Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Báo cáo tình hình và nhiệm vụ tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quận 9 lần II (2000 – 2005).

PHẦN THỨ I: BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ QUẬN LẦN I

Hơn hai năm Đảng bộ và nhân dân triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quận lần I trong bối cảnh chung có nhiều thuận lợi: tình hình thế giớ tuy có nhiều phức tạp, song xu thế hợp tác, hội nhập để cùng phát triển đang được các nước trên thế giới rất quan tâm. Trong nước, nhân dân ta tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới đạt được những thành tựu rất quan trọng, tạo sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội; nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước hợp lòng dân; những chuyển biến trong nội bộ Đảng, cơ quan Nhà nước khi thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần NQTW 5, TW 6 (lần 2) đã tác động lớn đến đời sống xã hội, củng cố hơn niềm tin của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng.

Đan xen với những thuận lợi thì những khó khăn, thử thách trong thời gian qua rất gây gắt. Trên thế giới chiến tranh sắc tộc, chiến tranh tôn giáo, thiên tai liên tục xảy ra đã để lại những hậu quả rất nghiêm trọng, các nước trong khu vực lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế nước ta. Trong nước tăng trưởng kinh tế không ổn định, thiên tai liên tục xảy ra, nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt, lòng dân chưa thật sự yên tâm.

Ngoài những tác động của tình hình chung, quận 9 còn có những khó khăn, thử thách như: quận mới thành lập, kinh tế kém phát triển, dân số tăng nhanh (năm 1997: 119.537 người, năm 1999: 150.025 người chủ yếu tăng dân số cơ học), kết cấu hạ tầng yếu kém; trên 60% (6.592 ha/11.362 ha) diện tích là đất sản xuất nông nghiệp nhưng chủ yếu độc canh cây lúa, hiệu quả thấp; đội ngũ cán bộ công chức phần đông mới tuyển dụng, chưa có kinh nghiệm. Bộ máy Đảng – Chính quyền – Đoàn thể mới thành lập. Ý thức chấp hành pháp luật trong một bộ phận nhân dân chưa cao nhất là trên lĩnh vực đất đai, xây dựng. Đa số nhân dân chưa được chuẩn bị tốt về tư tưởng cho một quá trình phát triển đo thị hoá.

Trước tình hình đó, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành uỷ, UBND Thành phố; sự giúp đỡ của các ban, ngành, sở Thành phố về nhiều mặt đối với quận 9 có tập trung hơn. Mặt khác, nhân dân quận 9 vốn có truyền thống cách mạng, có tinh thần đoàn kết, có đội ngũ cán bộ nhiệt tình, năng động. Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành – Ban Thường vụ Quận uỷ đã phấn đấu thực hiện đạt và vượt nhiều chỉ tiêu chủ yếu mà Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quận lần I đã đề ra.

A- LÃNH ĐẠO KINH TẾ - XÃ HỘI – AN NINH QUỐC PHÒNG

I- ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ:

Sau Đại hội Đảng bộ lần thứ I, do chịu tác động từ nhiều khó khăn chung của cả nước và Thành phố, một số doanh nghiệp và một số nguồn thu được chuyển về Thành phố và ngành dọc quản lý, nên một số chỉ tiêu kinh tế hàng năm của Ban Chấp hành phải điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Trên cơ sở đó BCH – BTV QU đã lãnh đạo tổ chức thực hiện với những kết quả cụ thể:

1- Thương mại - dịch vụ:

Trên địa bàn Quận hiện có 1.564 cơ sở hoạt động ngành Thương mại - dịch vụ tăng 30,3% so với đầu năm 1998. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành là 16,43% thấp hơn so với Nghị quyết Đại hội 2,5%.

Ngành Thương mại sau 2 năm phát triển và củng cố; một số khu vực buôn bán đã đáp ứng được một phần nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trên địa bàn Quận. Hệ thống cơ sở hoạt động dịch vụ - du lịch đang có chiều hướng tăng với các loại hình vui chơi giải trí, khai thác cảnh quan thiên nhiên đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.

Gắn liền với sự phát triển thương mại - dịch vụ, công tác quản lý thị trường đã có nhiều cố gắng, hoạt động ngày càng có hiệu quả góp phần làm lành mạnh hoá thị trường cũng như bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng được tốt hơn.

Tuy nhiên, tình hình hoạt động của ngành thương mại dịch vụ có nhiều khó khăn: những bất cập trong quá trình thực hiện Luật Thuế VAT; nguồn bán buôn còn ít, sức mua trong dân chưa cao, phần lớn các hộ kinh doanh trên địa bàn là bán lẻ, doanh số thấp.

2- Sản xuất Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp (CN-TTCN)

Giá trị tổng sản lượng tăng bình quân hàng năm 13% đạt 91% so với Nghị quyết Đại hội (chỉ tiêu thành phố giao 12%). Trong giai đoạn 1998 – 2000, ngành CN-TTCN Quận 9 phát triển tương đối khá và ổn định. Số lượng các đơn vị đầu tư sản xuất ngày càng gia tăng, vốn đầu tư hàng năm tăng từ 10 – 12%. Đã có một số đơn vị chú trọ đầu tư vốn để đổi mới máy móc công nghệ góp phần nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm, tăng thêm sức cạnh tranh trên thị trường.

Tuy nhiên, các ngành nghề truyền thống vốn là thế mạnh như: sản xuất gạch ngói, gốm sứ, do công nghệ thủ công, nguyên liệu sản xuất phải mua xa nơi sản xuất nên giá thành sản phẩm cao, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường.

3- Sản xuất Nông nghiệp:

Sản xuất nông nghiệp với cơ cấu: trồng trọt chiếm trên 70% tổng giá trị ngành, chăn nuôi chiếm gần 30%. Trong 6.592 ha đất nông nghiệp, diện tích sản xuất lúa 4.863 ha, diện tích đất làm vườn 640 ha, mức tăng trưởng bình quân hàng năm 2%. Sản xuất nông nghiệp đã và đang có sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với quy hoạch, tăng cường các dịch vụ khuyến nông phục vụ cho sản xuất như: chuyển giao công nghệ về kỹ thuật sản xuất, dịch vụ cây, con giống, phân bón, thuốc trừ sâu, áp dụng các mô hình phát triển kinh tế vườn, trang trại nhỏ.

Tuy nhiên, do tác động về nhiểu mặt như: thời tiết, sâu bệnh… nên năng suất không cao, chỉ đạt 2,5 – 2,8 tấn/ha; vườn cây ăn trái trong giai đoạn mới đầu tư nên chưa đem lại hiệu quả kinh tế cụ thể. Tình hình chăn nuôi phổ biến là quy mô nhỏ theo hộ gia đình. Diện tích đất bỏ hoang còn lớn nhưng chưa được tập trung giải quyết đúng mức.

4- Tài chính – ngân sách

Tổng thu ngân sách Nhà nước 02 năm 1998 – 1999 thực hiện đều đạt và vượt chỉ tiêu Thành phố giao. Tuy nhiên so với Nghị quyết Đại hội lần I thu ngân sách chỉ đạt 66% (42,617 tỷ). Chi ngân sách Nhà nước trong 2 năm qua đã được điều hành chặt chẽ, đúng chế độ; tiết kiệm chi 5% theo qui định. Đảm bảo được mức kết dư ngân sách hàng năm từ 2 – 3% trên tổng chi thường xuyên.

5- Đầu tư xây dựng cơ bản và quy hoạch đô thị:

Những năm qua, mặc dùng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản còn hạn hẹp nhưng Quận đã tập trung cho các công trình trọng điểm, thiết yếu để phát triển kinh tế xã hội và phục vụ đời sống nhân dân.

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm từ 60 – 65 tỷ đồng (đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội), trong đó vốn ngân sách nhà nước chiếm 40 – 50%, còn lại là vốn đầu tư của các ngành như: điện, nước, thông tin chiếm tỷ lệ 20 – 25%, vốn huy động sức dân từ 10 – 15%, vốn khác từ 10 – 15%. Tỷ lệ tăng vốn bình quân là 15 – 18%/năm. Nhựng công trình mới hoặc sửa chữa chủ yếu là các công trình phúc lợi xã hội như: điện, nước, cầu, đường giao thông, xây dựng các trạm y tế, trường học, trụ sở làm việc cho 3 phường mới…

Đã được thành phố phê duyệt quy hoạch xây dựng chung toàn quận, quy hoạch khu trung tâm quận mới và 7 khu dân cư quy mô từ 50 – 100 ha thuộc các phường: Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Phú Hữu, Phước Long B…, Quận đã lập và trình thành phố phê duyệt đề án quy hoạch kinh tế xã hội giai đoạn 1998 – 2010 làm cơ sở cho công tác xây dựng kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm.

Công tác quản lý đô thị được chú trọng, từng bước chỉnh trang đô thị theo hướng quy hoạch. Tuy nhiên công tác quản lý thiếu chặt chẽ, thủ tục hành chính còn rườm rà, công tác xây dựng cơ bản tuy có nhiều cố gắng, đạt chỉ tiêu Nghị quyết nhưng chất lượng một số công trình thấp. Nhu cầu về vốn đầu tư rất lớn, trong khi đó, nguồn vốn từ ngân sách còn hạn hẹp, khả năng huy động vốn từ các nguồn khác còn nhiều khó khăn. Vấn đề ô nhiễm môi trường chưa được giải quyết tích cực.

Nhìn chung, sau hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ I và các chỉ tiêu kinh tế của Thành phố giao, tình hình kinh tế trên địa bàn quận có bước phát triển khá và tương đối ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện.

Tuy nhiên trong quá trình phát triển vẫn còn những khó khăn thử thách, kết cấu hạ tầng kinh tế trên địa bàn vẫn còn thấp kém so với mặt bằng chung của Thành phố, mức độ thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài quận chưa nhiều. Do đó chưa khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh về đất đai và lao động ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế của Quận.

Phát triển kinh tế theo cơ cấu như Nghị quyết Đại hội xác định bước đầu đã định hình, phù hợp với xu thế phát triển của quận theo quy hoạch của Thành phố, phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của Quận. Song do chỉ mới hơn hai năm triển khai thực hiện nên sự chuyển dịch chưa rõ nét, mặt khác do khó khăn nhiều mặt nên sự đầu tư kinh phí của Thành phố cho quận còn hạn chế; trong lãnh đạo Ban Chấp hành – Ban Thường vụ Quận uỷ chưa tập trung đúng mức để tháo gỡ những khó khăn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong huy động vốn, đầu tư cho các ngành chức năng, các đơn vị kinh tế mũi nhọn.

II- VĂN HOÁ – XÃ HỘI

1- Văn hoá thông tin và thể dục thể thao:

Hoạt động văn hoá thông tin, thể dục thể thao trong hai năm qua với nhiều loại hình hoạt động phong phú, đa dạng, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, từng bước xã hội hoá hoạt động văn hoá. Thông qua các hoạt động lễ hội, hoạt động văn hoá - nghệ thuật triển khai thực hiện NQTW 5 (khoá 8) và các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng các cấp, Nghị định của Chính phủ. Phong trào xây dựng ấp, khu phố văn hoá, từng bước xây dựng nếp sống văn minh đô thị đã góp phần nâng cao đời sống tinh thần và góp phần định hướng cho sự phát triển cũng như nâng cao mức hưởng thụ văn hoá – tinh thần lành mạnh cho nhân dân.

