trở thành ý thức tự giác của quần chúng, những mô hình, điển hình chưa được chú ý nhân rộng. Tổ chức bộ máy, cán bộ của Mặt trận và các đoàn thể, nhất là hệ thống chân rết một số cơ sở còn yếu; chất lượng lực lượng chính trị nòng cốt chưa như yêu cầu. Vai trò giám sát hoạt động cơ quan Nhà nước, cán bộ công chức trong thực thi nhiệm vụ, vận động nhân dân tham gia đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí còn hạn chế.
C. NGUYÊN NHÂN – KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
Trên cơ sở kiểm điểm những thành tựu và những tồn tại, yếu kém trong nhiệm kỳ qua, Đảng bộ rút ra một số vấn đề vừa là nguyên nhân, vừa là kinh nghiệm thực tiễn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo như sau :
1/ Luôn quan tâm củng cố và phát huy tốt sự đoàn kết thống nhất về tư tưởng và hành động của toàn Đảng bộ. Đây là nhân tố có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thực hiện Nghị quyết đại hội. Sự đoàn kết phải trên cơ sở tổ chức quán triệt sâu rộng nghị quyết của Đảng để không ngừng nâng cao nhận thức cho cán bộ đảng viên và quần chúng; thường xuyên tiến hành xây dựng và chỉnh đốn Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ đáp ứng kịp thời yêu cầu của tình hình mới; chú trọng phát huy dân chủ trong Đảng, trong nhân dân, thực hiện tự phê bình và phê bình nhằm tạo sự nhất trí cao trong nội bộ, quan hệ gắn bó giữa cấp ủy và chính quyền, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các ban, ngành và Mặt trận, đoàn thể là kinh nghiệm quý giá cần được giữ gìn và phát triển.
2/ Sự năng động, sáng tạo trong tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội là yếu tố mang tính quyết định. Phải biết cụ thể hóa nghị quyết đại hội Đảng cấp trên và của cấp mình thành những chương trình hành động, kế hoạch với những giải pháp cụ thể, sát đúng, có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, phù hợp. Việc chỉ đạo, điều hành của chính quyền phải kiên quyết và hiệu quả. Đồng thời, phải thường xuyên thực hiện công tác kiểm tra nhằm kịp thời phát huy tính chủ động của cơ sở và cán bộ, phát hiện nhân tố mới để nhân rộng, giải quyết tốt những vấn đề mới nảy sinh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc ngay từ cơ sở.
3/ Lực lượng, tiềm năng của quần chúng nhân dân là vô cùng to lớn. Phải làm tốt công tác vận động quần chúng nhằm tác động khai thác tiềm năng đó một cách có hiệu quả, gắn với việc bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của quần chúng thì sẽ phát huy được nguồn lực to lớn trong nhân dân vào phát triển kinh tế – xã hội, giải quyết những vấn đề bức xúc đặt ra trong quá trình tổ chức hoạt động thực tiễn.
4/ Quận 8 là quận nội thị còn nhiều khó khăn. Để tăng tốc phát triển theo hướng văn minh, hiện đại, cùng với việc phát huy tốt nội lực và các nguồn lực trong dân, sự quan tâm hỗ trợ của Thành phố luôn là điều kiện cần thiết cho sựphát triển của địa phương.
Phần thứ hai
TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN QUẬN 8
THEO HƯỚNG VĂN MINH, HIỆN ĐẠI TRONG GIAI ĐOẠN 2005 – 2010
Năm năm tới là thời kỳ có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của địa phương. Những thuận lợi, thời cơ mới mở ra như sự phân cấp rộng hơn của Thành phố đối với quận, nhiều dự án đầu tư quy mô lớn của Thành phố triển khai trên địa bàn quận,… cùng đan xen với những thử thách, khó khăn, nhất là về đời sống, việc làm, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng xây dựng các công trình trọng điểm trên địa bàn và giải quyết tái định cư, nhà ở cho người có thu nhập thấp, áp lực gia tăng dân số cơ học, an ninh trật tự, ô nhiễm môi trường… Tình hình đó, đòi hỏi Đảng bộ phải phát huy cao tính năng động sáng tạo, quyết tâm và có những giải pháp đột phá nhằm tăng tốc sự phát triển của quận theo hướng văn minh, hiện đại.
I. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU CHUNG:
1/ Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế quận theo hướng thương mại, dịch vụ – công nghiệp gắn với đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa, phấn đấu hoàn chỉnh đô thị hóa các phường có đất nông nghiệp. Ưu tiên đầu tư phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế – xã hội, nhất là hệ thống đường giao thông kết nối các trục đường chính nhằm tạo sự lưu thoát giao thông trong quận và giữa quận với các nơi khác; từng bước chỉnh trang khu đô thị hiện hữu.
