Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Báo cáo của Quận Ủy Tân Bình về tình hình và nhiệm vụ tại đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ hai

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

oOo

QUẬN ỦY TÂN BÌNH

(DỰ THẢO)

PHẦN I: ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TỪ SAU ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ NHẤT ĐẾN NAY:

Hai năm qua, kề từ Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ nhất đến nay, tình hình quận ta có những chuyển biến quan trọng.

Dưới ánh sáng Nghị quyết của Đảng, bằng sự nỗ lực vượt bực, liên tục của Đảng bộ, chính quyền và đồng bào trong quận, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, làm biến đổi sâu sắc bộ mặt toàn quận.

Công tác cải tạo được tiến hành nhanh, toàn diện, làm xong về cơ bản một số ngành như tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp v.v…Qua đó nắm chắc hơn năng lực và tình hình cơ bản phục vụ một cách có hiệu quả cho việc phát triển sản xuất, bố trí lại lao động, giải quyết công ăn việc làm và phục vụ đời sống nhân dân.

Tình hình sản xuất tiếp tục phát triển, được quy hoạch và tổ chức lại dưới hình thức làm ăn tập thể. Sản xuất tăng, đa dạng, được quản lý và đưa vào sử dụng có hiệu quả hơn.

Trong lúc đời sống nhân dân lao động có những khó khăn lớn, Đảng bộ đã có nhiều cố gắng chăm lo đời sống giảm bớt được những khó khăn vật chấtcho bà con. Màng lưới phân phối được tổ chức đến cơ sở, đưa đến tay người lao động những mặt hàng thiếtyếu, từng bước đấu tranh quản lý thị trường, chống tăng giá, chống đầu cơ tích trữ hạn chế một phần sự thao túng và bóc lột của lối kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Thông qua những cố gắng liên tục để thực hiện các nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội IV, Nghị quyết 3, Nghị quyết 4, Nghị quyết 5, gần đây là Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị, các nghị quyết và sự chỉ đạo của Thành ủy, Đảng bộ đã trưởng thành một bước toàn diện, cả về tư tưởng, tổ chức đến năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, trình độ tổ chức thực hiện. Trên lĩnh vực lãnh đạo và quản lý kinh tế, chúng ta cũng có tiến bộ.

Quần chúng nhân dân tiếp tục có chuyển biến theo hướng tích cực. Giai cấp công nhân-nông dân có nhiều chuyển biến mới, thể hiện bản chất cách mạng, đi đầu trong công cuộc cải tạo và xây dựng.

Các giới lao động khác đồng tình với chủ trương của Đảng, đa số tích cực tham gia các công tác cách mạng.

Trong cải tạo bà con tiểu thương hiểu được chính sách có khả năng cải tạo nhưng tư tưởng chưa muốn chuyển qua sản xuất, còn dằng co day dứt.

Trước sức mạnh của nhân dân, giai cấp tư sản bụôc phải chấp nhận cải tạo, một số nhà tư sản công nghiệp tỏ ra thức thời, song đa số cố tìm cho mình một lối thoát bằng nhiều thủ đoạn tội lỗi.

Đồng bào tôn giáo, đặc biệt là thiên chúa giáo tuy vẫn bị kẻ địch, bọn xấu lợi dụng kích động, biểu hiện một số mặt tiêu cực, nhưng nhìn chung bà con lao động tin vào đường lối chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước, đóng góp nhiều công sức vào công tác ở địa phương.

Ở quận ta, đồng bào Hoa có trên 24.000 người. Trước nay, bà con lao động vẫn làm ăn yên ổn, nhưng từ sau khi bọn phản động Bắc Kinh kích động, lôi kéo người Hoa về Trung Quốc, gây chiến tranh với ta thì tình hình ngày càng có những phức tạp. Tâm tư tình cảm của bà con người Hoa bị xáo động mạnh bị dồn vào chỗ bế tắc, không biết nên đi hay nên ở. Tuy hiểu được sai trái, tin ở Đảng và Nhà nước ta, nhưng vẫn lo sợ trước sự đe doạ, kích động nham hiểm của kẻ thù, không chủ động được lý trí lại vốn có những mặt cảm tiêu cực nên một bộ phận đồng bào người Hoa bị kẻ địch lôi kéo.

Hai năm qua diễn ra những biến động chính trị quan trọng, đặc biệt là đợt cải tạo thương nghiệp, đổi tiền, chiến tranh biên giới Tây Nam, bọn phản động Trung Quốc tung ra vụ nạn Hoa kiều, gây chiến tranh xâm lựơc nước ta, cộng với những khó khăn về kinh tế đã tác động nhiều mặt đến tâm tư tình cảm và đời sống của quần chúng, có lúc có nơi gây ra những phức tạp và căng thẳng. Nhưng trước chánh nghĩa của cách mạng, trước sự sáng suốt và vững vàng của Đảng và Nhà nước, trước những thắng lợi to lớn của ta cả về chính trị, quân sự, ngoại giao, đã củng cố lòng tin của quần chúng, bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, cổ vũ và phát huy khí thế cách mạng, giác ngộ tập hợp ngày càng đông đội ngũ quần chúng tích cực, có tác dụng lôi cuốn và làm chuyển biến tầng lớp trung gian và một bộ phận quần chúng lạc hậu. Chính trong cuộc vật lộn gay go này, quần chúng càng tỏ rõ tinh thần cách mạng ý thức làm chủ tập thể, sự chịu đựng và chấp nhận khó khăn là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ của Đảng, bảo đảm cho chúng ta hoàn thành nhiệm vụ lịch sử trong giai đoạn mới.

KIỂM ĐIỂM VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ NHẤT ĐẾN NAY:

Quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ nhất, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng bộ quận đã đề ra một nghị quyết toàn diện, xáx định rõ vị trí, tiềm năng, nhiệm vụ chính trị và thế mạnh của quận. Đó là nghị quyết đầu tiên của quận Đảng bộ được xây dựng bằng trí tuệ tập thể ở Đại hội đại biểu toàn Đảng bộ, trong điều kiện từ chiến tranh chuyển sang hoà bình. Hai năm qua, Đảng bộ đã bám sát nghị quyết ấy, kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện các nghị quyết của Đảng, hướng toàn bộ nỗ lực thực hiện tốt 05 công tác chính: cải tạo và đẩy mạnh sản xuất, chăm lo đời sống nhân dân, phát huy quyền làm chủ tập thể, giữ gìn an ninh chính trị, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, ra sức củng cố và xây dựng lực lượng.

A/ CÔNG TÁC CẢI TẠO PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT VÀ GIẢI QUYẾT LAO ĐỘNG THẤT NGHIỆP:

Đây là công tác trung tâm xuyên suốt mà Đảng bộ dồn hết sức làm trong hai năm qua. Kết quả của công tác này có tác động toàn diện đến mọi mặt của tình hình, là nội dung đấu tranh giai cấp rất quyết liệt, làm thay đổi hẳn quan hệ sản xuất, tạo nên cơ sở vật chất vững chắc để chúng ta tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

1. Về cải tạo và đẩy mạnh sản xuất tiểu thủ công nghiệp:

Đầu năm 1977 toàn quận có 286 hộ A và 3.274 hộ B với tổng số trên 2.000 cơ sở sản xuất và 18.575 công nhân. Những cơ sở sản xuất này còn cá thể, tự sản tự tiêu, hoặc tự ký hợp đồng gia công với công ty Trung ương và thành phố. Tình hình này gây khó khăn lớn cho sản xuất và đời sống do ta không quản lý được sản phẩm và tiêu thụ.