Phong trào xây dựng khu phố, ấp văn hoá được lãnh đạo chặt chẽ và nhân dân đồng tình hưởng ứng tích cực. Đến nay được Thành phố công nhận 7 khu phố, ấp văn hoá. Phong trào thể dục thể thao trong các năm qua đã có bước phát triển, nâng cao được chất lượng và xây dựng được phong trào tập luyện trong nhân dân, trong mọi lứa tuổi với các loại hình phong phú, đặc biệt là phong trào luyện tập dưỡng sinh trong người cao tuổi đang phát triển rộng khắp ở cả 13 phường. Một số môn thể thao có chất lượng chuyên môn cao như: cầu lông, võ cổ truyền, cờ vua, cờ tướng, thi đấu đạt nhiều thành tích cao.

Nhìn chung tuy hoạt động văn hoá thông tin và thể dục thể thao đã có nhiều tiến bộ, nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, nhất là các phường vùng sâu, trang thiết bị cho ngành còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Chất lượng xây dựng một số ấp, khu phố văn hoá chưa được chú trọng đúng mức, thiếu sự quan tâm lãnh đạo của các cấp uỷ.

2- Giáo dục đào tạo:

Chất lượng gáo dục đào tạo ngày càng được nâng cao, học sinh được chú trọng giáo dục toàn diện. Các phogn trào dạy giỏi, học giỏi và xây dựng trường tiên tiến đã được hưởng ứng trong toàn quận và đạt được nhiều kết quả. Hàng năm tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp học đều tăng hơn năm trước. Toàn đuận đến nay có 100% số phường đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập chương trình tiểu học, 6 phường đạt chuẩn quốc gia phổ cập trung học cơ sở. Thành lập được một trường dân lập (đang hoạt động có hiệu quả). Ngoài việc tập trung ngân sách nâng cấp, xây dựng mới nhiều trường, lớp mới, nguồn chi thường xuyên cho giáo dục đào tạo hàng năm từ 12 – 14 tỷ đồng chiếm gần 40% tổng chi ngân sách.

Tuy nhiên ngành gáo dục - đào tạo hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn như: trường lớp, tranh thiết bị còn thiếu và chưa đạt tiêu chuẩn, nhất là ở các phường vùng sâu. Đội ngũ giáo viên trung học cơ sở còn thiếu; một bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục trong tình hình mới. Một số chính sách ưu đãi giáo viên dạy ở vùng sâu, xa chưa được thực hiện kịp thời và đầy đủ. Vấn đề giáo dục đạo đức trong học sinh chưa được chú trọng đúng mức.

3- Y tế - dân số - chăm sóc trẻ em:

Trong các năm qua ngành Y tế đã có nhiều cố gắng trong công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Tổ chức khám chữa bệnh thường xuyên cho nhân dân, đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục phòng chống dịch bệnh, tiêm chủng các loại vắcxin cho trẻ em theo chương trình quốc gia. Bên cạnh đó, công tác quản lý và điều trị các bệnh xã hội như bệnh lao, phong, các bệnh lây được duy trì thường xuyên. Tuy nhiên, ngành y tế của quận vẫn còn khó khăn về cơ sở vật chất, chưa đáp ứng được hết các nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.

Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình đã được triển khai bằng nhiều hình thức phát thanh trên mạng thông tin ở cơ sở. Tổ chức hội thi tìm hiểu đạt được nhiều kết quả. Đã hạ được tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 1,51% năm 1998 còn 1,43% trong năm 1999 (chỉ tiêu đại hội là 1,4%). Tuy nhiên, công tác tuyên truyền chưa thường xuyên sâu rộng đến các khu dân cư vùng sâu, vùng xa, mặt khác, do quan niệm lạc hậu muốn sanh nhiều con, phải có con trai con gái đã làm hạn chế hiệu quả trong tổ chức thực hiện.

Đã tổ chức triển khai các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về việc nâng cao trách nhiệm bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Cấp uỷ các phường, các ngành chức năng, mặt trận và các đoàn thể đã có nhiều cố gắng, khắc phục khó khăn để phối hợp tổ chức hoạt động chăm sóc trẻ em như: gây quỹ bảo trợ trẻ em để chăm lo việc học tập, vui chơi gỉai trí, khám chữa bệnh… đặc biệt vào các dịp lễ, Tết, ngày quốc tế thiếu nhi, Tết Trung thu… đều có những hoạt động thiết thực, bổ ích để chăm sóc trẻ em trên địa bàn, nhất là những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em ở vùng sâu.

4- Chính sách xã hội:

Quận 9 là vùng căn cứ cách mạng trong hai thời kỳ kháng chiến, nhân dân có truyền thống cách mạng, là vùng đất chịu nhiều sự tàn phá rất nặng nề của chiến tranh. Hiện nay diện chính sách, dân nghèo đông. Thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước, những năm qua quận đã làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo diện chính sách. Ngoài việc thực hiện đầy đủ các chính sách chế độ theo quy định của Đảng, Nhà nước vào các dịp Lễ, Tết, Quận uỷ, Uỷ ban các ngành, Mặt trận, các đoàn thể của quận và cơ sở đều tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho thương binh, gia đình liệt sĩ, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, các đ/c cách mạng lão thành và người có công với cách mạng. Chương trình xoá đói giảm nghèo được tập trung thực hiện mang lại hiệu quả thiết thực. Tập trung giới thiệu và giải quyết việc làm cho người lao động. Bằng nhiều biện pháp, vận động từ nhiều nguồn để chăm lo dân nghèo, trẻ mồ côi, người già neo đơn.

Trong 2 năm 1998 – 1999 Quận đã xây dựng và sửa chữa được 83 căn nhà tình nghĩa tổng giá trị là 1,2 tỷ đồng, xây dựng 287 căn nhà tình thương tổng giá trị là 1,6 tỷ đồng. Vận động quỹ xoá đói giảm nghèo đến cuối năm 1999 là 4,2 tỷ đồng (đạt 105% chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội), trợ vốn cho hơn 2500 hộ. Đến nay quận đã đưa ra khỏi chương trình 1.304 hộ đã làm ăn có hiệu quả, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 10,92% trên toàn quận (Nghị quyết Đại hội: 10%). Giới thiệu và giải quyết việc làm hàng năm cho hơn 2500 lao động. Ngoài ra, ngoài các dịp lễ tết Quận uỷ đều tổ chức các đoàn cán bộ đến thăm, tặng quà cho nhân dân các huyện Long Thành, Nhơn Trạch là cơ sở cách mạng của huyện Thủ Đức qua 2 thời kỳ kháng chiến; đồng bào đi kinh tế mới tại Tây Ninh, làm nghĩa vụ với nhân dân Trà Cú (Trà Vinh) theo sự phân công của Thành uỷ, UBND Thành phố.

Do có nhiều nổ lực, đời sống văn hoá ở cơ sở được cải thiện rõ nét; chất lượng giáo dục, đào tạo được nâng lên; xã hội hoá giáo dục từng bước được thực hiện có hiệu quả; quan tâm chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân; làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo gia đình chính sách, dân nghèo, tạo không khí phấn khởi, tin tưởng trong nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng bộ, của Chính quyền địa phương. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề xã hội bức xúc nhưng chưa được giải quyết tốt như: lao động chưa có việc làm, trẻ bỏ học, các tệ nạn xã hội…

III- LĨNH VỰC AN NINH QUỐC PHÒNG VÀ BẢO VỆ PHÁP LUẬT:

Đồng thời với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ luôn quan tâm chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc phòng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận lần I và Nghị quyết quốc phòng an ninh 1997 – 2000 của Ban Chấp hành Đảng bộ quận. Hơn hai năm qua, Đảng bộ đã tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc được đẩy mạnh; chủ động phòng ngừa và đấu tranh trấn áp làm thất bại mọi hoạt động gây mất ổn định về an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội của các thế lực thù địch; từng bước chuyển hoá các địa bàn trọng điểm, không để phát sinh các điểm nóng. Đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, tăng cường công tác nắm địa bàn, phối hợp chặt chẽ 4 lực lượng.

Thực hiện tốt Luật Nghĩa vụ quân sự, Pháp lệnh Dân quân tự vệ, xây dựng Quỹ Quốc phòng, tổ chức tốt việc phúc tra quân dự bị, hoàn thành tốt các đợt diễn tập phòng thủ, quan tâm và làm tốt công tác chính sách hậu phương quân đội; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho các đồng chí chính trị viên phường và các đ/c thủ trưởng các ngành có liên quan; lực lượng đảng viên trẻ - đoàn viên trong lực lượng vũ trang ngày càng tăng, góp phần nâng cao chất lượng và độ tin cậy trong việc thực hiện Nghị quyết quốc phòng an ninh của BCH Đảng bộ.

Các cơ quan bảo vệ pháp luật như Viện Kiểm sát, Toà án… đã thực hiện tốt chức năng của mỗi ngành, khởi tố - truy tố - xét xử các vụ án đúng luật định, không có án oan sai, không có án tồn đọng quá hạn luật định.

Quan tâm và làm tốt công tác tiếp dân, hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo. Tích cực giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân, nhất là những vụ khiếu kiện đông người, phần lớn có liên quan đến vấn đề đất đai, xây dựng nhà, giải toả, đền bù… Đã tuyên truyền giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ để cảnh giác với chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viên, CNVC và từng bước tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi trong nhân dân. Ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân ngày càng tốt hơn.

Xuất phát từ quan điểm lãnh đạo đúng đắn của BCH Đảng bộ và việc triển khai thực hiện tốt những nhiệm vụ nêu trên: tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; thực hiện được các chỉ tiêu cơ bản trên lĩnh vực an ninh quốc phòng mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận lần I đã đề ra: lực lượng dân quân đạt 1,55% dân số; 11/13 đ/c phường đội trưởng là đảng viên, có 5 đ/c cơ cấu vào cấp uỷ phường; 100% có chi đoàn lực lượng vũ trang; công tác giao quân hàng năm đạt 100%.

Nhìn chung, công tác an ninh quốc phòng đã góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên, cần tiếp tục lưu ý những mặt hạn chế sau đây:

- Một bộ phận cán bộ, đảng viên, CNVC nhận thức chưa đầy đủ về âm mưu “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, còn mơ hồ, mất cảnh giác.

- Công tác quản lý dân nhập cư tuy có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa thật chặt chẽ, trật tự an toàn xã hội còn xảy ra nhiều vụ việc phức tạp, nhất là nạn ma tuý, tuy số tụ điểm giảm nhưng số người nghiện hút tăng, cả 13 phường đều đã có đối tượng nghiện hút, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm hình sự, nhất là trong thanh thiếu niên, nhưng chưa có biện pháp ngăn chặn có hiệu quả.

- Ý thức chấp hành pháp luật trong một bộ phận nhân dân còn thấp, dẫn đến tình hình: xây dựng trái phép, lấn chiếm đất công, tranh chấp quyền lợi trong thân tộc, cố ý làm trái pháp luật, thách thức dư luận xã hội… gây khó khăn cho các ngành chức năng trong quá trình xử lý.

B- XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

I- CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG

1- Công tác chính trị tư tưởng:

Xác định đúng yêu cầu, nhiệm vụ và vai trò của công tác giáo dục chính trị - lãnh đạo tư tưởng trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ của Đại hội, ban Chp hành – Ban Thường vụ Quận uỷ và các cấp uỷ cơ sở đã tập trung hơn việc triển khai các biện pháp để lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ công tác chính trị - tư tưởng.

