ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BCH ĐẢNG BỘ QUẬN GÒ VẤP
Qua gần 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận Gò Vấp lần thứ V, trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều biến động sâu sắc, có những nhân tố thuận lợi và không thuận lợi tác động nhiều mặt tới tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội trong toàn Quận, trong đó nhân tố không thuận lợi là rất gay gắt. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong Quận đã phấn đấu đạt được những thành quả nhất định.
Đại hội Đảng bộ lần này có nhiệm vụ kiểm điểm đánh giá tình hình, phân tích những mặt làm được, chưa làm được, chỉ ra ưu khuyết điểm và những nguyên nhân chủ yếu, những bài học kinh nghiệm và đề ra phương hướng nhiệm vụ tổng quát 1991–1995 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ V.
Báo cáo gồm có 2 phần:
- Phần thứ nhất: Kiểm điểm sự lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội V của Đảng bộ.
- Phần thứ hai: Phương hướng và nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1991 –1995.
PHẦN THỨ NHẤT
KIỂM ĐIỂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI
ĐẢNG BỘ QUẬN LẦN THỨ V (1989-1991)
I. TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ:
Ngay sau Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ V, tình hình kinh tế xã hội biến động mạnh, nhiều chính sách, chế độ nhằm thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng được ban hành và phát huy hiệu lực, những nhân tố mới của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần từng bước từng bước được hình thành. Đó là tiền đề phát triển đồng thời những mặt chưa chưa phù hợp của những chủ trương, chính sách cũng là những thử thách khắc nghiệt đối với các đơn vị kinh tế của Quận:
1. Sản xuất công nghiệp TTCN không giữ được nhịp độ phát triển của những năm trước. Mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 1,80% so với Nghị quyết Đại hội V đề ra là 15%. Giá trị tổng sản lượng năm 1988 là 890 triệu đồng (giá 82), tương đương 76,7 tỷ đồng (giá 89 so với Nghị quyết Đại hội V đề ra là 910 triệu đồng). Năm 1989 đạt 73,4 tỷ đồng (giá 89 giảm 5% so với 1988); năm 1990 đạt 73 tỷ đồng (gần bằng năm 1989). Năm 1991 đã khôi phục được và mức tăng trưởng tăng cao (ước đạt 82,4 tỷ đồng) (tăng 7% so với năm 1988 và tăng 13% so 1990).
- Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi lớn, tỷ trọng quốc doanh, hợp doanh và tập thể giảm, nhiều sản phẩm chủ yếu sút giảm lớn. Trước hết do nhiều đơn vị vốn ít, trang bị lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém của thời bao cấp không kịp thích nghi với phương hướng phát triển SX hàng hóa nhiều thành phần. Khu vực quốc doanh từ năm 1989 đã phát sinh thua lỗ ở nhiều đơn vị phải đình chỉ và thanh lý như XN cơ khí, XN nước đá, XN khai thác chế biến lâm sản, Công ty dịch vụ sản xuất TTCN. XN thuốc lá, XN da giày, XN vật liệu xây dựng. Nhiều đơn vị hoạt động cầm chừng, hiệu quả thấp. Quận đã thực hiện nhiều biện pháp củng cố các XN, Công ty quốc doanh. Suốt từ năm 1990 đến 1991 có thể nói là thời kỳ tập trung ngăn chặn lỗ lã, khôi phục sản xuất kinh doanh, đến nay một vài đơn vị đã khôi phục được mức của những năm trước, trong đó có đơn vị có triển vọng tốt.
- Một số đơn vị hợp doanh (80 và 54) và tập thể đã được giải thể nhằm trở lại những hình thức tổ chức sản xuất thích hợp, để có điều kiện phát triển tốt hơn.
Khu vực kinh tế tư nhân và cá thể đã có bước phát triển khá về quy mô giá trị tổng sản lượng, lao động và vốn liếng.
- Cơ cấu ngành kinh tế kỹ thuật cũng biến động mạnh:
Ngành dệt, may, chế biến nông hải sản và hóa thực phẩm, sơn mài… có phát triển, một số ngành khác như: Cơ khí, hóa nhựa cao su, chế biến thực phẩm tổng hợp… đang chựng lại hoặc giảm sút do nhiều nguyên nhân.
Tuy nhiều chỉ tiêu chủ yếu đạt thấp, nhưng SXCN – TTCN của Quận đang có những chuyển động tích cực về chất, phù hợp với xu thế phát triển nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, đó là:
- Trong công nghiệp TTCN của Quận dần dần xuất hiện các đơn vị sản xuất mới, với qui mô lớn, tổ chức sản xuất tập trung, trình độ quản lý cao hơn, trang bị kỹ thuật tiếp cận được trình độ của các nước trong khu vực.
- Khu vực quốc doanh chưa có khả năng đầu tư đúng mức, nhưng khu vực ngoài quốc doanh, đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ diễn ra ngày càng nhiều.
- Chất lượng, mẫu mã hàng hóa của các công ty, XN tư doanh, cơ sở sản xuất TTCN và XN hóa thực phẩm ngày càng được nâng cao, đa dạng hơn. Ðã bắt đầu xuất hiện các mặt hàng có sức cạnh tranh trên thị trường. Đó chính là những nhân tố cơ bản góp phần tích cực phục hồi và phát triển sản xuất trong điều kiện khó khăn, cạnh tranh gay gắt, hơn nữa lại đặt trong bối cảnh quản lý vĩ mô chưa có những biện pháp kiên quyết chủ động để bảo hộ hàng sản xuất trong ước.
2. Sản xuất nông nghiệp: Từ khi thực hiện “khoán 10”chú trọng phát triển kinh tế hộ nông dân, sản xuất nông nghiệp của Quận có chuyển biến tốt hơn. Cây rau và cây bông kiểng là 2 sản phẩm truyền thống được thâm canh, tăng năng suất và có thị trường tiêu thụ vững chắc. Sản lượng rau các loại năm 1990 đạt 101,6% kế hoạch. Diện tích trồng cây bông kiểng năm 1990, tăng 148% so với năm 1988, hiện đang xúc tiến phương án điều kiện xây dựng làng hoa cây kiểng phục vụ xuất khẩu và du lịch.
Đàn heo và bò sữa của Quận có những thời gian rất lao đao vì tác động khách quan rất lớn, tuy chỉ đạt 51,7% chỉ tiêu Đại hội nhưng đến nay đàn heo đã dần dần phục hồi. Ngành chăn nuôi bò sữa phát triển mạnh, đứng đầu thành phố về số lượng đàn bò và cung cấp trên 50% sản lượng cho toàn thành phố. Với mạng lưới sơ chế sữa cô đặc góp phần giải quyết đầu ra cho ngành chăn nuôi bò sữa. Tuy nhiên do còn lệ thuộc nhiều vào nhà máy sữa Thống Nhất trong khâu thu mua nên chưa thật ổn định.
Phần lớn các HTX và tập đoàn sản xuất hoạt động cầm chừng, chủ yếu là quản lý đất đai, đê điều… các tranh chấp ruộng đất được giải quyết cơ bản, tồn đọng ít.
3. Mạng lưới thương mại, dịch vụ có chuyển biến phù hợp với định hướng phát triển đã được Đại hội V thông qua:
- Trong khu vực quốc doanh và HTX đã tổ chức lại các công ty cung ứng hàng xuất khẩu thành Liên hiệp SXKD xuất nhập khẩu có chức năng xuất khẩu trực tiếp và đã hình thành được một số đơn vị sản xuất chế biến từng bước tạo chân hàng xuất khẩu tại chỗ và nâng cao kim ngạch xuất nhập khẩu.
Quy mô của một số đơn vị tăng nhanh (Công ty TNTH, Công ty Dịch vụ tổng hợp, Liên hiệp SXKD xuất nhập khẩu), mạng lưới của nhiều đơn vị có chuyển biến tốt cùng với thương nghiệp tư nhân đã hình thành được các cụm thương mại, dịch vụ lớn thay dần mạng lưới các quầy hàng, điểm bán nhỏ, rải rác kém hiệu quả trước đây.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, thương nghiệp quốc doanh chưa đóng được vai trò chủ đạo, kể cả các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống, kim ngạch xuất nhập khẩu trong 2 năm 1989 – 1990 chỉ đạt 30% so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra, năm 1991 có mức phát triển đáng kể ước đạt kim ngạch xuất khẩu là 4,5 triệu USD (tăng 50% so năm 1990) vẫn chưa tạo được mối quan hệ gắn bó với sản xuất công nghiệp TTCN của Quận, chân hàng xuất khẩu dựa trên thế mạnh truyền thống về công nghiệp TTCN chưa nhiều.
Nhiều đơn vị còn lúng túng, chưa khẳng định được rõ rét cơ cấu mặt hàng, phương thức hoạt động kinh doanh và mô hình tổ chức quản lý. Hình thức sử dụng tay nghề, khoán được áp dụng phổ biến trong thương mại, dịch vụ quốc doanh và HTX, tuy có hiệu quả nhất định nhưng có nơi thực chất chỉ là khoán nộp lợi nhuận hay cho thuê mặt bằng. Ðã phát sinh thua lỗ ở một số đơn vị phải đình chỉ và thanh lý như Liên hiệp HTX mua bán Quận, Trạm vật tư nông nghiệp. Hợp tác xã ở nhiều Phường do thiếu vốn hoặc năng lực kinh doanh yếu, quản lý lỏng lẻo, không chuyển kịp để thích nghi với điều kiện mới, đã vỡ nợ hoặc mất vai trò đối với địa bàn dân cư.
- Thương mại – dịch vụ tư nhân phát triển rộng, đa dạng hơn, thu hút nhiều lao động, hình thành một số tụ điểm kinh doanh buôn bán nhộn nhịp nhất là tại các chợ và trục lộ chính, đồng thời giải quyết tốt yêu cầu bán lẻ phục vụ nhân dân. Tuy nhiên, việc quản lý thương mại dịch vụ về thuế, hàng gian, hàng giả, đăng ký kinh doanh còn rất khó khăn.
4. Về công tác xây dựng và thực hiện chương trình đô thị hóa:
Bằng ngân sách thành phố và một phần ngân sách Quận, gần 3 năm qua Quận đã đạt được nhiều thành quả trong công cuộc cải tạo bộ mặt phố Phường, xây dựng được một số cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Ðã tạo điều kiện giải quyết đất cho các cơ sở sản xuất mới, đầu tư cho ngành giáo dục 3,5 tỷ đồng để xây dựng mới 3 trường PTCS Bạch Đằng, Trần Quốc Toản, Hoàng Văn Thụ và sửa chữa nâng cấp một số trường lớp, tạo điều kiện dạy và học tốt hơn, đã hoàn thành khu thương nghiệp Ngã Năm, xây dựng khu phố chợ Tân Sơn Nhất và chợ Phường 12, sửa chữa lớn chợ Gò Vấp, chợ Thông Tây Hội với tổng kinh phí trên 30 tỷ đồng, phần lớn là nguồn vốn trong nhân dân.
Gắn chặt với chương trình đô thị hóa, đã nâng cấp các trục lộ chính Nguyễn Văn Nghi, Phan Văn Trị, 26/3 và duy tu bảo dưỡng đường sá gần 800 triệu đồng, lắp đặt thêm đèn chiếu sáng, xây dựng thêm 12Km đường dây điện trung thế với 26 trạm hạ thế làm tăng cường công suốt điện thêm 655kw.
Nhìn chung, chương trình đô thị hóa của Quận đạt được nhiều kết quả phấn khởi, nhưng các hiện tượng xây dựng tự phát, thiếu quy hoạch. Có một bộ phận vi phạm các quy định xây dựng ảnh hưởng đến các cấu trúc hạ tầng, một vài công trình công cộng còn thiếu sót trong quản lý xây dựng, thiết kế, nên chất lượng kém đã tạo dư luận không tốt trong nhân dân. Mặt khác cũng chưa tập trung cao vào việc thực hiện chương trình giải quyết nhà ở cho công nhân viên và nhân dân lao động.
