Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Báo cáo chính trị của quận ủy khóa VI trình đại hội đại biểu Đảng bộ quận lần thứ VII

BÁO CÁO TÌNH HÌNH VÀ NHIỆM VỤ TẠI ĐẠI HỘI

ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ QUẬN TÂN BÌNH LẦN THỨ VII

Trong nhiệm kỳ Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quận Tân Bình lần thứ VI (1991-1995), thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và Nghị quyết Đại hội V của Đảng bộ Thành phố, Đảng bộ quận Tân Bình đã tích cực góp phần vào việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước.

Tình hình an ninh chính trị của quận giữ được ổn định, hệ thống chính trị được tăng cường củng cố. Nhiệm vụ đổi mới, chỉnh đốn Đảng được tiến hành chặt chẽ, đã nâng cao được sức mạnh của các tổ chức đảng ở cơ sở nhất là về phương thức lãnh đạo và vai trò trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Bộ máy chính quyền của quận và phường đã phát huy được hiệu lực, từng bước thực hiện tốt việc quản lý xã hội bằng pháp luật. Phong trào quần chúng có bước phát triển khá, mối quan hệ giữađảng với nhân dân được gắn bó hơn. Tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội phát triển tương đối tốt, tốc độ đô thị hóa khá nhanh, đường phố được chỉnh trang, nhiều công trình dân cư được cải thiện, các gia đình chính sách được chăm sóc tốt hơn, một bộ phận nhân dân lao động đời sống được nâng lên, toàn quận đã không còn hộ đói. Các phong trào “Xoá đói, giảm nghèo”, “Xây nhà tình nghĩa”, “Hậu phương quân đội”, “Xanh và Sạch”, “Không xả rác”, “Giúp đỡ đồng bào bị thiên tai”, “Sổ vàng tình nghĩa”… được nhân dân đồng tình hưởng ứng, thực hiện có hiệu quả.

Tuy nhiên sự phát triển về kinh tế-văn hóa-xã hội của quận trong những năm qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Trật tự an toàn xã hội chưa thật sự đảm bảo, các tệ nạn xã hội còn nặng nề. Một bộ phận cán bộ đảng viên có biểu hiện sa sút ý chí chiến đấu, phẩm chất đạo đức, thiếu gương mẫu trước quần chúng, không theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ mới.

Đánh giá về sự lãnh đạo của Đảng bộ Quận Tân Bình trong nhiệm kỳ VI được thể hiện trên các mặt như sau:

PHẦN THỨ NHẤT

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU

ĐẢNG BỘ QUẬN TÂN BÌNH LẦN THỨ VI (1991-1995)

I. TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ :

1/ Hoạt động công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp của Quận đang đi dần vào thế ổn định và trong xu thế phát triển, đã cơ bản thoát khỏi tình trạng khó khăn, tạo tiền đề để đi vào thời kỳ phát triển mới:

+ Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp là 15% trong đó:

·Khối quốc doanh tăng: 37,7%

·Khối ngoài quốc doanh tăng: 13,9%

·Tốc độ tăng bình quân hàng năm về tổng mức đầu tư của khối kinh tế: 68,51%

+ Tổng số nộp ngân sách của khối kinh tế trong 5 năm qua thực hiện 362 tỉ đồng chiếm tỉ trọng 65,6% tổng nguồn thu ngân sách của quận, tốc độ tăng bình quân là 55,1%.

Sau nhiều lần củng cố, từ 24 đơn vị quốc doanh thuộc khối kinh tế còn 13 đơn vị, từ đó giảm được đầu mối quản lý, tinh gọn bộ máy điều hành, phát huy được sức mạnh tổng hợp của khối trong việc thực hịện nghị quyết của Đại hội Đảng bộ lần thứ VI, tạo thế ổn định cho các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Trong 5 năm qua, khối kinh tế quốc doanh đã đóng góp cho ngân sách 80,845 tỉ đồng và được ngân sách Quận đầu tư để phát triển sản xuất 54 tỉ đồng.

Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã thu hút nguồn vốn trong nhân dân khá lớn, trong 5 năm qua đã thu hút gần 443 tỉ đồng vốn đầu tư trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, ngành kinh tế-kỹ thuật. Số đơn vị tăng5 năm qua có 240 công ty, doanh nghiệp tư nhân, 2400 cơ sở sản xuất, 800 cơ sở kinh doanh dịch vụ.

Nhiều sản phẩm, ngành nghề mới ra đời góp phần phục vụ cho tiêu dùng xã hội và một phần xuất khẩu đem ngoại tệ về cho quận: hàng may mặc xuất khẩu (vải, da), hàng nông thuỷ hải sản xuất khẩu, hàng nhựa gia dụng, điện tử gia dụng, chế biện lương thực thực phẩm các loại… Tốc độ tăng bình quân về giá trị xuất khẩu hàng năm là 31,5% chiếm tỉ trọng từ 12-15% giá trị sản xuất CN-TTCN toàn quận.

2) Về thương mại dịch vụ, khối lượng hàng hoá lưu chuyển qua hoạt động kinh doanh hàng năm đều tăng về giá trị, phong phú về chủng loại, các đơn vị kinh doanh trên địa bàn đã tạo được lực lượng hàng hóa dồi dào đẩy lùi tình trạng khan hiếm, tăng giá giả mạo. Thương nghiệp quốc doanh đã tập trung vào bán buôn những mặt hàng thiết yếu. Tốc độ phát triển và doanh số hành năm tăng bình quân trên 60%.

Về kinh doanh xuất nhập khẩu: các đơn vị đã từng bước thâm nhập được vào thị trường khu vực II và từ nguồn xuất nông sản thô là chủ yếu đã chuyển sang xuất khẩu những mặt hàng nông sản chế biến là hàng công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp điạ phương với tốc độ tăng hàng năm bình quân trên 30%. Tỷ trọng xuất khẩu chiếm 15% giá trị tổng sản lượng. Quận đã đầu tư cho hoạt động các chợ sẵn có trên địa bàn, vừa xây dựng mới các chợ: Hoàng Hoa Thám, Bàu Cát, chợ Trần Văn Quang, chợ P.20, nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ nhân dân góp phần ổn định mạng lưới thương mại, dịch vụ.

3) Về sản xuất nông nghiệp: diện tích đất trồng trọt tiếp tục giảm dần qua các năm (năm 1991: 668,4ha, năm 1995: 246ha) do chủ trương thực hiện quy hoạch tập trung vào việc đô thị hóa các phường nông nghiệp. Quận cũng đã tổ chức thanh lý và giải thể các hợp tác xã nông nghiệp, tập đoàn sản xuất, do hình thức quản lý không còn phù hợp, tiến hành cấp giấy chứng nhận tạm thời quyền sử dụng đất cho nông dân, đến nay đã cơ bản hoàn tất.

4) Về khoa học công nghệ và môi trường:

Trong những năm gần đây, nhất là từ khi có Nghị quyết 26/NQTW của Bộ chính trị chủ trương về đổi mới khoa học công nghệ, Đảng bộ Quận đã nhận thức sâu hơn về tầm quan trọng của việc phát triển khoa học-công nghệ đối với nền kinh tế, đã chỉ đạo các ngành đào tạo cán bộ khoa học-kỹ thuật có khả năng chuyên môn để tiếp thu các kỹ thuật tiên tiến của thế giới, bên cạnh đó mạnh dạn cải tiến trang bị các thiết bị máy móc hiện đại nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm.

Các ngành kinh tế-kỹ thuật chủ yếu của Quận như: dệt, may, chế biến lương thực thực phẩm, nhựa, cơ khí đã được các doanh nghiệp đầu tư cải tiến thiết bị khá tốt. Hàng chục máy nhuộm cao áp và máy định hình cho ngành dệt đã nâng được chất lượng sản phẩm phần nào cạnh tranh được với hàng ngoại, ngành nhựa đã có hàng trăm máy ép nhựa của Nhật, Đài Loan thay thế cho các máy móc cũ, đã làm cho sản phẩm nhựa của Quận thay thế được hàng ngoại.

Trong điều kiện sản xuất nhỏ xen kẽ trong dân cư, rất ít khu vực dành riêng cho sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, Quận luôn quan tâm đến vấn đề vệ sinh môi trường, đã hạn chế phát triển các ngành ô nhiễm như: nhuộm, nước đá, cán rửa cao su… từ đó phần nào giảm bớt áp lực về ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên tình trạng sản xuất gây ô nhiễm chưa được khắc phục căn cơ, một số khu vực gây ô nhiễm nặng vẫn chưa được xử lý: thuộc da (P.9), cao su-đúc kim loại (P.9, 10, 19).

Hàng năm đã xử lý từ 40-50 trường hợp vi phạm các quy định về vệ sinh môi trường trong Quận, đình chỉ kinh doanh sản xuất nhiều cơ sở gây ô nhiễm môi trường nhất là các ngành nhuộm, cao su, nước đá, lương thực thực phẩm…

5) Về xây dựng cơ bản:

Phương hướng đầu tư xây dựng- sửa chữa các năm qua của Quận đã có nhiều đổi mới, với chủ trương tích cực khai thác các nguồn thu tập trung đầu tư cho các công trình trọng tâm về kinh tế, văn hóa, xã hội, cơ sở hạ tầng và nhà ở với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.

Trong 5 năm qua, Quận đã đầu tư trên 368,227 tỷ đồng tăng bình quân mỗi năm 50,61% trong đó:

+ Nguồn vốn ngân sách Quận là: 56,146 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân 66,45%.

+ Nguồn vốn ngân sách Thành phố: 72,928 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân trong những năm 1992-1995 so với năm 1991 là 214,5%.

+ Nguồn vốn khác: 239,153 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân 30,53%.

Đã mở mới được trên 105.778m² đường (đường 27/3, đường Nguyễn Thái Bình, đường Gò Dầu, Đồng Đen…) và nâng cấp mở rộng 677.539m² đường (như: Cầu Xéo, Trường Sơn, Huỳnh Văn Chính, Hoà Bình…), lắp đặt mới 77.006m đường cống, tráng Ciment 145.480m² vỉa hè, xây dựng và sửa chữa trên 60 cây cầu lớn nhỏ.

Xây dựng mới 397 phòng học, sửa chữa và nâng cấp 214 phòng học,đầu tư trên 04 tỷ đồng để mua sắm các thiết bị phục vụ việc giảng dạy (phòng thí nghiệm, vi tính, học cụ...). Xây dựng mới 02 phòng khám (y học dân tộc, trạm y tế phường 18), sửa chữa và nâng cấp các phòng khám khu vực và 03 trạm y tế các phường 03, 08, 15, đầu tư 1,145 tỷ đồng trang bị các dụng cụ y khoa phục vụ cho công tác điều trị (xe cứu thương, máy X quang, máy rung tim, máy siêu âm, máy lader…).

Về chương trình xây dựng nhà ở: đã đưa 07 chung cư vào hoạt động (gồm: Bàu Cát I và II, Thanh Niên, Tân Sơn Nhì I và II, Nhiêu Lộc A, chung cư lô B CMT8), với trên 1500 căn hộ, trong đó có 453 căn trả góp. Trong năm 1995 đã tiếp tục hoàn tất thêm 3 chung cư (Nhiêu Lộc B, Hoàng Hoa Thám II, Vườn Lài) với tổng số là 275 căn, nhằm phần nào đáp ứng nhu cầu nhà ở cấp bách hiện nay.

Khu công nghiệp tập trung P.15- P16 đã hoàn tất thủ tục, đang huy động vốn để thực hiện. Đây sẽ là công trình lớn để phát triển tiềm năng kinh tế trong kế hoạch 5 năm và cũng là nơi giải quyết lao động trong Quận.