Tổ chức nghiêm túc việc học tập, nghiên cứu Nghị quyết của Đảng, học tập lý luận chính trị; kỷ niệm các ngày lễ lớn hàng năm được tổ chức đa dạng về hình thức, phong phú, sâu sắc về nội dung thu hút đông đảo đảng viên, CBCNV, đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân tham gia. Thông qua các hoạt động đó, bồi dưỡng những quan điểm đổi mới, tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, tiếp tục khẳng định sự lãnh đạo của Đảng và con đường XHCN, giữ vững sự thống nhất tư tưởng và hành động trong Đảng bộ; cảnh giác, đấu tranh với những quan điểm lệch lạc, xuyên tạc đối với Đảng, Nhà nước và chế độ; gắn lý luận với các hoạt động thực tiễn giải quyết kịp thời, đúng đắn những vấn đề bức xúc của cuộc sống, sự thống nhất về chính trị và tinh thần trong nhân dân, đoàn kết trong việc tổ chức triển khai thực hiện đạt và vượt nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội đề ra. Từ đó đã tạo được chuyển biến tốt về tâm trạng, tư tưởng cán bộ, đảng viên, ngày càng tin tưởng và khẳng định năng lực lãnh đạo của Đảng ta trong mỗi giai đoạn cách mạng, trong sự nghiệp đổi mới. Cán bộ, đảng viên nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt từ quận đến cơ sở năng động, có tinh thần khắc phục khó khăn, đoàn kết trong quá trình tổ chức thực hiện các nhiệm vụ do Đại hội đề ra.

Mặt tồn tại chủ yếu trong công tác chính trị - tư tưởng là việc tổ chức quán triệt các nghị quyết của Đảng ở một vài chi Đảng bộ chưa được tiến hành nghiêm túc; Việc nghiên cứu nắm tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân nhiều việc chưa sâu, chưa chắc, chưa kịp thời. Việc hướng dẫn chỉ đạo công tác cho cơ sở, cho một số ngành có liên quan đôi lúc thiếu kịp thời, thiếu biện pháp kiểm tra việc triển khai thực hiện Nghị quyết đối với các cấp uỷ cơ sở. Việc triển khai quán triệt các Nghị quyết Đảng, pháp luật Nhà nước chủ yếu trong nội bộ Đảng, chưa tuyên truyền, phổ biến được sâu rộng trong nhân dân. Sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng đối với công tác chính trị - tư tưởng đôi lúc thiếu thường xuyên và sâu sát, nhàt là một số chi đảng bộ , khối ban ngành của quận. Vẫn còn một số cán bộ, đảng viên có thái độ thờ ơ với thời cuộc, thiếu am hiểu về tình hình chính trị - xã hội, nhận thức chưa đầy đủ về thủ đoạn của chiến lược “Diễn biến hoà bình”; một số ít đảng viên có tư tưởng an phận, thiếu ý thức cầu tiến; một số khác không muốn làm công tác Đảng, cá biệt có tư tưởngchủ nghĩa cá nhân, xa rời thực tế.

2- Công tác tổ chức và cán bộ:

+ Đối với công tác tổ chức: Xuất phát từ đặc điểm của một Đảng bộ mới thành lập, BCH – BTV QU đã tập trung chỉ đạo các chi đảng bộ cơ sở, các tổ chức trong hệ thống chính trị, các ban tham mưu của Quận uỷ có quy chế và phương thức hoạt động thích hợp vừa đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy vai trò của từng tổ chức cơ sở Đảng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Trong quá trình lãnh đạo công tác tổ chức, BCH luôn thực hiện nghiêm túc Điều lệ Đảng, những nguyên tắc và quan điểm trong xây dựng chỉnh đốn Đảng,đã tập trung củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng. Lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ đợt sinh hoạt chính trị tự phê bình và phê bình theo tinh thần NQTW5 – NQTW6 (lần 2).

Nhìn chung, đến nay tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị ổ định và hoạt động tốt, phát huy vai trò lãnh đạo tại từng địa phương, đơn vị; đề ra được nghị quyết sát đúng với thực tiễn, có năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết đã đề ra. Duy trì được nề nếp sinh hoạt, có cải tiến nội dung và hình thức sinh hoạt ở từng chi đảng bộ.

Qua phân tích chất lượng cơ sở Đảng hàng năm cho thấy: 100% chi đảng bộ khá trở lên trong đó số cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh: năm 1997: 21 đơn vị (đạt 60%); năm 1998: 26 đơn vị (đạt 76,46%); năm 1999: 24 đơn vị (đạt 66,67%).

+ Về công tác cán bộ và tình hình cán bộ: ngay từ đầu nhiệm kỳ, BCH Đảng bộ đã tập trung quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt nhằm đảm bảo tính liên tục và kế thừa; ở mỗi chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý đều có người dự bị thay thế. Công tác quy hoạch tiến hành đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của Đảng. Cho đến nay hầu hết các đ/c trong diện quy hoạch đều được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và phát huy tốt trên lĩnh vực đang công tác.

Trong công tác cán bộ, BCH – BTV luôn quan tâm đến công tác quản lý bố trí, sắp xếp cán bộ hợp lý, đúng người đúng việc; có quy định phân công, phân cấp quản lý cán bộ, dân chủ, tạo sự thông suốt về tư tưởng khi điều động, luân chuyển cán bộ. Thực hiện tốt các chính sách đối với cán bộ. Đã chỉ đạo và tổ chức cho đảng viên khai lý lịch mới và viết bổ sung lý lịch theo chỉ đạo của Đảng cấp trên; mạnh dạn thay thế những cán bộ đã giảm sút ý chí chiến đấu, có tư tưởng và lối sống lệch lạc, năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Chỉ đạo chặt chẽ đợt sinh hoạt chính trị tự phê bình và phê bình theo tinh thần NQTW5, TW6 (lần 2) khoá 8. Kết quả phân tích chất lượng đảng viên cho thấy:

- Đảng viên đủ tư cách: 1.259/1432 đảng viên (đạt tỷ lệ 97,82%), trong đó có 166 đ/c hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng bộ Quận khen thưởng.

- Đảng viên vi phạm tư cách: 28/1432 đảng viên (chiếm tỷ lệ 2,17%).

Về cơ bản đến nay Đảng bộ đã xây dựng và bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp các ngành có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Số đông cán bộ, đảng viên cố gắng tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, có ý thức phấn đấu vươn lên, khắc phục khó khăn, gương mẫu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, giữ gìn nhân cách, có lối sống trong sạch lành mạnh, có ý thức cảnh giác cách mạng, tích cực trong đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, có ý thức xây dựng đoàn kết nội bộ, có tinh thần phục vụ nhân dân được quân chúng nhân dân tín nhiệm.

Bên cạnh những mặt mạnh, một số ít cán bộ, đảng viên thiếu trách nhiệm với nhiệm vụ được phân công, thoái hoá biến chất như tham ô, lãng phí, quan liêu hách dịch với dân. Cá biệt một số ít đảng viên không bình tĩnh giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lợi cá nhân với lợi ích chung dẫn tới thiếu gương mẫu, vi phạm chính sách, pháp luật, vi phạm phẩm chất đạo đức, hạ thấp tính Đảng của một người đảng viên.

Mặt tồn tại của công tác cán bộ trong thời gian qua là một số ít cán bộ thiếu rèn luyện về phẩm chất và năng lực không còn phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ công tác nhưng chậm được thay thế, làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng.

+ Về công tác phát triển đảng viên mới: Xác định phát triển đảng viên mới là nhiệm vụ thường xuyên có ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Ngoài việc chỉ đạo cụ thể đối với các cấp uỷ, Quận uỷ còn tổ chức các hội nghị chuyên đề về công tác phát triển đảng viên mới, hàng năm họp mặt đảng viên mới kết nạp để động viên, trao đổi kinh nghiệm trong công tác… Quán triệt sự chỉ đạo của BCH – BTV, hầu hết các cấp uỷ Đảng đã xây dựng kế hoạch cụ thể, xác định chỉ tiêu và đề ra các biện pháp để thực hiện chỉ tiêu của đơn vị mình. Trong nhiệm kỳ toàn Đảng bộ kết nạp được 133 đảng viên mới, vượt 33% chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội, hơn 80% cơ sở Đảng có kết nạp đảng viên mới. Đảng viên mới kết nạp đã phát huy được vai trò tiên phong gương mẫu, có năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Các đ/c đảng viên mới phát triển tập trung chủ yếu ở khối giáo dục, lực lượng vũ trang và địa bàn dân cư đúng như định hướng mà Nghị quyết Đại hội đã đề ra.

Tuy có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn một số cấp uỷ chưa tập trung lãnh đạo đúng mức cho công tác phát triển đảng viên mới, đảng viên mới kết nạp có tuổi đời trung bình cao; việc phát triển đảng viên là công nhân trực tiếp sản xuất và ở khu dân cư chưa được cấp uỷ cơ sở thực sự quan tâm.

3- Công tác bảo vệ chính trị nội bộ:

Quận uỷ đã quán triệt Chỉ thị 39-CT/TW của BCT đến tất cả đảng viên để hiểu và thực hiện tốt công tác này. Công tác BVCTNB đã đáp ứng được yêu cầu của BCH, BTV trong việc quản lý cán bộ, đảng viên, đã làm rõ lịch sử chính trị của tất cả các đồng chí cán bộ chủ chốt do Quận uỷ quản lý, của các đ/c đảng viên mới phát triển trong nhiệm kỳ; sưu tra, có kết luận rõ ràng những trường hợp có vướng mắc về lịch sử chính trị của cán bộ đảng viên.

Nhìn chung, nhận thức về công tác bảo vệ chính trị nội bộ của cấp uỷ cơ sở và đảng viên có nâng lên, tuy nhiên vẫn còn một số ít cấp uỷ chưa thật sự quan tâm đến công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chủ quan trong việc tuyển dụng, bố trí, sử dụng cán bộ chưa được làm rõ lịch sử chính trị.

4- Công tác kiểm tra Đảng:

Trong lãnh đạo BCH, BTV, các cấp uỷ cơ sở đã thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra. Thực hiện kiểm tra các tổ chức Đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, kiểm tra việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng, kiểm tra các tổ chức Đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm và xem xét xử lý đảng viên vi phạm kỷ luật đúng người, đúng việc, nghiêm minh, đúng Điều lệ Đảng qui định. Tập trung giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo đảng viên.

UBKT Đảng từ quận đến cơ sở từng bước được kiện toàn, công tác kiểm tra đã đi vào nề nếp và hoạt động có hiệu quả. Hầu hết các cấp uỷ, UBKT Đảng uỷ cơ sở chủ động tích cực trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra của mình, kịp thời xử lý, ngăn ngừa đảng viên sai phạm. Một số UBKT trước đây còn yếu kém nay đã có sự chuyển biến hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ. Phần lớn các đ/c ở cơ sở phải kiêm nhiệm nhiều việc nên thời gian đầu tư cho công tác kiểm tra còn hạn chế, việc giải quyết một số ít đơn, thư khiếu nại, tố cáo đảng viên còn chậm. Việc kiểm tra đảng viên và các tổ chức Đảng khi có dấu hiệu vi phạm của một số ít UBKT cơ sở chưa chủ động để vi phạm kéo dài.