Nhìn chung, trên lĩnh vực kinh tế, BCH đã có những chủ trương và biện pháp cụ thể nhu: chỉ đạo vận dụng chính sách thuế, coi trọng các biện pháp tài chính, tín dụng, quan tâm giảm áp lực lãi suất bằng nhiều biện pháp cụ thể như tạo thêm mặt bằng, đơn giản thủ tục … Nên trước tình hình khó khăn nhiều mặt, Quận đang có những chuyển động tích cực về chất bước đầu hình thành những tiền đề quan trọng chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo đường lối của Đảng.
Nhưng trong quá trình đó đã nảy sinh những vấn đề mới rất đáng quan tâm:
- Sản xuất công nghiệp TTCN có nhịp độ tăng trưởng thấp so với những năm trước đây, tỷ trọng ở khu vực quốc doanh, tập thể ở một số ngành truyền thống giảm sút chưa khôi phục được.
- Các đơn vị sản xuất và thương mại dịch vụ quốc doanh và tập thể đang thiếu vốn lưu động nghiêm trọng, công nợ đọng lớn, hiệu quả thấp.
- Hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội đang xuống cấp, chưa cải thiện được bao nhiêu do ngân sách của Quận và thành phố còn hạn chế.
- Thu chi ngân sách Quận mất cân đối lớn thành phố phải tài trợ trên 50% ảnh hưởng lớn đến việc chủ động chăm lo các hoạt động văn hóa xã hội và cải thiện đời sống, phúc lợi cho nhân dân. Đáng chú ý là tình trạng thất thu thuế, thuế tồn đọng còn nhiều, những bất hợp lý trong công tác thu chậm được khắc phục.
Tình hình khó khăn chung có tác động lớn dẫn đến thực trạng nêu trên, trong đó những nguyên nhân khách quan chủ yếu là:
- Hậu quả của cơ chế bao cấp còn nặng nề, thêm vào đó, từ năm 1989, hàng ngoại nhập tràn lan đã làm cho nhiều đơn vị thương mại, dịch vụ phải giảm giá liên tục để giải phóng kho, một số đơn vị quốc doanh của Quận bắt đầu thua lỗ.
- Từ đầu quý II/1989 do chủ trương rút vốn cho vay, tăng lãi suất, tiếp theo là sự đổ vỡ của hệ thống HTX tín dụng, một số vụ lừa đảo có giá trị lớn đảo lộn hoạt động tín dụng tiền tệ trong phạm vi cả nước. Tình trạng công nợ lòng vòng, chiếm dụng vốn ngày càng tăng, dẫn đến ách tắc sản xuất kinh doanh ở nhiều đơn vị, nhất là trong khu vực quốc doanh.
- Các tỷ lệ điều tiết để lại cho ngân sách của Quận giảm rất nhiều, trong khi yêu cầu chi lại thường xuyên tăng lên do các qui định mới của cấp trên, Quận đã phải đối phó khó khăn với tình trạng ngân sách luôn căng thẳng, có lúc phải vay nợ để đảm bảo các yêu cầu chi bức bách nên không còn khả năng tiếp sức cho các đơn vị quốc doanh, do đó không giữ vững nguồn thu trong khu vực này.
Về chủ quan, có những nguyên nhân chủ yếu:
- Do tình hình có nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp ngoài dự kiến đòi hỏi Quận ủy phải tập trung sức giải quyết như: tình trạng thua lỗ, công nợ đọng trong khu vực quốc doanh nên việc chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội V trên một số mặt thiếu tập trung.
Nhận thức của Ban Chấp hành cũng còn hạn chế, chưa lường hết những phức tạp của bước chuyển giai đoạn, chưa đánh giá đầy đủ những diễn biến tình hình nên nhiều biện pháp chỉ đạo chậm, kém hiệu quả: chậm tổ chức sắp xếp lại khu vực quốc doanh, chưa đầu tư đúng mức cho các đơn vị làm ăn có hiệu quả, chưa khai thác tốt tiềm năng, năng lực trong các thành phần kinh tế của Quận, chậm đề ra những biện pháp kịp thời đối với các đơn vị làm ăn thua lỗ.
Công tác quản lý kinh tế còn nhiều lỏng lẻo kể cả vai trò tham mưu của các ngành kinh tế tổng hợp, công tác sơ tổng kết trên các mặt, các ngành chưa được quan tâm đúng mức.
- Đáng quan tâm là Quận thiếu định hướng phát triển dài hạn đối những ngành, những lĩnh vực theo chốt làm cơ sở cho các biện pháp điều chỉnh, bố trí lại các nguồn lực, khai thác tốt hơn thế mạnh và tiềm năng của mình. Tổ chức công tác nghiên cứu, dự đoán tình hình là một khâu yếu của Quận từ lâu chưa khắc phục được. Việc xác định cơ cấu kinh tế là công nghiệp, nông nghiệp – thương nghiệp và dịch vụ nhưng trong chỉ đạo thực tế lại nặng đầu tư thương mại và dịch vụ.
- Công tác tổ chức và cán bộ cũng nguyên nhân chủ yếu bộc lộ nhiều nhược điểm trong quá trình chỉ đạo điều hành và thực hiện nhiệm vụ chỉ tiêu đề ra, chưa tạo được bộ máy và đội ngũ cán bộ đáp ứng kịp yêu cầu đổi mới và có hiệu suất công tác cao, nhất là cán bộ quản lý kinh tế, chậm phát hiện và xử lý kiên quyết kịp thời tình trạng tiêu cực lãng phí của cá nhân và đơn vị lỗ lã, thất thoát.
II. THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI:
Quán triệt quan điểm chính sách xã hội, phải lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, làm tốt chính sách xã hội sẽ tạo ra động lực cho sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, Từ sau Đại hội V, Đảng bộ đã quan tâm hơn đến các mặt công tác liên quan đến chính sách xã hội:
1. Giải quyết việc làm:
Do khó khăn trong sản xuất kinh doanh, các đơn vị kinh tế quốc doanh đều sắp xếp lại bộ máy (đã giảm 795 người). Trong khu vực hành chánh sự nghiệp cũng đã tinh giảm nên đã có hàng ngàn CBCNV thuộc diện giảm biên chế, đa số đều không có tay nghề và phần lớn là phải tự tìm việc làm. Trong năm 1991, ngành dệt vải đã khôi phục hoạt động, với xu thế phát triển đầu máy tăng nhanh, ngành thêu may xuất khẩu đã có thị trường (các nước TBCN) và đã thu hút thêm hàng ngàn lao động. Hai năm qua, cố gắng chung mới giải quyết được khoảng 12 ngàn người có việc làm. Hiện còn gần 9.000 lao động chưa có việc làm.
Trung tâm dạy nghề cùng với các lớp dạy nghề của Quận Hội Phụ nữ và các cơ sở sản xuất đã đào tạo được 7.833 lao động biết nghề. Vấn đề đào tạo tay nghề đang yêu cầu cấp bách phải được quan tâm nhiều hơn.
2. Công tác chăm lo đối tượng chính sách, có được quan tâm và tập trung hơn. Từ Quận đến Phường cố gắng có tạo quỹ ứng trước để giải quyết kịp thời tiền lương và các khoản trợ cấp cho diện chính sách. Trong nhiệm kỳ qua đã xây dựng được 40 nhà tình nghĩa, ngoài ra còn vận động nhân dân đóng góp vào quỹ xây nhà tình nghĩa của thành phố (15 triệu đồng) và cứu trợ khó khăn cho diện chính sách. Tuy nhiên đời sống của diện chính sách vẫn còn rất nhiều khó khăn.
3. Phong trào giáo dục Quận đạt nhiều kết quả tốt, chất lượng giáo dục được giữ vững, thu nhập của giáo viên có tăng, đời sống tạm ổn định.
Giáo dục phổ thông trong các năm học qua có nhiều chuyển biến tích cực, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp ở mỗi cấp đến năm học 1990 – 1991 đều trên 90%. Toàn Quận đã hoàn thành phổ cập giáo dục cấp 1.
Giáo dục mẫu giáo, nhà trẻ có nâng cao về chất lượng nhưng số lượng cháu ra lớp giảm do khó khăn chung của đời sống xã hội. Tình trạng cơ sở vật chất nhà trẻ, mẫu giáo đang ngày càng xuống cấp nghiêm trọng.
Phong trào xóa nạn mù chữ được tái triển khai nhưng kết quả còn thấp (250/3622 người chưa biết chữ), tình trạng tái mù chữ đang là vấn đề báo động.
Quận đã quan tâm tổ chức trường dạy trẻ em khuyết tật và đã được 1 công ty của Nam Triều Tiên ủng hộ trên 200 triệu đồng để xây dựng trường khuyết tật mới, có khả năng thu nhận nuôi 80 học sinh.
4. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng chống dịch bệnh được phát động thường xuyên, góp phần ngăn chặn kịp thời một số dịch bệnh truyền nhiễm, hạ thấp các trường hợp tử vong. Vận động thực hiện sinh đẻ có kế hoạch chưa được tập trung đúng mức nên tỷ lệ tăng dân số vẫn còn cao (hiện nay 1,53%).
Khó khăn kéo dài của ngành y tế là đời sống của Y, Bác sĩ CBCNV chưa có chế độ chậm và thiếu, thu viện phí ở Quận ven có giới hạn. Tổ chức các tuyến y tế Phường chưa hợp lý, ít tác dụng thiết thực chưa được chấn chỉnh, cơ sở vật chất các trạm y tế cơ sở ngày càng xuống cấp cần quan tâm đầu tư sửa chữa.
5. Hoạt động văn hóa văn nghệ đã có bước phát triển nâng cao chất lượng hoạt động của các tụ điểm văn hóa, gắn chặt các hoạt động thông tin, tuyên truyền giáo dục vận động phong trào hành động Cách mạng, giáo dục truyền thống, giáo dục pháp luật xây dựng nếp sống mới, gia đình văn hóa mới.
Tuy nhiên, mặt yếu của hoạt động văn hóa thông tin là quản lý chưa chặt hoạt động video. Hoạt động thư viện, phong trào văn nghệ quần chúng tiếp tục giảm sút, sự yếu kém của hoạt động VHTT không chỉ là vấn đề đầu tư kinh phí mà còn do trình độ năng lực cán bộ quản lý từ Quận đến cơ sở.
6. Phong trào thể dục thể thao có nhiều chuyển biến đã gắn với phong trào chung của thành phố và cả nước trong một số mặt hoạt động như: đua xe đạp, võ thuật, cầu lông, bóng bàn, bóng chuyền. Quận đã hình thành được trung tâm sinh hoạt TDTT thu hút nhiều thanh thiếu niên tham dự, phát triển mới một tụ điểm TDTT tư nhân. Nhưng hoạt động của ngành thể dục thể thao chưa đồng bộ, nhất là hoạt động rèn luyện thân thể và các môn TDTT truyền thống ít được chú ý và đang có chiều hướng giảm sút từ trong nhà trường, cơ quan xí nghiệp đến ngoài xã hội.
Tóm lại, trên lĩnh vực văn hóa – xã hội và thực hiện chính sách xã hội dù còn nhiều tồn tại, nhưng trong hơn hai năm qua Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo giải quyết được nhiều việc có kết quả, góp phần quan trọng vào sự ổn định tình hình chung của Quận.