Nhìn chung các công trình được thực hiện đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của Tân Bình. Những đường phố rộng rãi, sạch đẹp, tình trạng ngập úng vào mùa mưa đã giãm bớt một phần, nhiều nghĩa trang cũ đã được thay thế bởi các khu chung cư hoạt công viên văn hoá, các ốc đảo Lê Văn Sỹ, Lý Thường Kiệt, Cộng Hoà, đường Trường Sơn, kênh đôi…được trồng cây xanh góp phần làm tăng vẻ khang trang thoáng đẹp của Quận.

6) Về tài chính thuế:

Trong thời gian qua Quận đã điều hành và quản lý kha ùtốt các nguồn thu, cố gắng không để thất thu nhất là khu vực kinh tế tư nhân, đưa thu phí và lệ phí, sử dụng biên lai thu của ngành thuế vào ngân sách từ 1993. Tốc độ thu bình quân mỗi năm tăng 64,8%. Về chi đã thực hiện khá tốt chủ trương tiết kiệm, tính toán chặt chẽ các khoản chi, đảm bảo quản lý tốt các nguồn vốn xây dựng cơ bản-sưả chữa, tốc độ chi bình quân mỗi năm tăng 51,74%. Ngân sách Quận đã đảm bảo được yêu cầu chi thường xuyên và bước đầu hỗ trợ đầu tư cho các đơn vị sản xuất kinh doanh với tổng kinh phí đầu tư 51,35 tỷ đồng, bình quân tăng mỗi năm 72%.

Những tồn tại trong lĩnh vực kinh tế:

1/ Sản xuất kinh doanh tuy có phát triển nhưng chưa thật vững chắc; các điều kiện phục vụ sản xuất kinh doanh chưa được đầu tư thích đáng; máy móc- thiết bị- công nghệ, hầu hết còn lạc hậu, cũ kỹ; thị trường chưa thật ổn định; hầu hết các đơn vị quốc doanh đều thiếu vốn hoạt động.

2/Nền kinh tế thị trường đã tạo ra môi trường kinh doanh sôi động, đồng thời cũng bộc lộ một số mặt kém lành mạnh trong quá trình cạnh tranh, dẫn đến tình trạng: sản xuất hàng hoá kém chất lượng, kinh doanh hàng gian, hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, vi phạm các quy định về vệ sinh môi trường và an toàn lao động… còn xảy ra khá phổ biến, các ngành cũng đã tích cực kiểm tra ngăn chặn nhưng chưa đạt yêu cầu đặt ra.

3/ Công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế, tuy đã có rấtnhiều cố gắng song chưa theo kịp với tình hình ngày càng diễn biến đa dạng và phức tạp; việc triển khai thực hiện các đề án quy hoạch phát triển trên địa bàn chưa được chặt chẽ và đồng bộ, các thành phần kinh tế phát triển phần lớn còn mang tính tự phát chưa tuân thủ theo quy hoạch chung.

4/ Cơ sở hạ tầng tuy có tập trung đầu tư, nhưng thiếu đồng bộ nên chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, giao thông, cấp thoát nước, cơ sở y tế, trường học một số nơi còn tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Việc phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các phường thiếu công bằng và hợp lý nhất là các phường ven.

5/ Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xây dựng nhà đất và đô thị còn nhiều mặt hạn chế, do đặc điểm là Quận ven đang trong quá trình đô thị hoá nên tốc độ xây dựng nhà ở của nhân dân tăng nhanh, trong khi đóthủ tục cấp phép xây dựng nhà quá rườm rà, phức tạp, kéo dài chậm cải tiến, mặt khác lực lượng quản lý, kiểm tra của Quận lại thiếu và yếu, nên trật tự đô thị nhìn chung còn kém, tình trạng lấn chiếm, xây dựng bất hợp pháp, không chấp hành quy hoạch ngày càng phổ biến trên địa bàn Quận, chưa có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Việc quản lý, sử dụng nguồn vốn từ quỹ đất thiếu chặt chẽ gây lãng phí, thất thoát, một số công trình trọng điểm chưa được tập trung vốn, chưa tuân thủ các quy định pháp lý, dẫn đến thi công kéo dài và gây lãng phí lớn.

6/ Nguồn thu ngân sách hàng năm tăng khá, nhưng tình trạng thất thu thuế vẫn còn, tỷ lệ điều tiết cho ngân sách Quận còn quá thấp (năm 1991 tỷ lệ điều tiết chung cho ngân sách Quận là 55%, năm 1995 chỉ còn 26,6%) chỉ đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên, không đáp ứng yêu cầu duy tu sửa chữa, bảo dưỡng và phát triển cơ sở hạ tầng, cũng như hỗ trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp Nhà nước và các khoản chi cần thiết khác.

II. TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA-XÃ HỘI:

Cùng với những chuyển biến lớn về kinh tế và phát triển đô thị, 5 năm qua lĩnh vực văn hóa- xã hội cũng đạt được một số kết quả, góp phần ổn định xã hội, làm cho nhân dân yên tâm làm ăn, sinh sống, tin tưởng vào Đảng, vào tương lai của đất nước.

1) Năm năm đã giải quyết được gần 30.000 lao động có việc làm, trong đó có hơn 1.200 là bộ đội xuất ngũ, thanh niên xung phong, dạy nghề cho 11.904 người và cho vay gần 8 tỷ đồng để người lao động có điều kiện sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt phong trào xoá đói giảm nghèo, một việc làm thiết thực, giàu ý nghĩa xã hội, đã được triển khai rộng, thu hút nguồn kinh phí 2 tỷ đồng, cho gần 2.000 lượt hộ vay vốn. Từ đó đã xoá được hộ đói, giảm hộ nghèo, thể hiện tính ưu việt của xã hội ta.

Công tác chăm lo các đối tượng chính sách được quan tâm thường xuyên với nghĩa tình và trách nhiệm cao của toàn Đảng bộ. Chính bằng tấm lòng trân trọng, làm tốt công tác giáo dục truyền thống, thực hiện đền ơn đáp nghĩa khá chu đáo, Đảng bộ đã xây dựng được mối quan hệ gắn bó giữa các thế hệ cán bộ. Đoàn kết, động viên được sức mạnh tiềm tàng to lớn của lớp cha anh đi trước đóng góp trí tuệ, công sức quý báu cho sự nghiệp chung và công việc hàng ngày ở quận, ở phường, ở từng tổ dân phố, cơ quan và đơn vị.

Trong 5 nămqua, đã xây dựng được 165 căn nhà tình nghĩa (vượt 2,5% so với kế hoạch), tặng 500 sổ tiết kiệm (mỗi sổ 1.000.000đ) cho các gia đình chính sách. Lập quỹ bảo trợ các đối tượng chính sách được 700 triệu đồng, quỹ trợ táng 200 triệu. Đặc biệt, 36 bà mẹ còn sống trong số 104 bà mẹ được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” đã được các đơn vị sản xuất, kinh doanh trong Quận nhận phụng dưỡng suốt đời.

2) Về giáo dục đào tạo: trước tình hình dân số ngày càng tăng, nhu cầu dân trí ngày càng phát triển, để đáp ứng đủ trường lớp và nâng cao chất lượng học tập đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền đoàn thể và nhân dân trong Quận phải nỗ lực rất lớn. Kết quả tỷ lệ tốt nghiệp cấp I là 99,9% (tăng 2,7% năm 95/91), cấp II 98,5% (tăng 13,67% năm 95/91), bổ túc văn hóa cấp II: 97% (tăng 3% năm 95/91), bổ túc văn hóa cấp III: 76,7%. Các năm qua đã tiến hành công tác xoá mù chữ cho 1.799 người, phổ cập tiểu học cho 4.063 người, năm 1994-1995. Quận được thành phố công nhận hoàn thành công tác chống mù chữ và phổ cập tiểu học, hiện giáo dục tiếp tục triển khaiphổ cập cấp II theo từng phường. Việc mở rộng các trường bán công, bán trú tiểu học được tiến hành từng bước có tham khảo rút kinh nghiệm từ các đơn vị đi trước. Thực hịên chủ trương “đa dạng hóa các loại hình trường lớp” là điểm nổi bật của ngành giáo dục Tân Bình trong năm năm qua.

Số học sinh các cấp đến trường tăng bình quân mỗi năm 5,5% (trên 17.000 em trong 5 năm). Việc phát triển và nâng cấp mạng lưới các trường mẫu giáo, nhà trẻ đã thu hút khoảng 62,7% các cháu dưới 5 tuổi đến các lớp nhà trẻ, mẫu giáo.

Trung tâm dạynghề: đã đầu tư hoàn chỉnh các ngành may, điện tử, điện nhà, sửa chữa xe gắn máy, vi tính… 5 năm qua đã thu hút được gần 9.000 học viên theo học, trong đó tỷ lệ tốt nghiệp đạt 68,2%.

3) Ngành y tế đã thực hiện tốt chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phòng chống dịch bệnh, tổ chức mạng lưới khám, trị bệnh đến tận cơ sở. (Năm 1995 tăng gấp đôi số giường bệnh so với năm 1990, đội ngũ bác sĩ tăng 23%, số lượt người khám và chữa bệnh tăng 12%). Quận đã đầu tư xây dựng Trung tâm sức khoẻ, trang bị nhiều phương tiện hiện đại. Việc triển khai chế độ bảo hiểm y tế, lập phòng khám miễn phí cho người nghèo, phát triển các nhà thuốc đều khắp và cho mở phòng mạch tư dưới sự quản lý của Nhà nước đã đáp ứng được nhu cầu khám và chữa bệnh của người dân.

Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên bình quân giảm hàng năm từ 0,02 đến 0,06%.

4) Hoạt động văn hoá thông tin và thể dục thể thao những năm gần đây phát triển khá mạnh, thu hút đông đảo các tầng lớp quần chúng tham gia. Đã xây dựng được nhiều đội, nhóm văn nghệ quần chúng. Tổ chức tốt phong trào thể dục thể thao, rèn luyện sức khoẻ trong các giới ở cơ sở, nhất là trong khu vực trường học, thanh thiếu niên và người lớn tuổi. Đặc biệt đã kiên trì đầu tư xây dựng, khuyến khích các loại hìnhvăn hoá văn nghệ, thể dục thể thao mang tính truyền thống của dân tộc, đấu tranh tích cực với các vi phạm, góp phần vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, con người Việt Nam.

Đã thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền, giáo dục truyền thống, xây dựng nếp sống văn minh- gia đình văn hóa trong toàn Quận, bồi dưỡng năng khiếu cả trong phong trào văn nghệ quần chúng và thể dục thể thao, tạo nên thế mạnh ở nhiều bộ môn, đạt thành tích cao trong các cuộc thi tài ở thành phố, trong cả nước và ở một số giải quốc tế.

Tuy vậy, hoạt động văn hóa- xã hội vẫn không theo kịp đà phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội, còn bị động, lúng túng nhiều trong bước chuyển đổi, còn thiếu nhiều điều kiện cơ bản về cơ sở vật chất, phương tiện, đội ngũ, kinh phí và cả cơ chế, trong khi nỗ lực chủ quan còn hạn chế, thể hiện ở tính chủ động, sáng tạo chưa cao, chưa thật sự khai thác hết tiềm năng trong nhân dân, trong các tổ chức xã hội. Nhiều vấn đề chưa giải quyết một cách tích cực và có hiệu quả. Đó là vấn đề đạo đức, lối sống bị xuống cấp. Tệ nạn xã hội còn nhiều, làm ô nhiễm môi trường lành mạnh. Tệ sùng bái tiện nghi vật chất, bất chấp đạo lý, đang gặm nhấm dần những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, của con người Việt Nam. Khoảng cách giàu nghèo, sự phân cực trong xã hội cũng là mối quan tâm cần có biện pháp giải quyết.

Lao động và việc làm, tỷ lệ phát triển dân số chưa giảm, trình độ dân trí, ý thức chấp hành kỷ cương, pháp luật, tình trạng ô nhiễm môi trường… đều là những vấn đề lớn mà cho đến nay chúng ta chưa làm tốt, chưa khắc phục một cách có hiệu quả.