2/ Tiếp tục cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; hoàn thành cơ bản chương trình giảm nghèo theo tiêu chí mới. Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa, làm chuyển biến mạnh mẽ các hoạt động văn hóa – xã hội.
3/ Giữ vững ổn định chính trị, tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc, làm chuyển biến mạnh mẽ tình hình trật tự an toàn xã hội.
II. NHỮNG NHIỆM VỤ, CHỈ TIÊU CHỦ YẾU VỀ KINH TẾ – XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG – AN NINH
1/ Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế quận theo hướng thương mại, dịch vụ - công nghiệp
Phát triển thương mại, dịch vụ phải gắn liền với định hướng quy hoạch dân cư, quy hoạch mạng lưới trung tâm thương mại - chợ - siêu thị và việc hình thành Trung tâm thương mại Bình Điền, cảng sông Phú Định của Thành phố. Thúc đẩy phát triển mạnh các loại hình thương mại – dịch vụ cảng, kho bãi, kinh doanh bất động sản, thông tin, chuyển giao kỹ thuật và công nghệ, tư vấn pháp lý, dịch vụ công ích phục vụ đời sống công cộng,… Hạn chế và kiểm soát chặt hoạt động các ngành dịch vụ văn hóa nhạy cảm. Gắn sản xuất với thương mại để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất mở rộng thị trường, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Phấn đấu đạt tốc độ tăng bình quân về thương mại - dịch vụ (tổng mức hàng hóa bán ra và dịch vụ) từ 23 - 25%/năm.
Phát triển sản xuất công nghiệp trên cơ sở tăng cường hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, phát huy mạnh mẽ khả năng đầu tư và phát triển khu vực kinh tế dân doanh, tăng gấp đôi số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hàng năm, phấn đấu đạt mức tăng trưởng từ 15 - 17%/năm. Tạo điều kiện phát huy mạnh mẽ tiềm năng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sản xuất sạch không gây ô nhiễm môi trường, các ngành có ưu thế về xuất khẩu và thu hút nhiều lao động như may mặc, giấy, nhôm, nhựa, điện, điện tử và chế biến thực phẩm. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới quy trình công nghệ và quản trị doanh nghiệp, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế. Tiếp tục củng cố, tạo điều kiện cho các hợp tác xã chuyển đổi phương thức tổ chức và hoạt động hiệu quả hơn; khuyến khích phát triển các hình thức kinh tế hợp tác phù hợp với thị trường và tiến trình đô thị hóa củaquận.
Trên cơ sở phát triển kinh tế, phấn đấu thực hiện thu ngân sách Nhà nước đạt tốc độ tăng bình quân từ 12%/năm. Đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong chi tiêu ngân sách, sử dụng tài sản công, đầu tư xây dựng, quản lý sử dụng đất đai nhằm mục tiêu tăng tích lũy ngân sách phục vụ yêu cầu đầu tư phát triển, thực hiện các chính sách xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
2/ Tiếp tục đầu tư thực hiện tiến trình đô thị hóa
Tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế – xã hội phục vụ yêu cầu phát triển và tiến trình đô thị hóa. Tổng mức đầu tư từ ngân sách (thành phố và quận) dự kiến 2.798,818 tỷ đồng với 182 dự án, công trình. Trọng tâm là đầu tư hệ thống giao thông nội bộ, nâng cấp mở rộng và hoàn thiện các trục đường chính Tạ Quang Bửu, Phạm Thế Hiển, bến Bình Đông, Ba Đình, An Dương Vương, Quốc lộ 50, cầu Phú Định… đảm bảo kết nối với các khu đô thị mới của quận và các quận, huyện lân cận. Cơ bản hoàn thành việc đô thị hóa, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu dân cư mới ở các phường 4, 5, 6, 7, 16; tiến hành chỉnh trang, nâng cấp các khu dân cư hiện hữu; triển khai một bước việc giải tỏa nhà ven và trên Kênh Đôi; xây dựng các khu tái định cư bảo đảm đời sống cho người dân sau di dời và giải phóng nhanh mặt bằng đáp ứng kịp thời yêu cầu xây dựng các công trình trọng điểm của Thành phố, cơ sở hạ tầng và chỉnh trang đô thị của địa phương, phấn đấu xây dựng 600 –1.000 căn hộ cho thuê và bán cho người có thu nhập thấp.