Trong nhiệm kỳ có 19 đảng viên bị xử lý kỷ luật, trong đó: khiển trách 12, cảnh cáo 6, khai trừ 1. Nội dung vi phạm chủ yếu là: thiếu tinh thần trách nhiệm (2), tham ô (1), chính sách DSKHHGĐ (2), cố ý làm trái các quy định chính sách (7), vi phạm phẩm chất đạo đức (7); trong đó cán bộ chủ chốt chiếm tỷ lệ: 10/19.

Trong nhiệm kỳ qua toàn Đảng bộ đã tập trung đúng mức trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, không ngừng nâng cao năng lực, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ đảng viên. Nhận thức chính trị, tư tưởng, quan điểm lập trường của cán bộ, đảng viên, các cấp uỷ Đảng từng bước được nâng lên, thể hiện cụ thể bằng việc các Nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch công tác của từng cấp uỷ Đảng ngày càng có chất lượng, sát với tình hình thực tế của địa phương, đơn vị, làm rõ hơn vai trò lãnh đạo của Đảng tại các cơ quan đơn vị trong toàn quận, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ do Đại hội đề ra.

II- XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN:

1- Hoạt động Hội đồng nhân dân: Trên cơ sở cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quận lần thứ I và Nghị quyết hàng năm của BCH Đảng bộ, mỗi kỳ họp, HĐND đã xây dựng nghị quyết sát đúng với tình hình thực tế của địa phương, phù hợp với tâm tư nguyện vọng của cử tri, thực hiện tốt chức năng, vai trò là cơ quan quyền lực tại địa phương, được cử tri tín nhiệm ngày càng cao, HĐND đã chú trọng việc thực hiện tốt quy chế hoạt động của HĐND, thực hiện chế độ tiếp dân và tiếp xúc cử tri đúng luật định, tổ chức nhiều cuộc khảo sát, giám sát hoạt động của chính quyền trên tất cả các lĩnh vực, nhất là các ngành, các lĩnh vực được quan tâm của cử tri như: giáo dục, quản lý đô thị, kinh tế, các cơ quan thi hành pháp luật, tổ tiếp nhận và trả hồ sơ của quận và phường….

Đại biểu HĐND giữ được mối quan hệ chặt chẽ, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, phản ánh được tâm tư nguyện vọng của cử tri đến cơ quan thường trực HĐND và các cơ quan chức năng, đồng thời góp phần giúp cho cử tri hiểu đúng đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.

Tuy nhiên chức năng giám sát của HĐND hiệu quả chưa cao, có một số ít đại biểu chưa phát huy tốt vai trò của đại biểu HĐND, việc tiếp thu, phản ánh ý kiến cử tri còn thụ động, một chiều.

2- Xây dựng chính quyền và hiệu lực quản lý Nhà nước

Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ và HĐND, bộ máy chính quyền từ quận đến cơ sở luôn được chú trọng củng cố. Xây dựng đề án sắp xếp tổ chức, bộ máy Nhá nước theo tinh thần NQTW 7 (khoá 8). Chỉ đạo thành lập một số đơn vị sự nghiệp phục vụ cho yêu cầu phát triển tại địa phương. Sắp xếp lại bộ máy cấp phường theo Nghị định 09/1998-NĐ/CP của Chính phủ. Tiếp tục hoàn thiện quy trình giải quyết hành chính công theo cơ chế “một cửa, một dấu”, thực hiện quy chế dân chủ trong các doanh nghiệp Nhà nước, cơ quan hành chính sự nghiệp và 13 phường, xây dựng và ban hành các văn bản áp dụng pháp luật phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước.

Đến nay hệ thống tổ chức, bộ máy từ quận đến cơ sở tương đối ổn định và hoạt động có hiệu quả. UBND Quận đã chỉ đạo đổi mới loại hình doanh nghiệp ở các đơn vị kinh tế một cách phù hợp với thực tiễn. Chỉ đạo thực hiện đạt và vượt nhiều chỉ tiêu về kinh tế - xã hội; quốc phòng an ninh được giữ vững; đời sống văn hoá cơ sở có nhiều chuyển biến tích cực.

Tuy nhiên công tác quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực còn buông lỏng, thiếu sự kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các ngành và UBND một vài phường, dẫn đến những trì trệ trong tổ chức thực hiện một số mục tiêu nhiệm vụ kinh tế - xã hội, vi phạm nguyên tắc quản lý tài chính - điều hành ngân sách. Một số công chức, cán bộ gây phiền hà cho nhân dân nhưng chưa được xử lý kịp thời và nghiêm minh.

III- CÔNG TÁC QUẦN CHÚNG

1- Lãnh đạo công tác vận động quần chúng:

Quần chúng nhân dân phấn khởi vì chỉ trong thời gian ngắn, Đảng bộ và chính quyền từ quận đến cơ sở đã lãnh đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ I đạt được những kết quả quan trọng; củng cố thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và con đường đi lên CNXH ở nước ta, tin tưởng ở vai trò lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ, động viên nhân dân tham gia tích cực các phong trào hành động cách mạng.

Công tác vận động quần chúng đã được Đảng bộ tập trung đúng mức, tổ chức cho toàn Đảng bộ quán triệt, thảo luận về bài báo “Dân vận” của Bác Hồ và các chỉ đạo của Trung ương, Thành phố về công tác dân vận, có các nghị quyết chuyên đề về công tác dân vận; các cấp uỷ Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về tầm quan trọng của công tác dân vận, trên cơ sở đó mà mỗi cơ quan, mỗi ngành chức năng đều lấy mục tiêu phục vụ nhân dân để phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị mình. Định kỳ mỗi quý Quận uỷ - UBND làm việc với khối vận một lần, nhờ đó luôn có sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của Đảng bộ từ quận đến cơ sở về công tác vận động quần chúng; kịp thời giải quyết những vướng mắc, tháo gỡ những khó khăn trong công tác vận động quần chúng; hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể ngày càng có hiệu quả. Bằng nhiều hình thức và nội dung phù hợp, thiết thực, Mặt trận và các đoàn thể đã tập hợp được lực lượng quần chúng tham gia ngày càng đông, phong trào cách mạng trong quần chúng ngày càng có hiệu quả.

Bên cạnh những mặt chuyển biến tích cực trên, có lúc, có việc một số cấp uỷ Đảng thiếu quan tâm tạo điều kiện thuận lợi để các đoàn thể hoạt động. Công tác dân vận có lúc chưa được các cấp uỷ, chính quyền thực hiện tốt cho Mặt trận và các đoàn thể.

2- Các hoạt động của khối Vận:

Hoạt động khối Vận luôn bám sát vào nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, khơi dậy được tính tích cực của các tầng lớp nhân dân, nhiều phong trào quần chúng đã được Mặt trận, Đoàn thể duy trì và mở rộng; chất lượng, nội dung hoạt động ngày càng được nâng lên, gắn liền công tác vận động giáo dục với việc chăm lo đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền tại địa phương.

Ban Dân vận đã làm khá tốt chức năng tham mưu cho Quận uỷ về công tác vận động quần chúng, tổ chức phối hợp hoạt động giữa Mặt trận, các đoàn thể, các ngành có liên quan, phát huy sức mạnh tổng hợp, tác động toàn diện đến đời sống vật chất, tinh thần của đoàn viên - hội viên và nhân dân.

Tham mưu cho Quận uỷ tổ chức tổng kết các chương trình, kế hoạch của Quận uỷ trên lĩnh vực công tác vận động quần chúng của từng giới, từng đoàn thể. Tập trung củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, chú trọng việc tổ chức và xây dựng lực lượng chính trị nồng cốt tại cơ sở.

Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) tập trung thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” và phối hợp cùng với các cấp uỷ Đảng, các đoàn thể chính quyền đẩy mạnh phong trào ““Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, góp phần tích cực cho sự hình thành và phát triển các khu phố, ấp văn hoá, những gương điển hình người tốt việc tốt, gia đình văn hoá, công sở văn minh sạch đẹp ngày càng trở thành phong trào thi đua rộng khắp trên địa bàn quận.

MTTQ đã thường xuyên phản ánh tâm tư nguyện vọng và những kiến nghị của cư tri đến các kỳ họp HĐND, giám sát hoạt động của các ngành, góp phần cùng chính quyền hoàn thành tốt các mục tiêu nhiệm vụ theo Nghị quyết của BCH Đảng bộ và Nghị quyết HĐND Quận. MTTQ cũng đã phối hợp tốt với các ngành tổ chức thực hiện thành công đợt bầu cử HĐND 3 cấp vào ngày 14/11/1999 tại Quận, MTTQ còn tổ chức vận động các tôn giáo, các tổ chức thành viên tham gia tốt các cuộc vận động xây dựng nhà tình thương, nhà tình nghĩa; cứu trợ đồng bào bị thiên tai lũ lụt và các hoạt động xã hội từ thiện khác.

Liên đoàn Lao động tập trung các hoạt động giáo dục truyền thống cho giai cấp công nhân, khơi dậy niềm tự hào và ý thức về vai trò, trách nhiệm của giai cấp công nhân, tầng lớp trí thức trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng địa phương, chú trọng bồi dưỡng về chính trị, văn hoá, luật pháp cho công nhân lao động. Tập trung củng cố và phát triển công đoàn cơ sở, có quan tâm hơn đối với các đơn vị ngoài quốc doanh.

Hội nông dân luôn đi sát giải quyết những vấn đề bức xúc của nông dân, xây dựng và phát triển các mô hình sản xuất giỏi, xây dựng các câu lạc bộ, phát triển mới được 11 Câu lạc bộ dân số và phát triển của quận và phường, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, phúc lợi ở nông thôn. Hội đặc biệt chú trọng đến việc khai thác các nguồn vốn, thành lập quỹ Hội Nông dân để trợ vốn cho nông dân sản xuất, tập huấn khoa học kỹ thuật, hội thảo đầu bờ, chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi, vận động không để đất hoang.

Hội Liên hiệp Phụ nữ đi sâu vào các hoạt động bồi dưỡng, giáo dục truyền thống Hội, truyền thống cách mạng và định hướng cho giới nữ về vai trò phụ nữ đối với gia đình, đối với xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tăng cường các hoạt động bảo vệ nhân phẩm phụ nữ, chăm sóc sức khoẻ phụ nữ, giáo dục con cái thành người hữu ích cho xã hội, chăm lo tốt đời sống học viên, duy trì nhiều phong trào như phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, phụ nữ tự rèn luyện, học bổng Nguyễn Thị Minh Khai, xây dựng gia đình hạnh phúc… Hội đã duy trì tốt hoạt động Câu lạc bộ truyền thống phụ nữ quận.

Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp thanh niên đã duy trì thường xuyên các hoạt động giáo dục lý tưởng cộng sản, giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh thiếu niên. Từng bước thể hiện vai trò xung kích của tuổi trẻ trên các lĩnh vực lao động sản xuất, xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, bảo vệ an ninh trật tự, đấu tranh các tệ nạn xã hội; quan tâm đến các hoạt động nhằm bồi dưỡng nhân cách, xây dựng ý thức công dân, giới thiệu và giải quyết việc làm cho thanh niên, bộ đội xuất ngũ, rèn luyện đoàn viên, giới thiệu những đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét và kết nạp với số lượng ngày càng tăng.