III. VỀ CÔNG TÁC NỘI CHÍNH:
Tình hình chính trị, kinh tế xã hội trong thời gian qua diễn biến phức tạp, ngay từ đầu nhiệm kỳ Quận ủy đã có những Nghị quyết về công tác an ninh quân sự địa phương, trong từng thời điểm có bổ sung và chỉ đạo kịp thời để giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Về cơ bản tình hình an ninh chính trị được giữ vững trật tự an toàn xã hội có bước chuyển biến nhất định, từng bước làm chuyển hóa và xây dựng các khu phố an toàn. Kết hợp biện pháp nghiệp vụ với công tác vận động quần chúng, giáo dục, thuyết phục, khống chế đã triệt phá nhiều băng nhóm hình sự, hạn chế một mức tình trạng thất thoát tài sản XHCN, mất mát tài sản công dân, ngăn chặn một bước tội phạm hình sự, kinh tế và tệ nạn xã hội. Công tác vận động tội phạm ra đầu thú đạt được kết quả tốt.
Lãnh đạo ngành đã biết chăm lo xây dựng lực lượng, chất lượng công tác cũng như đời sống cán bộ chiến sĩ được nâng lên, cơ sở vật chất ngành được tăng cường khá hơn.
Tuy nhiên, công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội vẫn chưa trở thành phong trào sâu rộng trong quần chúng, tình hình phạm pháp hình sự, tệ nạn xã hội vẫn còn có lúc giảm. lúc tăng; cần phải có nhiều cố gắng hơn nữa trong nghiệp vụ để đạt hiệu quả chiều sâu.
Hoạt động quân sự địa phương cũng chuyển biến tích cực trước tình hình, nhiệm vụ mới. Đã chấn chỉnh tổ chức, tăng cường huấn luyện, nâng cao chất lượng của lực lượng quân thường trực và hình thành cơ chế Ban Cán sự theo quy định 12 của Ban Bí thư. Xây dựng tổ chức và quản lý lực lượng dự bị động viên đi vào nề nếp. Xây dựng và phát triển lực lượng dân quân tự vệ cơ quan, dân quân tự vệ nòng cốt ở các Phường, đem lại hiệu quả tốt. Nổi bật trong thời gian gần đây là dân quân tự vệ Phường thường xuyên được huấn luyện và có nội dung sinh hoạt cụ thể, góp phần tích cực trong gìn giữ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn dân cư. Công tác vận động thanh niên đi nghĩa vụ quân sư suốt 3 năm liền đạt và vượt chỉ tiêu. Tuy nhiên chưa có biện pháp cụ thể giải quyết đứt điểm số quân nhân đào bỏ ngũ.
Công tác tuyên truyền giáo dục, phổ biến pháp luật chưa có bề rộng lẫn chiều sâu. Công tác thanh tra, kiểm sát, nhất là đối với các cơ quan hành pháp và các cơ sở kinh tế, chưa được tiến hành thường xuyên. Nhiều quyết định không được chấp hành nghiêm túc, nhiều bản án có hiệu lực chưa được thi hành nhưng vẫn không bị xử lý thỏa đáng. Nhiều quyết định của UB Quận không có hiệu lực sửa đi sửa lại nhiều lần. Nhiều trường hợp CBCNV vi phạm pháp luật không được xử lý đến nơi đến chốn. Giải quyết thư tố cáo, khiếu nại có nhiều chuyển biến tích cực, tập trung hơn nhưng vẫn còn chậm, thường kéo dài. Những người tố cáo sai sự thật chưa được xử lý nghiêm túc. Do đó tác dụng củng cố gìn giữ kỷ cương pháp luật không cao, tình trạng lỏng lẻo, coi thường pháp luật còn diễn ra ở nhiều nơi.
Tóm lại, từ nhận thức phải thực hiện đúng đắn và hài hòa mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược, Quận ủy đã có những chủ trương, biện pháp chỉ đạo kịp thời các ngành chức năng, các Phường và nhân dân trong Quận đã có nhiều nỗ lực để giữ gìn trật tự xã hội, công tác quân sự địa phương và tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Nhưng trên một số mặt về trật tự trị an còn phức tạp ảnh hưởng đến cuộc sống người dân, nếp sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật chưa trở thành hành động tự giác trong toàn thể CBCNV và nhân dân.
IV. VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG:
1. Công tác vận động quần chúng:
- Từ sau khi triển khai thực hiện Nghị quyết 8TW (khóa VI) đã củng cố một bước lòng tin của quần chúng đối với Đảng. Sự chuyển biến trong nhận thức và hành động trong các cơ quan Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể về công tác vận động quần chúng có được nâng lên và thiết thực hơn, thủ tục hành chính được cải tiến, các khiếu tố của dân được quan tâm giải quyết nhanh hơn, số lượng quần chúng tham gia xây dựng Đảng, tham gia các hoạt động xã hội ở cơ sở cũng đông hơn. Nguyện vọng thiết tha của quần chúng hiện nay là Đảng cần mạnh dạn đổi mới hơn nữa trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tổ chức lại bộ máy tinh gọn, có hiệu quả, sớm ngăn chặn và xử lý thích đáng các vụ việc tiêu cực, tham ô, sớm loại trừ số cán bộ đảng viên thoái hóa, biến chất làm ảnh hưởng đến uy tín và sự lãnh đạo của Đảng, luật pháp phải nghiêm minh với mọi người.
Mặt trận và các đoàn thể từ Quận đến cơ sở đều quan tâm củng cố về tổ chức nhân sự, chất lượng hoạt động được nâng lên biết bám vào các chủ trương, chính sách trong từng thời kỳ và biết gắn với quyền lợi thiết thực của đoàn viên, hội viên, của rộng rãi quần chúng. Hàng trăm hội viên cốt cán được quy tụ và làm nòng cốt trong các phong trào hành động Cách mạng, kết quả các phong trào này rất đáng được kích lệ đã xây dựng, sửa chữa 40 căn nhà tình nghĩa, vận động được 55 đối tượng tội phạm ra đầu thú, trật tự an ninh ở tổ khu phố được giữ vững, tổ chức dạy nghề và giới thiệu việc làm, chăm lo tốt hơn công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em, nhất là trẻ em suy dinh dưỡng và khuyết tật, nhiều gia đình khó khăn neo đơn đều được mặt trận, đoàn thể các Phường chăm lo, nhất là trong những ngày Tết cổ truyền, lúc ốm đau, tang chế… biểu hiện rõ nét là trong đợt vận động cứu trợ đồng bào Sơn La và đồng bằng Sông Cửu Long bị lũ lụt đã được đông đảo quần chúng hưởng ứng đóng góp.
Song hoạt động của mặt trận và các đoàn thể còn bộc lộ một số điểm yếu:
+ Nội dung, phương thức hoạt động của mặt trận và các đoàn thể chưa được chuyển đổi phù hợp, kéo dài tình trạng mới chỉ vận động nhân dân đóng góp nhân tài vật lực vào các phong trào hành động Cách mạng như là biện pháp hành chánh. Còn rất lúng túng trong việc chăm lo giải quyết quyền lợi về việc làm, học hành, lợi ích trong sinh hoạt giới tính v.v… Nề nếp sinh hoạt ở cơ sở từ tổ, hội đến hội viên còn là khâu yếu cần phải được tập trung thường xuyên để nâng lên chất lượng hoạt động.
+ Những chuyển biến cụ thể đã nêu trên trong tình hình chung còn nhiều khó khăn là những kết quả rất quý, song chưa phải đồng đều và chắn chắn. Cần có sự kiểm tra đôn đốc và chỉ đạo phối hợp thật ăn khớp hơn nữa giữa cấp ủy Đảng, chính quyền và các đoàn thể. Do nhiều yếu tố, trong đó có một phần do kinh phí quá hạn hẹp, nên hoạt động của mặt trận và đoàn thể, HĐND … chưa thật sự phát huy đầy đủ chức năng vị trí của mình. Đặc biệt công tác trọng tâm là bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cốt cán có năng lực vận động đối với từng đối tượng quần chúng còn rất hạn chế.
2. Về xây dựng củng cố chính quyền:
Ðã chỉ đạo thực hiện bầu cử HĐND 2 cấp Quận và Phường đạt thắng lợi, đúng pháp luật. Hoạt động của 2 cấp HĐND có được nâng lên hơn trước.
Bộ máy chính quyền cấp Phường đã có bước kiện toàn, năng lực quản lý được nâng lên, có những mặt nổi hơn những năm trước là: Có tập trung hơn trong cải tiến thủ tục hành chính, giải quyết khiếu tố của công dân, giải quyết khó khăn của sản xuất, giải quyết việc làm cho lao động, chăm lo nâng chất lượng cơ sở vật chất công cộng như đường sá, cấp thoát nước, góp phần tích cực giải quyết khó khăn trong đời sống của diện chính sách, nhân dân lao động nghèo, cải thiện đời sống CBCNV.
Bộ máy chính quyền cấp Quận đã có những thay đổi tích cực hơn trong kiện toàn tổ chức, chất lượng hoạt động được nâng lên, đã có nhiều cố gắng tập trung giải quyết những khó khăn trong thực hiện Nghị quyết của Đảng, kế hoạch Nhà nước.
Tuy nhiên, trong thực hiện công cuộc đổi mới, bộ máy chính quyền từ Quận đến Phường còn bộc lộ nhiều mặt yếu trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, lúng túng trong giải quyết khó khăn của sản xuất, giải quyết việc làm, quản lý việc thi hành pháp luật, thực hiện các quy định Nhà nước vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Bộ máy chính quyền vẫn còn nặng nề, cồng kềnh, hiệu quả hoạt động thấp.
3. Công tác xây dựng Đảng:
a) Công tác chính trị tư tưởng: Qua các đợt sinh hoạt chính trị lớn đã giúp cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân thấy được đường lối đổi mới và bước đi của Đảng CSVN vạch ra là đúng đắn, nâng cao được lòng tin và quyết tâm. Đồng thời cũng hiểu rõ đất nước đang đứng trước nhiều thử thách mới, thấy được âm mưu phá hoại của kẻ thù để đề cao cảnh giác.
Tuy nhiên, tâm trạng phổ biến là còn băn khoăn về khả năng thực hiện do tiền đề vật chất còn quá nhỏ, nhiều mặt có tiến bộ, song cũng còn nhiều mặt thêm khó khăn, nhất là vấn đề việc làm, đời sống… của những gia đình sống bằng đồng lương nên xuất hiện tâm trạng thiếu an tâm, mong muốn chính sách “mở cửa”thoáng hơn để tình hình kinh tế dễ chịu hơn và họ đang cần có việc làm để nuôi sống bản thân và gia đình. Trong khi đó, công tác chính trị tư tưởng thiếu chủ động và chưa thuyết phục; còn nặng đối phó, chưa giải đáp kịp thời thỏa đáng các vấn đề bức xúc đang đặt ra trong cuộc sống. Công tác tuyên huấn chưa chú ý đúng mức lãnh đạo nội dung sinh hoạt của các đoàn thể và chi, đảng bộ cơ sở. Đội ngũ cán bộ tuyên huấn từ Quận đến cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu được tập huấn, nội dung tuyên truyền còn nghèo nàn.
b) Về công tác tổ chức: Vẫn là khâu nặng nề và còn rất lúng túng, từ đầu nhiệm kỳ đã sắp xếp lại một bước bộ máy hành chánh của Quận, số đầu mối có giảm hơn, biên chế có giảm nhiều nhưng vẫn còn cồng kềnh, kém hiệu quả do chức năng chưa phân định rõ, lề lối còn chồng chéo, bộ máy chưa hợp lý, chưa phát huy đúng chức năng của đơn vị, chất lượng cán bộ chưa đáp ứng nhiệm vụ… nên năng suất vẫn kém.
Về công tác cán bộ, vẫn đang trong tình trạng “thừa mà thiếu”. Tuy đã mạnh dạn giải quyết chính sách cho nhiều đồng chí nhưng vẫn về thực chất đội ngũ cán bộ từ Quận đến Phường vẫn tồn tại nhiều mặt yếu kém trước tình hình mới; việc sắp xếp, thay thế theo yêu cầu công việc chưa kịp thời, nhiều lần, nhưng chưa lên được quy hoạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho lâu dài, trước mắt đang hụt hẫng ngay cả cán bộ chủ chốt.