Đại hội Đảng lần thứ nhất đã Nghị quyết phải đẩy mạnh cải tạo ngành tiểu thủ công nghiệp đi vào làm ăn tập thể dưới sự quản lý của Nhà nước.

Trong hai năm 1977-1978, Quận ủy tập trung chỉ đạo, có sự phối hợp khá tốt của các ngành đoàn thể, đã tổ chức, sắp xếp lại với tốc độ nhanh các ngành nghề sản xuất, quy tụ phần lớn các hình thức làm ăn tập thể đến nay, ta đã xây dựng được 28 xí nghiệp công tư hợp doanh, 01 xí nghiệp tập thể, 12 HTX, gom trên 2.000 cơ sở tư nhân thành lập hơn 900 tổ hợp sản xuất và 34 xí nghiệp hợp tác. Đến nay, chúng ta đã nắm và quản lý được 90 cơ sở này thông qua công tác cải tạo, đăng ký kinh doanh và tổ chức cho họ ký hợp hai chiều với Nhà nước.

Kết quả công tác cải tạo trên gắn liền và thúc đẩy sản xuất phát triển. Trên cơ sở quy hoạch và tổ chức lại sản xuất đã đi vào tập trung hơn, mức độ phân tán ngày một giảm. Đồng thời sức sản xuất được giải phóng quan hệ sản xuất mới được hình thành cộng với công tác quản lý chặt hơn, hướng sản xuất đi vào có kế hoạch nên so với những năm mới giải phóng sản phẩm tăng rõ rệt, đưa vào phục vụ sản xuất và đời sống có hiệu quả hơn. Năm 1977 giá trị tổng sản lượng đạt được là 64.700.000 đ, năm 1978 là 128.000.000. Trong khi đó, năm 1976 chỉ đạt 33.000.000. Một số ngành chủ yếu như cơ khí năm 1977 đạt 6,9 triệu, năm 1978 đạt 17,3 triệu, Ngành hoá chất 1977 đạt 3,3 triệu, 1978 đạt 5,2 triệu; ngành xuất khẩu ngày càng chiếm vị trí quan trọng, đang có thể phát triển mạnh. Năm 1977 đạt 10,2 triệu, năm 1978 đạt 19.000.000. Chúng ta đã khai thác và mở rộng được nhiều mặt hàng phong phú như: mây tre, lá, đan thêu, móc, mỹ nghệ sừng, đồ chơi trẻ em, ruột gân heo và cả quạt điện. Trong 30 sản phẩm chủ yếu, chúng ta đã đạt và vượt chỉ tiêu 20 loại sản phẩm, trong đó có một số loại sản phẩm mũi nhọn như dệt, da, may, cơ khí, hoá chất, xuất khẩu.

Đặc biệt ngành dệt mũi nhọn được chú trọng tổ chức lại đã đưa toàn bộ vào HTX; phát triển khai thác thêm máy, đào tạo thêm thợ, động viên phát huy sáng kiến, tổ chức hội nghị chuyên đề về ngành dệt, đã khắc phục khó khăn về nguyên liệu, phụ tùng đưa sản lượng dệt hàng năm tăng lên: 1976 –11 triệu m, 1977-16 triệu m. Năm 1978 mặc dù khó khăn về nguyên liệu, phụ tùng rất lớn, song do cố gắng sản lượng ngành vượt chỉ tiêu kế hoạch 14,9%. Trong năm này, ngành dệt đã có 15 sáng kiến có giá trị, làm lợi cho Nhà nước 115.000đ.

Đến năm 1978, bình quân một lao động tiểu thủ công nghiệp thu nhập hàng tháng là 78,72 đ, vượt so với chỉ tiêu 25%.

Điểm nổi bật là chúng ta đã có chú ý động viên tinh thần tự lực tựcường, đã tận dụng và huy động được từ 20 đến 30% nguồn nguyên vật liệu tại chỗ, tự lực làm được một số phụ tùng thay thế (thoi dệt) phát huy sáng kiến cải tiến máy móc.

Hai năm qua, ngành tiểu thủ công nghiệp ở quận ta đã có một bước tíên mới, ngày càng nổi rõ thế mạnh và Đảng bộ đã biết khai thác, phát huy thế mạnh đó. Chúng ta đã đẩy lên một số ngành quan trọng như dệt, may, xuất khẩu, phát triển một số ngành truyền thống, bước đầu tổ chức cho công nghiệp phục vụ nông nghiệp.

- Về nông nghiệp:

Đại hội Đảng lần thứ nhất đề ra nhiệm vụ cải tạo nông nghiệp là pghải chuyển từ sản xuất lúa sang rau màu, chăn nuôi và đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể.

Trong hai năm qua, chúng ta đã tích cực thực hiện theo phương hướng đó. Cuối năm 1977, ta đã tập trung sức quy hoạch và xây dựng một vùng rau chuyên canh (100ha) ở phường 16, khai phá khả năng chuyển trồng rau màu thay lúa bằng con đường làm ăn tập thể, với phương thức kết hợp giữa cơ giới với thủ công, phù hợp với bước phát triển ban đầu. Hiện nay tập đoàn rau này đã đủ điều kiện để đưa lên thành HTX.

Từ giữa tháng 5/1978 thực hiện Chỉ thị số 43 của Bộ Chính trị, chúng ta đã tiến hành đồng loạt việc xây dựng đại trà các tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Đến tháng 2/1979, tổ chức được 25 tập đoàn, quy tụ 1.096 hộ nông nghiệp (chiếm 70% tổng số hộ), gồm 9.212 nhân khẩu (chiếm 68,3%), 2.338 lao động (chiếm 53%) với 594,78 ha đất canh tác (chiếm 71,7%).

Đây là bước chuyển nhanh của phong trào đưa nông dân vào làm ăn tập thể, vừa thể hiện đường lối chủ trương của Đảng là kịp thể, vừa thể hiện bản chất cách mạng của giai cấp nông dân.

- Sản xuất nông nghiệp đã tập trung chuyển theo hướng chuyên canh rau, màu kết hợp với chăn nuôi.

Diện tích trồng lúa so với năm 1975-1976 giảm 40% trong khi đó diện tích gieo trồng các loại rau từ 393 ha (năm 1975) tăng lên 2.000 ha (1978) sản lượng rau từ 4.000 tấn lên 19.000 tấn.

Về chăn nuôi tuy có nhiều khó khăn về giống và thức ăn nhưng vẫn duy trì được đàn heo (15.000 con), đàn gà (28.000 con).