Hội cựu chiến binh, Câu lạc bộ truyền thống kháng chiến và Ban Liên lạc tù chính trị, tù binh luôn có sự phối hợp trong hoạt động, những hội viên, thành viên của các tổ chức này luôn là lực lượng nòng cốt trong các phong trào tại địa phương, tích cực giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục thanh niên về nghĩa vụ bảo vệ và xây dựng tổ quốc XHCN, tuyên truyền phòng chống các tệ nạn xã hội, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực tại địa phương, tích cực phát hiện, tham gia truy tìm hài cốt liệt sĩ. Vận động, hướng dẫn hội viên phát triển kinh tế gia đình, bằng nhiều biện pháp hỗ trợ để chăm lo đời sống những hội viên khó khăn. Ban Liên lạc tù chính trị, tù binh đã tạo điều kiện để hàng năm những người đã từng bị địch bắt tù đày trong các thời kỳ kháng chiến được họp mặt gặp gỡ động viên nhau, ngoài ra Ban Liên lạc còn giúp đỡ, hướng dẫn làm hồ sơ để hưởng chế độ chính sách theo quy định cho 120 người.

Hội Chữ thập đỏ đã tranh thủ tốt nhiều nguồn lực hỗ trợ để tổ chức các hoạt động xã hội, từ thiện; góp phần cùng ngành y tế địa phương chă, lo sức khoẻ nhân dân, phòng chống AIDS, ma tuý. Đưa phòng khám từ thiện đi vào hoạt động có nề nếp và hiệu quả.

Hoạt động các tôn giáo diễn ra bình thường, chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo tham gia tốt các phong trào tại địa phương, hưởng ứng các chủ trương của Đảng và Nhà nước. Thông qua MTTQ và Ban Tôn giáo quận, nhiều chủ trương của Đảng và Nhà nước được phổ biến đến các chức sắc và quần chúng có đạo, đồng thời Đảng bộ chính quyền quận thường xuyên tiếp xúc, lắng nghe ý kiến của các tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo thực hiện tốt phương châm “tốt đời, đẹp đạo”.

Các hội quần chúng khác như Hội Luật gia, Hội người mù, Hội Y học cổ truyền… có nhiều sáng tạo trong hoạt động, góp phần giải quyết những nhu cầu bức xúc của nhân dân nói chung và của hội viên nói riêng tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, góp phần xây dựng quận đi dần vào ổn định và phát triển.

Tuy nhiên, Mặt trận và các đoàn thể còn có những hạn chế: vai trò hiệp thương phối hợp của MTTQ đối với các tổ chức thành viên chưa ngang tầm tình hình nhiệm vụ mới. Các đoàn thể chưa thật sự chú trọng tập hợp đoàn viên, hội viên là quần chúng có đạo, dân nhập cư, công nhân lao động ngoài quốc doanh. Vai trò đại diện cho các thành viên, đoàn viên, hội viên tham gia quản lý, giám sát hoạt động của các cơ quan chính quyền còn hạn chế. Hệ thống tổ chức cơ sở của một số đoàn thể còn yếu, phong trào chưa đều, chưa thường xuyên, chất lượng chính trị của lực lượng nòng cốt chưa cao; một vài cán bộ đoàn thể ít dành thời gian đi cơ sở, chưa thật sự gần gũi sâu sát với nòng cốt cơ sở, còn nặng phong cách hành chính trong công tác dân vận.

C- ĐÁNH GIÁ CHUNG

1- Những ưu điểm – nguyên nhân:

a- Những ưu điểm chủ yếu:

Đã thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu cơ bản của Đại hội đề ra, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh tình hình có nhiều khó khăn thách thức.

Trên lĩnh vực kinh tế đang sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, khuyến khích đầu tư, tạo ra môi trường thuận lợi cho các đơn vị kinh tế phát triển, đồng thời tăng cường quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp. Giữ được mức tăng trưởng kinh tế. Bước đầu tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng của Đại hội Đảng bộ quận lần I. Cân đối được thu chi ngân sách, đầu tư xây dựng, nâng cấp được nhiều công trình kết cấu hạ tầng đáp ứng phần nào yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tình hình an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

Đã tập trung giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc và thực hiện các chính sách xã hội tốt hơn, tập trung chăm lo đối với diện chính sách, dân nghèo, phát triển y tế, giáo dục, đời sống văn hoá cơ sở… tạo ra sự chuyển biến tích cực, trong quá trình phát triển đô thị, xây dựng nông thôn mới.

Công tác vận động quần chúng được BCH – BTV QU tập trung lãnh đạo, các cấp uỷ Đảng, chính quyền, cán bộ đảng viên nhận thức ngày càng đầy đủ đúng đắn hơn về tầm quan trọng và nội dung của công tác vận động quần chúng và trách nhiệm được thể hiện cụ thể hơn. Mặt trận, các đoàn thể được củng cố, hoạt động có hiệu quả. Chất lượng hoạt động của HĐND ngày càng cao; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền thể hiện ngày càng rõ nét.

Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ và từng tổ chức cơ sở Đảng được nâng lên đáng kể. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phần lớn trưởng thành về nhiều mặt, nhận thức, phẩm chất chính trị được nâng lên; ý thức hơn về việc phấn đấu giữ gìn phẩm chất đạo đức, tích cực học tập nâng cao trình độ, trao dồi kỷ năng nghề nghiệp, sống hoà đồng, gắn bó với quần chúng thể hiện trách nhiệm cao với nhiệm vụ được giao, có tinh thần đoàn kết nội bộ tốt, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.

b- Nguyên nhân của ưu điểm:

Có được kết quả trên, trước hết là nhờ các Chỉ thị, Nghị quyết đúng đắn của TW, sự chỉ đạo kịp thời của Thành uỷ, UBND TP và sự hỗ trợ của các sở, ban, ngành Thành phố.

BCH – BTV QU thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng, thực hiện tốt quy chế hoạt động của BCH Đảng bộ, xác định đúng mối quan hệ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách từng nhiệm vụ được giao, chủ động, sáng tạo trong điều hành nhiệm vụ chính trị, thực hiện tốt dân chủ nội bộ; thường xuyên tự phê bình, phê bình; lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên, nhân dân trong việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo BCH Đảng bộ - BTV QU luôn thống nhất trong nhận thức và hành động. Nội bộ đoàn kết tốt, là trung tâm đoàn kết toàn Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ I.

Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận, các Đoàn thể, đội ngũ cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang đã nhận thức được trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, kiên định con đường XHCN tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, có tinh thần khắc phục khó khăn, quyết tâm cao trong tổ chức, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ I.

Với truyền thống cách mạng và tinh thần yêu nước, tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân dân, các giới đồng bào đã đoàn kết, năng động, sáng tạo, tham gia tích cực các phong trào hành động cách mạng, các cuộc vận động của Đảng và chính quyền.

2- Những khuyết điểm – nguyên nhân:

a- Những khuyết điểm chủ yếu:

Kinh tế đi dần vào ổn định và có bước tăng trưởng, nhưng chưa thật vững chắc, kết quả đạt được chưa tương xứng so với tiềm năng thế mạnh của quận. Một vài chỉ tiêu chưa đạt so với Nghị quyết Đại hội. Chưa đầu tư đúng mức cho phát triển kinh tế nông nghiệp, phát triển du lịch, chưa có biện pháp tích cực để thu hút vốn đầu tư. Còn buông lỏng quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực như: quản lý đô thị, sang nhượng đất nông nghiệp trong dân, chất lượng xây dựng cơ bản, ô nhiễm môi trường…

Tình hình phạm pháp hình sự, tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn tốt; có mặt, có lúc gia tăng tạo ra băn khoăn lo lắng trong dân, nhất là nạn ma tuý trong thanh thiếu niên chưa có biện pháp đồng bộ và tích cực để ngăn chặn và đẩy lùi.

Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ở một vài tổ chức cơ sở Đảng chưa có chuyển biến rõ nét sau đợt sinh hoạt tự phê bình và phê bình theo tinh thần NQTW 5, NQTW 6 (lần 2). Một số đảng viên, CBCC chưa thật sự gương mẫu trong học tập nâng cao nhận thức chính trị, thiếu rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống và còn quan liêu, hách dịch gây phiền hà cho nhân dân. Công tác chống tham nhũng chưa có kết quả cao, ý thức thực hành tiết kiệm trong một bộ phận cán bộ còn hạn chế.

b- Nguyên nhân của khuyết điểm:

+ Về chủ quan:

Tuy có nhiều cố gắng và có bước trưởng thành đáng kể nhưng trình độ, năng lực lãnh đạo của BCH – BTV QU chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Trong lãnh đạo, chỉ đạo có lúc chưa bám sát vào một số nhiệm vụ trọng tâm. Còn một số trường hợp điều động, sắp xếp cán bộ mang tính chắp vá, không phát huy được mặt mạnh của cán bộ, chưa kịp thời thay thế số cán bộ không đảm đương được nhiệm vụ.

Hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước từ quận đến cơ sở trên một số lĩnh vực còn buôn lỏng, thiếu kiểm tra trong chỉ đạo, điều hành; tổ chức bộ máy, nhân sự của mặt trận, các đoàn thể từ quận đến cơ sở chưa được củng cố vững chắc, chưa ngang tầm với nhiệm vụ.

+ Về khách quan:

Một số chủ trương chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước đề ra trong thời gian qua đến nay không còn phù hợp với thực tế, việc phân công phân cấp chưa hợp lý, thay đổi liên tục tạo ra không khí khó khăn cho việc triển khai thực hiện của cấp dưới. Một số chế độ chính sách đãi ngộ chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao, nhất là đối với cán bộ làm công tác Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể ở phường, khu phố. Mặt khác, tình hình khủng hoảng tài chính - tiền tệ của các nước trong khu vực và thiên tai liên tục xảy ra làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của địa phương.

PHẦN THỨ II

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ II (2000 – 2005)

DỰ BÁO TÌNH HÌNH:

Cùng với cả nước và Thành phố, Quận 9 bước vào thế kỷ 21 với nhiều thuận lợi cơ bản: Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới, những thành tựu nổi bật 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, là sự động viên, cổ vũ lớn đối với cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ 7 là định hướng trực tiếp, cùng với thế mạnh của quận về đất đai, cảnh quan thiên nhiên, lao động và quy hoạch phát triển các khu văn hoá, khu giải trí lớn của Trung ương, Thành phố, kết quả thực hiện các mục tiêu chính trị - kinh tế - xã hội trong hơn 2 năm qua là cơ sở, là tiền đề để Đại hội xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của quận trong 5 năm tới.

Bên cạnh mặt thuận lợi, chúng ta cũng thấy những khó khăn còn rất lớn: ngoài tình hình khó khăn chung của cả nước và Thành phố tác động; những tồn tại, yếu kém của những năm trước đòi hỏi Đảng bộ phải tiếp tục giải quyết; cơ cấu kinh tế được Đại hội Đại biểu Đảng bộ quận lần thứ I xác định là dịch vụ - du lịch – công nghiệp – TTCN – nông nghiệp tuy đúng hướng quy hoạch của Thành phố, phù hợp với đặc điểm, tình hình, tiềm năng thế mạnh của quận về lâu dài nhưng do mới hơn 2 năm triển khai thực hiện nên chỉ mới định hình, để tạo sự chuyển dịch nhanh hơn và định hình rõ nét cần có sự đầu tư lớn trong những năm tới; mặt khác, những khó khăn mới phát sinh: vấn đề thu hút vốn đầu tư; vấn đề quy hoạch tổng thể của Thành phố trên địa bàn quận chậm được triển khai, và yêu cầu chỉnh trang đô thị, thực hiện quy hoạch sẽ dẫn tới vấn đề giải toả đền bù, vấn đề thiếu vịêc làm; trình độ dân trí thấp cùng các vấn đề xã hội bức xúc, thực sự là những thách thức đối với quận 9 trong việc xác định mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức triển khai thực hiện.