Quận đã cố gắng sắp xếp cử nhiều đ/c cán bộ đi học các lớp nâng cao nghiệp vụ và chính trị, trong đó có lớp đại học kinh tế tại chức tại Quận. Hiện còn hơn 150 học viên và cán bộ đi học các lớp chính trị tại thành phố và trung ương. Đây sẽ là nguồn cán bộ bổ sung khá dồi dào cho Quận, nhưng phát huy được cũng cần có thời gian mới đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới.
Tính đến 10 tháng 11 năm 1991 kết quả sơ bộ việc thực hiện Nghị quyết 11, Thành ủy ở 36/57 đơn vị cơ sở, có 96,6% đảng viên đủ tư cách (trong đó có 9,2% được biểu dương, có 3,4% đảng viên phải xem xét tư cách và thi hành kỷ luật). Số cơ sở Đảng còn lại hầu hết ở giai đoạn cuối hoặc đã hoàn thành nhưng chưa thông qua Thường vụ Quận ủy.
Đánh giá chung: Đa số đảng viên xác định lập trường quan điểm vững vàng, nhận thức về Đảng đúng đắn, có tinh thần trách nhiệm khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. Nhiều cán bộ nghỉ hưu nhiệt tình tham gia xây dựng Đảng, đóng góp cho phong trào địa phương. Mặt hạn chế là số ít đảng viên do tác động của cuộc sống hiện tại thiếu vững vàng, sa sút ý chí, bỏ sinh hoạt Đảng kể cả xin ra khỏi Đảng.
Công tác phát triển Đảng tuy có chú ý hơn về chất lượng nhưng do chi bộ thiếu tiếp tục giáo dục bồi dưỡng và bản thân đảng viên mới thiếu rèn luyện, tu dưỡng nên trong 80 đảng viên mới phát hiện trong nhiệm kỳ này thì có 8 đảng viên dự bị không được chuyển chính thức (10%).
c) Về công tác kiểm tra Đảng: Có được tập trung hơn, gắn chặt với công tác củng cố Đảng, phục vụ cho bầu cử HĐND khóa VI và Đại hội Đảng nhiệm kỳ mới. Trong nhiệm kỳ đã xử lý kỷ luật 56 đảng viên, chiếm 4,65% trong tổng số đảng viên gồm cách chức 01, cảnh cáo 07, kiểm trách 13, đưa ra khỏi Đảng 25. Nội dung sai phạm nhiều nhất là vi phạm chủ trương, chính sách pháp luật Nhà nước (26 trường hợp) có 26 trường hợp vi phạm nguyên tắc, điều lệ Đảng, ý thức tổ chức kỷ luật kém, có 3 trường hợp vi phạm về quan hệ nam nữ và 1 trường hợp nhận hối lộ.
Tình hình trên cho thấy công tác quản lý đảng viên ở chi bộ cơ sở còn lơi lỏng, chưa coi trọng việc giáo dục và kiểm tra tư cách đảng viên, thi hành Điều lệ Đảng ngay trong sinh hoạt Đảng còn lơi lỏng, ý thức tổ chức kỷ luật giảm sút, có xuất hiện hiện tượng đảng viên coi nhẹ sinh mệnh chính trị của mình mà lo thu vén kinh tế cá nhân. Trong đó, công tác kiểm tra phòng ngừa ngăn chặn chưa chủ động kịp thời.
Tóm lại, nhiệm kỳ qua Đảng bộ đã thực hiện nhiều chủ trương trên lĩnh vực xây dựng Đảng đạt được kết quả:
- Kịp thời lãnh đạo ổn định tư tưởng đảng viên, củng cố nâng cao quan điểm lập trường kiên định lý tưởng XHCN.
- Lãnh đạo thực hiện NQ11/TU đạt kết quả tương đối tốt từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đảng viên.
- Chăm lo xây dựng và mạnh dạn phân công giao việc cho cán bộ trẻ có triển vọng, bước đầu hình thành một lớp cán bộ có năng lực, nhiệt tình và phẩm chất, nhất là ở các đảng bộ Phường.
- Đạt được kết quả trên, nguyên nhân trước hết là sự cố gắng của toàn Đảng bộ trong công tác xây dựng Đảng, tính nghiêm túc chấp hành các chỉ thị Nghị quyết của trên. Đội ngũ cán bộ đảng viên qua thực tiễn có nâng cao trình độ, đoàn kết thống nhất thực hiện có kết quả các chủ trương Nghị quyết của Quận.
NHẬN XÉT CHUNG
VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Sau gần ba năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quận lần thứ V và các Nghị quyết của Đảng cấp trên trong bối cảnh tình hình diễn biến rất phức tạp, Đảng bộ đã nỗ lực phấn đấu và đạt được những thành tựu quan trọng sau đây:
- Thành tựu quan trọng nhất là giữ vững ổn định được tình hình mọi mặt của Quận.
- Về kinh tế, tuy nhiều chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ V đề ra đạt thấp nhưng nền kinh tế của Quận đã từng bước thích ứng với cơ chế mới, chuyển biến theo chiều sâu, phù hợp với quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
- Cơ sở hạ tầng và quản lý đô thị còn yếu kém nhưng nhiều hạng mục công trình đã được nâng cấp và xây dựng mới, bộ mặt chung của Quận từng bước khang trang hơn tạo điều kiện thuận lợi bước đầu thực hiện chủ trương mở cửa, kêu gọi đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
- Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội và thực hiện chính sách xã hội, tuy điều kiện khó khăn phức tạp, đã có nhiều cố gắng, trong đó có một số mặt chuyển biến tốt, đời sống của một bộ phận dân cư được cải thiện hơn trước.
- An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, thực hiện chính sách hậu phương quân đội, các hoạt động chăm sóc đời sống nhân dân trên địa bàn dân cư … có nhiều chuyển biến.
- Hệ thống chính trị từng bước trưởng thành, dân chủ XHCN được mở rộng và phát huy hơn trước, tệ quan liêu, cửa quyền đã giảm bớt. Vai trò của các cơ quan dân cử được nâng lên; mối quan hệ giữa Đảng – chính quyền đoàn thể được sự gắn bó và ngày càng thể hiện rõ chức năng của từng tổ chức.
- Công tác xây dựng Đảng từng bước được củng cố trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, công tác kiểm tra được quan tâm hơn; truyền thống đoàn kết của Đảng bộ vượt qua thử thách tiếp tục được giữ vững.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, Đảng bộ còn những thiếu sót, khuyết nhược điểm:
- Nền kinh tế của Quận tuy từng bước thích ứng với cơ chế mới nhưng chuyển biến còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có, các điều kiện phát triển chưa để phát triển chưa ổn định, tiềm năng trong nhân dân chưa được khai thác và phát huy đúng mức, công tác quản lý nền kinh tế nhiều thành phần còn thiếu nhiều kinh nghiệm.
- Công tác quản lý xây dựng và phát triển đô thị còn có nhiều tồn đọng từ khâu tổ chức, quản lý cho đến tổ chức chú trọng thực hiện chậm được khắc phục đã hạn chế đến tốc độ, chất lượng và kết quả việc thực hiện chương trình đô thị hóa.
- Vấn đề đời sống và việc làm luôn luôn là mối quan tâm lớn của Đảng bộ nhưng trong chỉ đạo còn lúng túng bị động, hiệu quả chưa cao.
- Trật tự xã hội và mặt trận văn hóa còn diễn biến phức tạp. Việc triển khai 4 cuộc vận động nhìn chung chưa đồng bộ và còn nhiều thiếu sót.
- Công tác quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế, kỷ cương, pháp luật chưa nghiêm.
- Công tác vận động quần chúng vẫn còn lúng túng cả về nội dung và phương thức hoạt động.
- Trong công tác xây dựng Đảng, số cơ sở Đảng và số đảng viên yếu kém, trung bình còn nhiều chưa thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ nên dẫn đến tình trạng bị động, chắp vá trong bố trí cán bộ.
2. Từ thực tiễn những năm đổi mới, nhất là gần 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Quận Đảng bộ lần thứ V, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ (cũng là những nguyên nhân chủ quan của mặt được và chưa được) đó là:
Một là: Yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công của Quận trong những năm qua là sự đoàn kết thống nhất ý chí và hành động từ trên xuống dưới, nhất là sự đoàn kết trong Ban Chấp hành Đảng bộ và Ban Thường vụ Quận ủy.
Hai là: Sự ổn định về an ninh chính trị, về tư tưởng là tiền đề rất quan trọng để phát triển kinh tế xã hội, đòi hỏi toàn Đảng bộ phải kiên định lập trường giai cấp công nhân, giữ vững mục tiêu XHCN, nắm vững đường lối đổi mới, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước và nhất là phải thường xuyên chăm lo giải quyết những vấn đề bức xúc của quần chúng đi đôi với đẩy mạnh chống tiêu cực.
Ba là: Trong lãnh đạo kinh tế xã hội phải tăng cường quản lý Nhà nước, chú trọng vấn đề nắm thông tin, dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và xử lý những vấn đề mới nảy sinh nhằm ngăn chặn những tình huống xấu nhất có thể xảy ra, đồng thời phải có biện pháp khai thác và phát huy tiềm năng thế mạnh của Quận nhất là về vốn, con người và đất đai, mặt bằng…
Bốn là: Tình hình mới đòi hỏi Đảng phải thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn mình, phải xây dựng Đảng vững mạnh 3 mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức, trước hết cần tập trung củng cố cơ sở Đảng, chú trọng kiểm tra thực hiện Nghị quyết kịp thời sơ tổng kết. Khâu rất quan trọng là phải quan tâm công tác quy hoạch cán bộ cho từng ngành, từng tổ chức nhất là xây dựng cho được đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế giỏi năng động và có phẩm chất tốt.
Năm là: Để công tác vận động quần chúng đạt được hiệu quả cao, đòi hỏi chủ trương của các cấp trên đề ra phải phù hợp và phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của quần chúng; mặt khác mọi đảng viên, mọi tổ chức phải thật sự quan tâm và làm tốt công tác vận động quần chúng.
PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ CHỦ YẾU
TRONG 5 NĂM 1991 – 1995
Trong nhiệm kỳ tới, tình hình kinh tế - xã hội chung của cả nước và thành phố vẫn còn nhiều khó khăn. Riêng Quận Gò Vấp chúng ta, khó khăn lớn nhất vẫn là tình hình sản xuất kinh doanh chưa được khôi phục một cách căn bản, các đơn vị kinh tế quốc doanh chưa giữ được vai trò chủ đạo; cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là điện, cầu đường, hệ thống cấp và thoát nước vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ V chắc chắn sẽ có nhiều chủ trương mới tạo thêm nguồn động lực nhằm phát huy kết quả và kinh nghiệm của những năm thực hiện công cuộc đổi mới mang lại. Vị trí của Gò Vấp có nhiều thuận lợi, là “cầu nối”giữa trung tâm thành phố với các tỉnh phía Ðông và Tây Bắc; là một trong hai cửa ngõ ra vào sân bay Tân Sơn Nhất, có ga xe lửa của tuyến Bắc Nam, sát xa lộ vòng đai, có bến đường sông… rất thuận tiện trong phát triển lưu thông hàng hóa và xây dựng cụm công nghiệp, dịch vụ của thành phố như Nghị quyết Đại hội thành phố lần thứ V đã có chỉ ra. Là Quận ven, Gò Vấp có tiềm năng về đất đai dồi dào, có nhiều cơ sở công nghiệp và cơ sở kinh tế - quốc phòng quan trọng của Trung ương – quân khu và thành phố trú đóng với trình độ kỹ thuật cao và quy mô lớn. Nhân dân Gò Vấp có truyền thống Cách mạng kiên cường, rất cần cù trong lao động. Đó là những nhân tố quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm tới và những năm tiếp sau.