III. TRÊN LĨNH VỰC AN NINH QUỐC PHÒNG:

Năm năm qua tình hình an ninh trật tự trên địa bàn Quận diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế theo cơ chế thị trường phát triển mạnh mẽ, trong sự gia tăng mạnh của dân số, của công cuộc đô thị hóa và trong nhịp độ sôi nổi xây dựng nhà cửa, kiến thiết hạ tầng trên toàn Quận… Sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế và mở rộng giao lưu quốc tế, tất yếu đem lại những hệ quả về xã hội, văn hóa, đạo đức… tạo ra nhiều dạng, nhiều mặt phức tạp cho trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch cũng tác động đến tình hình an ninh chính trị, tuy không có tình huống nghiêm trọng nào xảy ra nhưng vẫn có những hoạt động âm ỉ, ngấm ngầm của các phần tử cực đoan.

Tình hình trật tự an toàn xã hội trong 5 năm qua diễn ra ngày càng phức tạp: số vụ phạm pháp hình sự hàng năm tăng bình quân 10%, các dạng tội phạm đều tăng, nhất là các loại án cướp, trộm, gây thương tích… Tình trạng vi phạm hành chính về trật tự lòng lề đường, an toàn giao thông, quy hoạch xây dựng, vệ sinh đô thị cũng gia tăng, 45% đối tượng gây án là thanh thiếu niên phạm tội lần đầu. Các dạng tệ nạn xã hội có chiều hướng phát triển, tình hình tội phạm và trật tự xã hội về đêm thật sự phức tạp, các khu vực tập trung nhà hàng khách sạn đang là các tụ điểm hình sự lớn của Quận.

Hoạt động buôn lậu tuy không táo bạo ồ ạt như trước nhưng vẫn chưa giảm và với thủ đoạn tinh vi hơn, sản xuất hàng giả và kinh doanh trái phép tăng theo nhịp gia tăng của sản xuất, thương mại của các doanh nghiệp tư nhân, tình trạng kinh doanh trốn thuế, ẩn lậu thuế khá phổ biến trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.

Trước tình hình trên, Ban chấp hành Đảng bộ quận đã có các Nghị quyết, kế hoạch tập trung chỉ đạo các công tác trọng tâm cơ bản hoặc để giải quyết các vấn đề nổi lên, đồng thời đề cao cảnh giác, triển khai thực hiện nghiêm túc kế hoạch phòng thủ, tổ chức diễn tập, bổ sung phương án hàng năm, vận dụng vào thực tế giải quyết ổn thoả nhiều vụ khiếu kiện tập thể trong quá trình quy hoạch xây dựng. Đã chú trọng phát triển phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc trên diện rộng và có một bước đi vào chiều sâu ở từng phường, từng khu phố trên cơ sở phát huy vai trò của cấp ủy, Đảng bộ, Chi bộ cơ sở. Đã tập trung củng cố tổ dân phố, xây dựng tổ dân phố tự quản, xây dựng lực lượng chính trị cơ sở ngày càng lớn mạnh, đặc biệt là lực lượng dân quân tự vệ và quân dự bị động viên được tổ chức và huấn luyện theo quy định. Hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu tuyển thanh niên nhập ngũ (trong 5 năm đã có 2.776/ 2.773 thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự).

Trong quá trình chỉ đạo công tác đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, Quận ủy đã tập trung củng cố nâng cao hiệu lực quản lý của UBND, tổ chức tốt sự phối hợp của các ngành, đoàn thể ở cấp quận và phường thông qua hoạt động của khối nội chính và các tiểu ban của Ban chỉ huy thống nhất, qua xây dựng và thực hiện các Nghị quyết liên tịch Công an-Quân sự-Cựu chiến binh, Công an- Mặt trận… Hoạt động của Ban chỉ huy thống nhất 2 cấp suốt 5 năm qua được duy trì thường xuyên. Nhờ vậy, mặc dù diễn biến kinh tế-xã hội có nhiều phức tạp, nhưng do phát huy được sức mạnh tổng hợp, liên tục tổ chức tấn công, phòng ngừa tội phạm, kiên quyết lập lại trật tự xã hội, nên hạn chế mức tăng thêm số lượng phạm pháp, duy trì cơ bản trật tự lòng lề đường, trật tự trong xây dựng, bảo đảm không để xảy ra cháy nổ lớn, chuyển hóa được phần lớn các tụ điểm phức tạp về trật tự an toàn xã hội, phá nhiều băng nhóm hình sự lớn và khám phá được phần lớn các trọng án trên địa bàn, tạo môi trường thuận lợi cho Đảng bộ và nhân dân trong Quận làm nên nhiều thành tựu mới trên lĩnh vực phát triển kinh tế- xã hội.

Đã có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các ngành trong khối nội chính trong việc ngăn ngừa, trấn áp tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, kịp thời ngăn chặn các tiêu cực trong nội bộ và ngoài xã hội.

Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những tồn tại, khuyết điểm:

+ Những nghị quyết, chỉ thị về quốc phòng-an ninh chưa được triển khai sâu rộng trong các tổ chức cơ sở Đảng nhất là các đơn vị kinh tế và hành chính sự nghiệp, nhiều cán bộ đảng viên chưa nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, từ đó dễ sa vào tư tưởng hữu khuynh, chủ quan, mất cảnh giác.

+ Ở một số công ty, xí nghiệp quốc doanh chưa gắn lợi ích kinh tế với an ninh quốc gia. Đã có một số sơ hở trong giao tiếp, trong liên doanh liên kết với người nước ngoài cũng như trong quan hệ làm ăn với tư nhân bên ngoài.

+ Tình hình tham ô, lạm dụng chiếm đoạt của công đã xảy ra 1 số vụ nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến uy tín của Quận.

+ Công tác bảo vệ nội bộ chưa được tiến hành đúng mức, việc triển khai pháp lệnh bảo vệ bí mật quốc gia trong một số cơ quan đơn vịchưa được tiến hành tốt.

+ Đấu tranh chống văn hóa đồi trụy chưa đạt hiệu quả cao, tình trạng kinh doanh, truyền bá băng hình đồi trụy và bạo lực khá phổ biến gây tác hại không nhỏ trong tư tưởng và lối sống của một bộ phận dân cư, đặc biệt là lứa tuổi thanh, thiếu niên.

+ Hoạt động tôn giáo còn biểu hiện nhiều phức tạp, vi phạm hành chính, pháp luật chưa được ngăn chặn và giải quyết kịp thời.

Nguyên nhân của tình trạng trên là do:

- Nhận thức về tình hình nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong một số ngành, đơn vị sản xuất kinh doanh chưa đúng mức, chưa thể hiện rõ sự quan tâm đồng bộ hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng là “vừa xây dựng, vừa bảo vệ”. Trong lãnh đạo công tác an ninh trật tự cũng chưa có sự quan tâm đồng bộ giữa hai nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

- Vai trò Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với công tác an ninh ở một số phường, một số doanh nghiệp quốc doanh chưa thể hiện rõ. Cán bộ lãnh đạo chưa đề cao trách nhiệm trong công tác bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa.

- Hoạt động ở một số đoàn thể ở cơ sở gần đây có nhiều biểu hiện sa sút, có nhiều khó khăn và thiếu sót trong công tác tập hợp quần chúng, trong khi các hội đoàn tôn giáo phát triển mạnh.

- Lực lượng trong khối nội chính tuy có nhiều nỗ lực lớn, có những tiến bộ nhất định trong phương pháp công tác, trình độ nghiệp vụ và cả trang bị, phương tiện nhưng vẫn còn có khó khăn so với yêu cầu nhiệm vụ.

IV. CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG:

Đảng bộ luôn nhận thức đúng về tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng, do đó đã tạo được sự chuyển biến khá đồng bộ trong Đảng bộ, các cơ quan chính quyền, các đoàn thể và mặt trận về nhận thức tư tưởng cũng như về phối hợp thống nhất hành động trong việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Đảng bộ bảo đảm chế độ làm việc định kỳ giữa thường trực cấp ủy với Đảng đoàn các đoàn thể và Uûy ban mặt trận để kịp thời chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi để đoàn thể và mặt trận hoạt động, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất về công tác dân vận thông qua các nghị quyết, các thông tri, chỉ thị chuyên đề.

Mặt trận và các đoàn thể đã có nhiều nỗ lực vươn lên tự khẳng định vai trò vị trí của mình, góp phần tích cực vào thành quả chung của Đảng bộ. Phong trào quần chúng tiếp tục được giữ vững. Thành quả nổi bật nhất là các hoạt động phát huy và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong các tầng lớp nhân dân thông qua các cuộc tiếp xúc giữa đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp với cử tri, lấy ý kiến nhân dân về các dự thảo luật v.v… thực hiện các chủ trương lớn và tổ chức tốt các hoạt động xã hội từ thiện như: xoá đói giảm nghèo, nhà tình nghĩa cho gia đình chính sách và gia đình nghèo, học bổng cho học sinh giỏi và học sinh nghèo hiếu học, lớp học tình thương, khám và điều trị bệnh miễn phí cho các đối tượng khó khăn, đỡ đầu thương binh nặng, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng v.v…góp phần vận động nhân dân thực hiện chương trình nâng cấp cơ sở vật chất hạ tầng như đường sá, cống rãnh, điện nước v.v…theo phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, phong trào quần chúng giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, thực hiện nền quốc phòng toàn dân v.v… được đông đảo quần chúng đồng tình ủng hộ, bước đầu tạo thành phong trào quần chúng học tập và làm theo gương “Người tốt việc tốt”, “điển hình tiên tiến” một cách sinh động, đa dạng và phong phú.

Do tích cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động theo hướng chăm lo thiết thực đến đời sống vật chất và tinh thần của quần chúng, mặt trận và các đoàn thể đã tổ chức được nhiều loại hình tập hợp quần chúng theo hướng đa dạng hóa, phù hợp ngành nghề, sở thích, tập hợp thêm lực lượng, phát triển nhiều đoàn viên, hội viên, tạo được sự gắn bó hơn giữa đoàn viên, hội viên với các tổ chức đoàn thể, mở rộng được mặt trận đại đoàn kết toàn dân… góp phần tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cho quần chúng, nâng cao giác ngộ chính trị của họ, là chỗ dựa cho Đảng bộ và chính quyền trong việc nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Đa số các đồng chí cựu chiến binh và hưu trí tuy tuổi cao, sức yếu nhưng vẫn đem hết sức mình tham gia công tác địa phương, sâu sát quần chúng, làm đẹp thêm hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ, người đảng viên trong bà con khu phố, tổ dân phố.

Tuy nhiên, những kết quả đạt được nêu trên vẫn chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ về công tác dân vận mà nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ VI đã đề ra. Một số cấp ủy và cơ quan chính quyền chưa nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác này, chưa chuyển mạnh về hành động, thiếu chương trình, kế hoạnh cụ thể đểà gắn nhiệm vụ công tác dân vận với nhiệm vụ chính trị của đơn vị, hoặc có kế hoạch nhưng thiếu kiểm tra đến nơi đến chốn việc tổ chức thực hiện. Phương thức hoạt động của mặt trận và các đoàn thể còn nặng về bề nổi, chưa chuyển mạnh chiều sâu, chưa tập trung đúng mức cho cơ sở. Hệ thống mặt trận và các đoàn thể ở một số khu phố, tổ dân phố còn yếu kém kéo dài chậm được củng cố do thiếu cán bộ phụ trách hoặc có cán bộ nhưng năng lực yếu. Các điều kiện bảo đảm cho hoạt động phong trào như phương tiện, kinh phí… ở cấp cơ sở rất khó khăn, hoạt động chủ yếu dựa vào sự ủng hộ của quần chúng; thiếu các chế độ, chính sách để động viên cán bộ phong trào không chuyên trách. Phần lớn cán bộ làm công tác đoàn thể, mặt trận ở cơ sở chưa yên tâm công tác.

V. XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN:

Quán triệt các quan điểm của Đảng về xây dựng chính quyền các cấp. Trong những năm qua Hội đồng nhân dân, Uûy ban nhân dân của Quận và phường liên tục được củng cố theo hướng tinh gọn, chất lượng và hiệu quả. Nhiều thủ tục hành chánh được cải tiến đã giảm được nhiều phiền hà cho nhân dân. Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức đã được quan tâm, tiến tới thực hiện các chế độ công vụ và tiêu chuẩn hóa các chức danh cán bộ, công chức. Phần lớn cán bộ chủ chốt của Quận và cơ sở đều đảm bảo được phẩm chất chính trị, đạo đức và có năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao. Trụ sở các cơ quan Hội đồng nhân dân, Uûy ban nhân dân và các phòng chuyên môn được chỉnh trang sửa chữa khang trang. Các trang thiết bị về thông tin, quản lý được tăng cường theo hướng hiện đại, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội- an ninh quốc phòng. Hệ thống khu phố, tổ dân phố từng bước được củng cố đã nâng cao chất lượng hoạt động và phát huy vai trò tự quản của mình.

Tuy nhiên còn hiện tượng phiền hà đối với dân do thủ tục hành chính chồng chéo nhiều tầng nấc, việc giải quyết đơn từ khiếu nại của công dân vẫn còn trường hợp kéo dài do liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Một số trường hợp tiêu cực trong nội bộ chưa được xử lý kiên quyết, nghiêm minh. Việc quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực chưa chặt chẽ, thống nhất. Hoạt động của Hội đồng nhân dân của quận và phường vẫn còn nặng nề về hình thức, chưa thực sự là cơ quan quyền lực ở địa phương.

VI. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG:

1/ Về công tác chính trị tư tưởng:

Trong công tác chính trị tư tưởng, Đảng bộ đã tập trung vào việc giáo dục, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên lòng tin vào lý tưởng, mục tiêu của Đảng, kiên trì đổi mới theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Kiên quyết đấu tranh và loại trừ quan điểm, tư tưởng “đa nguyên – đa đảng”. Làm rõ từng bước âm mưu thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch để nâng cao cảnh giác và tích cực ngăn chặn. Đã tăng cường bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống trong sáng lành mạnh cho cán bộ, đảng viên. Công tác thông tin thời sự được quan tâm, thực hiện theo hướng đa dạng hoá có định hướng. Tăng cường giáo dục truyền thống cách mạng, khẳng định thắng lợi đã đạt được để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm. Luôn xác định bản chất cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác Lênin – tư tưởng Hồ Chí Minh trong các nội dung giáo dục đối với cán bộ, đảng viên, xác định phương hướng tư tưởng của giai cấp công nhân để có nhận thức và hành động đúng đối với các nhiệm vụ. Công tác tư tưởng đã tác động lớn đến việc tăng cường đoàn kết trong đảng và giữ mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân. Các đoàn thể quần chúng cũng đã chủ động đầu tư nhiều cho công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tạo sự nhất trí, gắn bó trong hội viên, đoàn viên, tạo được nhiều phong trào quần chúng sôi nổi rộng rãi.

Tuy nhiên tình hình tư tưởng và công tác tư tưởng còn diễn biến khá phức tạp. Một bộ phận quần chúng và cán bộ, đảng viên vẫn còn đang xen các tâm trạng phấn phởi và hoài nghi. Tin tưởng phấn khởi vào những thành tích đã đạt được về phát triển kinh tế, chính trị ổn định, đời sống có phần được cải thiện… Hoài nghi vì có nhiều khó khăn xuất hiện: lạm phát có nguy cơ trở lại; quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu kém; tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường khá lớn, đặc biệt là lĩnh vực văn hoá – xã hội; sự phân hoá giàu nghèo khá rõ kể cả trong đội ngũ cán bộ, đảng viên… Đây là những vấn đề lớn của công tác tư tưởng đang đặt ra cho các cấp ủy và toàn đảng bộ cần quan tâm.

2/ Công tác tổ chức - cán bộ:

Trong nhiệm kỳ qua, toàn Đảng bộ tập trung thực hiện tốt việc kiện toàn, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng và sàng lọc đội ngũ đảng viên.

Thực hiện Nghị quyết TW III, có 92,41% đảng viên tham gia kiểm điểm phân loại, trong đó đảng viên được phân loại 1 đạt 30,14%, đảng viên được phân loại 2 đạt 67,42%, đảng viên loại 3 là 1,49%, đảng viên loại 4 là 0,64%. Sau khi thực hiện Nghị quyết TW III, các đảng bộ, chi bộ cơ sở đã đánh giá đúng thực chất hiện trạng của đơn vị mình và nắm rõ hơn về chất lượng đảng viên, từ đó xây dựng được quy chế làm việc và chương trình hành động thực hiện Nghị quyết. Vai trò lãnh đạo của các cơ sở đảng được nâng lên, đã khắc phục được một số tình trạng mất đoàn kết nội bộ, giải quyết được các tình trạng vi phạm kỷ luật của một số cán bộ đảng viên.

Hàng năm các tổ chức cơ sở đảng đều được phân loại theo tiêu chuẩn hướng dẫn của Trung ương và Thành ủy. Số cơ sở đảng vững mạnh trong sạch hàng năm được phân loại không tăng nhưng chất lượng có nâng lên vì yêu cầu, tiêu chuẩn mỗi năm đều cao hơn: năm 1991 phân loại 78 cơ sở đảng, trong đó đơn vị vững mạnh đạt 47,4%, đơn vị khá đạt 39,8%, đơn vị yếu là 12,8%; năm 1995 phân loại 84 cơ sở, trong đó đơn vị vững mạnh đạt 28,57%, đơn vị khá đạt 46,42%, đơn vị yếu là 2,38%. Hàng năm Đảng bộ đều tiến hành kiểm điểm, đánh giá phân loại các bộ, kịp thời bổ sung, điều chỉnh, thay đổi để đội ngũ cán bộ của Quận và cơ sở phát huy được vai trò của mình.

Đối với cán bộ do Thành ủy quản lý, quận đã tham khảo bằng phiếu tín nhiệm, đề xuất trong 13 chức danh được 38 đ/c. Đối với cơ sở, đã có 72,94% đơn vị thực hiện quy hoạch cán bộ, chọn 367 lượt cán bộ đưa vào danh sách cán bộ dự bị, kế cận. Đây là những cán bộ có triển vọng đượcđào tạo bồi dưỡng toàn diện, có khả năng vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.

Trong nhiệm kỳ qua đã có trên 300 lượt cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng các lớp về nghiệp vụ, chính trị, ngoại ngữ… để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Công tác cán bộ nữ cũng được đảng bộ thường xuyên quan tâm, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để chị em học tập vươn lên, đồng thời đã lãnh đạo đảm bảo để số cán bộ nữ tham gia với tỷ lệ hợp lý vào các cơ quan Hội đồng nhân dân, UBND, các cấp ủy ở quận và cơ sở. Nhiều chị em đã phát huy tốt vai trò trách nhiệm của mình.

Công tác phát triển đảng viên mới đã có nhiều chuyển biến. Đảng bộ đã tập trung cao cho việc tạo nguồn, đào tạo bồi dưỡng, kịp thời tháo gỡ các khó khăn vướng mắc cho các đối tượng. Trong nhiệm kỳ qua đã phát triển được 353 đảng viên mới, đảm bảo được yêu cầu về chất lượng và số lượng, trong đó đảng viên nữ chiếm 25,75%, đảng viên trong lứa tuổi thanh niên chiếm tỷ lệ 48,5%; trình độ văn hoá cấp III và Đại học đạt 92%. Trong nhiệm kỳ qua công tác tổ chức cán bộ đã có nhiều tiến bộ, thực hiện đúng theo quan điểm, chủ trương và các Nghị quyết của Đảng, tích cực góp phần vào công tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên, về công tác tổ chức bộ máy cần được đầu tư nghiên cứu nhiều hơn để tránh việc xáo trộn nhiều lần không cần thiết. Công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán bộ cần được tổ chức theo quy trình chặt chẽ, khoa học hơn. Công tác quản lý đảng viên phải được xác định bằng quy chế để ngăn chặn tiêu cực và để cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò trách nhiệm của mình. Việc bố trí sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ cần chặt chẽ hơn.

Cá biệt có tổ chức cơ sở đảng còn hiện tượng vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt, có trường hợp cấp dưới không phục tùng cấp trên, đảng viên không chấp hành nghị quyết, sinh hoạt đảng không có nội dung, không đúng thời gian và không ra được nghị quyết… Đây là những vấn đề đảng bộ cần quan tâm lãnh đạo.

3/ Công tác kiểm tra đảng:

Trong những năm qua, công tác kiểm tra đã có nhiều chuyển biến trong nhận thức và thực hiện của các cấp ủy từ quận đến cơ sở. Nội dung của công tác kiểm tra tập trung vào việc: kiểm tra chấp hành Điều lệ Đảng, thực hiện nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt; thực hiện quy chế làm việc và giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan tới đảng viên. Công tác kiểm tra đã tập trung vào nội dung giáo dục, ngăn ngừa là chính, kết hợp với việc phát hiện xử lý những đảng viên vi phạm kỷ luật. Qua kiểm tra đã giúp cho cơ sở Đảng thực hiện tốt hơn về chế độ và nội dung sinh hoạt, về quản lý đảng viên và ngăn ngừa các tiêu cực trong nội bộ.

Trong nhiệm kỳ đã xử lý 294 cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, trong đó xoá tên 166 trường hợp, khai trừ khỏi đảng 32 người, cách chức 6 và cảnh cáo 47 trường hợp.

Công tác kiểm tra đảng ở cơ sở còn nhiều hạn chế do cán bộ làm công tác kiểm tra thường xuyên thay đổi sau mỗi kỳ đại hội. Các biện pháp chủ động của Uûy ban kiểm tra các cấp để ngăn ngừa cán bộ, đảng viên vi phạm còn lúng túng. Việc kiểm tra đảng viên và cấp ủy viên cùng cấp chấp hành nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, rèn luyện phẩm chất đạo đức chưa được làm thường xuyên.

VII. NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ – MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

Đánh giá tổng quát trong nhiệm kỳ qua, sự lãnh đạo của Đảng bộ đã nổi lên những vấn đề sau:

1/ Ưu điểm:

Mặc dù có nhiều khó khăn khách quan và chủ quan, toàn Đảng bộ đã phát huy tốt vai trò lãnh đạo của mình, đẩy mạnh được tốc độ phát triển kinh tế với nhịp độ khá cao, các sản phẩm hàng hóa đa dạng hơn, mở rộng được thị trường trong nước và ngoài nước.

Nâng cao được mức hưởng thụ văn hóa cho nhân dân, các vấn đề xã hội đã được các ngành các cấp tập trung giải quyết, đã xoá được hộ đói trong toàn quận. Các gia đình chính sách được quan tâm. Đời sống của nhân dân lao động đã được cải thiện. Không khí dân chủ thể hiện khá rõ cả về kinh tế và chính trị.

Đã giữ vững được ổn định chính trị, đảm bảo được trật tự an toàn xã hội, các địa bàn trọng điểm từng bước được chuyển hóa, gây được lòng tin trong nhân dân.

Nhiều phong trào quần chúng rộng rãi được nhân dân hưởng ứng và đồng tình. Nhiều tổ chức xã hội từ thiện hoạt động đã đi vào lòng người. Đảng bộ đã thực hiện tốt việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đã nâng cao được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng từ Quận đến cơ sở. Phương thức lãnh đạo đã được tăng cường, đảm bảo được vai trò lãnh đạo của mình.

2/ Nguyên nhân ưu điểm:

- Đường lối, các quan điểm đổi mới của Đảng là hợp quy luật, hợp lòng dân, đã được Nhà nước thể chế hoá bằng các văn bản pháp quy đã đi vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình ủng hộ.