So với chỉ tiêu kế hoạch, trong khi năm qua diện tích gieo trồng đạt 95% (4.065/4.300ha), sản lượng lúa, rau màu, chăn nuôi đạt từ 80-90%. Qua quy hoạch và tổ chức làm ăn vào tập thể nông nghiệp đang hình thành những vùng chuyên canh, sản xuất đã đi vào kế hoạch, thâm canh, tăng vụ và trên một số loại cây trồng năng suất đã có tăng chút ít (lúa từ 01 đến 1,5 tấn/ha lên 1,7 đến 2 tấn/ha; rau từ 09 tấn lên 9,6 tấn/ha).

- Về thương nghiệp:

Cải tạo thương nghiệp là một công tác gay go phức tạp và là quá trình phải làm đi làm lại liên tục. Ngay từ năm 1977, Quận ủy đã chỉ đạo các cơ quan thương nghiệp-thuế-cải tạo kết hợp tiến hành các đợt điều tra nắm chắc lực lượng thương nghiệp tư nhân, phân loại cụ thể và lên kế hoạch cải tạo. Tổng số hộ thương nghiệp tư nhân ta nắm tương đối chắc là 6.400 hộ. Trước năm 1977 những hộ này buôn bán linh tinh, lấn chiếm lòng lề đường, có nơi rất phức tạp như Lănh Cha Cả, Bảy Hiền, Nguyễn Văn Thoại v.v…

Từ sau Đại hội Đảng bộ quận đã tập trung sắp xếp bà con vào các chợ và khu vực quy định, vừa trật tự nề nếp hơn, vừa quản lý và kiểm soát dễ hơn.

Đặc biệt từ 23/3/1978 thực hiện sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương và thành phố, chúng ta tiến hành lớn chiến dịch cải tạo thương nghiệp, huy động lực lượng toàn quận, tập trung trong một thời gian hai tháng, đấu tranh kiên quyết. Chúng ta đã xoá bỏ xong giai cấp tư sản thương nghiệp, chấm dứt kinh doanh của họ, chuyển toàn bộ sang sản xuất (107 hộ) kiểm kê trưng thu mua 222 hộ tiểu thương 03 ngành hàng (trong đó có 142 hộ thuộc quận Tân Bình) chuyển sang sản xuất, tuyển dụng vào màng lưới thương nghiệp quận v.v…Tiếp đó là chiến dịch đổi tiền và các chiến dịch gom quét chợ trời, dọn dẹp lòng lề đường đã hỗ trợ cho cải tạo thương nghiệp giành thắng lợi lớn cả về mặt kinh tế lẫn chính trị. Cuộc đấu tranh này đã thu hẹp một bước cơ bản diện kinh doanh tư bản chủ nghĩa, mở đường cho thương nghiệp quốc doanh phát triển, làm cho quần chúng lao động phấn khởi, tin tưởng và hăng hái sản xuất.

- Giao thông vận tải:

Đã đưa toàn bộ lực lượng vận tải nhẹ vào 4 HTX (gồm 2 HTX xe lam 185 xe – 1 HTX 3 gác máy 96 xe- 1 HTX xích lô máy 94 xe)

- Về Y tế: có 390 hộ, đã cải tạo 13 hộ y dược, còn lại đã lên xong kế hoạch cải tạo trong năm 1979.

- Ngành Văn hóa: đã cải tạo xong 29 hộ bán sách loại nhỏ, đưa vào làm đại lý. Đưa 4/8 hộ in vào công tư hợp doanh và xí nghiệp tập thể. Còn lại các hộ chụp ảnh photocoppy, ronéo, đánh chữ, nhạc cụ, dạy vẽ v.v… điều tra xong và đang lên kế hoạch cải tạo.

- Ngành thể dục thể thao: Đã quốc doanh 01 hồ bơi còn 03 hồ bơi thuộc các đơn vị bộ đội và Trung ương quản lý. Điều tra nắm 20 hộ bi-da, bóng bàn lên kế hoạch cải tạo.

- Nhà đất và công trình công cộng: có 56 hộ thuộc diện cải tạo gồm 285 căn với tổng diện tích gồm 34.000 m2. Trong đợt cải tạo thương nghiệp ta trưng thu mua và cấp 68 căn cho cán bộ, công nhân viên và cơ quan.

Đối với đất cho thuê, đã cải tạo 79 hộ với diện tích 810.375m2. phần lớn đã giao cho các tập đoàn sản xuất sử dụng, làm bốn bãi đậu xe và một phần giải quyết cho đồng bào nghèo.

Các ngành ăn uống, dịch vụ, lâm nghiệp, kim hoàn cũng đang ở bước hoàn thành điều tra cơ bản để lên kế hoạch cải tạo.

- Về ngân hàng :

Thực hiện Nghị quyết của Đại hội đảng bộ hoạt động của Ngân hàng đã hướng theo trọng tâm là huy động và quản lý chặt hơn tiền mặt, tăng thêm nguồn thu, cố gắng đảm bảo cân đối về thu chi.

Năm 1977 thu gần 40 triệu, đạt 95% kế hoạch, tăng hơn năm 1976 là 12 triệu. Năm 1978 thu 43 triệu, đạt 86,4% kế hoạch (cả hai năm thu 81,7 triệu). Do nền kinh tế đang hướng mạnh vào con đường tập thể nên bảo đảm cho việc quản lý tiền tệ được chặt chẽ hơn, nguồn thu tăng, được mở rộng và ổn định hơn.

Về tín dụng, trong hai năm 1977-1978 cho vay trên 20 triệu đồng. Trong đó cho khu vực quốc doanh vay chiếm từ 90-93%; HTX vay chiếm 5%, còn 2% là cho tư nhân. Điều đáng chú ý là chúng ta chưa nắm chắc được hiệu quả đầu tư vốn và việc cho vay còn chủ yếu là cho xây dựng cơ bản, còn phục vụ sản xuất chưa bao nhiêu.

Về tiết kiệm, số dư hàng năm tăng từ 20 đến 50% (năm 1977: 3 triệu, năm 1978 > 4,5 triệu). Tổng thu 2 năm là 15,8 triệu, bình quân đầu người năm 1977 là 24 đ (tăng 60% so với năm 1976). Năm 1978 là 40 đ. So với Nghị quyết, bình quân đầu người gởi năm 1977 tăng 14%, năm 1978 tăng 15%.

- Về thuế:

Tổng thu hai năm là 11,6 triệu. Trong đó riêng hai loại thuế: lợi tức thể nhân và doanh nghiệp thể nhân đã chiếm 9,8 triệu đồng. Thông qua công tác thuế, đã phục vụ đắc lực cho công tác cải tạo, góp phần kiểm soát chặt hơn các cơ sở sản xuất kinh doanh cả trong khu vực tập thể và cá thể.