Từ những kinh nghiệm thành công cũng như chưa đạt được trong nhiệm kỳ qua, trong thời gian tới Đảng bộ và nhân dân quận Gò Vấp cần nhận thức đầy đủ và xuyên suốt quan điểm dựa vào sức mình là chính, phát huy tinh thần tự lực tự cường, nhằm động viên mọi nỗ lực chủ quan của đảng viên, cán bộ và nhân dân đồng thời coi trọng việc tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương và thành phố, chủ động và mở rộng các nguồn đầu tư qua liên doanh, liên kết, ra sức khắc phục khó khăn, tiếp tục xây dựng Quận với cơ cấu kinh tế “Công, nông, thương nghiệp và dịch vụ”như Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ V đã xác định, nhằm thực hiện mục tiêu chung của Quận là phát huy tiềm năng của của Quận nhất là quỹ đất đai. Tập trung phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, đẩy mạnh tốc độ đô thị hóa, tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu để phát triển sản xuất hàng hóa, kinh doanh và dịch vụ, nhằm giải quyết việc làm, chăm lo đời sống cho nhân dân lao động và giữ vững an ninh chính trị; thông qua thực tiễn phong trào mà không ngừng xây dựng khối đoàn kết thống nhất, xây dựng chính quyền, đoàn thể và xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh.”
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ BIỆN PHÁP
CỤ THỂ TRÊN CÁC LĨNH VỰC
I. VỀ KINH TẾ:
1. Sản xuất công nghiệp TTCN:
a) Tập trung đầu tư cho các đơn vị kinh tế quốc doanh đang hoạt động có triển vọng để đủ sức vươn lên giữ vai trò chủ đạo trong phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tham gia trên địa bàn Quận.
b) Tranh thủ hợp tác, khai thác khả năng khoa học kỹ thuật cơ sở vật chất kỹ thuật và lực lượng tay nghề phát triển sản xuất, giải quyết công ăn việc làm… Có kế hoạch chủ động gắn với các ngành của thành phố trong việc đầu tư sản xuất ở Quận, trước mắt là việc hình thành khu công nghiệp Gò Vấp như trong văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ V đã nêu.
c) Tiếp tục vận động và có chủ trương khuyến khích phát triển mạnh sản xuất ngoài quốc doanh, tạo điều kiện để các nhà đầu tư trong và ngoài Quận (kể cả nước ngoài) yên tâm và tin tưởng đầu tư vốn, kỹ thuật, trang thiết bị phát triển sản xuất với các loại hình tổ chức kinh tế thích hợp và có tích lũy, chống tư tưởng cục bộ, bản vị, định kiến, hẹp hòi, khép kín đồng thời tăng cường công tác quản lý kiểm tra để hướng dẫn các đơn vị sản xuất kinh doanh ngoài quốc doanh hoạt động đúng hướng và đúng pháp luật.
d) Chỉ có mở rộng và phát triển sản xuất, kinh doanh mới giải quyết việc làm cho người lao động một cách căn cơ và bảo vệ lợi ích chính đáng cho người lao động.
Phấn đấu tăng mức trưởng bình quân mỗi năm từ 12 – 15% về GTTSL (riêng 2 năm 1992 –1993 từ 10% đến 12%). Hết sức coi trọng và phát triển các mặt hàng xuất khẩu, chiếm tỷ trọng 20% trong giá trị tổng sản lượng.
+ Đối với XN quốc doanh – liên doanh:
a) Mở rộng liên kết liên doanh (trong và ngoài nước) tranh thủ sự đầu tư thiết bị, công nghệ mới tiên tiến trong điều kiện ngân sách Quận còn khó khăn.
b) Nâng cao trình độ quản lý, mạnh dạn giao quyền chủ động cho Giám đốc XN, theo kế hoạch chung của thành phố, phấn đấu đến cuối năm 1992 tách chức năng quản lý Nhà nước và kinh tế ra khỏi chức năng quản lý sản xuất kinh doanh ở tất cả các Phòng, Ban. Thí điểm tiến tới mở rộng hình thức XN quốc doanh cổ phần, xây dựng và tăng cường vai trò Hội đồng quản trị. Kiên quyết và giải quyết kịp thời những vụ tiêu cực mới phát sinh, thanh kiểm tra khi phát hiện có dấu hiệu thua lỗ hoặc hiệu quả thấp.
c) Coi trọng các biện pháp tập trung phát triển sản xuất, kinh doanh như: giao vốn, thực hiện việc bảo quản vốn, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, các biện pháp tài chính, tín dụng, thuế, tăng cường đổi mới thiết bị hiện đại, áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất và tổ chức cán bộ… Từ đây đến năm 1993, cùng sự hỗ trợ của thành phố và đặc biệt là bằng những nguồn vốn tự tạo của các công ty, xí nghiệp và từ các nguồn thu khác của Quận, phấn đấu mỗi công ty, xí nghiệp đều có vốn lưu động tự có từ 30% đến 40% trở lên trong tổng nhu cầu cần thiết cho hoạt động.
d) Tập trung đầu tư cho 3 đơn vị để đủ sức vươn lên nắm giữ vai trò chủ đạo ở 3 ngành:
. XN may thêu xuất khẩu: đối với ngành may thêu.
. XN Quyết Thắng phát triển thêm khâu hoàn tất, định hình trong ngành dệt theo dạng cổ phần có sự tham gia của ngân sách Quận: chủ đạo trong ngành dệt. Từng bước tạo thế liên hoàn đối với sản phẩm may xuất khẩu và nội địa (vải, thêu, may).
. Chuyển HTX Đồng Tâm thành công ty cổ phần có sự tham gia của ngân sách Quận: chủ đạo trong ngành cơ khí và tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ nhu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp đồng bằng Sông Cửu Long và nước bạn Kampuchia.
+ Đối với sản xuất ngoài quốc doanh:
- Phát huy vai trò của Phường và các tổ chức kinh tế xã hội, vận động mọi cá nhân có điều kiện về vốn, tay nghề kỹ thuật, mặt bằng, nguồn từ thân nhân Việt Kiều… để phát triển sản xuất dưới nhiều hình thức tổ chức phù hợp.
- Chú trọng các ngành thế mạnh như dệt may thêu xuất khẩu, tiểu thủ công mỹ nghệ, đồng thời coi trọng phát triển các mặt hàng mới ít bị cạnh tranh trên thị trường nội địa. Khuyến khích các công ty, xí nghiệp tư doanh đầu tư chiều sâu mở rộng sản xuất, nâng chất lượng sản phẩm, hình thành và phát triển các vệ tinh trong và ngoài Quận để tạo ra nhiều sản phẩm và thu hút lao động.
Cần có sơ, tổng kết việc phát triển sản xuất kinh tế ngoài quốc doanh với các hình thức tổ chức (công ty, xí nghiệp tư doanh, tập thể, cá thể) để đánh giá những kết quả về kinh tế và cả về xã hội. Trong công tác tổ chức quản lý, chú trọng các biện pháp về mặt bằng thuế, tín dụng, lao động để có tác động tháo gỡ khó khăn kịp thời trong phạm vi quyền hạn trách nhiệm, đồng thời kiến nghị với thành phố, trung ương có chính sách đòn bẩy.
2. Sản xuất công nghiệp:
Trong quá trình đô thị hóa, diện tích đất nông nghiệp sẽ thu hẹp, nhưng phải giữ vững là vùng vành đai thực phẩm của thành phố, chủ yếu là trồng rau xanh và chăn nuôi bò sữa, heo, gà.
Hoàn tất việc cấp giấy sử dụng ruộng đất, có kế hoạch sử dụng quỹ đất đai có hiệu quả cho từng vùng, gắn chặt với quy hoạch phát triển đô thị hóa lâu dài, không để lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
Chỉ tiêu cụ thể:
- Sản lượng rau: 32 ngàn tấn (1992 – 1993) đến 1995 còn 28 ngàn tấn (do diện tích canh tác sẽ thu hẹp và chủng loại rau cao cấp tăng lên).
- Sữa bò: Từ 2,9 triệu lít (1991) nâng lên 4 triệu lít (1993) và 5 triệu lít (1995).
- Đàn heo: Từ 10.000 con nâng lên 13 ngàn con 1992, lên 15.000 con (1993). Đến 1995 là 20 ngàn con.
- Bông kiểng: 80 ha.
Chú ý nâng cao chất lượng và hiệu quả cây trồng và vật nuôi. Phấn đấu chuyển từ vùng thương phẩm về cây kiểng, heo, bò sữa trở thành vùng cung cấp giống của khu vực thành phố. Chú trọng khâu chế biến nâng hiệu quả phục vụ tiêu dùng (thịt heo, sữa bò) và cung ứng cho xuất khẩu (hoa kiểng). Trong đó sớm nghiên cứu đầu tư máy móc hiện đại (với các loại hình liên doanh liên kết, công ty cổ phần…) để tận dụng nguồn sữa tại chỗ phá thế độc quyền, tạo sự cạnh tranh lành mạnh để phát triển đàn bò sữa, đặc biệt chú trọng phát triển các mạng lưới chế biến và cung ứng thức ăn gia súc. Có kế hoạch giải quyết đầu ra của sản phẩm nông nghiệp.
Hết sức coi trọng phát triển kinh tế hộ gia đình nông dân, khuyến khích và nhân rộng các điển hình hộ nông dân giỏi, thông qua các hội chuyên ngành như Hội chăn nuôi bò sữa, Hội những người làm vườn, cây kiểng… để hướng dẫn kỹ thuật, phổ biến kinh nghiệm, nhân giống mới.
Chấn chỉnh HTX nông nghiệp đúng thực chất trên nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi. Nếu không còn phù hợp và hiệu quả thấp nên chuyển sang hình thức kinh tế vườn để có hiệu quả kinh tế cao hơn và thu nhập của nông dân cũng được tăng lên.
3. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình đô thị hóa theo định hướng:
- Đô thị hóa phải bảo đảm theo quy hoạch và kế hoạch chung, hạn chế việc phát triển tự phát, vi phạm các qui định về quản lý trật tự đô thị và hạ tầng kỹ thuật… Cần thực hiện chủ trương đa dạng hóa nguồn vốn trong thực hiện đô thị hóa với nhiều hình thức như liên doanh, liên kết, cổ phần tư nhân… trong xây dựng và kinh doanh địa ốc. Trong đó, xác định rõ vai trò chủ đạo của công ty xây dựng và phát triển nhà của Quận.
- Đô thị hóa gắn liền các khu công nghiệp dịch vụ tập trung, có tỷ lệ hợp lý giữa các khu vực (dân cư, khu công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp).
- Chương trình đô thị hóa phải gắn chặt với chương trình chăm lo chính sách xã hội, phải làm thay đổi bộ mặt các địa bàn dân cư lao động nghèo, qua đó tạo điều kiện cho công tác vận động quần chúng và chăm lo đời sống nhân dân lao động được tốt hơn.
- Trong những năm trước mắt sẽ tăng dân số cơ học, do đó phải có kế hoạch đồng bộ giữa phát triển chương trình đô thị hóa và kế hoạch dân cư, dân số, có tính đến các công trình phúc lợi ở những khu dân cư mới.
Nhiệm vụ cụ thể:
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình đô thị hóa, trước mắt ở 2 bên các đường trung tâm Nguyễn Kiệm, Nguyễn Oanh - Nguyễn Văn Nghi, Quang Trung theo hướng chỉnh trang, xây dựng mới nhà ở, nhà phố thương nghiệp, dịch vụ, sản xuất thích hợp. Xây dựng mở rộng chợ An Nhơn, chỉnh trang nhà phố xung quanh các chợ trong Quận. Mỗi năm xây dựng 100 căn nhà bán cho CBCNV, diện chính sách và nhân dân lao động.