- Đảng bộ, Ban chấp hành, Ban thường vụ Quận ủy đã nhất trí cao với các quan điểm, nguyên tắc trong quá trình đổi mới và quyết tâm thực hiện. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, cộng với việc nắm bắt kịp thời các chủ trương, xây dựng các biện pháp cụ thể phù hợp với đặc điểm địa bàn đang đô thị hóa đã dẫn đến nhiều kết quả lãnh đạo của Đảng bộ trong nhiệm kỳ qua.

- Các cơ sở Đảng đã phát huy được vai trò lãnh đạo của mình theo các loại hình phù hợp. Đội ngũ cán bộ đảng viên đã có bước trưởng thành, thêm kinh nghiệm, có bản lĩnh hoạt động trong nền kinh tế thị trường.

- Bên cạnh đó có sự chỉ đạo, kiểm tra chặt chẽ, hỗ trợ tích cực của các cơ quan, các đồng chí lãnh đạo các cơ quan của Trung ương và Thành phố.

3/ Khuyết điểm:

- Trong những năm qua, kinh tế của Quận có bước phát triển nhưng chưa vững chắc còn nhiều nhân tố chưa ổn định. Trình độ công nghệ và thiết bị sản xuất còn lạc hậu, lao động vẫn phổ biến là phổ thông, năng suất lao động thấp. Sản phẩm hàng hóa chưa đủ sức cạnh tranh được với hàng ngoại nhập.

- Việc quy hoạch, sắp xếp các ngành nghề trong khu vực sản xuất kinh doanh trên địa bàn thực hiện chưa đồng bộ, dẫn đến việc quản lý Nhà nước gặp nhiều khó khăn. Kinh tế quốc doanh có bước phát triển nhưng chưa mạnh, hầu hết đều thiếu vốn, thiếu thiết bị công nghệ mới, chưa có thị trường ổn định.

- Về văn hóa - xã hội vẫn còn nhiều lo ngại, quản lý của Nhà nước chưa chặt chẽ, thiếu biện pháp đồng bộ, nặng về xử lý hành chính gây ảnh hưởng chưa tốt trong nhân dân. Việc tăng dân số cơ học với tốc độ nhanh đã gây nhiều hậu quả về xã hội cũng là vấn đề cần quan tâm hiện nay.

- Một số tổ chức quần chúng ở cơ sở chưa phát huy hết vai trò của mình. Còn lúng túng trong nội dung và phương thức hoạt động.

- Về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội vẫn còn diễn biến phức tạp, làm cho người dân chưa yên tâm.

4/ Nguyên nhân khuyết điểm:

- Quận là cấp thực hiện các chủ trương, nghị quyết cấp trên và thực hiện pháp luật của Nhà nước nhưng còn thiếu nhiều văn bản luật và dưới luật, nhiều văn bản pháp quy đã lạc hậu không được sửa đổi, nhiều thủ tục hành chính rườm rà chưa được cải tiến. Trong quá trình chỉ đạo, điều hành của Quận ủy, UBND Quận về phát triển kinh tế- xã hội có lúc chưa chặt chẽ, chưa quán triệt tốt các chủ trương chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước.

- Một số tổ chức cơ sở Đảng còn yếu kém, nội bộ mất đoàn kết, thiếu vai trò lãnh đạo ở cơ sở. Một bộ phận đảng viên mờ nhạt ý tưởng, thiếu ý chí chiến đấu, không gương mẫu, một số ít đảng viên có biểu hiện thoái hóa, biến chất, tham ô hoặc làm trái chủ trương gây thiệt hại tài sản của Nhà nước, giảm lòng tin của quần chúng. Đội ngũ cán bộ còn hụt hẫng, đặc biệt là cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý sản xuất, kinh doanh. Việc tiếp thu, xử lý đối với các ý kiến, phản ánh của đảng viên và quần chúng chưa thật sự kịp thời, nhanh nhạy.

Từ những ưu, khuyết điểm trên. Trong nhiệm kỳ qua, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

- Trước hết vẫn là sự đoàn kết thống nhất trên cơ sở đường lối chủ trương của tòan đảng bộ, từ quận đến cơ sở. Phải kiên trì mục tiêu, đường lối đổi mới của Đảng, nắm vững các quan điểm chủ trương để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thểcủa địa phương.

- Đảng lãnh đạo trong điều kiện hiện nay, mọi sự việc diễn biến rất nhanh và đa dạng, cần phải hết sức nhạy bén và có bản lĩnh, tỉnh táo, tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm, các công việc trọng điểm. Phải dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm với nhân dân và trước cấp trên.

- Phải tăng cường xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là chú trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và các tổ chức quần chúng. Đảm bảo xây dựng cả hệ thống chính trị vững mạnh và trong sạch, đủ sức lãnh đạo và thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương.

- Hết sức coi trọng ý kiến, kinh nghiệm của các đồng chí đảng viên lão thành ở cơ sở. Chú trọng rèn luyện đội ngũ cán bộ đương chức cả phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực và hết sức công tâm, đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện các nhiệm vụ của Đảng.

Trong 5 năm qua, với nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện, Đảng bộ chúng ta đã lãnh đạo thực hiện đạt được một số thành tích nhất định nhưng cũng còn nhiều thiếu sót, khuyết điểm như đã trình bày ở trên. Trong Đảng bộ cần phân tích đánh giá đầy đủ được vai trò lãnh đạo của mình, trên cơ sở đó xây dựng được một nghị quyết sát đúng cho nhiệm kỳ 1996 – 2000.

PHẦN THỨ HAI:

PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ VII

(1996 – 2000)

Những thành tựu đạt được của sự nghiệp đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã tạo ra được những tiền đề thế và lực mới rất quan trọng để đưa đất nước chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hóa- hiện đại hoá, phấn đấu thực hiện mục tiêu: dân giàu- nước mạnh- xã hội công bằng- văn minh.

Trong 5 năm tới, trước những dự báo có rất nhiều thuận lợi và không ít khó khăn. Đảng bộ Quận Tân Bình phấn đấu lãnh đạo thực hiện tốt nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết Đại hội VI của Đảng bộ Thành phố. Lãnh đạo đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế- xây dựng nền văn hóa dân tộc lành mạnh, chăm sóc và phát huy nhân tố con người. Củng cố, phát triển nền quốc phòng toàn dân, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội- chăm lo tốt gia đình chính sách, nâng cao đời sống nhân dân lao động, tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội. Tăng cường xây dựng hệ thống chính trị, xác định đẩy mạnh phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, tăng cường công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.

Trong nhiệm kỳ Đại hội VII, Đảng bộ Quận Tân Bình phấn đấu thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ sau:

I. VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ:

- Xác định cơ cấu kinh tế của Quận là: Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – thương mại – dịch vụ.

- Quy hoạch, sắp xếp lại các khu vực sản xuất kinh doanh trên địa bàn Quận để phát huy được thế mạnh, tiềm năng vốn có, đồng thời đảm bảo cho sự phát triển ổn định lâu dài, không gây ô nhiễm môi trường khu vực và không ảnh hưởng đến quy hoạch tổng thể của Quận và Thành phố.

- Tập trung hoàn thiện, củng cố các doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện tối đa theo quy định của luật pháp để các đơn vị đủ sức tham gia thị trường, hoàn chỉnh về bộ máy quản lý, trang thiết bị kỹ thuật và trình độ tay nghề của công nhân. Mở rộng hình thức liên doanh, liên kết để thu hút vốn, trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến. Kiên quyết không để tồn tại tình trạng tư nhân núp bóng quốc doanh hoạt động trốn thuế. Các đơn vị phải phát huy mọi tiềm năng và nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, chủ động phát triển sản xuất kinh doanh có lãi và tự đầu tư.

- Nghiên cứu tổ chức mô hình kinh tế hợp tác trong một số ngành để tập trung vốn, tay nghề, quy mô sản xuất, quản lý chất lượng, đủ sức cạnh tranh trên thị trường.

- Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật lao động ở khu vực doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài đầu tư.

- Thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước đối với các thành phần kinh tế theo Nghị định 217/CP của Chính phủ, có kế hoạch sắp xếp, quy hoạch và chủ yếu là tăng cường công tác quản lý đối với các đơn vị. Khuyến khích động viên các đơn vị đầu tư chiều sâu, đổi mới quy trình công nghệ, tập trung các ngành chủ lực của Quận: May, nhựa, chế biến lương thực thực phẩm, dệt, cơ khí…

Cụ thể trên các lĩnh vực:

1/ Về công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp:

- Phấn đấu giữ vững tốc độ phát triển về sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp hàng năm tăng từ 16-18%, trong đó khối quốc doanh chiếm tỉ trọng 5-6%, giá trị xuất khẩu chiếm từ 12-15%.

- Khuyết khích sản xuất các sản phẩm có chất lượng tốt, có giá trị xuất khẩu cao thay thế hàng ngoại nhập, đặc biệt là một số ngành: may, nhựa, điện tử, cơ khí, lương thực thực phẩm…

- Phát triển công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo mục tiêu mà nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VII đề ra.

2/ Về thương mại- dịch vụ- du lịch:

- Phương hướng chung cho hoạt động thương mại, dịch vụ được xác định theo hướng phát triển kinh doanh nội, ngoại thương tập trung cho bán buôn, đầu tư cho hàng xuất khẩu và dịch vụ du lịch. Trong 5 năm tới chủ yếu củng cố và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp đã có, liên doanh xây dựng khu cao ốc “Trung tâm Việt Nam KingSway” thành văn phòng giao dịch thương mại quốc tế.

- Quy hoạch sắp xếp mạng lưới thương mại, dịch vụ trên toàn quận theo hướng: xây dựng khu chợ Tân Bình thành trung tâm thương mại của Quận và khu vực dịch vụ du lịch tại P.4.

- Tiếp tục thực hiện quy hoạch phát triển kinh doanh ngành nghề trên từng tuyến đường và khu vực dân cư (chú ý các khu dân cư mới ở các phường 13, 14, 15, 16, 17, 18, 20).

3/ Về khoa học- công nghệ và môi trường:

- Tiếp tục khảo sát nắm chắc thực trạng năng lực sản xuất, xu hướng phát triển của sức sản xuất, trình độ kỹ thuật – công nghệ của các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế kỹ thuật trên địa bàn, để làm tiền đề cho việc đánh giá, phân loại và lựa chọn hướng đầu tư khoa học kỹ thuật và công nghệ mới phù hợp với tình hình phát triển kinh tế tại địa phương.

- Vận động các doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn xây dựng chương trình hoạt động cụ thể, nhằm hiện đại hóa công nghệ sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng hàng hóa, đào tạo cán bộ kỹ thuật và đội ngũ công nhân có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tiếp thu được công nghệ sản xuất tiên tiến của thế giới.

- Thông tin đầy đủ, kịp thời các tiến bộ khoa học kỹ thuật theo chuyên ngành đến từng doanh nghiệp, cần có những chính sách khuyến khích về vật chất và tinh thần xứng đáng đối với những giải pháp công nghệ được nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn sản xuất kinh doanh.

- Hình thành và sớm đưa khu công nghiệp tập trung P.15-16 của Quận vào hoạt động để thu hút công nghệ kỹ thuật cao của nước ngoài và tạo điều kiện kích thích quá trình đổi mới công nghệ trong nước xem đây là điểm tập trung để thực hiện công nghiệp hóa tại quận nhà.

- Từng bước sắp xếp lại các đơn vị sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm môi trường theo hướng: chuyển đổi ngành nghề kinh doanh hoặc chuyển dời ra khỏi khu vực dân cư, kiên quyết xử lý các đơn vị cố tình vi phạm về vệ sinh môi trường.

4/ Về xây dựng cơ bản:

Xây dựng cơ bản phải gắn liền với qui hoạch, đối với các công trình lớn cần tổ chức đấu thầu công khai để chọn lựa đơn vị thi công. Ưu tiên đầu tư các công trình trọng điểm và vùng ven.