- Về giải quyết lao động:

Từ đầu năm 1977 đến nay, một vấn đề quan tâm lớn của Đảng bộ là giải quyết công ăn việc làm cho người lao động thất nghiệp. Thông qua công tác cải tạo đẩy mạnh sản xuất lên một bước, chúng ta đã điều tra nắm chắc hơn lực lượng lao động các loại chưa có việc làm và đã cố gắng giải quyết được một mức đáng kể. Đầu năm 1977 Quận ta có 20.980 lao động thất nghiệp, qua hơn hai năm, chúng ta giải quyết được 11.613 người vào lao động ở các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, vào màng lưới phân phối quốc doanh, HTX. Như vậy đến nay quận ta còn khoảng gần 1 vạn lao động thất nghiệp chưa có việc làm. Nổi rõ trong đại hội, do quán triệt nghị quyết 5 của Trung ương, các chi bộ phường đã chú ý đúng mức đến bố trí sắp xếp lao động ở trong địa phương, trong đó đặt trọng tâm là giải quyết lao động thất nghiệp. Từ sau đại hội đến nay, nhiều phường đã giải quyết được hàng trăm lao động (Phường 3, 8). Tất cả các chi bộ phường đều quyết tâm đến năm 1980 sẽ giải quyết hết hoặc cơ bản lao động thất nghiệp.

Tuy nhiên trong lĩnh vực này, bên cạnh những thắng lợi lớn, cơ bản, cũng bộc lộ một số khuyết điểm.

- Về cải tạo:

- Ta chưa cố gắng liên tục để phát huy thắng lợi, mà chỉ tập trung làm mạnh ở cao điểm, sau đó lơi dần. Có những cái ta không phát triển nhanh tốc độ mà dừng lại hơi lâu (như trong cải tạo ngành dệt). Quán triệt chủ trương chánh sách chưa sâu, chấp hành chưa đến nơi đến chốn-nhất là ở cơ sở- dẫn đến lệch lạc, nhầm lẫn. Trong cải tạo tư sản thương nghiệp ta đánh trật đối tượng nhiều, có phường kiểm kê 100% là tiểu thương.

- Sau cải tạo, ta chưa có phương thức quản lý tốt, do đó ít phát huy được hiệu quả.

- Xây dựng không theo kịp với cải tạo, không đáp ứng kịp những yêu cầu thiết yếu cho sản xuất, đời sống, chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Tốc độ xây dựng đã chậm lại kém chất lượng. Trong tất cả các ngành đều chưa biến thành quyết tâm cao thực hiện chủ trương của Đảng là: cải tạo phải đi đôi với xây dựng mà xây dựng là chủ yếu. HTX dệt, tâp đoàn rau Tân Thắng; HTX xe lam; màng lưới thương nghiệp, HTX tiêu thụ v.v…đều còn đang yếu, chưa thể hiện tính ưu việt của phương thức làm ăn tập thể. Tình hình tổ chức cũng phức tạp, có một số tổ hợp quá trình làm ăn gian dối mà ta chưa kiểm soát được.

- Tình trạng có nguyên nhân khách quan về tính thời gian luôn phải tiến hành trong điều kiện gấp, khẩn trương chưa được chuẩn bị chu đáo, có khó khăn chung tác động (như nguồn hàng, nguyên vật liệu) và hậu quả chiến tranh; nhưng nguyên nhân chủ quan là tinh thần tự lực tự cường chưa cao, trình độ tổ chức, quản lý đã yếu lại thiếu kiên trì, thiếu học hỏi rút kinh nghiệm để tự nâng cao trình độ, còn ỷ lại trông chờ vào trên, còn để những tình trạng tiêu cực trì kéo chưa tích cực khẩn trương khắc phục.

- Mặc khác về phân công phân cấp quản lý giữa Trung ương, Thành phố và quận còn nhiều chồng chéo, cản trở nhau, các chính sách về chế độ, giá cả còn nhiều chỗ chưa hợp lý.

- Về sản xuất: một vấn đề nổi lên là chưa điều phối tốt các ngành tác động mạnh vào sản xuất theo tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa. Các ngành chưa thật sự hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Trong chỉ đạo ta chưa chú ý đến việc tổ chức cho công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Cả trong sản xuất công nông nghiệp vấn đề tự lực, tự cường chưa được phát huy đúng mức, chưa khai thác hết tiềm năng tại chỗ, chưa tận dụng mọi khả năng về nguyên liệu; phế phẩm, phế liệu. Các ngành chuyên môn vừa chưa làm tốt chức năng tham mưu, vừa chưa quản lý ngành tốt. Một số ngành chưa đáp ứng kịp các yêu cầu của sản xuất, đôi khi nặng nề về nguyên tắc, thủ tục, thiếu sâu sát, linh hoạt mà cản trở sản xuất.

Nhược điểm lớn nhất trong khu vực sản xuất là bước điều tra cơ bản ta chưa làm kỹ. Chúng ta còn bỏ sót chưa nắm hết được lực lượng máy móc, vật tư, lao động còn tiềm tàng trong quần chúng, chỉ đạo sản xuất chưa kịp thời, nhạy bén, nhiều khi còn bị động, lúng túng. Và rõ ràng trong lĩnh vực này, trình độ tính toán, năng lực quản lý để đưa guồng máy sản xuất đạt được hiệu quả tối ưu còn rất non kém.

B/ VỀ CHĂM LO ĐỜI SỐNG:

Đứng trước những khó khăn về đời sống, Đảng bộ đã cố gắng liên tục kết hợp chặt chẽ giữa thực hiện các mặt công tác với chăm lo đời sống nhân dân.

Song song với đấu tranh cải tạo, ta đã củng cố, phát triển màng lưới phân phối quốc doanh, HTX cung cấp những mặt hành thiết yếu cho đời sống và những sinh hoạt bình thường của nhân dân, góp phần quan trọng giảm bớt những khó khăn về đời sống.

- Về thương nghiệp: Trong hai năm chúng ta đã xây dựng được:

1977

1978

Cửa hành thương nghiệp quốc doanh

Cử hành HTX tiêu thụ

8

99

28

142

Riêng HTX tiêu thụ đã thu hút được 50.000 xã viên, đóng góp 90.000 cổ phần, trị giá trên nửa triệu đồng. Hàng tháng mỗi xã viên mua được từ 13 đến 18 đồng các loại hàng thiết yếu, một số mặt hàng như muối, nước chấm, tương, chao v.v…Hợp tác xã đã đáp ứng tương đối đủ cho xã viên mua.

Điều quan trọng là màng lưới phân phối quốc doanh và HTX đã góp phần tích cực vào việc đấu tranh giá cả, từng lúc kéo giá xuống, làm giảm bớt những biến động giá cả căng thẳng ngoài thị trừơng.

- Về lương thực: Tình hình lương thực trong hai năm qua là một trong những vấn đề đã gặp khó khăn đặc biệt. Tỷ lệ gạo giảm đáng kể, hiện nay chỉ còn 5 đến 10%. Năm 1978 thực nhận chỉ đạt 92% kế hoạch lương thực trên giao (25.686 tấn/27.788 tấn). Bị ảnh hưởng do nạn lụt giá gạo tăng vọt từ 2 đến 3 đồng đầu năm lên 7 đến 8 đồng thậm chí có lúc 12 đ. Toàn quận có 443 hộ đói với gần 3.000 khẩu, Đảng bộ đã tập trung giải quyết vấn đề này, đã cứu trợ hàng chục tấn gạo, không để một ai chết vì đói, vận động bà còn khá giả nhường phần lương thực, tăng cường chế biến mì phát triển từ 14 lò lên 37 lò và 07 lò chế biến bánh mì, nuôi. Việc động viên bà con nộp thuế nông nghiệp cũng được chú ý để bổ sung vào sổ lương thực, năm 1978 thu vượt 2% kế hoạch (51,079/50,300 tấn).