Nâng cao hiệu quả công tác quản lý và phát triển đô thị. Thực hiện tốt những nội dung đã được phê duyệt trong quy hoạch chung và điều chỉnh quy hoạch chi tiết sử dụng đất 1/2000; tiến tới xây dựng quy hoạch 1/500. Trên cơ sở quy hoạch, rà soát và xóa quy hoạch một số khu vực không còn phù hợp, bảo đảm đầu tư các công trình đã xác định trong quy hoạch và công khai quy hoạch để người dân thực hiện và giám sát. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan chính quyền về việc lập lại kỷ cương trong quản lý quy hoạch, đất đai, xây dựng, vệ sinh môi trường, giao thông, trật tự an toàn xã hội… Xây dựng phường là cấp quản lý địa bàn chính trong công tác quản lý đô thị và phát huy vai trò giám sát của cộng đồng, của Mặt trận, các đoàn thể đối với hoạt động đầu tư và xây dựng các công trình phúc lợi ở địa phương.
3/ Tạo sự chuyển biếnrõ nét chất lượng giáo dục – đào tạo
Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục và trình độ dân trí của nhân dân. Chú trọng thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, phát triển và đa dạng hoạt động giáo dục thường xuyên nhằm giữ vững kết quả công tác xóa mù chữ, phổ cập tiểu học và trung học cơ sở, góp phần hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học vào năm 2008.
Tiếp tục đầu tư nâng cấp và xây dựng mới cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu học sinh được học 2 buổi/ngày; tập trung đầu tư xây dựng, cải thiện cơ sở vật chất ngành học mầm non. Phấn đấu đến năm 2010 có trên 75% trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo, thêm 4 trường đạt chuẩn quốc gia, hiệu suất đào tạo tiểu học 98%, trung học cơ sở 85%. Tăng cường công tác quản lý của ngành giáo dục, thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Dân chủ - kỷ cương - tình thương - trách nhiệm”, góp phần đẩy lùi tiêu cực trong học đường, nâng cao đạo đức sư phạm; nâng chuẩn giáo viên các bậc học, đến năm 2010 có 80% giáo viên đạt trình độ trên chuẩn.
4/ Về chăm lo đời sống và các mặt văn hóa – xã hội
Thực hiện đầy đủ và kịp thời các chính sách xã hội đối với những người có công với nước, thương binh, gia đình liệt sĩ, người cao tuổi. Quan tâm chăm sóc các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh nặng, người già yếu neo đơn, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và cải thiện đời sống các gia đình chính sách khá hơn so với mức sống trung bình của người dân địa phương. Tập trung thực hiện chương trình giảm nghèo toàn diện và bền vững theo tiêu chí mới của Thành phố (6 triệu đồng/người/năm); không còn nhà dột, ngập, đào tạo nghề và giải quyết việc làm ổn định cho người lao động. Phấn đấu đến năm 2010, giảm hộ nghèo còn dưới 1%; giải quyết việc làm đạt từ 8.000 lao động/năm trở lên; quan tâm đào tạo, nâng cao tay nghề cho công nhân – lao động, con em gia đình chính sách, diện giảm nghèo, người sau cai nghiện.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) và Kết luận hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nâng cao chất lượng phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, môi trường văn hóa ở gia đình, khu phố, phường, cơ quan, đơn vị; xây dựng 4 – 6 phường đạt chuẩn phường văn hóa, 50% khu phố đạt chuẩn khu phố văn hóa, 6 chợ đạt chuẩn “chợ văn minh”. Đa dạng hóa các hoạt động sự nghiệp văn hóa thông tin, phát triển các hoạt động văn hóa quần chúng, tổ chức các sinh hoạt vui chơi giải trí lành mạnh nhằm nâng mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho người dân. Đấu tranh bài trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, đẩy lùi các tệ nạn, tiêu cực xã hội; xây dựng lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội.
Phát triển rộng khắp phong trào thể dục thể thao quần chúng, giáo dục thể chất cho thanh thiếu niên, học sinh; phấn đấu nâng tỷ lệ người tập luyện thường xuyên đạt 17% tổng số dân. Đầu tư phát triển các môn thể thao thành tích cao có thế mạnh của quận như võ thuật, bóng đá, điền kinh và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ vận động viên năng khiếu.
Thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, công tác y tế dự phòng phòng chống dịch bệnh, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm và công tác tham vấn y tế cộng đồng cho người nghiện ma túy, nhiễm HIV/AIDS. Tập trung xây dựng các trạm y tế phường đạt chuẩn quốc gia, đầu tư trang thiết bị để nâng chất lượng khám và điều trị của Trung tâm y tế; kết hợp với các phòng khám từ thiện điều trị bệnh miễn phí cho người nghèo, các đối tượng chính sách. Đẩy mạnh công tác truyền thông dân số và kế hoạch hóa gia đình, phấn đấu kéo giảm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên xuống dưới 1%.