Từ nay đến năm 2000 Quận phấn đấu thực hiện các dự án đầu tư trọng điểm sau:

- Tiếp tục thực hiện và hoàn thành công trình xây dựng và cải tạo kênh Nhiêu Lộc- Thị Nghè.

- Đầu tư hoàn chỉnh công trình “trung tâm văn hóa- thể thao”.

- Cải tạo và nâng cấp các con đường giao thông trong toàn quận.

- Triển khai xây dựng khu công nghiệp tập trung P.15-16.

- Xây dựng mới Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị của Quận.

- Phối hợp với thành phố cải tạo hệ thống điện phục vụ sản xuất công nghiệp và sinh hoạt của nhân dân.

- Phấn đấu xây dựng mới 4.000 căn hộ trong đó có 1.500 căn hộ trả góp để giải quyết nhu cầu nhà ở, hình thành một số khu vực dân cư như khu 27/3, P.14-15.

5/ Tài chánh- Thuế:

Tốc độ tăng bình quân ngân sách Nhà nước mỗi năm là 30%, mức độ tăng thu phải phù hợp với mức độ tăng trưởng của nền kinh tế, trong đó thuế vẫn là nguồn thu chủ lực của ngân sách. Do vậy cần phải tập trung thực hiện tốt các biện pháp theo luật định, chống thất thu và đảm bảo chính sách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.

Tốc độ tăng thu ngân sách của Quận từ 12-14%, thực hiện triệt để chính sách tiết kiệm chi trên cơ sở định mức chi đã được duyệt, quản lý chặt chẽ các nguồn chi xây dựng cơ bản, đảm bảo chi tiêu tiết kiệm trong xây dựng cơ bản là 7%, tiết kiệm trong chi phí hành chánh là 5%.

II. LĨNH VỰC VĂN HÓA- XÃ HỘI:

Mục tiêu chung là phải phấn đấu tạo ra phát triển cân đối hài hòa giữa kinh tế- văn hóa- xã hội, xây dựng một đời sống tinh thần ngày càng phong phú, sinh động, lành mạnh, vừa tiến tới văn minh, hiện đại, hòa nhập với cộng đồng quốc tế, vừa giữ gìn, phát huy truyền thống đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, của bản lĩnh và bản sắc con người Việt Nam.

Nhiệm vụ cụ thể:

1/ Lao động – thương binh – xã hội:

Hàng năm nỗ lực giải quyết từ 7.000 đến 8.000 lao động có việc làm, tranh thủ mọi khả năng để thực hiện bằng được chỉ tiêu này. Huy động nguồn vốn khoảng 5 tỉ đồng để cho vay, tạo điều kiện cho người lao động kinh doanh sản xuất. Tiếp tục đưa dân đi lập nghiệp, tổ chức dạy nghề cho 2.500 đến 3.000 lượt người hàng năm, lập văn phòng giới thiệu việc làm cho các đối tượng và đào tạo nghề miễn phí cho con em gia đình chính sách.

Phát động rộng hơn phong trào xoá đói giảm nghèo, phấn đấu đến năm 2000 giảm hầu hết hộ nghèo.

Cần tích cực giải quyết các tệ nạn xã hội, từng bước đưa các đối tượng ăn xin, lang thang, bụi đời vào trường giáo dục, nuôi dưỡng, giải quyết cơ bản tệ nạn mại dâm, ma tuý.

Về chăm lo các đối tượng chính sách, một mặt nêu cao trách nhiệm của đảng bộ, chính quyền, thực hiện thật tốt pháp lệnh của Nhà nước trên lĩnh vực này, mặt khác huy động rộng rãi khả năng toàn xã hội thực hiện việc đền ơn đáp nghĩa.

Đến năm 2000, quỹ bảo trợ chính sách phải đạt chỉ tiêu 2,5 tỷ, quỹ trợ táng 500 triệu, cải thiện và nâng cao mức sống cho các gia đình chính sách gặp khó khăn. Cần chú ý làm tốt công tác tổ chức, xây dựng để Hộicựu chiến binh, Ban đại diện hưu trí, Câu lạc bộ những người kháng chiến v.v… phát huy tác dụng, hoạt động có hiệu quả, là mối dây gắn bó giữa đảng với chính quyền và nhân dân; chăm lo tốt quyền lợi vật chất, tinh thần cho hội viên và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình.

2/ Công tác giáo dục – đào tạo:

Với tốc độ phát triển dân số tăng nhanh (bình quân cả tự nhiên và cơ học là 3,2% mỗi năm), số lượng học sinh các cấp học cũng tăng nhanh. Do vậy cần tập trung điều chỉnh, xây dựng cơ sở vật chất, đảm bảo đón nhận 100% học sinh độ tuổi đi học đều được đến trường. Tiếp tục đa dạng hóa các loại hình trường lớp của ngành mầm non, tiểu học, trung học cơ sở.

Vấn đề chất lượng giáo dục vẫn là mối quan tâm hàng đầu, cần tập trung xây dựng, hoàn thành chống mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học từng năm. Phấn đấu đến năm 1998 hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Nghiên cứu xây dựng phát triển thêm hệ thống trường chuyên, đưa công nghệ tin học vào các trường.

3/ Công tác y tế:

Cần tập trung việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu, xây dựng ý thức phòng bệnh triệt để trong nhân dân, giáo dục mọi người hiểu biết về y tế, hiểu biết cách tự rèn luyện, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ.

Phải tăng cường vệ sinh môi trường, tiêm chủng mở rộng, tiêm ngừa phòng bệnh, diệt muỗi, bảo đảm đến năm 2000 thanh toán hoàn toàn bệnh phong, bại liệt ở trẻ em, đẩy lùi bệnh nhiễm khuẩn và ký sinh, bệnh lao, uốn ván…

Phấn đấu giảm tỷ lệ dân số từ 1,38% (năm 1995) xuống còn 1,30% (năm 2000), giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 xuống dưới 10%.

Sắp xếp lại hệ thống y tế của quận, xây dựng mạng lưới y tế đều khắp, mỗi trạm y tế phường đều có từ 1 đến 2 bác sĩ phụ trách.

Chấn chỉnh, cải tiến và thực hiện tốt công tác bảo hiểm y tế, tạo thuận lợi cho nhân dân trị bệnh, chú ý đến các đối tượng chính sách, người nghèo.

Kiên quyết phòng ngừa, dập tắt ngay các dịch bệnh, tích cực phòng chống các bệnh xã hội, tuyên truyền rộng rãi và có biện pháp phòng chống bệnh AIDS.

Đầu tư mở rộng Trung tâm Y tế Quận, trang bị thêm các phương tiện hiện đại để điều trị bệnh có hiệu quả.

4/ Công tác văn hóa thông tin và thể dục thể thao:

Tiếp tục đẩy mạnh việc cải tiến công tác thông tin, tuyền truyền, cổ động để nâng cao hiệu quả, tính thiết thực và phổ biến được rộng rãi trong nhân dân. Ngoài hệ thống thông tin đại chúng, cần tiếp tục tổ chức các buổi nói chuyện thời sự, chuyên đề, thi tìm hiểu, kết hợp với các đoàn thể đi vào tuyên truyền chiều sâu đến tổ dân phố và gia đình. Phải chủ động, nhạy bén nắm bắt dư luận xã hội, sàng lọc, thông tin đến các cấp lãnh đạo để lắng nghe ý kiến nhân dân, đồng thời dập tắt các loại tin đồn nhảm, xuyên tạc, kích động.

Duy trì và phát triển rộng rãi phong trào quần chúng tham gia các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, nhất là đối tượng thanh thiếu niên, người lớn tuổi. Liên kết chặt chẽ với nhà trường, đoàn thể và các tổ chức xã hội để xây dựng và phát triển phong trào. Đi sâu giúp đỡ về chuyên môn, phát hiện năng khiếu, xây dựng nòng cốt, hình thành các đội nhóm sinh hoạt, từ đó tạo ra hàng loạt những chân rết ở cơ sở. Qua hoạt động văn hóa- văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng mà làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân, hướng đến việc xây dựng con người mới XHCN ngày càng hoàn thiện. Cần đầu tư xây dựng các bộ môn mũi nhọn là thế mạnh trong ngành Văn hoá thông tin và Thể dục thể thao Quận. Phải chú ý cả hai khâu phổ cập và nâng cao, trong đó phổ cập là nền, còn nâng cao sẽ kích thích, tác động tốt trở lại phong trào.

Sưu tầm, tổ chức trưng bày giới thiệu các hiện vật, di tích, sự kiện lịch sử cách mạng nhằm giáo dục truyền thống cho quần chúng, nhất là thế hệ trẻ. Có kế hoạch bảo vệ, tôn tạo các bia, đài kỷ niệm, các di tích lịch sử cách mạng.

Đưa cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh – gia đình văn hóa thành phong trào sâu rộng, kết hợp chặt chẽ với phong trào xanh và sạch, không xả rác bừa bãi, giữ gìn vệ sinh, trật tự nơi công cộng.

Làm tốt hơn công tác quản lý, đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, vi phạm luật pháp trên lĩnh vực văn hóa thông tin, ngăn chặn và đẩy lùi các sản phẩm văn hóa xấu, độc hại.

III. LĨNH VỰC AN NINH- QUỐC PHÒNG:

- Củng cố quốc phòng- an ninh, giữ vững ổn định chính trị phải gắn chặt với công cuộc đổi mới, chỉnh đốn đảng, công tác vận động quần chúng và việc quán triệt trong cán bộ, đảng viên và quần chúng về quan điểm, chủ trương, biện pháp chủ động chống âm mưu “ diễn biến hòa bình” của địch trên các lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, an ninh- kinh tế, an ninh- chính trị nội bộ. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo vệ an ninh quốc gia với chính sách phát triển kinh tế, giữa bảo vệ an ninh kinh tế với mở rộng sản xuất kinh doanh. Tăng cường công tác bảo vệ an ninh nội bộ.

- Tăng cường củng cố hoàn thiện kế hoạch phòng thủ của quận. Phối hợp chặt chẽ hơn nữa mối quan hệ quân đội- công an với các cơ quan Trung ương, Thành phố đóng trên địa bàn quận. Chủ động phòng ngừa và xử lý kịp thời, có kết quả các vụ việc phức tạp về an ninh chính trị, các “điểm nóng” bằng những biện pháp thích hợp không để địch lợi dụng, lôi kéo quần chúng vào những hành động gây rối an ninh trật tự. Bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội và thực hiện tốt các chính sách xã hội để góp phần củng cố sự ổn định chính trị. Công tác điều tra, truy tố, xét xử phải đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

- Làm tốt công tác tôn giáo vận gắn với việc tăng cường quản lý các hoạt động tôn giáo. Phát triển phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc trên cơ sở phát huy vai trò của tổ dân phố, khu phố, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, tập trung củng cố thế trận an ninh nhân dân ở những địa bàn trọng điểm.

- Tập trung thực hiện các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ và phòng ngừa xã hội, kéo giảm trọng án và hạn chế sự gia tăng các loại thường án. Tập trung phòng ngừa hạn chế phát sinh tội phạm trong thanh thiếu niên, trong học sinh, trong các khu vực dân cư mới, chuyển hóa mạnh các tụ điểm hình sự… Đấu tranh mạnh với hoạt động truyền bá kinh doanh văn hóa phẩm độc hại và các hoạt động kinh doanh có tính chất đồi truỵ khác. Tăng cường quản lý hành chính và kiểm tra xử phạt mạnh các vi phạm trên các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ, các vi phạm trật tự công cộng, vệ sinh môi trường, vi phạm quy tắc phòng cháy, nổ, an toàn giao thông, quy hoạch đô thị.

Xây dựng lực lượng công an, quân sự đảm bảo tinh thần tiến công và gắn bó với quần chúng, tăng cường các phương tiện nghiệp vụ và nâng cao trình độ để theo kịp đà tiến của xã hội, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong tình hình mới. Tăng cường quản lý và huấn luyện quân dự bị động viên, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ rộng rãi với tỷ lệ từ 2% dân số trở lên, đảm bảo chất lượng. Hàng năm đều thực hiện đầy đủ chỉ tiêu tuyển quân. Thực hiện việc diễn tập phòng thủ hàng năm trên các địa bàn trọng yếu.