- Về văn hoá thông tin:

Đã bám sát và phục vụ các nhiệm vụ chính trị của quận, nhất là trong các đợt công tác lớn, so với năm 1976 cả về hình thức, nội dung và quy mô hoạt động đã có mở rộng, cải tiến, nâng lên phong phú và có chất lượng hơn. Ngành đã kết hợp giữa tuyên truyền rộng (phát loa, hệ thống truyền thanh, pa nô, khẩu hiệu v.v…) với tuyên truyền điểm vào từng tổ dân phố cho gần 90 vạn lượt người.

Công tác văn nghệ quần chúng được đẩy mạnh. Năm 1976 các đội văn nghệ quần chúng đã có nhiều tiết mục tự biên tự diễn, có chất lượng, phù hợp với yêu cầu.

Ngành mở ra nhiều câu lạc bộ, hoạt động bổ ích, thu hút một số đông khán giả, nhất là lớp trẻ.

Màng lưới thư viện và phát hành sách báo cũng có nhiều tiến bộ. Quận có thư viện, 21/26 phường có phòng đọc sách.

Ngành còn đẩy mạnh công tác triễn lãm phục vụ kịp thời yêu cầu tuyên truyền, giới thiệu và cổ động khán giả.

Đặc biệt ngành đã chú ý đến công tác bảo tồn, bảo tàng, tích cực sưu tầm các hiện vật và sự kiện lịch sử, bước đầu sưu tầm được trên 100 hiện vật có giá trị lịch sử, kịp thời trưng bày nêu lên truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân quận nhà.

- Công tác y tế:

Đang được đẩy mạnh cả hai mặt phòng bệnh và điều trị, vừa mở rộng màng lưới y tế cơ sở phục vụ nhân dân, vừa đẩy mạnh các phong trào kết hợp giữa thuốc tây và thuốc nam. Từng đội vệ sinh phòng bệnh thường xuyên xuống phường kiểm tra sức khoẻ của nhân dân, phun thuốc trừ muỗi, tổ chức diệt chuột, tiêm phòng cho dân, mở thêm phòng khám đa khoa ở khu vực.

Năm 1978 Hội Chữ thập đỏ được thành lập, đã thu hút gần 15.000 hội viên, hoạt động có hiệu quả bên cạnh tổ chức y tế.

Nhờ vậy tình hình vệ sinh đường phố, vệ sinh nơi công cộng đã có bứơc tiến bộ, dịch bệnh được ngăn chặn.

- Về công tác bảo vệ bà mẹ trẻ em:

Đã xây dựng được 23 nhà trẻ gồm 857 cháu. So với kế hoạch chỉ đạt 78% nhưng là một cố gắng lớn, trong khi phải đào tạo một số lượng cô nuôi dạy trẻ tìm nhà và phương tiện khó khăn. Nói chung công tác này có thực hiện nhưng chưa được lãnh đạo lưu tâm đúng mức. Các điều kiện vật chất cho các cháu bị thiếu thốn nhiều, có nhà trẻ mưa là bị ngập (phường 12), dột (phường 9), không có hệ thống thoát nước (phường 23), yêu cầu năm 1978 hầu hết các nhà trẻ đều phải sửa chữa, nhưng mới sửa được 2 nhà trẻ (phường 7, phường 24). Đồng thời một số nhà trẻ tinh thần phục vụ của các cô nuôi dạy trẻ còn kém, do vậy cán bộ, công nhân viên gởi con vào nhà trẻ là chưa an tâm.

Công tác giáo dục : Đã có một bước tổ chức và phân cấp lại chặt chẽ và hợp lý hơn giữa quận và sở, do vậy ngành này có những tiến bộ rõ rệt.

Ngành chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong giáo viên, học sinh, làm chuyển biến chắc hơn nhận thức về vai trò, trách nhiệm trong sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nhiều giáo viên và học sinh còn tình nguyện đi chiến đấu.

Lực lượng nòng cốt trong nhà trường cũng được chú ý xây dựng phát triển, kết nạp 1.509/1.954 giáo viên vào công đoàn, thành lập 20 chi đoàn, 257 chi đội thiếu niên tiền phong kết nạp thêm 15 đoàn viên.

Số học sinh năm 1978 cũng tăng hơn năm 1977 trên 6.000 em, đa số là con em nhân dân lao động.

Ngành đã khẩn trương tiến hành cải tạo thi đua dạy tốt và học tốt, năm học 77 – 78, 94% học sinh thi đạt hết cấp I, 92% học sinh thi đạt hết cấp II, 634 giáo viên tiên tiến và đặc biệt đã sáng tạo ra 7.229 đề dạy học có giá trị.

Công tác bổ túc văn hóa cơ bản đã xóa xong nạn mù chữ (94,18%) mở 6 trường dân chính cho trên 8.000 học viênlà cán bộ, nhân viên, chiến sĩ.

Nhưng ngành cũng còn một số phức tạp, nhất là trong giáo viên, đặt biệt là số giáo viên và học sinh người Hoa, Thiên chúa giáo. Nhiều vụ viết khẩu hiệu chống đối, giáo viên kích động học sinh và nổi bật là vấn đề tung tin ta lấy máu học sinh đã có tác dụng xấu đối với một bộ phận giáo viên, học sinh và cả phụ huynh.

Công tác thương binh xã hội : tập trung làm khẩn trương việc điều tra, xác nhận liệt sĩ, thương binh, gia đình có công cách mạng. Qua làm thí điểm rút kinh nghiệm đã làm đồng loạt ở toàn quận, xác minh 1793 hồ sơ kê khai, công nhận được 1.372, trao 1.072 bằng Tổ quốc ghi công cho gia đình, giải quyết cho 14 con liệt sĩ đi học, công nhận 21 hồ sơ thương binh, tu sữa 258 mồ liệt sĩ, chú trọng thực hiện chế độ chính sách đối với các gia đình thương binh, tác động phong trào đền ơn đáp nghĩa, giáo dục toàn dân biết ơn tôn trọng và chăm sóc các gia đình này. Ngoài ra còn dựng một số bia truyền thống, cứu trợ xã hội cho 10.300 người.

Đây là một công tác khá phức tạp đòi hỏi phải hết sức công phu để thực hiện đúng chính sách, đúng đối tượng. Tuy cũng còn một vài thiếu sót như xét duyệt chậm, một vài nơi thiếu chính xác, xong cơ bản là ta làm tốt, động viên được nhân dân.

Về thể dục thể thao : năm 1978 ta đẩy lên phong trào khá hơn, thường xuyên phát động tập thể dục buổi sáng, thể dục giữa giờ ở tất cả các cơ quan, trường học, xí nghiệp, nhất là tổ chức huấn luyện cho đơn vị cơ quan, phục vụ nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu.

Tuy có nhiều khó khăn về vật chất, xong ngành đã xây dựng được đủ các bộ môn thể thao, tập hợp các huấn luyện viên, cầu thủ có kinh nghiệm để làm nòng cốt cho phong trào.