5/ Về quốc phòng – an ninh và hoạt động tư pháp
Tập trung giữ vững sự ổn định chính trị phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển của địa phương. Giáo dục, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; nắm chắc tình hình, chủ động phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả các hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; tăng cường xây dựng thế trận an ninh nhân dân, bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh văn hóa - tư tưởng và an ninh nội bộ, góp phần làm thất bại âm mưu phá hoại, gây rối, biểu tình, bạo loạn lật đổ. Thực hiện tốt công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, làm giảm mạnh tình hình tội phạm hình sự, ma túy, mại dâm, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Phát huy có hiệu quả phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, các hoạt động liên tịch, mối quan hệ hiệp đồng chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang, Mặt trận, các đoàn thể trong công tác giữ gìn an ninh trật tự, phòng chống tội phạm. Tăng cường công tác quản lý, giáo dục và bồi dưỡng lực lượng vũ trang có phẩm chất chính trị và khả năng sẵn sàng chiến đấu cao; xây dựng lực lượng công an trong sạch vững mạnh, chính quy và từng bước hiện đại.
Tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững mạnh trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với quốc phòng–an ninh, giữa quốc phòng–an ninh với phát triển kinh tế. Tập trung xây dựng quận thành khu vực phòng thủ vững chắc bảo vệ Tổ quốc. Thường xuyên rà soát, điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới các kế hoạch, phương án phòng thủ, phòng chống biểu tình, bạo loạn lật đổ; bổ sung hoàn thiện trang bị kỹ thuật.
Đẩy mạnh cải cách tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử và nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự. Tăng cường công tác giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân, giữ gìn kỷ cương pháp luật trong các mặt của đời sống xã hội; thực hiện có kết quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm trên các lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý tài chính, sử dụng tài sản công và thời gian làm việc của cán bộ, đảng viên.
Phần thứ ba
XÂY DỰNG KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VỮNG MẠNH
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU, NHIỆM VỤ TRONG THỜI KỲ MỚI
I. TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ
Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theoNghị quyết Trung ương 6 (lần 2) gắn với nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức và cải tiến phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng bộ, của các tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên.
Củng cố và phát huy sự thống nhất về tư tưởng trong toàn Đảng bộ trên cơ sở nghiên cứu quán triệt sâu sắc hơn nữa chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, nghị quyết của Đảng và vận dụng sáng tạo vào tình hình thực tiễn địa phương. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng cách mạng, giữ vững niềm tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cho cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống văn hóa dân tộc bằng nhiều hình thức sinh động để nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức rèn luyện đạo đức, lối sống, năng lực trí tuệ cho cán bộ, đảng viên; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những lệch lạc về tư tưởng, suy thoái về đạo đức trong cán bộ, đảng viên. Phát động phong trào toàn xã hội học tập đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh với cán bộ, đảng viên là lực lượng nòng cốt, tiên phong nêu gương trước quần chúng về tinh thần học tập, nâng cao khả năng trí tuệ và ý thức rèn luyện đạo đức, lối sống, nếp sống, nhân cách, phong cách làm việc.
Thực hiện tốt công tác tư tưởng – văn hóa của Đảng ở mọi cấp, mọi ngành, gắn bó chặt chẽ và khơi dậy các phong trào của quần chúng, làm cho công tác tư tưởng gắn liền với cuộc sống và tham gia vào mọi mặt hoạt động xã hội, góp phần xây dựng môi trường văn hóa xã hội lành mạnh, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ sở.
Tạo bước chuyển biến mới trong công tác tổ chức và cán bộ. Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng đáp ứng cao yêu cầu phát triển của Quận. Chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang, cơ quan quản lý nhà nước. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị phường, củng cố hoạt động chi bộ khu phố, trường học, công an, quân sự gắn với kiện toàn hệ thống chân rết các tổ chức đoàn thể ở khu phố, tổ dân phố nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng ở địa bàn dân cư. Đẩy mạnh việc phát triển tổ chức đảng, đoàn thể, đảng viên, đoàn viên trong các doanh nghiệp tư nhân và củng cố nâng chất lượng hoạt động chi bộ các doanh nghiệp tư nhân, chi bộ chợ. Tăng cường đổi mới, cải tiến chất lượng sinh hoạt chi bộ, với phương châm lấy việc bàn vấn đề bức xúc của cơ quan, đơn vị, chăm lo cho dân, hoàn thành nhiệm vụ chính trị làm trọng tâm, đảm bảo giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Xây dựng văn hóa trong các tổ chức đảng, phấn đấu để mỗi chi bộ, mỗi đảng viên đều là tấm gương văn hóa (lao động giỏi, công dân tốt) trong xã hội. Giữ vững và tăng số cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh, không để phát sinh những cơ sở đảng yếu kém.