Trên cơ sở phát huy những thành quả đã đạt được, khắc phục những yếu kém, vượt qua khó khăn, thử thách, tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từng bước ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, Đảng bộ quận 9 phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu và những nhiệm vụ sau:

A- PHƯƠNG HƯỚNG - NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI NHIỆM KỲ II (2000 – 2005)

MỤC TIÊU CHUNG: Năm năm (2000 – 2005) phát huy tinh thần đoàn kết, sức mạnh tổng hợp trong Đảng bộ và nhân dân, quận 9 nổ lực phấn đấu với mục tiêu: phát triển kinh tế theo cơ cấu: dịch vụ - du lịch – công nghiệp – TTCN – nông nghiệp, đến hết nhiệm kỳ định hình rõ hơn nữa cơ cấu kinh tế này; đẩy mạnh tốc độ đô thị hoá đi đôi với chỉnh trang đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng, thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế; tiếp tục xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nghề và giải quyết việc làm, thực hiện có hiệu quả chương trình XĐGN, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự - an toàn xã hội, giải quyết tốt những vấn đề xã hội trên địa bàn; xây dựng Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh; đưa quận 9 cơ bản ra khỏi tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển.

I- NHIỆM VỤ VÀ CHỈ TIÊU:

1- Về kinh tế:

- Tổng Doanh thu của ngành Thương mại - Dịch vụ (Quận quản lý) tăng hàng năm 12 – 14%, tổng doanh số bán đến năm 2005 đạt khoảng 560 tỷ đồng.

- Tổng giá trị sản lượng công nghiệp – TTCN thuộc Quận quản lý hàng năm tăng 10 – 12%, đến năm 2005 thực hiện đạt mức 350 tỷ đồng (giá cố định 1994).

- Tiếp tục giữ mức tăng trưởng sản xuất nông nghiệp là 2 – 3%/năm, đến năm 2005 tổng giá trị sản lượng đạt 68 tỷ đồng (giá cố định 1994), trong đó giá trị chăn nuôi chiếm tỷ trọng trên 30%.

- Tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn dự kiến bình quân 80 – 100 tỷ đồng/năm (tăng 20 – 25%); chủ yếu đầu tư kết cấu hạ tầng. Vốn ngân sách: 50 – 55 tỷ, vốn các ngành: 25 – 35 tỷ, vốn khác 5 – 10 tỷ. Thực hiện các dự án khu dân cư theo quy hoạch phát triển của quận giai đoạn 2000 – 2005.

- Thu, chi ngân sách hàng năm đảm bảo cân đối, có mớc kết dư ngân sách đạt 3 – 5% trên tổng chi thường xuyên.

- Từng bước chỉnh trang đô thị theo quy hoạch, tất cả các công trình mới xây dựng phải theo đúng quy hoạch chung; giải quyết tốt vấn đề ô nhiễm môi trường.

2- Văn hoá – Xã hội:

- Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục, đầu tư phát triển cơ sở vật chất hệ thống trường lớp, đội ngũ giáo viên giỏi đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục, xã hội hoá giáo dục. Phấn đấu huy động 100% trẻ sáu tuổi vào lớp một. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cấp I: 98%, cấp II: 97%, Bổ túc văn hoá: 75%; hoàn thành phổ cập THCS; đến năm 2005 nâng trình độ dân trí bình quân trên lớp 7. Không để xảy ra tình trạng học ca ba.

- Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân, nhất là chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hoá Y tế, 13 trạm y tế đạt tiêu chuẩn. Tỷ lệ trẻ dưới một tuổi tiêm chủng đủ 7 loại vácxin đạt trên 96%, phụ nữ có thai được quản lý đạt chuẩn trên 95%; tổ chức thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia của địa phương; 90% các bệnh nhân xã hội như bệnh phong, lao, tâm thần, nhiễm Hiv, AIDS được quản lý và điều trị… Hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1,4%. Nâng cao trách nhiệm và giành sự chăm sóc tốt nhất đối với trẻ em.

- Tiếp tục bổ sung, thực hiện chương trình hành động thực hiện NQTW 5 của BCH Đảng bộ quận khoá I. Nâng cao chất lượng của các ấp, khu phố văn hoá đã được công nhận, xây dựng để ra mắt 80% ấp, khu phố văn hoá trên tổng số ấp, khu phố trong toàn quận và được công nhận thêm 15 khu phố, ấp văn hoá đã ra mắt Ban Chủ nhiệm, xây dựng 01 phường đạt chuẩn phường văn hoá, xây dựng đời sống văn hoá cơ sở và nếp sống văn minh đô thị.

- Phát triển mạnh các hoạt động Văn hoá, nghệ thuật, truyền thanh, báo chí, thể dục thể thao, đảm bảo tính văn minh, phát huy truyền thống văn hoá dân tộc. Tăng tỷ lệ đầu tư ngân sách phát triển văn hoá, thể dụ thể thao; từng bước xã hội hoá lĩnh vực văn hoá - thể thao trên địa bàn.

- Cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân đều tham gia vào quá trình phát triển của kinh tế - xã hội, đẩy mạnh các chương trình xã hội như: đào tạo giải quyết việc làm, cho vay dự án nhỏ, xoá đói giảm nghèo, vận động xây dựng sửa chữa nhà tình nghĩa, xây dựng nhà tình thương… Một số chỉ tiêu cơ bản: hàng năm hướng nghiệp và đào tạo nghề 800 – 1.000 người, giới thiệu giải quyết việc làm 2.500 – 3.000 lao động, tổng vốn cho vay dự án nhỏ lên trên 10 tỷ đồng, quỹ chương trình xoá đói giảm nghèo đạt 5,5 tỷ đồng. Hàng năm giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 1 – 1,5%, đến hết nhiệm kỳ hộ nghèo còn dưới 7%. Xoá 70% vùng nghèo đã có dự án.

II- MỘT SỐ CÔNG TRÌNH TRỌNG TÂM:

Phát huy những thành quả đạt được trên lĩnh vực xây dựng cơ bản trong nhiệm kỳ qua, nhiệm kỳ 2 phấn đấu hoàn thành các chương trình và công trình trọng tâm sau:

1- Hoàn thành Trung tâm Y tế quận:

2- Xây dựng 2 trường THPT ở phường Tăng Nhơn Phú A và Long Trường; bảo đảm mỗi phường đều có đủ trường tiểu học, trung học cơ sở, mẫu giáo, xây dựng mới trường THCS chất lượng cao Hoa Lư.

3- Xây dựng Trung tâm TDTT, TTVH, Nhà tưởng niệm Bến Nọc, Nhà thiếu nhi.

4- Nâng cấp hệ thống cầu trên Hương lộ 33.

5- Nâng cấp và xây dựng mới đường Liên phường Phú Hữu, đường Long Phước I, II, hoàn thành quy hoạch hệ thống giao thông xương cá ở 13 phường.

6- Hình thành cơ bản khu công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng Long Sơn – Long Bình.

7- Chương trình nước sạch cho sinh hoạt.

III- AN NINH QUỐC PHÒNG:

Thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến lược an ninh quốc gia và triển khai thực hiện nghị quyết an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới của Thành uỷ. Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; sử dụng các biện pháp nghiệp vụ, nắm chắc hoạt động của các loại đối tượng. Tăng cường các biện pháp phòng ngừa và đấu tranh chống các loại tội phạm hình sự, tội phạm kinh tế và tệ nạn xã hội, đặc biệt ngăn chặn tội phạm ma tuý, bài trừ các loại văn hoá phẩm đồi truỵ, độc hại. Phát động phong trào quần chúng phát hiện tội phạm, vận động ra đầu thú, tham gia giáo dục các đối tượng tại cộng đồng dân cư. Nhân rộng mô hình cai nghiện ma tuý tại cộng đồng dân cư.

- Quá trình xây dựng, phát triển kinh tế của quận trong thời kỳ kinh tế thị trường, phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với quốc phòng và an ninh. Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hiểu đầy đủ hơn về chiến lược diễn biến hoà bình từ đó nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng.

- Tập trung lãnh đạo, củng cố, xây dựng cơ sở phường vững mạnh toàn diện đồng thời với nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang cho quận trong sạch vững mạnh sẵn sàng chiến đấu đủ sức bảo vệ Đảng, bảo vệ Chính quyền, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống. Quản lý tốt dân nhập cư, quản lý nhân hộ khẩu, tiếp tục thực hiện sự phối hợp 4 lực lượng và tăng cường vận động quần chúng giữ gìn an ninh – chính trị, trật tự an toàn xã hội.

- Xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch diễn tập phòng thủ hàng năm.

- Tăng cường công tác tuyên truyền Luật Nghĩa vụ quân sự, hàng năm làm tốt công tác tuyển quân, bảo đảm giao quân đạt chỉ tiêu 100%. Cấp uỷ các phường, Mặt trận, các đoàn thể, các đơn vị, các ngành chức năng làm tốt công tác hậu phương – quân đội, đặc biệt quan tâm đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho những quân nhân hoàn thành NVQS trở về.

- Tiếp tục xây dựng vững chắc nền an ninh nhân dân, và thế trận an ninh nhân dân gắn với nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân. Xây dựng và nâng cao chất lượng dân quân tự vệ, đảm bảo đến năm 2005 lực lượng dân quân đạt 3% dân số, 100% phường đội trưởng là đảng viên, 80% được cơ cấu vào cấp uỷ phường.

B- XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

I- CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG

1- Công tác giáo dục chính trị - lãnh đạo tư tưởng:

Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ quận đã đề ra, công tác chính trị - tư tưởng phải làm cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần quan điểm: giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên; phải tạo được sự thống nhất cao về nhận thức, ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và khơi dậy tính năng động sáng tạo, sự hưởng ứng tích cực trong các tầng lớp nhân dân; muốn vậy cần tập trung thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:

- Tổ chức triển khai, học tập nghiên cứu, quán triệt quan điểm, đường lối, nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước cho cán bộ đảng viên và tuyên truyền những nội dung cơ bản sâu rộng trong nhân dân. Đặc biệt là Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 9, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ 7 và Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ quận 9 lần II. Học tập, nghiên cứu nghị quyết là phải trên cơ sở quán triệt quan điểm, nội dung để xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện cho từng cấp, từng đơn vị một cách hợp lý, cụ thể.

- Triển khai thực hiện Quyết định 54/TW về chế độ học tập cho cán bộ, đảng viên đảm bảo 100% đảng viên được học tập bồi dưỡng, đào tạo lại theo tinh thần Quyết định 54/TW, trong đó coi trọng việc giáo dục cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân thấu suốt việc học tập, nghiên cứu bảo vệ và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin nhằm củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

- Tập trung tuyên truyền sâu rộng về đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, giáo dục truyền thống cách mạng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhằm nâng cao nhận thức chính trị, vận động cổ vũ việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng, chính quyền các cấp. Nêu gương các điển hình đảng viên rèn luyện phấn đấu tốt và các tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh.

- Tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần NQTW 6 (lần 2), tăng cường giáo dục cán bộ, đảng viên rèn luyện để nâng cao phẩm chất chính trị, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức phục vụ nhân dân. Phấn đấu giữ gìn lối sống trong sạch, lành mạnh, chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, uốn nắn kịp thời những nhận thức lệch lạc, những quan điểm mơ hồ, những biểu hiện dao động về tư tưởng. Phê phán và bác bỏ những quan điểm trái với đường lối, quan điểm của Đảng, tạo cơ sở cho sự thống nhất tư tưởng và hành động trong toàn Đảng bộ, sự nhất trí cao đối với đường lối của Đảng trong nhân dân.

Các cấp uỷ Đảng và mọi đảng viên phải coi trọng đúng mức vai trò, vị trí của công tác chính trị - tư tưởng, công tác chính trị tư tưởng là công tác của các cấp uỷ Đảng và của mỗi đảng viên.

2- Công tác tổ chức cán bộ

a- Công tác tổ chức:

Để đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng, phải làm cho các cấp uỷ Đảng và mọi đảng viên thông suốt: tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và trong mọi hoạt động của Đảng ta.

Từng bước nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng. Chấn chỉnh nề nếp và nội dung sinh hoạt Đảng tại các chi Đảng bộ. Hàng năm phấn đấu 100% tổ chức cơ sở Đảng từ khá trở lên, trong đó 70 – 75% chi Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh, Đảng bộ quận đạt trong sạch vững mạnh. Kiện toàn các tổ chức khác trong hệ thống chính trị tại quận, vừa đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng vừa phát huy vai trò chủ động, tích cực, năng động của chính quyền, mặt trận và các đoàn thể, các đơn vị kinh tế và các hội quần chúng.

b- Công tác cán bộ:

Tiếp tục bổ sung hoàn chỉnh và thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá của BCH Đảng bộ, với tinh thần NQTW 7 (khoá 8) toàn Đảng bộ phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức – tài. BCH – BTV QU thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của quận, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đảm bảo nguyên tắc tập thể, dân chủ đi đôi với trách nhiệm cá nhân các đ/c cấp uỷ, thủ trưởng các đơn vị trong công tác cán bộ.

Đảng viên, cán bộ phải rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật chú ý đến vấn đề kỷ luật phát ngôn, tự giác đặt mình trong sự quản lý của chi bộ, tham gia đầy đủ sinh hoạt chi bộ, và học tập nghị quyết của Đảng. Thực hiện có nề nếp và thường xuyên chế độ tự phê bình và phên bình, giữ gìn đoàn kết nội bộ, nơi nào có biểu hiện mất đoàn kết phải được tập trung giải quyết.

Gắn công tác quy hoạch cán bộ với công tác bồi dưỡng và đào tạo cán bộ. Hàng năm có đánh giá nhận xét sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ trong quy hoạch. Thực hiện chế độ luân chuyển, biệt phát cán bộ.

c- Công tác phát triển đảng viên mới:

Công tác phát triển đảng viên mới là nhiệm vụ thường xuyên của mỗi tổ chức cơ sở Đảng và của mỗi đảng viên góp phần làm cho Đảng không ngừng lớn mạnh. Đảng bộ phấn đấu hàng năm phát triển mới từ 50 đảng viên trở lên. Hướng phát triển đảng viên mới tập trung: cán bộ nữ, công nhân trực tiếp sản xuất, trí thức, lực lượng vũ trang, địa bàn dân cư và đoàn viên TNCS HCM.

3- Công tác bảo vệ chính trị nội bộ

Để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và để Đảng có đủ phẩm chất chính trị, năng lực, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ là một yêu cầu rất quan trọng, làm tốt công tác BVCTNB sẽ giúp BCH – BTV lãnh đạo nhiệm vụ chính trị đúng đường lối của Đảng, quản lý tốt hơn đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt của quận. Các cấp uỷ cơ sở phải lãnh đạo thực hiện tốt công tác BVCTNB tại đơn vị mình.

Làm tốt công tác sưu tra, kết luận rõ ràng về lịch sử chính trị của cán bộ phục vụ tốt cho công tác quản lý, đề bạt cán bộ, phát triển đảng viên mới và làm rõ các trường hợp có dư luận vướng mắc hoặc chưa rõ ràng về lịch sử chính trị.

4- Công tác kiểm tra Đảng:

Điều lệ Đảng đã khẳng định: kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng. Do vậy để Đảng bộ làm tốt vai trò lãnh đạo của mình thì phải tập trung tăng cường và đổi mới trong công tác kiểm tra.

Các cấp uỷ Đảng lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm tra đảng viên và tổ chức Đảng chấp hành Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là các nghị quyết, kế hoạch, chương trình công tác của Quận uỷ và của các cấp uỷ cơ sở. Kiểm tra đảng viên và tổ chức Đảng khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo các đảng viên. Kết hợp công tác kiểm tra Đảng với công tác thanh tra Nhà nước, thanh tra nhân dân để phát hiện xử lý những đảng viên vi phạm pháp luật; vi phạm phẩm chất đạo đức cách mạng của người đảng viên, vi phạm những điều đảng viên không được làm; kết hợp với BCH chống tham nhũng để thực hiện cuộc vận động chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, phải đấu tranh thường xuyên, kin quyết và có hiệu quả chống nạn tham nhũng, lãng phí trong cán bộ, đảng viên, trong bộ máy Nhà nước, các ngành, các cấp từ quận đến cơ sở, khi phát hiện cần xử lý nghiêm minh, kịp thời với mọi đối tượng; có biện pháp hình thức thích hợp biểu dương những cá nhân, tổ chức phát hiện và đấu tranh với những hành vi tham nhũng.

Thông qua kiểm tra để phát hiện nhân tố mới, phát huy ưu điểm, ngăn ngừa và khắc phục khuyết điểm; bổ sung những nội dung cần thiết hoặc điều chỉnh những vấn đề chưa hợp lý trong các chương trình, kế hoạch, nghị quyết của Quận uỷ, của các cấp uỷ cơ sở.

II- XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN QUẬN VÀ PHƯỜNG:

1- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Chính quyền:

Quán triệt quan điểm Đảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo các lĩnh vực của xã hội thông qua Nhà nước. Do vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước là hai mặt thống nhất.

Để Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần II đi vào cuộc sống, BCH – BTV QU cần tăng cường vai trò lãnh đạo đối với chính quyền trên cơ sở xây dựng các nghị quyết hàng năm, nghị quyết chuyên đề sát hợp với tình hình của quận, có tính khả thi cao, cho ý kiến về những vấn đề lớn, bức xúc về kinh tế - xã hội – an ninh quốc phòng để HĐND, UBND cụ thể hoá trong tổ chức thực hiện, nhằm không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành xã hội của các cấp chính quyền.

Khi ra nghị quyết lãnh đạo liên quan đến những lĩnh vực chuyên ngành, phải trên cơ sở sự tham mưu của các ngành chức năng, của UBND và các đoàn thể chính trị - xã hội.

2- Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của HĐND:

Nghị quyết của HĐND quận và phường phải trên cơ sở cụ thể hoá nghị quyết của BCH Đảng bộ, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và những yêu cầu nguyện vọng chính đáng của cử tri từ đó mà giám sát, kiểm tra quá trình tổ chức thực hiện của UBND và các ngành chức năng.

Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND, của Thường trực, các ban HĐND, của tổ đại biểu và từng Đại biểu.

Thực hiện quy chế phối hợp hoạt động giữa HĐND – UBND và UB MTTQ quận, phường.

3- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của UBND:

Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính trên các mặt: thủ tục hành chính; tổ chức bộ máy và đội ngũ CBCC.

- Từng bước sắp xếp, kiện toàn tổ chức, bộ máy của các phòng, ban, đơn vị sự nghiệp thuộc UBND thoe tinh thần NQTW 7, phù hợp với nhiệm vụ và yêu cầu của tình hình mới, tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất chính trị, rèn luyện phong cách, phẩm chất đạo đức, ý thức phục vụ nhân dân cho đội ngũ CBCC. Đảm bảo xây dựng chính quyền từ quận đến phường thực sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao. Trước mắt củng cố, kiện toàn ngay tổ chức bộ máy đối với những đơn vị hoạt động kém hiệu quả, cán bộ chủ chốt không đảm bảo về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức và yếu về năng lực.

- Vừa tăng cường sự lãnh đạo của BCH, BTV đồng thời phát huy vai trò của cá nhân đảng viên theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nêu cao trách nhiệm của đảng viên là thủ trưởng, kết hợp với việc động viên, phát huy quyền àlm chủ của quần chúng nhân dân và của các cơ quan chức năng như Thanh tra, Kiểm tra, Kiểm sát trong việc kiểm tra, giám sát các công việc của chính quyền, của đội ngũ CBCC.

- BCĐ chống tham nhũng phối hợp hoạt động với cấp uỷ các chi đảng bộ, thường xuyên tuyên truyền và có nhiều biện pháp để ngăn chặn, phòng ngừa có hiệu quả tệ nạn tham nhũng trong bộ máy chính quyền từ quận đến phường.

- Tiếp tục triển khai Nghị định 71/CP về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.

III- CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG CỦA ĐẢNG

Công tác vận động quần chúng của Đảng bộ là tiếp tục mở rộng , tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh giai cấp công nhân với gia cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, mọi giới, mọi lứa tuổi, nêu cao truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tự hào với truyền thống cách mạng, phát huy vai trò làm chủ, tính sáng tạo và khơi dậy phong trào hành động cách mạng của nhân dân. Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, chăm lo đến quyền lợi và giải quyết kịp thời những yêu cầu bức xúc của nhân dân. Thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ cơ sở, đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.

Quán triệt quan điểm toàn Đảng làm công tác vận động quần chúng, mỗi cấp uỷ Đảng phải lãnh đạo và làm tốt công tác vận động quần chúng; chính quyền từ quận đến phường phải quán triệt tinh thần, quan điểm dân vận cho cán bộ, công chức, trong công tác phải nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, phải tạo điều kiện để Ban Dân vận - Mặt trận – Đoàn thể hoạt động được thuận lợi, Ban Dân vận, Mặt trận và các Đoàn thể chính trị - xã hội từ quận đến cơ sở phải thật sự năng động, sáng tạo, sát dân và có sự phối hợp trong hành động nhằm nâng cao hiệu quả và tính đồng bộ của các phong trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân. Để làm tốt công tác vận động quần chúng nhằm tạo ra những động lực mới, thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân dân, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần II đề ra. Công tác vận động quần chúng cần tập trung các nhiệm vụ sau:

1- Xây dựng giai cấp công nhân:

Để phát triển kinh tế - xã hội theo quy hoạch thì quá trình chuyển dịch lao động sẽ diễn ra, lực lượng công nhân trên địa bàn quận sẽ tăng nhanh. Để giai cấp công nhân thật sự lớn mạnh về mọi mặt cần tập trung giáo dục giác ngộ về giai cấp, nâng cao nhận thức về chính trị, thời cuộc, học vấn, nhất là đối với số lao động chuyển dịch từ nông nghiệp, có kế hoạch cụ thể trong việc phối hợp đào tạo nghề để có việc làm ổn định. Đẩy mạnh việc xây dựng và củng cố tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp, chú ý đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; có biện pháp giúp đỡ, quản lý lực lượng công nhân từ lao động nhập cư.

Tăng cường giáo dục chính trị, giác ngộ về Đảng, nâng cao hiểu biết về pháp luật đặc biệt là các Luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật Doanh nghiệp… để giai cấp công nhân tự bảo vệ quyền lợi của mình, xây dựng doanh nghiệp, xây dựng giai cấp, xây dựng Đảng, chính quyền.