Ngành đã bước đầu cải tạo những cơ sở tư nhân, đã làm xong đối với các hồ bơi trong quận (3 hồ bơi) và một cơ sở bóng bàn chuyển sang quốc doanh, còn 43 cơ sở tư nhân khác đang tiếp tục cải tạo.

Kiểm điểm công tác chăm lo đời sống các ngành, các cơ quan đã cố gắng phục vụ nhân dân trong khả năng của mình nhiều lúc tập trung đấu tranh mạnh góp phần ổn định một mức tình hình thị trường. Song vì màng lưới phân phối quốc doanh ta chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu của nhân dân, nguồn hàng mới nắm được trong tay từ 3 đến 40%, vì vậy đời sống nhân dân còn phụ thuộc vào giá cả lên xuống thất thường (có lúc cao vọt) ngoài thị trường tự do nhân dân lao động có thu nhập thấp, đời sống còn khó khăn chật vật. Trong đấu tranh giá cả ta chưa nắm và quản lý được nguồn hàng nên không hạn chế được tăng giá.

Hệ thống thương nghiệp quốc doanh và HTX còn hoạt động theo phương thức kinh doanh đơn thuần, một phương thức phân phối bình quân, chưa đủ sức và cũng chưa phát huy đầy đủ chức năng là một người nội trợ đắc lực của nhân dân lao động, chưa xuất phát từ quan điểm phục vụ. Các nguyên tắc, chế độ không được tôn trọng, buông lỏng kiểm tra dẫn đến tham ô, ăn cắp, hư hao, mất mát phát triển, có vụ nghiêm trọng. HTX không chấp hành quy định về đại hội xã viên, coi thường quyền làm chủ của xã viên, xảy ra một số nơi, Ban quản trị tự do thao túng, dùng HTX kinh doanh cho mình. Mặt khác, chúng ta chưa có biện pháp kiên quyết đấu tranh giá cả ngoài thị trường, khiến hàng hóa ngày càng lên giá, nhất là những mặt hàng thiết yếu, tác động rất xấu đến tâm tư tình cảm quần chúng.

Công tác văn hóa thông tin chưa chú trọng nắm sát tâm tư tình cảm của quần chúng để có nội dung tuyên truyền, giáo dục kịp thời và thích hợp với từng loại đối tượng. Cuộc đấu tranh giải quyết những xung đột về tư tưởng trong quần chúng giữa cái cũ và cái mới chưa sâu sắc và nhạy bén. Kinh nghiệm trong thực hiện các đường lối chủ trương của Đảng, lúc nào ta tập trung làm tốt những công tác vận động giáo dục thì quần chúng tham gia đông đảo, kết quả đạt được rất cao. Việc tuyên truyền phổ biến những điển hình tiên tiến người tốt việc tốt để bồi dưỡng xây dựng những con người mới xã hội chủ nghĩa còn thiếu thường xuyên, thiếu nội dung phong phú.

CÔNG TÁC GIỮ GÌN AN NINH CHÍNH TRỊ VÀ TRẬT TỰ XÃ HỘI, CHIẾN ĐẤU VÀ SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU

Hai năm qua, cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra khá gay gắt. Kẻ địch (cả cũ và mới) phản ứng quyết liệt và ra sức phá hoại. Nhưng dựa vào dân Đảng bộ đã lãnh đạo thực hiện thắng lợi chủ trương đường lối của đảng, vừa ngăn chặn và trấn áp kịp thời mọi âm mưu và hành động chống phá của địch.

Do đặc điểm về chính trị và quân sự, quân ta là một địa bàn tập trung đủ loại phản động và tệ nạn xã hội chúng hoạt động khá tinh vi, táo bạo, kể cả âm mưu bạo loạn, gây biến động võ trang.

Phát hiện địch lập ra 27 nhen nhóm phản động. Những nhen nhóm ta đều khám phá và dập tắt. Bọn này đều là ngụy quân, ngụy quyền, cả số đi học tập cải tạo về, thậm chí có tên đầu thú xin làm việc cho ta nhưng thực chất là chui vô tổ chức lực lượng chống đối.

Ngoài ra, các bọn phản động khác như tình báo Pháp, Nhật, Tưởng và đặt biệt là bọn phản động Trung quốc cũng ráo riết hoạt động, gây rối về chính trị, tung tin kích động, thậm chí xúi giục biểu tình.

Khi bọn Trung quốc tung ra vụ nạn Hoa kiều thì hàng loạt người Hoa bỏ trốn hoặc xin về nước, nhiều phường, xí nghiệp xin về gần như 100% (phường 24, xí nghiệp Thủy tinh Tân Bình) kể cả cán bộ Đảng viên. Tính chung toàn quận có 2.287 hộ gồm 12.338 người Hoa xin đi, trong đó có đại diện HĐND phường, 45 tổ trưởng tổ phó dân phố.

Tuy không có cơ sở trong người Hoa nhưng ta đã tập trung cán bộ tuyên truyền giải thích và bằng hành động thực tế đã làm nhiều bà con Hoa thấy rõ phải trái xin ở lại.

Hoạt động của bọn chống đối trong tôn giáo cũng khá phức tạp. Bọn Thiên chúa giáo có 3 xu hướng : thích nghi thời đại, cực đoan và lưng chừng song nguy hiểm vẫn là bọn “cực đoan”. Bọn Phật giáo ấn quang thì chống đối ta ra mặt, từ việc treo cờ đạo lên trên cờ Tổ quốc đến công khai không cho Phật tử đi bộ đội, đi kinh tế mới, đe dọa tự thiêu và chứa chấp vào chùa cả hàng hóa bất hợp pháp của tư sản (như chùa Phổ Hiền phường 1).

Đối với bọn này ta đã vận dụng tốt chính sách, nắm giáo dân và tín đồ nhất là bà con lao động xây dựng cơ sở, do đó đã vạch mặt cô lập, trừng trị bọn phản động, làm cho bà con thấy rõ chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng là tôn trọng tín ngưỡng nhưng không cho phép bọn phản động lợi dụng chống phá cách mạng, phản bội Tổ quốc.

Về tội phạm hình sự xảy ra 1424 vụ. Năm 1978 giảm 160 vụ so với năm 1977. Trong đó có 23 vụ trọng án.

Cần chú ý là tính chất một số vụ trọng án khá nghiêm trọng. Trong 83 vụ có 10 vụ giết người, có vụ rất man rợ. Một số tên gây án lại giả danh bộ đội, công an, công nhân thu tiền điện nước vv…Phần đông trong bọn chúng đầu có vũ khí, kể cả súng ngắn (ta đã khám phá ra 56 vụ bắt 101 tên).

Tất cả những hoạt động của bọn phản động, cũng như hình sự đều gắn chặt với giai cấp tư sản và đều nhằm một mục đích phục thù giai cấp, lật đổ chính quyền, gây rối và làm chậm lại tốc độ xây dựng XHCN của ta.

Sở dĩ kẻ địch các loại không thực hiện ý đồ của chúng vì các lực lượng công an, quân sự được chỉ đạo chặt chẽ dựa vào dân khoanh vùng và nắm chắc bọn nguy hiểm như tình báo các loại, cảnh sát đặc biệt, bọn T 110 và lên danh sách theo dõi các loại tình nghi. Và điều chủ yếu là đã phát huy quyền làm chủ tập thể, phát động liên tục và rộng rãi phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc nâng cao lòng yêu nước.