Các cơ sở đảng phải làm tốt công tác phát triển đảng; coi trọng chất lượng kết nạp đảng viên mới với yêu cầu nhiệm vụ chính trị, quy hoạch dài hạn cán bộ trẻ, cán bộ nữ, công nhân lao động, giáo viên, dân quân tự vệ, người dân tộc, người có đạo, cán bộ khu phố, tổ dân phố. Phấn đấu phát triển được từ 500 đảng viên mới trở lên, hầu hết cơ sở đảng có quần chúng phải kết nạp được đảng viên. Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ theo Quy định 75-QĐ/TW của Bộ Chính trị, các chỉ đạo của Thành ủy và sự phân cấp quản lý, phục vụ có hiệu quả yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác phát triển đảng viên và công tác cán bộ.
Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ quận, trước hết là cán bộ chủ chốt, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân. Thực hiện nề nếp công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, tạo môi trường cho cán bộ rèn luyện, thử thách và trưởng thành. Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu; phân công nhiệm vụ phù hợp với sở trường, năng lực của từng cán bộ, nhất là cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Kịp thời thay đổi những cán bộ lãnh đạo ở những nơi trì trệ, phong trào kém, mất đoàn kết, tín nhiệm thấp; xử lý nghiêm những cán bộ sai phạm.
Tập trung công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo yêu cầu chuẩn hóa. Đến năm 2010, hầu hết cán bộ chủ chốt quận và cơ sở phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ đại học, cao cấp chính trị trở lên và có kiến thức ngoại ngữ, tin học. Quan tâm thích đáng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, cán bộ nguồn; cập nhật kiến thức mới, năng lực quản lý điều hành, phương pháp công tác cho cán bộ lãnh đạo, quản lý. Chăm lo đời sống và thực hiện tốt các chính sách đối với cán bộ đương chức, đã nghỉ hưu, cán bộ lão thành cách mạng có nhiều công lao đóng góp vì sự nghiệp cách mạng và sự phát triển của địa phương.
Cấp ủy quận và cơ sở phải thực hiện tốt công tác kiểm tra theo tinh thần Chỉ thị 29-CT/TW của Bộ Chính trị, Quy định 19–QĐ/TW của Trung ương về những điều đảng viên không được làm. Công tác kiểm tra phải thực hiện có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện nghị quyết, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiểm tra cán bộ, đảng viên trong thực hiện công vụ, trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Các cấp ủy phải phát huy tính chủ động của ủy ban kiểm tra trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ của cấp ủy giao; tăng cường trách nhiệm trong việc giáo dục, quản lý, kiểm tra đảng viên góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, lấy kiểm tra ngăn ngừa là chính để hạn chế thấp nhất tình hình đảng viên vi phạm phải xử lý kỷ luật.
II. NÂNG CAO NĂNG LỰC VÀ HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Hội đồng nhân dân quận, phường cần phát huy tốt vai trò cơ quan dân cử, thực sự là người đại diện của nhân dân trong việc quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng xây dựng và phát triển địa phương. Tập trung hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết Hội đồng nhân dân, giải quyết những yêu cầu bức xúc của cử tri. Mở rộng công tác giám sát của hai Ban Hội đồng nhân dân đến các tổ chức kinh tế, xã hội…, góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Đổi mới hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, chú trọng công tác chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu hội đồng nhân dân để không ngừng nâng cao chất lượng các kỳ họp hội đồng nhân dân quận, phường. Các đại biểu hội đồng nhân dân phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cử tri và đôn đốc chính quyền kịp thời giải quyết.
Nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước quận, phường trên cơ sở hoàn thiện cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” và tinh gọn bộ máy, bảo đảm nhanh chóng và thuận tiện, giảm phiền hà cho công dân và tổ chức. Phát huy vai trò, chức năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, cụ thể hóa việc thực hiện các chỉ đạo và phân cấp của cấp trên, lập lại trật tự kỷ cương trong thực hiện các quyết định hành chính, thực hiện nghị quyết của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính nhà nước để nâng cao chất lượng cung ứng các nhu cầu hành chính cho công dân và tổ chức, đặc biệt là trong giải quyết các hồ sơ vụ việc có liên quan đến chức trách cấp quận, phường.
Thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình trong bộ máy nhà nước và thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở để ngăn ngừa và chống các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, nhũng nhiễu dân trong thực thi công vụ của cán bộ công chức. Các cơ quan hành chính phải xây dựng văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa nơi công sở, khi giải quyết công việc phải thể hiện trách nhiệm và thái độ “trọng dân”. Thực hiện tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; tăng cường làm việc trực tiếp với dân, sát dân, kịp thời giải quyết ngay từ cơ sở những băn khoăn, thắc mắc trong dân, làm cho nhân dân tin tưởng và ủng hộ mạnh mẽ sự nghiệp phát triển quận.
III. PHÁT HUY SỨC MẠNH KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
Nâng cao vai trò, vị trí của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân vào các tổ chức đoàn thể, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, từ thiện – nhân đạo... Tiếp tục đổi mới nội dung và hình thức hoạt động của Mặt trận và các tổ chức đoàn thể, hướng mọi hoạt động về cơ sở, đến từng tổ dân phố, hộ dân, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, trách nhiệm công dân, đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp, ý thức xây dựng khối đoàn kết thống nhất và sự đồng thuận của xã hội đối với các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phát động sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước, vận động và giúp nhân dân xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng, hợp pháp, đóng góp trí tuệ, công sức vào việc phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Tiếp tục quán triệt quan điểm của Đảng và chính sách nhất quán của Nhà nước về công tác dân tộc, công tác tôn giáo. Thực hiện tốt công tác quản lý và hướng dẫn các hoạt động tôn giáo đúng pháp luật; kiên quyết chống các biểu hiện lợi dụng tôn giáo, dân tộc gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội; quan tâm giải quyết các nhu cầu chính đáng của đồng bào dân tộc Hoa, Chăm… Vận động các gia đình có thân nhân ở nước ngoài và kiều bào tham gia đóng góp xây dựng đất nước, xây dựng địa phương.
Các tổ chức đảng cần đề cao, phát huy dân chủ, động viên sức sáng tạo của quần chúng nhân dân đóng góp xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, coi đây là động lực quan trọng để thúc đẩy việc đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở; có chương trình công tác xã hội, phân công và kiểm tra đảng viên làm công tác vận động quần chúng, tham gia công tác xã hội nơi cư trú.
Đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị 30–CT/TW của Bộ Chính trị về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; nâng cao ý thức làm chủ và phát huy vai trò làm chủ trực tiếp, hoạt động tự quản của nhân dân vào việc xây dựng Đảng, chính quyền, phát triển kinh tế – xã hội, giữ gìn an ninh - trật tự của địa phương. Nâng cao vai trò đại diện của các cơ quan dân cử, Mặt trận, các đoàn thể trong việc bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân.
Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, chất lượng đoàn viên, hội viên và lực lượng nòng cốt chính trị. Quan tâm củng cố hệ thống chân rết của các tổ chức quần chúng ở khu phố, tổ dân phố; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác quần chúng vững vàng về chính trị, có tinh thần trách nhiệm cao, có uy tín, được dân tin, dân mến. Tăng cường sự chỉ đạo của Đảng đối với Đoàn thanh niên, tạo điều kiện thuận lợi cho Đoàn thanh niên thực hiện các chương trình, phong trào thanh niên và đào tạo cán bộ đoàn làm nguồn bổ sung cán bộ trẻ cho Đảng.
Phấn đấu đến năm 2010, xây dựng 80% Ban công tác Mặt trận khu phố vững mạnh; tập hợp 35% thanh niên trở lên vào các loại hình câu lạc bộ, đội, nhóm, trong đó có 12% là đoàn viên thanh niên, phát triển 50% tổ hội thanh niên ở tổ dân phố; 55% lực lượng phụ nữ; 75% công nhân lao động ngoài quốc doanh vào tổ chức công đoàn, xây dựng 100% tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đủ điều kiện; 90% cựu chiến binh vào tổ chức hội cựu chiến binh.
Phần thứ tư
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
I. VỀ KINH TẾ, PHÁT TRIỂN VÀ QUẢN LÝ ĐÔ THỊ
1/ Vận động các doanh nghiệp tham gia các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của Thành phố về áp dụng ISO 9000, hiện đại hóa với chi phí thấp tạo ưu thế cạnh tranh tổng hợp, đẩy mạnh xuất khẩu. Các cơ quan hành chính phải tăng cường đối thoại, hỗ trợ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong các thủ tục hành chính, giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn vướng mắc, xây dựng thương hiệu. Tạo sự phối hợp đồng bộ giữa phường và các ngành chức năng trong quản lý sản xuất kinh doanh sau cấp phép và kiểm tra việc chấp hành pháp luật lao động của doanh nghiệp.