- Tăng cường công tác xét, giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân đúng trình tự và đảm bảo thời gian theo quy định của pháp lệnh. Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức và công dân.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ trong khối nội chính vững về phẩm chất chính trị, giỏi về năng lực nghiệp vụ, trong sạch về phẩm chất đạo đức, đủ sức để ngăn ngừa trấn áp các loại tội phạm.

- Từng bước trang bị phương tiện kỹ thuật cần thiết cho các ngành trong khối nội chính, đảm bảo cho yêu cầu nhiệm vụ mới. Sửa chữa, nâng cấp cơ quan toà án tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, vị trí của một cơ quan thực thi pháp luật.

IV. CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG:

Nhiệm vụ chủ yếu của công tác vận động quần chúng trong nhiệm kỳ tới là tập hợp và phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân trong quận, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, làm cho đời sống vật chất của quần chúng được cải thiện, đời sống tinh thần phong phú, mở rộng dân chủ trong xã hội, đấu tranh đẩy lùi các tệ nạn xã hội, phát huy vai trò quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Hướng mọi hoạt động của các tổ chức quần chúng vào việc góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, nghị quyết Đại Hội Đảng thành phố lần thứ VI và Nghị quyết Đại Hội Đảng của quận lần thứ VII.

Đối với các cấp ủy đảng: phải coi công tác vận động quần chúng là một nội dung cơ bản trong hoạt động. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với đảng – đoàn các đoàn thể và Uûy ban mặt trận tổ quốc và bằng các Nghị quyết, Thông tri, Chỉ thị chuyên đề, lãnh đạo chặt chẽ sự phối hợp thống nhất hành động giữa Mặt trận với các đoàn thể, cũng như giữa Mặt trận, đoàn thể với các cơ quan Nhà nước trong các chương trình có liên quan đến lợi ích và đời sống của nhân dân. Duy trì chế độ làm việc định kỳ hàng tháng với Mặt trận và các đoàn thể để triển khai kịp thời các chủ trương của cấp ủy trong công tác vận động quần chúng.

Mặt trận Tổ quốc: Tăng cường xây dựng khối đoàn kết dân tộc gắn liền với việc thực hiện tốt chính sách tôn giáo, chính sách dân tộc hiện hành nhằm động viên các chức sắc tôn giáo, đồng bào có đạo và đồng bào các dân tộc sống hòa hợp, đoàn kết lương giáo, tương thân tương trợ, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân theo phương châm “tốt đạo đẹp đời” “đạo pháp đồng hành với dân tộc”. Tổ chức tốt các hoạt động nhân đạo từ thiện tại cơ sở, cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo, dân tộc nhằm chia rẽ khối đoàn kết toàn dân, làm mất ổn định chính trị và trật tự xã hội. Định kỳ hàng năm có kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ chính trị về Đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất. Tăng cường củng cố Mặt trận Tổ quốc các phường, các ban mặt trận khu phố, xây dựng các tổ mặt trận hoạt động có hiệu quả.

Liên đoàn Lao động: Cần có kế hoạch phối hợp với các ngành phát triển đoàn viên và xây dựng được tổ chức công đoàn ở tất cả các đơn vị ngoài quốc doanh. Phát động phong trào học tập và rèn luyện, xây dựng đội ngũ công nhân vững mạnh trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ VII. Đẩy mạnh tuyên truyền Luật công đoàn, luật lao động đều khắp trong các đơn vị để mọi người lao động tự giác chấp hành.

Quận hội phụ nữ: Tiếp tục triển khai thực hiện 5 chương trình công tác lớn của hội, chú trọng rèn luyện và nâng kiến thức, năng lực cho chị em phụ nữ. Tổ chức các hoạt động hỗ trợ tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, mở rộng mô hình tổ nhóm tín dụng – tiết kiệm đều khắp trong 20 phường. Phát động mạnh mẽ phong trào kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Thực hiện tốt phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa. Kiện toàn bộ máy tổ chức cơ sở hội, chú trọng mạng lưới chi hội, tổ hội ở khu phố và tổ dân phố.

Hội cựu chiến binh: Tăng cường phát triển hội viên, củng cố hoạt động của các chi hội, phân hội. Thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền giáo dục, thông tin thời sự, chăm lo tốt đời sống tinh thần và vật chất của hội viên. Phối hợp với công an, quận đội và các đoàn thể phát động mạnh mẽ phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Phối hợp với Quận đoàn tổ chức tốt việc tập hợp, giáo dục truyền thống cách mạng, giáo dục vận động thanh niên chấp hành tốt Luật nghĩa vụ quân sự.

Hội chữ thập đỏ: Tích cực thực hiện các công tác nhân đạo, xã hội từ thiện, góp phần thực hiện công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phổ biến kiến thức y học thường thức cho nhân dân lao động, vận động tham gia bảo vệ môi sinh, môi trường, phòng chống dịch bệnh. Tổ chức sơ cấp cứu ban đầu. Phối hợp với Phòng y tế, Phòng Lao động – Thương binh xã hội giúp đỡ các đối tượng chính sách, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật. Tiếp tục thực hiện việc tìm kiếm người thân bị thất lạc, quy tập mộ liệt sĩ. Củng cố và nâng cao chất lượng các phòng khám miễn phí cho gia đình chính sách và người lao động nghèo. Có biện pháp vận động tích cực các tổ chức từ thiện, các nhà hảo tâm trong và ngoài nước để xây dựng một bệnh viện miễn phí trong quận.

V. XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN:

Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và UBND ở quận và phường trong việc thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Tập trung các nhiệm vụ chủ yếu vào chăm lo các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường, duy trì hiệu lực pháp luật, giữ gìn trật tự an ninh và kỷ cương pháp luật, củng cố quốc phòng, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh.

Tiếp tục sắp xếp lại bộ máy theo hướng tinh gọn, chất lượng hiệu quả, giảm đầu mối, thu hẹp các phòng ban, đưa trụ sở các phòng chuyên môn về chung khu vực của UBND. Củng cố tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân, các đoàn thể, tổ dân phố nhằm phát huy tính tự quản của nhân dân và tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào công việc chung của xã hội. Kiểm tra lại tất cả các khâu trong thủ tục hành chánh, các văn bản pháp quy, các quy định nếu không thuộc thẩm quyền hoặc trái với quy định của trên cần kịp thời sửa đổi hoặc bãi bỏ, chú trọng các thủ tục về xây dựng, nhà đất, đăng ký kinh doanh, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo… kiểm tra việc thu phí, lệ phí trên địa bàn quận, để bỏ ngay các lệ phí thu sai quy định của Nhà nước. Đồng thời công khai hóa các loại phí cho nhân dân biết để ngăn chặn các hành vi tiêu cực của công chức Nhà nước. Tổ chức tốt việc tiếp dân của cơ quan Hội đồng nhân dân, UBND từ quận đến phường và ở một số cơ quan như: Công an, Quản lý đô thị, Kinh tế… để tiếp thu ý kiến và giải quyết các khiếu nại của nhân dân.

Tăng cường công tác giáo dục, thông tin tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước, thủ tục hành chính của các cơ quan để nhân dân biết và thực hiện cho đúng. Khẩn trương rà soát, phân loại đội ngũ viên chức hiện có để đào tạo, bồi dưỡng theo đúng chức danh quy định. Xây dựng một đội ngũ công chức có phẩm chất chính trị, liêm khiết, công tâm, giỏi về chuyên môn để đáp ứng yêu cầu công việc được giao. Kiên quyết loại bỏ số công chức kém phẩm chất, kém năng lực ra khỏi bộ máy. Quy định chặt chẽ chế độ phục vụ nhân dân của công chức nhà nước. Từng bước hiện đại hóa công sở, tăng cường phương tiện thông tin và các điều kiện làm việc để bảo đảm cho các cơ quan, công chức thực hiện nhiệm vụ của mình.

PHẦN THỨ BA

XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ VÀ ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH

GẮN BÓ MẬT THIẾT VỚI CÔNG NHÂN

VÀ NHÂN DÂN LAO ĐỘNG

Trong những năm trước mắt, công tác xây dựng đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt, cùng với việc chăm lo xây dựng đội hậu bị của Đảng là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí minh, gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân và nhân dân lao động, khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng của đảng và đoàn thanh niên, đủ sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

I. VỀ CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG:

Công tác chính trị tư tưởng trong nhiệm kỳ tới phải góp phần giữ vững ổn định về chính trị, đẩy nhanh phát triển kinh tế, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, tiến vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cần tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau:

- Đẩy mạnh việc giáo dục cho cán bộ, đảng viên kiên định mục tiêu và con đường XHCN. Kiên định chủ nghĩa Mác- Lênin- tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giữ vững lòng tin, lý tưởng, toàn tâm toàn ý phục vụ cho Đảng, cho nhân dân.

- Nhận thức đúng đắn về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, định hướng XHCN vì dân giàu- nước mạnh- xã hội công bằng văn minh. Hết sức coi trọng bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và lối sống trong sạch lành mạnh trong cán bộ, đảng viên. Đấu tranh chống các hiện tượng tham ô, hối lộ, thoái hóa, tha hóa về lối sống, đạo đức…

- Công tác tư tưởng phải nghiên cứu sâu sắc đặc điểm, tâm trạng, diễn biến tâm lý, nhu cầu của các đối tượng để có những biện pháp thích hợp, đảm bảo giữ vững và tăng cường sự thống nhất về chính trị và tư tưởng trong đảng, tăng cường sự đoàn kết gắn bó giữa đảng và nhân dân.

- Công tác tư tưởng phải tích cực góp phần bảo vệ lý tưởng của đảng, bảo vệ chế độ, tăng cường quốc phòng - an ninh, tăng cường xây dựng lực lượng cách mạng, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của kẻ thù.

II. CÔNG TÁC TỔ CHỨC, CÁN BỘ :

+ Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, sàng lọc đội ngũ đảng viên theo một số hướng cụ thể:

- Tiến hành sơ tổng kết kết quả công tác xây dựngđảng, xây dựng hệ thống chính trị trong loại hình doanh nghiệp Nhà nước và cơ quan nhằm đánh giá rút kinh nghiệm, phát huy mặt tích cực, khắc phục yếu kém trong công tác xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong khu vực này.

- Tổng kết việc thực hiện Quyết định số 52 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quy định 83 của Ban thường vụ Thành ủy để kiến nghị bổ sung sửa đổi những điều không phù hợp đối với quy chế lãnh đạo hoạt động của đảng bộ phường và chi bộ đường phố.

- Đưa việc phê bình, tự phê bình và phân loại đảng viên theo tinh thần Nghị quyếtTW III thành nề nếp sinh hoạt hàng năm của đảng bộ, chi bộ cơ sở. Đồng thời thông qua đó có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên và xử lý đảng viên sai phạm, đưa ra khỏi tổ chức đảng những người không đủ tư cách đảng viên.

- Hướng dẫn phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng theo tinh thần Chỉ thị 17 của Ban TVTU, Hướng dẫn 04 của Ban TCTU. Nâng tỷ lệ tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, khá lên 90% (trong đó vững mạnh trong sạch 50%), hạ thấp tỷ lệ tổ chức đảng trung bình, yếu còn 10% (trong đó yếu không quá 5%) so với tổng số tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Quận ủy.

+ Khắc phục có hiệu quả những mặt yếu kém trong công tác cán bộ vừa qua trên tất cả các khâu quản lý, đánh giá nhận xét, quy hoạch, đào tạo, bố trí sử dụng và phấn đấu thực hiện theo hướng:

- Xây dựng quy chế quản lý, phân cấp và nội dung quản lý cán bộ giữa Quận ủy và cấp ủy cơ sở để áp dụng thống nhất trong đảng bộ.