Ta đã thành lập các tổ thanh niên xung kích tự vệ võ trang rộng rãi mà thanh niên là nòng cốt, thành lập trung đội bạch đầu quân, vận động thanh niên tòng quân và đi thanh niên xung phong được 1.500 người (vượt chỉ tiêu trên giao). Khí thế chung là đồng bào hiểu được tình hình đất nước, thể hiện tinh thần quyết tâm bảo vệ đất nước, sẵn sàng cho con em đi nhập ngũ và sẵn sàng chiến đấu.

Riêng lực lượng quân sự được xây dựng thường xuyên vững mạnh, bảo đảm tính chiến đấu cao. Công tác huấn luyện, học tập đã thành nề nếp trong lực lượng bộ đội của quận và còn tổ chức huấn luyệncho tự vệ xí nghiệp, cơ quan, trường học, phường. Trong đợt hội thao bắn đạn thật toàn bộ 537 đ/c tham dự đầu đạt loại khá giỏi.

Việc bảo vệ pháp chế XHCN cũng được tăng cường, vừa đẩy mạnh công tác tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân, vừa có sự hoạt động phối hợp giữa viện kiểm sát, Tòa án và các ngành hữu quan giải quyết và xử lý các vụ phạm pháp kể cả đưa ra xử ở Tòa án.

Về tuyển quân, do chỉ đạo chặt, phối hợp giữa các ngành tốt hơn và bằng những hình thức tuyên truyền phong phú đã khơi dậy trong nhân dân đặt biệt là thanh niên lòng yêu nước căm thù giặc, ý thức trách nhiệm với Tổ quốc vì thế cả 2 năm công tác tuyển quân đều đạt kết quả cao. Toàn quận đã động viên được 2.560 thanh niên nhập ngũ so với chỉ tiêu vượt 3,98%.

Tuy nhiên trong tình hình hiện nay, ta chưa có sự kết hợp chặt giữa các lực lượng công an, quân sự, các đoàn thể phối hợp nhịp nhàng trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội. Một bộ phận quần chúng còn lo sợ chiến tranh, chưa có ý thức phát hiện và truy bắt kẻ gian. Trong thanh niên còn có tình trạng trốn tránh nghĩa vụ quân sự, nạn trộm cướp còn khá nhiều nhất là kẻ địch còn câu kết được các lực lượng với nhau có lúc phối hợp hành động gây cho ta những khó khăn và tác động xấu trong quần chúng. Một vấn đề nổi lên mà chúng ta cần phải thấy rõ là : nếu chúng ta lơ là cảnh giác thì kẻ địch vẫn có khả năng tổ chức và kích động gây bạo loạn võ trang hoặc xúi giục biểu tình chống đối. Mặc dù nếu xảy ra bạo loạn, biểu tình quần chúng ta có đủ khả năng dập tắt song chúng ta phải bằng mọi biện pháp ngăn chặn không để nó xảy ra.

Vấn đề cơ bản vẫn là dựa vào quần chúng lao động, đồng thời ta phải nhanh chóng xây dựng một lực lượng nòng cốt rộng rãi khắp các đường phố, trường học, xí nghiệp thì mới ngăn chặn có hiệu quả.

D/ CÔNG TÁC XÂY DỰNG CÁC ĐOÀN THỂ VÀ THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ TẬP THỂ CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG.

Trước yêu cầu và nội dung thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ngày càng trở nên bức thiết, thành nội dung xuyên suốt trong chủ trương của Đảng và sự chỉ đạo của thành ủy, Đảng bộ đã nghiêm chỉnh thực hiện vấn đề này.

Cùng với việc giáo dục vận động tạo điều kiện cho quần chúng lao động hiểu và phát huy quyền làm chủ tập thể của mình, nhất là trong các cuộc vận động chính trị lớn. Quận ủy đã chỉ đạo cho các cơ quan chuyên môn đi sát kiểm tra, kịp thời giáo dục, xử lý sai trái, đặc biệt là tổ chức các cuộc báo cáo của chánh quyền ra dân hàng tháng để dân đóng góp.

Đầu năm 1979, thực hiện cuộc vận động lớn của Thành ủy tổ chức các cuộc báo cáo ra quần chúng ở cơ quan, xí nghiệp và ra dân, Quận ủy tập trung chỉ đạo tiến hành làm 2 đợt. Nhân và quần chúng cơ quan, xí nghiệp đã đóng góp trên 10.000 ý kiến, trong đó 75% ý kiến đóng góp quần chúng đã tập trung và 3 vấn đề lớn : vấn đề đời sống, vấn đề vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân, vai trò của chi bộ, ủy ban và các cơ quan phường.

Về đời sống : Quần chúng rất thông cảm với khó khăn hiện nay, song phê phán nhiều việc phân phối không công bằng (dành đồ ngon, của hiếm cho cán bộ cho người thân trong bộ máy phân phối) : cân đong thiếu (phổ biến) nhất là HTX tiêu thụ xảy ra nhiều vụ tham ô, ăn cắp, kinh doanh lấy lời quá đáng, tự ý tăng gia bán chợ đen (phường 2, 12,7, ….). Nhiều nơi quần chúng rất bất bình về việc ta để con buôn tự ý tăng giá không có biện pháp ngăn chặn, làm cho đời sống quần chúng rất chật vật, thời gian phân phối bất hợp lý, gây trở ngại cho cán bộ, công nhân viên, người lao động.

Về vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân.

Quần chúng nêu khá mạnh về những vụ CA, cán bộ nhân viênchiếm, gây phiền hà cho dân. Chính quyền chưa coi trong hội đồng nhân dân, phầnlớn các phường có khi 4,5 tháng mới họp một lần. Nhiều ý kiến của nhân dân không được xem xét giải quyết thỏa đáng, có khi còn trù ếm, hù dọa. Nói chung quần chúng phê phán thái độ tiếp dân của cán bộ, nhân viên phường thường là thiếu hòa nhã, thậm chí nạt nộ, gây khó dễ, nhiều trường hợp công an bắt người, đánh người trái phép, cán bộ ăn hối lộ, lo làm giàu.

Về lãnh đạo của chi bộ, ủy ban và các cơ quan phường, quần chúng phê phán chưa xác đáng, chưa quan tâm đến đời sống và giải quyết công ăn việc làm cho dân. Nhiều nơi chính quyền, công an, phường đội, đoàn thể mỗi nơi nói một khác, không ăn khớp, không hợp đồng chặt chẽ, làm cho dân không biết cách nào thực hiện, chính quyền phần lớn làm việc theo kiểu mệnh lệnh; ít giáo dục giải thích .

Nhìn chung, qua các đợt sinh hoạt chính trị và tự phê bình trước dân, quần chúng rất phấn khởi, thấy rõ ưu điểm tích cực, tận tụy của cán bộ, chiến sĩ, mạnh dạn phê phán sai trái và kết quả lớn là tạo được lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, chính quyền, củng cố khối đoàn kết, gắn bó hơn giữa dân với chính quyền, bảo đảm hòan thành nhiệm vụ trong giai đọan mới.