Triển khaikế hoạch thực hiện quy chế đấu thầu, kinh doanh khai thác, quản lý chợ của Ủy ban nhân dân Thành phố; phát huy các nguồn lực vào việc chỉnh trang, nâng cấp các chợ hiện hữu, sắp xếp lại các chợ tạm lấn chiếm lòng lề đường. Hình thành trung tâm thương mại – dịch vụ Bình Đăng; thực hiện quy hoạch mạng lưới thương mại – siêu thị – chợ đến năm 2010. Khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ, cửa hàng bán lẻ ở các khu dân cư; đầu tư xây dựng khu công viên văn hóa - dịch vụ - du lịch phường 4.
2/ Chỉ đạo huy động tốt các nguồn vốn, dưới nhiều hình thức đầu tư, từ tăng thu ngân sách, đầu tư của các thành phần kinh tế. Thực hiện tốt sự phân cấp, ủy quyền và sử dụng có hiệu quả ngân sách Thành phố phân cấp cho quận trong đầu tư xây dựng cơ bản. Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cấp các tuyến đường hiện hữu, trọng điểm của quận, xây dựng mới các trục đường chính theo quy hoạch. Thực hiện có hiệu quả Quyết định 80–QĐ/TTg của Chính phủ về xử lý, sắp xếp nhà đất thuộc sở hữu nhà nước; kiến nghị Thành phố thu hồi các kho bãi sử dụng không đúng công năng trên địa bàn quận xây dựng các công trình phúc lợi xã hội; đẩy mạnh phong trào “Nhà nước và nhân dân cùng làm”… để triển khai mục tiêu phát triển đô thị quận đến năm 2010. Chủ động xây dựng quỹ nhà tái định cư, tạm cư và nhà ở cho người có thu nhập thấp phục vụ nhu cầu đầu tư theo quy hoạch.
3/ Xây dựng chương trình chỉnh trang các khu vực đô thị hiện hữu, cải thiện môi trường sống các khu phố nghèo bằng nhiều chương trình xây dựng, sửa chữa nhà ở xóa dần nhà lụp xụp, cải tạo hệ thống thoát nước, vận động nhân dân hiến đất mở rộng hẻm… để từng bước thay đổi hiện trạng khu dân cư cũ, giảm dần khoảng cách với khu đô thị mới và tiếp tục cải thiện bộ mặt đô thị của quận ngày càng khang trang, hiện đại hơn. Tiến hành nâng cấp, xây dựng mới trụ sở làm việc cấp phường.
II. VỀ VĂN HÓA – XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG – AN NINH
1/ Tập trung chỉ đạo bằng những giải pháp đồng bộ để tạo nên sự chuyển biến toàn diện về chất lượng và hiệu quả của ngành giáo dục quận so với mặt bằng chung của Thành phố. Đi đôi với đầu tư cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị dạy học, mở rộng quy mô giáo dục đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trẻ, chú trọng công tác đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ quản lý giáo dục, nâng cao trình độ chuyên môn và rèn luyện phẩm chất đạo đức cho đội ngũ giáo viên đạt yêu cầu trên chuẩn; phát huy tinh thần trách nhiệm của chính quyền địa phương, hội đồng giáo dục, phòng giáo dục và quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường. Khuyến khích và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục; đẩy mạnh phong trào khuyến học giúp đỡ học sinh nghèo hiếu học, phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi đạt giải cấp thành phố, khu vực.
2/ Dành một phần ngân sách hàng năm hỗ trợ quỹ xóa đói giảm nghèo, kết hợp chương trình giải quyết việc làm với cuộc vận động “vì người nghèo”, phong trào đền ơn đáp nghĩa, phong trào nhân dân giúp nhau xóa đói giảm nghèo và phát triển sản xuất kinh doanh để đào tạo tay nghề, giải quyết việc làm cho con em gia đình chính sách, bộ đội xuất ngũ, dân nghèo.
3/ Đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút tốt các nguồn lực trong dân và tăng đầu tư ngân sách cho phát triển văn hóa, xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở theo Nghị quyết Trung ương 5 - Khóa VIII (nhà văn hóa phường, thư viện, tụ điểm văn hóa, vui chơi của thanh, thiếu niên…) và từng bước thực hiện có kết quả quy hoạch cơ sở vật chất các ngành văn hóa thông tin, thể dục thể thao, y tế, giáo dục đến năm 2010. Tăng cường trách nhiệm của các ban chỉ đạo, vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng cơ sở đối với các mặt hoạt động văn hóa – xã hội.