- Tiếp tục quy hoạch cán bộ lãnh đạo chủ chốt của cấp quận và cơ sở. Thông qua công tác quy hoạch mà có kế hoạch đào tạo phù hợp với yêu cầu bố trí sử dụng trong tương lai và hướng đào tạo, bồi dưỡng phải bảo đảm cân đối các nguồn cán bộ làm công tác đảng, công tác chính trị và cán bộ quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, cán bộ chuyên môn khoa học kỹ thuật.

- Cơ cấu cán bộ nữ vào cấp ủy, ban lãnh đạo từng đơn vị (bảo đảm tỷ lệ từ 20 đến 25%).

- Kiên quyết thực hiện việc bố trí, đề bạt cán bộ đúng ngành được đào tạo và từng bước tiêu chuẩn hóa, chuyên môn hóa đội ngũ cán bộ, nhất là đối với các cơ quan tham mưu, cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp Nhà nước.

+ Công tác phát triển đảng viên mới phải xem trong tiêu chuẩn, chất lượng. Bảo đảm quy trình, thủ tục hồ sơ xét kết nạp Đảng.

- Chỉ tiêu số lượng phấn đấu kết nạp Đảng nhiệm kỳ VII là 400 đảng viên mới, hết sức chú ý bồi dưỡng các đối tượng là công nhân trực tiếp sản xuất, lực lượng thanh niên và đội ngũ trí thức.

- Công tác quản lý đảng viên: Kiểm tra nhắc nhở cấp ủy cơ sở làm tốt việc quản lý công tác, sinh hoạt của đảng viêntheo đúng điều lệ Đảng quy định.

+ Giải quyết đúng, đầy đủ chính sách mà Đảng đã quy định đối với cán bộ đảng viên như lương, hưu trí, huy hiệu Đảng, chế độ ưu đãi…

+ Công tác bảo vệ chính trị nội bộ đảng trong 5 năm tới tiếp tục rà soát lịch sử chính trị cán bộ, đảng viên theo hướng dẫn của Ban bảo vệ chính trị nội bộ Đảng Thành ủy, kết hợp với Ban bảo vệ chính trị nội bộ Thành ủy thẩm tra lý lịch những quần chúng được cấp ủy cơ sở đề nghị kết nạp đảng nhưng có lịch sử chính trị phức tạp, bảo đảm yêu cầu chất lượng chính trị với đội ngũ đảng viên mới kết nạp trong đảng bộ quận.

III. CÔNG TÁC KIỂM TRA:

- Tăng cường công tác kiểm tra đảng viên (kể cả cấp ủy viên cùng cấp) chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt, giữ gìn đạo đức phẩm chất cách mạng của người đảng viên, kiểm tra tập trung vào các đối tượng là cấp ủy viên cùng cấp và cán bộ do cấp ủy cấp mình quản lý. Các đảng viên còn lại do chi bộ, đảng bộ chịu trách nhiệm kiểm tra. Sau khi kiểm tra cần xem xét kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật và căn cứ thẩm quyền của Uûy ban kiểm tra được điều lệ Đảng quy định mà quyết định hoặc đề nghị cấp ủy quyết định thi hành kỷ luật. Có kế hoạch kiểm tra định kỳ, đột xuất tổ chức đảng cấp dưới.

- Tiếp tục kiểm tra thường xuyên tổ chức đảng cấp dưới chấp hành nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng và kiểm tra việc chấp hành quy chế làm việc của cấp ủy.

- Thực hiện tốt các nhiệm vụ thường xuyên như: giải quyết thư tố cáo, xử lý và tham mưu cho cấp ủy xử lý kỷ luật đảng viên, giải quyết khiếu nại kỷ luật của đảng viên, kiểm tra việc thi hành kỷ luật của tổ chức đảng cấp dưới, thực hiện đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục thi hành kỷ luật đảng viên, góp phần tích cực giữ nghiêm kỷ luật của đảng.

- Kiểm tra tài chánh của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính của cấp ủy cùng cấp. Nhằm giúp cấp ủy và cơ quan tài chính của cấp ủy thực hiện đúng nguyên tắc, chính sách, chế độ, phương hướng thu chi và quản lý tài chính của đảng.

Công tác kiểm tra phục vụ nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn đảng hiện nay không chỉ góp phần quyết định việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng mà còn mang tính cấp bách có ý nghĩa sống còn của đảng. Công tác kiểm tra phải góp phần đổi mới việc xây dựng đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức cả về nội dung và phương thức lãnh đạo.

IV. XÂY DỰNG ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH THẬT SỰ VỮNG MẠNH VỀ TƯ TƯỞNG VÀ TỔ CHỨC, XỨNG ĐÁNG LÀ ĐỘI HẬU BỊ CỦA ĐẢNG:

Phương hướng cơ bản của công tác xây dựng đoàn trong 5 năm tới là: tăng cường củng cố tổ chức Đoàn cả về chất lượng lẫn số lượng, nhất là đơn vị cơ sở, mở rộng mặt trận tập hợp thanh niên qua việc xây dựng và phát triển tổ chức Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam trong các doanh nghiệp và ở phường, phát động phong trào hành động cách mạng cụ thể và thiết thực, xây dựng lực lượng thanh niên nòng cốt thực sự là lực lượng xung kích thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo nguồn sinh lực để bổ sung vào đội ngũ cán bộ đảng và chính quyền các cấp.

- Đảng bộ đặc biệt chú trọng đến công tác giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống trong đoàn viên thanh niên, tạo mọi điều kiện để mỗi đoàn viên được tiếp cận với các Nghị quyết của Đảng, tự rèn luyện về mọi mặt để nâng cao phẩm chất, đạo đức, lối sống, nêu cao ý thức cảnh giác chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực phản động, khẳng định quyết tâm đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.

- Xây dựng và củng cố tổ chức đoàn, còn là việc đoàn phải đẩy mạnh các phong trào hành động “thanh niên lập nghiệp” và “tuổi trẻ giữ nước”, thực hiện tốt các cuộc vận động lớn như: “mỗi đoàn viên một việc làm thiết thực”, “đăng ký xây dựng chi đoàn chủ động công tác”, “mỗi cơ sở đoàn một công trình thanh niên”. Chú trọng phát triển đoàn viên trẻ, nhiệt tình, trưởng thành từ trong hoạt động đội nhóm thanh niên, phong trào thanh niên. Chú ý các nguồn phát triển chính là Ban chỉ huy đội thiếu niên tiền phong, Đội nhóm trưởng, lực lượng nòng cốt trong thanh niên người Hoa, thanh niên có đạo, thanh niên công nhân. Phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ phát triển từ 6000- 7000 đoàn viên thanh niên cộng sản, xây dựng tổ chức Hội Liên hiệp thanh niên ở 20 phường và trong một số doanh nghiệp. Phối hợp với các cơ quan nội chính và các tổ chức xã hội tăng cường công tác đấu tranh ngăn ngừa tội phạm lứa tuổi thanh niên, thiếu niên.

Các đảng bộ, chi bộ cơ sở phải:

- Xây dựng nghị quyết chuyên đề về công tác thanh niên của cấp mình trong đóù định hướng rõ nội dung và biện pháp nhằm củng cố tổ chức đoàn thanh niên tại đơn vị, tạo điều kiện thuận lợi cho đoàn tổ chức các hoạt động phù hợp thu hút đoàn viên thanh niên, thực hiện chế độ làm việc định kỳ với Ban chấp hành đoàn để nắm tình hình và giải quyết các kiến nghị của đoàn, phân công đảng viên tham gia công tác thanh niên…

- Lãnh đạo chính quyền, các ngành, các đoàn thể xây dựng chương trình hành động, trong việc giải quyết các vấn đề xã hội của thanh niên (việc làm, nghề nghiệp, kiến thức) nhằm phát huy tiềm năng và vai trò của thanh niên trong giai đoạn mới. Nghiên cứu xem xét giao cho đoàn thanh niên một số công trình để đoàn có môi trường thực hiện các nhiệm vụ kinh tế- xã hội và giáo dục thanh niên.

- Gắn công tác quy hoạch cán bộ đoàn với công tác quy hoạch toàn đảng bộ, đặc biệt chú trọng đối với cán bộ Đoàn chuyên trách 20 phường, cán bộ Quận đoàn, lực lượng Tổng phụ trách đội trong các trường học.

- Việc đánh giá và phân loại chi bộ vững mạnh, trong sạch cần xem xét thêm tình hình hoạt động của chi đoàn do chi bộ đó lãnh đạo có chủ động công tác hay không.

- Đảng bộ, chi bộ cơ sở cần thường xuyên quan tâm đến công tác phát triển đảng từ đoàn viên ưu tú, định kỳ có đánh giá những mặt mạnh, những điểm hạn chế của đoàn viên ưu tú, nâng cao tỷ lệ phát triển đảng từ Đoàn thanh niên cộng sản. Củng cố và duy trì hoạt động của các nhóm trung kiên, xem đây là nơi giáo dục và rèn luyện những người cộng sản trẻ của Đảng.

Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận Tân Bình lần thứ VII (nhiệm kỳ 1996-2000) khẳng định quyết tâm của mình là ra sức phấn đấu để thực hiện bằng được công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo với mục tiêu: dân giàu- nước mạnh- xã hội công bằng- văn minh. Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, Đảng bộ và nhân dân Tân Bình với truyền thống đoàn kết gắn bó và kinh nghiệm trưởng thành trong những năm qua quyết tâm phấn đấu thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra.

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ

QUẬN TÂN BÌNH

MỘT SỐ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU VỀ KINH TẾ XÃ HỘI

TRONGNHIỆM KỲ VII (1996-2000).

(Đã được Đại hội nhất trí thông qua bằng phiếu biểu quyết)

1/ Phấn đấu tăng giá trị sản lượng CN-TTCN hàng năm với tốc độ từ 16-18% (51,66%).

2/ Mức tối thiểu về sản lượng khối công nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng từ 05-06% (58,75%).

3/ Mức tối thiểu về giá trị xuất khẩu chiếm tỷ trọng từ 12-15% (55%).

4/ Về xây dựng cơ bản, trong nhiệm kỳ phải thực hiện xong các công trình:

a/ Trung tâm Văn hóa thể thao (92,91%)

b/ Trung tâm bồi dưỡng chính trị (95,83%)

c/ Đưa khu công nghiệp P.15-16 vào hoạt động (94,16%)

d/ Xây mới 4.000 căn hộ trong đó có 1500 căn trả góp (89,16%)

5/ Nhất trí với tốc độ tăng thu ngân sách Nhà nước bình quân hàng năm là 30% ngân sách quận từ 12-14% (86,25%)

6/ Mức tối thiểu về chỉ tiêu giải quyết việc làm hàng năm từ 7.000-8.000 lao động (59,16%).

7/ Đến năm 2000 việc xây dựng “Quỹ bảo trợ chính sách” phải đạt ở mức tối thiểu là 2 tỷ5 và “Quỹ trợ táng” là 500 triệu đồng (61,66%).

8/ Phấn đấu bảo đảm 100% các cháu lớn tuổi đi học đều được đến trường và đến năm 1998 hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong toàn Quận (56,6%)

9/ Mức tối thiểu về chỉ tiêu giảm tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên đến năm 2000 còn 1,3% và tỷ lệ sanh con thứ ba dưới 10% (52,5%).

10/ Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh và khá ở mức chỉ tiêu tối thiểu là 90% (trong đó số cơ sở vũng mạnh đạt 50%). Số cơ sở Đảng trung bình và yếu kém còn 10% trong đó cơ sở yếu dưới 0,5% (52,5%).

11/ Chỉ tiêu tối thiểu về việc kết nạp đảng viên mới trong cả nhiệm kỳ VII là 400 đ/c (52,08%).

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ QUẬN TÂN BÌNH

LẦN THỨ VII

Thông báo