Điều chỉnh tổng thể quỹ nhà hợp lý, nghiên cứu cân đối nhà ở diện chính sách, cơ quan, trường học, y tế… hết sức tranh thủ đất quốc phòng để phát triển cơ sở sản xuất và nhà ở.
Chú trọng việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng với phương châm thành phố, Quận (Phường) và nhân dân cùng làm. Trước hết là việc sửa chữa nâng cấp cầu đường, mở rộng mạng lưới cấp điện, cấp nước, thoát nước, điện thoại, gia cố tuyến đê thủy lợi. Chú ý khai thác hiệu quả bến sông An Lạc và xây dựng bến xe gần bến sông này, tạo điều kiện giao lưu hàng hóa kinh tế giữa các tỉnh Ðông và Tây Bắc với Quận Gò Vấp trong TP Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, KHKT, văn hóa của khu vực …
Hai năm 1992 – 1993 bằng ngân sách của Quận và nhân dân cùng làm hoàn thành việc sửa chữa nâng cấp các đường không tên, đường đất đỏ theo phân cấp và mở rộng, đường từ Phường 11 qua Phường 13 (1992: gia cố; 1993: nâng lên đường cấp phố) để tác động cho khu vực công nghiệp mới ra đời khoảng 40 ha và mở một con đường mới dài 01 km từ đập Nam Hải (Phường 5) qua cầu Đen (Bình Thạnh).
4. Thương mại và dịch vụ:
Tiếp tục củng cố các công ty kinh doanh nội và ngoại thương theo hướng tập trung bán buôn, có phần bán lẻ và đầu tư cho sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Phương hướng chung là tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu trong và ngoài Quyết định với những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là may mặc, sơn mài, cơ khí, hàng thêu, hàng nông hải sản… Liên hiệp sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu tiếp tục mở rộng liên doanh liên kết (nhất là trên địa bàn Quận) để tạo chân hàng xuất khẩu ổn định. Chú trọng và có kế hoạch nhập khẩu hàng phục vụ sản xuất, cũng như xuất khẩu ủy thác có ưu đãi để khuyến khích phát triển sản xuất tại Quận. Phấn đấu đến năm 1995, kim ngạch xuất khẩu là 15 triệu USD và nhập khẩu là 13 triệu USD (trong đó: năm 1992 xuất khẩu là 10 triệu USD và 1993 xuất khẩu là 12 triệu và nhập khẩu là 10 triệu USD).
Vận động và từng bước tổ chức các chợ Gò Vấp, An Nhơn, Thông Tây Hội, Tân Sơn Nhất, khu thương nghiệp Ngã Năm thành chợ đầu mối và trung tâm bán buôn lớn, tăng mức lưu chuyển hàng hóa giữa Quận và các nơi khác.
Củng cố ngay hoạt động của HTX mua bán làm trợ thủ cho TNQD trong phục vụ hàng hóa thiết yếu cho đời sống nhân dân lao động. Giải thể hoặc chuyển sang sản xuất các đơn vị làm ăn kém hiệu quả.
Tăng cường công tác quản lý thị trường và chống đầu cơ buôn lậu nhằm ổn định thị trường, đưa công tác quản lý hành chánh thương nghiệp, nhất là quản lý đăng ký kinh doanh và quản lý thuế vào nề nếp.
II. LĨNH VỰC VĂN HÓA XÃ HỘI:
Với đặc điểm của một Quận ven đang trong quá trình đô thị hóa nhanh, số dân ngày càng đông, đối tượng chính sách càng nhiều, SXKD khá đa dạng, nhưng cơ sở hạ tầng phát triển chậm, người thất nghiệp ngày càng nhiều, tệ nạn xã hội đang có xu hướng phát triển, phân hóa xã hội ngày càng rõ nét. Đó là những căn cứ để xác định nhiệm vụ cụ thể cho từng lĩnh vực hoạt động văn hóa – xã hội cho phù hợp.
Phương hướng chung của chính sách xã hội trong 5 năm tới là:
- Chăm lo chính sách xã hội ngang tầm với phát triển kinh tế phải được quán triệt trong tất cả đảng viên, CBCNV, các ban, ngành, đoàn thể, khắc phục tư tưởng kinh tế đơn thuần, khai thác mọi tiềm năng, khả năng tự thân của Quận để chăm lo tốt hơn các đối tượng chính sách, thông qua quỹ bảo trợ chính sách từ Quận đến Phường.
- Xác định khâu phải tập trung giải quyết trong thời gian trước mắt là: giải quyết việc làm, tiền lương và thu nhập; giải quyết nhà ở và chăm lo việc học hành.
- Tiến hành đa dạng hóa và xã hội hóa việc thực hiện chính sách văn hóa xã hội với hình thức như các quỹ chăm lo chính sách văn hóa xã hội quy tụ từ nhiều ngành giới, từ các hội từ thiện.
1. Về lao động – TBXH:
Chú ý vấn đề phân hóa giai cấp để vừa khuyến khích làm giàu chính đáng, vừa bảo vệ quyền lợi của người lao động. Trên cơ sở phát triển kinh tế, đến năm 1995 phấn đấu giải quyết việc làm cho 19 ngàn lao động (trong 2 năm 1992 – 1993 là 11 ngàn người), chú ý các biện pháp để hạn chế dần diện nghèo đói (bằng các hoạt động tương trợ trong nhân dân hoặc Nhà nước cho vay vốn làm ăn…).
Trong khi chờ Nhà nước cải cách cơ bản chế độ tiền lương, trước mắt trong khu vực SXKD cần gắn liền tiền lương với hiệu quả lao động, không hạn chế mức lương tối đa, áp dụng rộng rãi hình thức khoán sản phẩm. Tiếp tục điều tiết bằng nhiều hợp lý, bảo đảm thu nhập phù hợp cho khu vực HCSN, lực lượng vũ trang.
Đặc biệt chăm lo cho đối tượng chính sách trở thành nghĩa vụ của toàn xã hội, phải chu đáo, đúng đối tượng và không được bỏ sót. Hết sức tạo điều kiện cho hoạt động của Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ. Câu lạc bộ hưu trí, Hội Cựu chiến binh, gắn hoạt động của các tổ chức này với xã hội, đặc biệt là việc giáo dục truyền thống cho thanh thiếu niên, giúp hội viên có điều kiện phát huy bản chất Cách mạng, đóng góp công sức và trí tuệ còn lại cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN.
Kết hợp với Sở Lao động và TBXH có kế hoạch giải quyết tốt hơn tệ nạn xã hội như ăn xin, cùi hủi, xì ke, bụi đời, mãi dâm.
2. Về giáo dục và đào tạo:
Chăm lo tốt hơn cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo theo mục tiêu nhà trường XHCN, phấn đấu nâng chất lượng giáo dục ngày một cao hơn, thực hiện có kết quả mục đích giáo dục là cung cấp nhân lực, nâng cao dân trí và đào tạo nhân tài cho đất nước. Nhiệm vụ cụ thể là:
- Đa dạng hóa trường lớp, tích cực vận dụng các hình thức trường bán công, dân lập, nhóm trẻ gia đình, trường bổ túc văn hóa tập trung và dân chính. Phấn đấu hàng năm đạt chỉ tiêu huy động người học đến lớp: 90% các cháu từ 6 đến 14 tuổi; 10% các cháu trong độ tuổi nhà trẻ; 60% các cháu trong độ tuổi mẫu giáo (riêng mẫu giáo 5 tuổi là 80%); kết quả lên lớp và tốt nghiệp hàng năm đạt loại khá của thành phố;
- Phấn đấu đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục cấp 1 và xóa mù chữ trên địa bàn Quận ở mức cao hơn, tiếp tục thực hiện phổ cập cấp 2 cho thanh niên, dành ngân sách thỏa đáng cho công tác xóa nạn mù chữ.
Về dạy nghề: mở rộng các loại hình tổ chức dưới sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang bị phương tiện để nâng cao hiệu quả và chất lượng đào tạo của trung tâm dạy nghề, chú ý những ngành nghề đáp ứng nhu cầu trước mắt của các thành phần kinh tế và phải có tay nghề thật sự. Kết hợp chặt chẽ giữa các tổ chức dạy nghề với các tổ chức giải quyết việc làm.
3. Về y tế và TDTT:
Tiếp tục thực hiện chương trình săn sóc sức khỏe ban đầu, kịp thời phát hiện và phòng chống các bệnh dịch. Đẩy mạnh chương trình tiêm chủng mở rộng ngăn ngừa 6 bệnh cho trẻ em (hàng năm phải đạt trên 90%). Quản lý sức khỏe trẻ em từ 1 – 3 tuổi (đạt từ 90 – 95%). Xử lý tốt môi sinh như phân, nước, rác, chất thải công nghiệp, vệ sinh thực phẩm, giáo dục mọi người về ý thức tự bảo vệ sức khỏe, thực hiện tốt chương trình thực phẩm bổ sung để chống suy dinh dưỡng ở trẻ em.
Tích cực tuyên truyền vận động thực hiện kế hoạch hóa gia đình để hạ tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên từ 1,5% còn 1,1% vào năm 1995.
Quản lý tốt hoạt động mua bán dược liệu, thuốc trị bệnh cho người, các dịch vụ y tế tư nhân và hướng các hoạt động y tế tư nhân vào việc săn sóc sức khỏe ban đầu cho người dân.
Từng bước thực hiện bảo hiểm y tế, trước mắt trong lực lượng CBCNV, thương binh xã hội và các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân.
- Duy trì và nâng chất lượng phong trào quần chúng hưởng ứng và tham gia các hoạt động thể dục thể thao, chú trọng khu vực thiếu niên, trường học, khu phố. Sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất hiện có, đồng thời mở rộng liên doanh hoặc cho tư nhân đầu tư nâng cấp, phát triển thêm cơ sở mới. Từng bước xã hội hóa hoạt động thể dục thể thao.
4. Hưởng ứng tích cực cuộc vận động bảo vệ văn hóa dân tộc trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa với nhiều biện pháp phong phú như giáo dục văn hóa truyền thống, tu sửa và phục hồi những lễ hội truyền thống tốt, giáo dục thẩm mỹ văn hóa cho nhân dân… Với cơ sở vật chất hiện có, phải nâng lên mức hưởng thụ văn hóa cho nhân dân (trung tâm văn hóa Quận, các cụm văn hóa khu vực) đồng thời đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến người dân một cách nhanh nhất bằng các phương tiện thông tin đại chúng. Đẩy lùi hiện tượng tiêu cực trong hoạt động văn hóa văn nghệ, xóa bỏ văn hóa văn nghệ phản động đồi trụy, giáo dục nhân dân về ý thức chống mê tín dị đoan. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình mới làm cho mỗi tế bào lành mạnh thì xã hội sẽ lành mạnh.
5. Về công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em:
Tiếp tục huy động sức mạnh tổng hợp các ban ngành, mặt trận đoàn thể và toàn dân tham gia tích cực vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, đảm bảo thực hiện tốt 5 quyền lợi cơ bản: “Đời sống, sức khỏe, học tập, vui chơi, nhân phẩm”theo pháp lệnh của Nhà nước. Quan tâm con em gia đình chính sách, thiếu niên, nhi đồng nghèo, trẻ em khuyết tật. lang thang, bụi đời, trẻ em suy dinh dưỡng. Tập trung tạo điều kiện cho các cháu đến độ tuổi được đến lớp, không để bỏ học dở dang và mù chữ.
III. VỀ CÔNG TÁC NỘI CHÍNH:
Thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và Nghị quyết Đại hội thành phố lần thứ V về công tác an ninh quốc phòng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân, nhằm bảo vệ vững chắc an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn Quận.