4/ Thực hiện vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng đối với lực lượng vũ trang; cơ chế lãnh đạo của Đảng, điều hành của chính quyền trong công tác củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, nhân dân làm chủ, lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Đẩy mạnh thực hiện các kế hoạch về bảo vệ an ninh quốc gia, chương trình mục tiêu 3 giảm, cải cách tư pháp.
III. VỀ CỦNG CỐ, KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1/ Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ quận nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Đảng bộ lãnh đạo chính quyền theo hướng nâng cao tính chủ động, sáng tạo và kiên quyết trong chỉ đạo, điều hành của chính quyền; phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các cơ quan tham mưu của cấp ủy và tăng cường vai trò trách nhiệm cấp ủy viên Quận trên các lĩnh vực được phân công.
Đổi mới cách ra nghị quyết trên cơ sở chọn lựa vấn đề trọng điểm, khâu đột phá, sát thực tế, có tính khả thi cao; kịp thời cụ thể hóa nghị quyết đại hội Đảng cấp trên và Đảng bộ quận bằng các chương trình hành động, kế hoạch chuyên đề trên các lĩnh vực và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Cải tiến lề 1ối làm việc, kiên quyết giảm hội họp, tăng cường công tác kiểm tra, sơ, tổng kết thực tiễn; hàng năm cấp ủy quận có chương trình làm việc và chế độ đi cơ sở, dành nhiều thời gian làm việc trực tiếp với cơ sở để nắm chắc tình hình thực tiễn và giải quyết khó khăn cho cơ sở.
Hoàn thiện các chế độ, quy chế về tổ chức và sinh hoạt đảm bảo theo hướng phát huy dân chủ nội bộ, tính chủ động, nâng cao trách nhiệm và tính chiến đấu của tổ chức trong thực hiện công tác kiểm tra, thực hiện nhiệm vụ của cấp ủy và quản lý đảng viên. Tạo điều kiện để nhân dân tham gia giám sát cán bộ, đảng viên theo quy chế Mặt trận giám sát cán bộ đảng viên ở khu dân cư; mỗi cán bộ, đảng viên đều tự giác chịu sự quản lý của chi bộ, của cấp ủy, của tổ chức mà mình tham gia công tác, sinh hoạt và nhân dân nơi cư trú.
2/ Coi trọng khâu chỉ đạo, điều hành có hiệu lực và hiệu quả của chính quyền từ quận đến cơ sở, quy định trách nhiệm rõ ràng, phân công cụ thể thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan hành chính, đảm bảo các nguyên tắc làm việc và quy chế phối hợp trong công tác quản lý nhà nước, giải quyết những thủ tục hành chính liên quan trực tiếp đến dân. Duy trì và phát huy hiệu quả cơ chế phối hợp giữa thường trực Hội đồng nhân dân – Ủy ban nhân dân - Ủy ban Mặt trận Tổ quốc nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Quận.
3/ Đề cao trách nhiệm và vai trò gương mẫu của người đứng đầu cơ quan trong xây dựng cơ quan hành chính trong sạch vững mạnh. Coi trọng việc giáo dục phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm, xây dựng tác phong quần chúng, tinh thần tận tụy phục vụ nhân dân và nâng cao kỹ năng hành chính, tính chuyên nghiệp cho cán bộ, công chức. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước, hoạt động của hệ thống thanh tra, nhất là thanh tra nhà nước và công tác kiểm tra, giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân đối với hoạt động của tổ chức đảng, các cấp chính quyền và của cán bộ, công chức.
4/ Lãnh đạo thực hiện có kết quả chương trình hành động cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về đại đoàn kết toàn dân tộc, về công tác dân tộc và công tác tôn giáo;Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo. Chú trọng củng cố tổ chức Mặt trận, các đoàn thể nhân dân cơ sở.
*
**
Đại hội Đại biểu Đảng bộ quận 8 lần thứ IX ý thức sâu sắc trách nhiệm nặng nề của mình trước yêu cầu phát triển quận theo hướng văn minh và hiện đại. Với truyền thống đoàn kết và cách mạng, Đại hội kêu gọi các tổ chức Đảng và đảng viên, các ngành các cấp và các tầng lớp nhân dân đoàn kết thống nhất xung quanh Ban Chấp hành Đảng bộ, ra sức khắc phục khó khăn, phát huy tính năng động sáng tạo, quyết tâm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu mà Đại hội đại biểu Đảng bộ quận 8 lần thứIX đề ra.