2- Xây dựng giai cấp nông dân:

BCH - BTV QU, cấp uỷ các phường có sản xuất nông nghiệp và các ngành chức năng của quận phải tập trung chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả các giải pháp phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, với chương trình xoá vùng nghèo từng bước đổi mới bộ mặt nông thôn và nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nông dân. Trước hết cần tuyên truyền, giải thích làm cho giai cấp nông dân hiểu rõ về quy hoạch phát triển của Quận. Đồng thời làm rõ trong cơ cấu kinh tế của quận thì nông nghiệp sẽ tồn tại trong thời gian dài nhưng với một cơ cấu mới để nông dân yên tâm đâu tư sản xuất.

Coi trọng công tác tuyên truyền, động viên, cổ vũ các phong trào hành động cách mạng trong giai cấp nông dân, nâng cao chất lượng và tiếp tục xây dựng nhiều mô hình sản xuất giỏi, các câu lạc bộ, các hoạt động xã hội, phúc lợi để phát triển hội viên khơi dậy và tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, tương thân, tương ái; trong nông dân chú trọng đúng mức việc giáo dục truyền thống giai cấp cho hội viên, nhất là hội viên nồng cốt.

3- Đối với lực lượng cán bộ hưu trí, cựu chiến binh, người cao tuổi:

Một mặt phải thực hiện đầy đủ, tốt các chính sách của Đảng, Nhà nước đối với lực lượng này, đồng thời đây là lực lượng chính trị nòng cốt của quận và phường trong các phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở, là lực lượng có nhiều kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo cũng như vận động quần chúng cần được phát huy đúng mức và hợp lý để góp phần xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, phát triển kinh tế - xã hội – an ninh quốc phòng.

4- Đối với lực lượng trí thức và các nhà doanh nghiệp:

Để xây dựng quận phát triển theo đúng quy hoạch và ngang tầm với tiềm năng, thế mạnh của quận cần có những biện pháp tập hợp, tạo điều kiện thuận lợi động viên lực lượng trí thức tại chỗ phát huy trí tuệ, tinh thần trách nhiệm, nghiên cứu ứng dụng, những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong lĩnh vực công tác của mình cho có hiệu quả. Mặt khác, bằng thế mạnh của quận có đất đai rộng, tiềm năng còn dồi dào chưa được khai thác đáng kể để khuyến khích, thu hút lực lượng trí thức có tâm huyết đến cùng xây dựng quận 9. Phát hiện, bồi dưỡng những tài năng của quận, từ khi còn học phổ thông, bảo trợ những học sinh, sinh viên học giỏi nhưng có hoàn cảnh khó khăn.

Khuyến khích mọi nhà doanh nghiệp trong và ngoài quận đầu tư mở rộng sản xuất, quận tạo điều kiện thuận lợi nhất về mặt bằng, thủ tục hành chính cho kinh doanh. Có chính sách ưu đãi với các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển du lịch, đầu tư vào khu công nghiệp địa phương ở Phú Hữu, đầu tư phát triển các vườn cây ăn trái, nuôi trồng thuỷ sản.

5- Đối với lực lượng phụ nữ:

Lực lượng phụ nữ của quận chiếm trên 50% dân số, là lực lượng lao động rất năng động, sáng tạo, tham gia ở nhiều lãnh vực hoạt động khác nhau rất có hiệu quả cần phải được tiếp tục phát huy. Song vì là quận nghèo, đang trên đà đô thị hoá, số đông chị em chưa có việc làm ổn định, vì vậy cần tập trung nâng cao học vấn, tạo điều kiện để tiếp cận thông tin, tham gia các hoạt động xã hội; đào tạo nghề, gíơi thiệu và giải quyết việc làm. Đối với chị em lao động trong nông nghiệp thì cần hỗ trợ vốn, kỹ thuật, các dịch vụ hỗ trợ để làm ăn có hiệu quả, phát triển kinh tế gia đình, cải thiện đời sống. Quan tâm bồi dưỡng, phát triển đảng viên nữ, quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, tăng tỷ lệ cán bộ nữ trong cơ quan lãnh đạo của Đảng, chính quyền tại quận và cơ sở. Hàng năm phấn đấu nâng tỷ lệ chị em đạt danh hiệu phụ nữ 2 giỏi.

6- Về dân tộc và tôn giáo:

+ Về dân tộc: Quán triệt quan điểm của Đảng thực hiện “ Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ” giữa các dân tộc định cư trên địa bàn quận. Thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, để tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc khác nhau sinh sống bình thường, có đời sống được cải thiện, cùng tham gia xây dựng địa phương.

+ Đối với tôn giáo: Thi hành nhất quán chính sách của Đảng về tôn giáo, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, và tự do không tín ngưỡng của mọi công dân, các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Đảm bảo cho sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Nghiêm cấp việc xâm phạm tự do tín ngưỡng, và tự do không tín ngưỡng, hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, gây chia rẽ trong các tầng lớp nhân dân.

Đảng bộ và chính quyền các cấp chăm lo, cải thiện đời sống cho người có đạo; đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc sống “tốt đời, đẹp đạo”.

7- Đảng lãnh đạo Đoàn TNCS HCM:

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Đoàn TNCS HCM từ quận đến cơ sở. Thường xuyên củng cố tổ chức, tăng cường đội ngũ cán bộ lãnh đạo cho Quận đoàn và Hội Liên hiệp thành niên của quận, đủ mạnh để tập hợp, lãnh đạo thanh niên.

Quan tâm đúng mức việc giáo dục, rèn luyện đoàn viên, thanh niên về truyền thống cách mạng, lịch sử dân tộc, về chính trị - tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, nghề nghiệp, giáo dục lý tưởng cộng sản, giác ngộ về Đảng đối với đoàn viên TNCS HCM; coi trọng đúng mức việc đào tạo nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho thanh niên. Tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên học tập, lao động sáng tạo, hoạt động văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao và các sinh hoạt giải trí lành mạnh.

BCH – BTV Quận đoàn thực hiện tốt trách nhiệm xây dựng Hội LHTN và đội thiếu niên tiền phong HCM. Ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, văn hoá phẩm độc hại, tạo môi trường xã hội lành mạnh để thanh thiếu niên phát triển.

Việc chăm lo, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ là trách nhiệm của Đảng bộ, chính quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị, của gia đình, nhà trường và của toàn xã hội.

8- Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội:

Ban dân vận Quận uỷ chủ động hơn nửa vai trò tham mưu cho BCH – BTV về công tác dân vận và trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của khối vận. tạo sự phối hợp trong hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể, các hội quần chúng nhân dân giúp BCH – BTV trong việc sơ tổng kết các hoạt động, phong trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân.

Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là nơi phối thống nhất hoạt động của các tầng lớp nhân dân sống trên địa bàn quận. Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội cần đổi mới nội dung và phương thức hoạt động góp phần tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và chính quyền.

BCH các đoàn thể và hội quần chúng phải thường xuyên củng cố tổ chức, nhân sự đẩy mạnh để làm tốt công tác dân vận trong tình hình mới. Hướng mạnh về cơ sở ấp, khu phố, tổ dân phố để hoạt động nhằm gắn bó mật thiết với nhân dân. Từ đó mà phát triển tổ chức, phối hợp rộng rãi các hội viên, đoàn viên dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú, thích hợp với các tầng lớp nhân dân, các giới, với mọi lứa tuổi, phấn đấu phát triển hội viên vượt chỉ tiêu của đoàn thể ngành dọc giao.

Mỗi tổ chức đoàn thể và hội quần chúng phải là chỗ dựa, là người bạn của hội viên, đoàn viên. Trên cơ sở hoạt động của các tổ chức quần chúng mà phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi thành viên thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - văn hoá – xã hội – an ninh quốc phòng của quận trong 5 năm tới. Đồng thời thông qua hoạt động mà giáo dục, đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ của Mặt trận và các đoàn thể có phong cách gần gũi quần chúng, khắc phục bệnh quan liêu, thiếu thực tế, thiên về hành chính trong hoạt động.

PHẦN THỨ BA

CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

1- Tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng: thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng, tập trung xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng. Nơi nào có yếu phải được tập trung củng cố kịp thời; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong Đảng, phát huy tinh thần tự rèn luyện để giữ gìn phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị và từng bước nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ - đảng viên nhằm đáp ứng đúng yêu cầu nhiệm vụ do tổ chức phân công. Xây dựng quy chế và hoạt động theo đúng quy chế của BCH.

2- Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền: tiếp tục thực hiện cải cáh hành chính và thực hiện đề án sắp xếp tổ chức, bộ máy Nhá nước thoe tinh thần NQTW 7 (khoá 8). Làm cho hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND, UBND quận, phường và các phòng, ban chuyên môn được nâng lên, chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội – an ninh quốc phòng 1 cách cụ thể từng quý, 6 tháng, 9 tháng, năm. Gắn việc giải quyết nhiệm vụ chuyên môn với thực hiện quy chế dân chủ cơ quan và quy chế dân chủ cơ sở để tạo niềm tin trong nhân dân, đó là một trong những cơ sở để hoàn thành tốt nhiệm vụ của đơn vị, của từng cán bộ, công chức.

3- Tăng cường các biện pháp huy động vốn đầu tư: trên cơ sở chủ động xây dựng các đề án phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật - xã hội để mời gọi đầu tư. Một mặt tranh thủ sự đồng tình, giúp đỡ của lãnh đạo Trung ương, Thành phố, mặt khác tổ chức quán triệt yêu cầu, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quận trong từng giai đoạn cho cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ, nhất là đối với những cán bộ, công chức của các cơ quan quản lý Nhà nước quận, phường để tạo sự thông thoáng trong quá trình mời gọi đầu tư.

4- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội: định kỳ mỗi quý TTQU – TTUB làm việc với khối Vận 1 lần. Phát huy vai trò năng động của Mặt trận và các đoàn thể trong hoạt động, Mặt trận - các đoàn thể cùng với chính quyền quận, phường tổ chức thực hiện và phát huy hiệu quả của quy chế dân chủ ở cơ sở. Bồi dưỡng, nâng cao chất lượng của lực lượng hội viên nòng cốt, góp phần cùng các ngành chức năng giải quyết tốt các vấn đề bức xúc ở địa bàn dân cư: giải toả, chỉnh trang đô thị, vệ sinh môi trường, tệ nạn xã hội (nhất là tệ nạn ma tuý).

5- Phát huy nhân tố con người: trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội. Thực hiện đồng bộ các biện pháp về cán bộ: tuyển dụng, quy hoạch – đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý và đãi ngộ cán bộ. Kết hợp thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ hợp lý mới phát huy được sở trường của cán bộ.

Đại hội Đại biểu Đảng bộ quận 9 lần thứ II khẳng định niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, BCH Đảng bộ Thành phố, ý thức sâu sắc trọng trách trước Đảng, trước nhân dân, trong thời gian tới thuận lợi c1o nhiều, nhưng khó khăn, thách thức cũng rất lớn. Song với truyền thống đoàn kết, kiên định con đường độc lập dân tộc và CNXH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, Đảng bộ và nhân dân quận 9 sẽ tiếp tục phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, ý thức tự lực tự cường, quyết tâm khắc phục những yếu kém, tồn tại, vượt qua mọi khó khăn, thử thách thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ do đại hội đề ra. Góp phần tích cực cùng Thành phố và cả nước thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ 7 và Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam.

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ QUẬN.

Thông báo