Tiếp tục vận động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, kết hợp với biện pháp nghiệp vụ thường xuyên tấn công làm giảm các loại tội phạm, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, gắn chặt với nội dung xây dựng tổ dân phố, khu phố an toàn, cơ quan xí nghiệp an toàn, Phường vững mạnh; tăng cường công tác an ninh kinh tế, đấu tranh bảo vệ tài sản XHCN, tài sản công dân.
Xây dựng lực lượng công an vững mạnh trong sạch về chính trị tư cách và đạo đức, giỏi về nghiệp vụ, quan hệ chặt chẽ với quần chúng, xây dựng vững mạnh mạng lưới an ninh nhân dân, tập trung chuyển hóa các địa bàn trọng điểm.
Xây dựng lực lượng quân sự địa phương tinh gọn. chất lượng cao, đồng thời củng cố tổ chức, quản lý tốt lực lượng dự bị động viên đảm bảo nhu cầu điều động theo kế hoạch chung của thành phố sẵn sàng dập tắt bạo loạn, tổ chức tốt việc đăng k› thanh niên, khám tuyển và điều động thực hiện NVQS đúng pháp luật, đi dần vào nề nếp ổn định và tự giác chấp hành theo luật định.
Song song với việc củng cố lực lượng an ninh và quân sự địa phương, có kế hoạch chăm lo đời sống tốt hơn cho các lực lượng vũ trang, và đẩy mạnh hoạt động một cách đồng bộ của các cơ quan nội chính.
Công tác điều tra nhanh gọn, chính xác, đảm bảo cho mọi vi phạm pháp luật đều được xử lý, mọi việc oan ức đều được giãi bày, công tác tố tụng đúng việc, đúng người, công tác xét xử kịp thời và những bản án có hiệu lực phải được thi hành. Tăng cường công tác thanh tra Nhà nước, thực hiện tốt pháp lệnh thanh tra, góp phần tăng cường giáo dục pháp luật trong nhân dân bằng nhiều hình thức, đặc biệt là phát huy hệ thống các đoàn thể quần chúng, phát động phong trào sống và làm việc theo pháp luật.
IV. VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG:
Phương hướng chung là phải đổi mới công tác xây dựng lực lượng chính trị ngang tầm với đổi mới kinh tế, phù hợp yêu cầu xóa bỏ cơ chế hành chánh quan liêu bao cấp, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường.
1. Đổi mới hoạt động của Hội đồng nhân dân và UBND, nhằm tiếp tục thực hiện dân chủ và công bằng xã hội.
Hội đồng nhân dân Quận và Phường phát huy hơn nữa vai trò của mình theo đúng luật tổ chức HĐND và UBND, thể hiện thật sự là cơ quan đại diện nhân dân tại địa phương. Các đại biểu HĐND, nhất là các đại biểu là đảng viên phải gương mẫu trong việc thực hiện trách nhiệm quyền hạn đại biểu đã được quy định. Tăng cường chất vấn, đối thoại với các cơ quan chính quyền, thẩm định hoạt động của UBND, tạo khí thế tranh luận trong các kỳ họp HĐND nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Hội đồng.
Hoạt động của chính quyền Quận, Phường phải đảm phải đảm bảo dân chủ và công bằng xã hội; mọi hoạt động quản lý và điều hành của UBND Quận, Phường phải đề cao sự tuân thủ luật pháp, đội ngũ CBCNV phải toàn tâm, toàn ý phục nhân dân, mọi chủ trương quan trọng liên quan đến lợi ích của nhân dân, các giới quần chúng của chính quyền từ Quận đến Phường nhất thiết phải có sự tham khảo ý kiến rộng rãi của các đoàn thể, mặt trận và quần chúng tiêu biểu.
Tiếp tục thực hiện cuộc vận động cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho dân trong phạm vi quyền hạn của các phòng ban tham mưu và của UBND, tạo phong cách làm việc văn minh, lịch sự, khoa học, đồng thời đấu tranh chống tiêu cực trong các cơ quan chính quyền. Hết sức coi trọng việc lựa chọn những cán bộ, đảng viên và quần chúng ưu tú đã thông qua công tác vận động quần chúng để đào tạo bồi dưỡng và giới thiệu vào các cơ quan dân cử, UBND và các Phòng, Ban chính quyền.
Trước mắt, thực hiện tinh giảm 20% biên chế trong những năm 1991 đồng thời bảo đảm chính sách theo quy định đối với những người dôi ra, trách bình quân mà phải căn cứ chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị.
2. Đổi mới công tác vận động quần chúng:
Công tác vận động quần chúng là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị, của toàn thể đảng viên của toàn xã hội. Phải làm cho đảng viên và quần chúng nhận thức được đặc điểm của 1 Quận có đông đồng bào theo đạo, đang phát triển kinh tế nhiều thành phần và đang trong quá trình đẩy mạnh đô thị hóa. Phải tiếp tục khơi động trách nhiệm vận động quần chúng của mọi đảng viên, CBCNV và chiến sĩ hơn nữa nhằm đạt được mục tiêu xây dựng một Đảng bộ có mối quan hệ chặt chẽ với quần chúng trên cơ sở đoàn kết chính trị và lợi ích với quan điểm dân giàu, nước mạnh theo hướng độc lập, tự do, XHCN.
- Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng thông qua chế độ làm việc định kỳ giữa cấp ủy với từng BCH đoàn thể, mặt trận, kiểm tra sự lãnh đạo của cấp ủy cơ sở đối với công tác vận động quần chúng, quan tâm đào tạo và tăng cường cán bộ có trình độ chuyên môn, phẩm chất tốt cho mặt trận và các đoàn thể; nhất là cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo và người Hoa.
- UBND Quận, Phường phối hợp với mặt trận và đoàn thể xây dựng quy chế hoạt động phù hợp với thực tế, có tác động thiết thực.
- Mặt trận và các đoàn thể cần đổi mới hơn nữa về tổ chức, nội dung và phương pháp hoạt động, lấy nội dung “sản xuất, việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội”làm trọng tâm; lấy chính sách kiểm tra – xã hội làm động lực thúc đẩy quá trình đổi mới, bảo vệ quyền lợi của nhân dân, gắn chặt giữa quyền lợi và nghĩa vụ, qua đó hình thành khối đoàn kết liên minh công–nông–trí vững mạnh để vượt qua khó khăn và làm chuyển biến phong trào quần chúng trong những năm tới.
a) Mặt trận Tổ quốc: Phát huy hơn nữa vai trò là “đầu mối”phối hợp hành động của các đoàn thể, là “cầu nối”giữa nhân dân với Đảng và chính quyền, xây dựng tình tương thân tương trợ, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong nội bộ nhân dân, lấy chính sách đoàn kết dân tộc làm cơ sở, lấy lợi ích làm nội dung để tập hợp các tầng lớp quần chúng. Củng cố đội ngũ công thương gia, trí thức, phụ lão, chức sắc tôn giáo làm nòng cốt trong tập hợp tổ chức cũng như hoạt động cụ thể. Thông qua việc phối hợp với HĐND, Mặt trận Tổ quốc vừa phản ánh tâm tư nguyện vọng của quần chúng để chính quyền có biện pháp giải quyết, vừa phát huy đầy đủ vai trò kiểm tra giám sát công việc Nhà nước.
Quán triệt nội dung tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, tiếp tục tạo yên tâm cho đồng bào có đạo trong sinh hoạt xã hội của các tôn giáo có lợi cho nếp sống lành mạnh, đoàn kết đạo-đời cùng xây dựng XHCN.
b) Liên đoàn lao động: Có trách nhiệm chính trong công tác giáo dục nâng cao ý thức giai cấp cho công nhân, lao động, làm nòng cốt trong các phong trào hành động Cách mạng để thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của Quận. Phát huy tốt chức năng kiểm tra việc thực hiện luật công đoàn và các chính sách khác để bảo vệ lợi ích chính đáng hợp pháp của công nhân, lao động. Đổi mới nội dung, tổ chức, phương pháp hoạt động phong phú, đa dạng để có sức thu hút tập hợp đông đảo công nhân lao động ở mọi thành phần kinh tế vào tổ chức công đoàn. Hội lao động theo ngành nghề phù hợp với nến kinh tế nhiều thành phần, nhất là khu vực ngoài quốc doanh.
c) Hội Liêp hiệp Phụ nữ: Tiếp tục thực hiện quyết định 163/HĐBT, vận động phụ nữ tích cực học tập nâng cao tay nghề tham gia lao động sản xuất và quản lý kinh tế - xã hội, vận động chị em giúp nhau phát triển kinh tế gia đình (may, thêu, đan, chăn nuôi…).
Phát huy vai trò của Phụ nữ trong việc xây dựng gia đình văn hóa mới và thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình, nuôi dạy con tốt, hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng, trẻ em bỏ học. Bảo vệ sức khỏe, nhân phẩm Phụ nữ và trẻ em, đấu tranh chống tệ nạn xã hội và mê tín dị đoan.
Củng cố tổ chức Hội Phụ nữ trên địa bàn dân cư và theo ngành nghề. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ Hội, xây dựng hội viên thực sự là hội viên làm nòng cốt trong các phong trào. Đẩy mạnh hoạt động của Hội Phụ nữ từ thiện, duy trì và phát triển các lớp dạy nghề cho chị em.
d) Hội Liên hiệp Thanh niên: Dưới sự lãnh đạo của Đoàn, mở rộng diện tập hợp thanh niên theo năng khiếu, sở thích và ngành nghề. Coi trọng công tác dạy nghề và tạo điều kiện cho thanh niên tự giải quyết việc làm. Tập trung vận động thanh niên ở 3 khu vực: đối với thanh niên công nhân, khẩu hiệu hành động là năng suất, chất lượng, hiệu quả và tiến công mạnh mẽ vào KHKT; đối với thanh niên trường học chủ đề vận động là phong trào thi đua “dạy tốt và học tốt; đối với thanh niên đường phố, lấy nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự trên địa bàn dân cư làm nội dung tập hợp, phát huy mô hình xây dựng khu phố an toàn do công an đường phố chủ trì với sự tham gia của đoàn thể mà thanh niên là nòng cốt. Thông qua các hoạt động đáp ứng quyền lợi thiết thân mà giáo dục lý tưởng XHCN, tư tưởng và đạo đức Bác Hồ cho thanh niên.
e) Hội Nông dân: Tiếp tục vận động nông dân thực hiện NQ 10 của BCT và các Nghị quyết của Thành ủy về nông nghiệp và nông thôn ngoại thành, phát động phong trào “tương trợ, sản xuất giỏi, giúp nhau làm giàu”với sự tác động tích cực của các Hội chăn nuôi và Hội làm vườn để phát triển và nâng lên hiệu quả cây trồng, vật nuôi. Xây dựng quỹ giúp đỡ đối với các hộ nông dân nghèo trên tinh thần tương thân, tương ái, đa dạng hóa tổ chức hội theo ngành nghề.
3. Công tác xây dựng Đảng:
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội VII đã được Nghị quyết ĐH Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ V cụ thể hóa, trước bối cảnh quốc tế, trong nước và thực trạng tình hình của Quận, vấn đề cấp bách đặt ra là phải tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng bộ và tiến hành chỉnh đốn Đảng nhằm xây dựng Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ sức lãnh đạo và tổ chức thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng.
a) Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đường lối quan điểm của Đảng cho cán bộ, đảng viên.
Mục tiêu quan trọng hàng đầu của công tác tư tưởng của Đảng bộ suốt nhiệm kỳ là tạo ra cho được sự ổn định tư tưởng trong toàn Quận, trước hết là trong đội ngũ cán bộ chủ chốt và toàn thể đảng viên, trong đó hàng đầu là xác định lòng tin tưởng vào lý tưởng độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, vào sự tất thắng của CNXH, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng và đấu tranh chống tiêu cực, chống mọi mọi quan điểm phi vô sản. Đây là cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt trong mọi cán bộ đảng viên và trong toàn Đảng bộ trên lập trường quan điểm của giai cấp công nhân. Muốn thực hiện được mục tiêu này toàn Đảng bộ phải thực hiện các biện pháp sau đây:
Trước mắt cần tổ chức nghiên cứu quán triệt sâu sắc nội dung cơ bản của Nghị quyết Đại hội VII/TW và Nghị quyết Đại hội V Thành phố, đảm bảo từ 90 – 100% đảng viên học tập quán triệt và có chương trình hành động cụ thể. Khôi phục và mở rộng Nhà truyền thống và chú trọng giáo dục truyền thống Cách mạng, nhất là biên soạn có hệ thống và giáo dục truyền thống đấu tranh Cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Gò Vấp từ khi có Đảng, đối tượng chủ yếu là đảng viên trẻ và đoàn viên TNCS, động viên tự hào truyền thống biến thành động lực Cách mạng mạnh mẽ trong toàn Đảng bộ. Với sự tham gia và nêu gương điển hình của các đồng chí Cách mạng lão thành, cán bộ đảng viên hưu trí ở các Phường.
Nâng cao ý thức cảnh giác Cách mạng, không mơ hồ về bản chất của chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng chống CNXH, chống tư tưởng cầu an, thờ ơ đối với công tác vận động chính trị trong quần chúng, kịp thời và chủ động trong công tác hướng dẫn dư luận, đấu tranh chống những luận điệu sai trái, phản Cách mạng.
Phải cải tiến mạnh mẽ nội dung và phương pháp tư tưởng. Nội dung phải thiết thực gắn với thực tiễn cuộc sống, với tình hình trong và ngoài nước, sát sườn với tâm trạng của đảng viên và quần chúng. Phương pháp công tác phải thật sự dân chủ nhằm nghe được mọi luồng tư tưởng giúp cho việc định hướng, đấu tranh tư tưởng đúng đắn, có hiệu quả, qua đó mà hình thành sự thống nhất tư tưởng trong Đảng đến quần chúng nhân dân, sử dụng nhiều loại hình giáo dục tư tưởng phong phú, sinh động (sinh hoạt chuyên đề, báo cáo thời sự…). Coi trọng công tác giáo dục theo ngành, giới, cả giáo dục rộng rãi và giáo dục cá biệt. Tiếp tục cải tiến chất lượng thông tin thời sự, hội thảo chuyên đề, bồi dưỡng nâng chất các lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên. Phải nhận thức đầy đủ rằng, ổn định đời sống kinh tế là điều kiện quan trọng để ổn định tư tưởng, do vậy, phải hết sức chăm lo đời sống cho cán bộ, đảng viên (nhất là khu vực HCSN, lực lượng vũ trang, hưu trí). Chú trọng phát huy vai trò tích cực của các đ/c đã nghỉ hưu trong công tác tư tưởng, đồng thời hết sức trân trọng các đ/c Cách mạng lão thành.
b) Về công tác tổ chức, trọng tâm là thực hiện cuộc vận động “chỉnh đốn Đảng theo di chúc Bác Hồ” nhằm củng cố nâng cao 1 bước chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng, đề cao trách nhiệm đấu tranh xây dựng nội bộ. Coi trọng chất lượng sinh hoạt hàng tháng của chi bộ cơ sở, đề cao tự phê và phê bình, chấm dứt tình trạng lơi lỏng về tổ chức kỷ luật trong sinh hoạt Đảng, nhất là đối với đảng viên giữ nhiệm vụ lãnh đạo các đơn vị. Trước mắt, tập trung củng cố cơ sở Phường, các đơn vị SXKD và các đơn vị yếu kém. Sơ kết về mô hình tổ chức và có kế hoạch sắp xếp các chi, Đảng bộ cơ sở cho phù hợp với hoàn cảnh, tình hình hiện nay. Nội dung sinh hoạt chi bộ cần được cải tiến sát thực tế, gần gũi và chăm lo đời sống nhân dân, trong đó hết sức coi trọng việc xây dựng các chi bộ nhỏ như chi bộ đường phố, chi bộ cửa hàng, phân xưởng… từ nội dung sinh hoạt, công tác vận động quần chúng, phát triển đảng viên mới… và quản lý đảng viên, và phân công đảng viên làm công tác vận động quần chúng, làm cho mỗi chi bộ nhỏ chủ động công tác. Phân công đảng viên giáo dục vận động quần chúng, coi trọng công tác phát triển Đảng cả trong quần chúng ở khu phố, tổ dân phố. Từ nay đến năm 1993 tập trung củng cố nâng cao năng lực lãnh đạo của các chi bộ đường phố, đưa 23 chi bộ đường phố thành chi bộ vững mạnh, chủ động công tác. Phấn đấu đến năm 1993, số cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh là 20%, số yếu kém không quá 5%; đến năm 1995, số cơ sở Đảng TSVM chiếm 30% và không còn diện yếu kém.
- Về công tác cán bộ, trước mắt có kế hoạch quản lý và phương pháp giao việc cụ thể cho số đảng viên trẻ về nghỉ việc, hưu non ở địa phương, nhất là giao công tác vận động thanh thiếu niên. Tập trung giải quyết số cán bộ còn tồn đọng ở Phòng Tổ chức chính quyền. Ban Tổ chức Quận ủy nằm chờ lâu nay theo các dạng: giải quyết chính sách, tinh giảm biên chế, đào tạo lại hoặc phân công tác (nếu có nhu cầu) kiên quyết không để kéo dài tình trạng hưởng lương nhưng không làm việc, hoặc tư tưởng phải phân công đúng ngành nghề mới nhận công tác. Hoặc ngược lại phải khắc phục tư tưởng hẹp hòi, định kiến không tiếp nhận cán bộ đảng viên ở một số đơn vị, nhất là đơn vị kinh tế, dù thực tế các đồng chí đó có thể làm được những nhiệm vụ so với tuyển mới. Coi trọng công tác quy hoạch cán bộ, cần rà soát lại đội ngũ cán bộ chủ chốt theo trình tự chặt chẽ, khoa học. Dựa vào nội dung tiêu chuẩn hóa cán bộ, dựa vào phương pháp dân chủ và công khai kết hợp với việc thực hiện NQ.11 Thành ủy mà bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ hợp lý hơn nhằm đạt hiệu quả của công việc cao hơn, góp phần ổn định tương đối đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ quản lý Nhà nước và sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho các đồng chí tích lũy được chuyên môn nghiệp vụ. Thông qua đợt chỉnh đốn Đảng mà tập trung cho công tác quy hoạch cán bộ, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ kế cận, không để hụt hẫng, thông qua các hình thức tuyển chọn để kích thích mọi cán bộ đảng viên không ngừng tự học vươn lên, tự đòi hỏi khắt khe hơn với bản thân mình. Từ đây đến năm 1993 có kế hoạch chuyển hóa các địa bàn trọng điểm, song song với việc tập trung đầu tư để chuyển hóa địa bàn kinh tế xã hội, trong đó chú trọng đầu tư cán bộ đảng viên, hội viên, đoàn viên có chất lượng làm nòng cốt xây dựng chính quyền, mặt trận và có khả năng làm công tác vận động quần chúng. Nâng cao nhận thức về vị trí chính trị đối với đảng viên ở cơ quan dân cử, các đơn vị sản xuất kinh doanh và đoàn thể các cấp. Các đảng viên trong từng cương vị của mình phải có Đảng tính cao, có ý thức chấp hành tốt Nghị quyết của Đảng, khắc phục nhanh phong cách công chức đối với đảng viên ở các cơ quan hành chánh sự nghiệp và sản xuất kinh doanh, đề cao nhiệm vụ vận động quần chúng đối với đảng viên sinh hoạt ở các chi bộ khu phố.
Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên đã thoái hóa, biến chất, bỏ sinh hoạt Đảng, không còn đủ tư cách, gây thiệt hại cho Đảng và nhân dân, uốn nắn những lệch lạc trong đời sống của đảng viên, giúp cho mọi đảng viên phải có ý thức sống tiết kiệm, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế chung của đất nước, có trách nhiệm đối với quần chúng xung quanh, ủng hộ hoạt động của các tổ chức đoàn thể và mặt trận.
Công tác phát triển Đảng là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng bộ. Chất lượng đảng viên mới là nguyên tắc hàng đầu của công tác phát triển Đảng, không đưa vào Đảng những người phấn đấu cơ hội, thành tích một chiều, tính lý tưởng chưa cao và tính mục đích không rõ ràng. Dựa vào các đoàn thể và mặt trận, đặc biệt là đoàn viên TNCSHCM, để lựa chọn và kết nạp những người ưu tú vào Đảng; từ chi ủy, đảng ủy đến mọi đảng viên phải đề cao nhiệm vụ giáo dục, xây dựng và thường xuyên bồi dưỡng đối tượng Đảng, coi trọng phẩm chất và năng lực, nhất là phẩm chất chính trị.
c) Tăng cường trách nhiệm lãnh đạo của Đảng ủy, chi ủy cơ sở đối với công tác kiểm tra, tổ chức thực hiện tốt nội dung kiểm tra mà Điều lệ Đảng đã quy định, chú trọng công tác kiểm tra phòng ngừa. Khắc phục tình trạng giữa đảng viên với quần chúng chỉ khác nhau ở vị trí, mọi đảng viên phải nói và làm theo Nghị quyết của Đảng, đề cao kỷ luật phát ngôn.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra của Đảng bộ, phải hết sức coi trọng và nâng chất đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp, đề cao việc thực hiện 4 nền nếp giữ gìn kỷ luật Đảng ngay tại cơ sở.
d) Chăm lo Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là trách nhiệm của toàn Đảng bộ và của từng cấp ủy cơ sở, để Đoàn thực sự là cánh tay đắc lực, là đội hậu bị của Đảng, là tổ chức chính trị thứ hai sau Đảng. Triển khai thực hiện kế hoạch của Quận ủy, cụ thể hóa từ Nghị quyết 25 của BCT và chỉ đạo của Thành ủy về công tác thanh niên. Đoàn phải tập trung chăm lo lợi ích của đoàn viên thanh niên, tăng cường giáo dục lý tưởng XHCN, tư tưởng đạo đức Bác Hồ, giáo dục truyền thống dân tộc truyền thống địa phương cho đoàn viên thanh niên, biến tự hào của thế hệ Gò Vấp đi đầu trong mọi phong trào hành động Cách mạng của địa phương, tiến công mạnh mẽ vào lĩnh vực khoa học kỹ thuật, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Tập trung củng cố tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ sở Đoàn, làm nòng cốt trong phong trào thanh niên công nhân, trường học và đường phố. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy, Đoàn cần phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể và các ngành liên quan trong lãnh đạo và chăm lo Hội Liên hiệp Thanh niên và Đội thiếu niên tiền phong, làm nổi bật vai trò nòng cốt của Đoàn trong các lĩnh vực hoạt động, nhất là trong lao động sản xuất, trong giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn dân cư …
Đại hội giao cho BCH có trách nhiệm cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội bằng Nghị quyết từng năm, 6 tháng, qu›, kế hoạch từng tháng và chương trình công tác hàng tuần. Có vận dụng các chủ trương chỉ đạo của Trung ương và Thành phố để tổ chức thực hiện trong từng thời kỳ.
Đại hội kêu gọi toàn thể đảng viên, cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân trong Quận nâng cao giác ngộ XHCN, phát huy tính năng động sáng tạo, nâng cao tinh thần cảnh giác Cách mạng, tăng cường đoàn kết nhất trí xung quanh BCH Quận Đảng bộ, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, ra sức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đơn vị Quận Đảng bộ lần thứ VI, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ V và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ
QUẬN GÒ VẤP LẦN THỨ VI