Trong phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, Quận ủy đã trú trọng chỉ đạo phát huy vai trò của các đàon thể và trong năm qua, các đoàn thể cũng có nhiều hoạt động khá tốt.

- Công đoàn: Đã tập hợp được lực lượng công nhân thành một tổ chức thống nhất, thường xuyên giáo dục, nâng cao về giác ngộ giai cấp, phát huy được vai trò của đội quân chủ lực cách mạng trong cải tạo và xây dựng. Tổ chức công đoàn ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống chính trị và quyền lợi của công nhân. Trong mọi công tác cách mạng, công nhân đều tích cực tham gia, đặc biệt là đã góp phần rất lớn trong công tác cải tạo, xây dựng, sản xuất ra của cải vật chất. phong trào thi đua lao động và sẵn sàng chiến đấu trong công nhân phát triển khá sôi nổi, 37 xí nghiệp hoàn thành xuất sắc kế họach nhà nước, công nhân có 317 sáng kiến, làm lợi cho nhà nước 3 triệu đồng, tận dụng nguyên vật liệu tiết kiệm được 614.000 đồng. Trong 2 năm, công đoàn đã kết nạp xây dựng được 44 BCH công đoàn cơ sở, 15 ban vận động kết nạp trên 5.000 đoàn viên công đoàn, nâng tổng số đoàn viên lên gần 9.000 người (tăng hơn năm 1976 gấp 3 lần). ngoài ra còn thành lập được 34 hội lao động hợp tác, thu hút gần 20.000 công nhân.

- Đoàn thanh niên: Được chỉ đạo chặt đã phát huy tốt vai trò xung kích làm chủ tập thể trên mọi lĩnh vực. Đoàn liên tục phát động phong trào “3 xung kích”, phong trào “thanh niên hăng hái tòng quân giết giặc bảo vệ tổ quốc”, phong trào “trách nhiệm và tình thương” trên 50 vạn lượt đoàn viên thanh niên đã tham gia các cuộc sinh hoạt chính trị, gần 30.000 đoàn viên, thanh niên tham gia chiến dịch cải tạo tư sản, làm ngày làm đêm và không một ai vi phạm kỷ luật, một số nêu gương tốt không để bị tư sản mua chuộc hối lộ. thanh niên đã đào đắp trên 1 triệu mét khối đất thủy lợi, tận dụng chất phế thải làm lợi cho nhà nước 14.000 đồng, đặc biệt trong phong trào thanh niên hăng hái tòng quân đã có khí thế tốt, số thanh niên vào dự bị, thành lập 36 đội thanh niên xung kích với 15.300 đội viên.

Qua thử thách, đoàn đã kết nạp được 2.160 đoàn viên, 12.786 hội viên. Đoàn còn chú trọng dìu dắt giáo dục đội thiếu niên tiền phong, đưa các hoạt động của các cháu lên đạt nhiều thành tích, là đơn vị khá của toàn thành.

- Đoàn thể phụ nữ: cũng đã đi sâu hơn công tác giáo dục chính trị, tư tưỏng, mở rộng mạng lưới tuyên truyền, xây dựng thêm nhiều nòng cốt, tập hợp ngày càng đông chị em phụ nữ thực hiện các công tác cách mạng và tham gia 3 phong trào phụ nữ. Chị em còn đặc biệt chú trọng công tác hậu phương, chăm sóc tốt các gia đình thương binh, liệt sĩ, tổ chức 1.819 cuộc thăm viếng tặng quà trị giá trên 3.000 đồng.

- Đoàn thể nông hội: vừa qua đã phát huy tác dụng việc vận động bà con làm ăn tập thể. 11 phường nông nghiệp đã có Ban chấp hành nông hội với 3.000 hội viên đang làm nòng cốt trong các tập đoàn, hướng dẫn bà con nông dân đi theo con đường tập thể do Đảng vạch ra.

- Mặt trận: đã góp phần tích cực tuyên truyền giáo dục chủ trương chính sách của Đảng đối với đồng bào tông giáo trí thức, nhất là hàng giáo phẩm, động viên họ góp phần giải quyết có kết quả một số việc chống đối phức tạp do địch lợi dụng tôn giáo gây ra như vụ Linh mục Tường, vụ chùa Phổ Hiền chứa hàng tẩu tán của tư sản..v..v...

Mặt trận còn động viên các cụ phụ lão, đưa các cụ vào ửô chức, thành lập trung đội bạch đầu quân, đẩy mạnh hoạt động của các cụ trong phong trào thi đua 3 giỏi có tác dụng tốt đối với phong trào chung.

Tuy nhiên việc các đoàn thể tham gia vào việc kiểm tra, góp ý xây dựng chính quyền chưa làm được bao nhiêu và hoạt động của đoàn thể còn đơn giản, chưa đi sâu vào từng đối tượng, nhất là đối tượng Thiên chúa giáo và người Hoa.

E/ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, TỔ CHỨC VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG:

Trọng tâm công tác chính trị tư tưởng từ sau đại hội Đảng bộ đến nay là: làm cho đảng viên, cán bộ, nhân viên, chiến sĩ và các tầng lớp quần chúng quán triệt và tích cực thực hiện Nghị quyết Đại hội 4 của Đảng, NQ đại hội lần thứ nhất của Đảng bộ Thành phố. NQ đại hội lần thứ nhất của Đảng bộ quận, Đảng bộ đã kiên trì đấu tranh chống những tư tưởng tiêu cực, thỏa mãn, hoà bình, hưởng thụ và những biểu hiện thoái hoá xuất hiện khá phức tạp trong nội bộ để đạt được sự thống nhất về tư tưởng và hành động, củng cố nâng lên về lập trường, quan điểm, về trình độ, năng lực về ý chí cách mạng tiến công.

Công tác chính trị tư tưởng còn gắn rất chặt và phục vụ tốt cho các công tác trọng tâm, đột xuất như cải tạo tư sản thương nghiệp, đổi tiền, vận động thanh niên đi NVQS...và trong việc phát động nội bộ và nhân dân xác định rõ kẻ thù, nhận rõ tình hình mới của đất nước đang có chiến tranh do bọn phản động Bắc kinh gây ra.

Trong thời gian qua, công tác tổ chức và xây dựng lực lượng cũng đã bám sát phục vụ cho nhiệm vụ chính trị, đã có một bước tiến bộ.

Hướng chủ yếu của công tác này là dồn sức xây dựng củng cố ở cơ sở, theo như Nghị quyết của Đảng bộ Thành phố và Đảng bộ quận.

Bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở, đặc biệt là đơn vị phường được kiện toàn một bước chắt chắn hơn, chất lượng về mọi mặt đều được nâng lên.

Cuối năm 1976 đầu năm 1977,các chi bộ phường mới có 3 chi bộ khá, 5 chi bộ trung bình, còn lại 18 chi bộ kém, nay đã có 6 chi bộ khá, 12 chi bộ trung bình, còn 78 chi bộ kém.

Thường vụ Quận ủy thường xuyên duy trì lịch phân công các đồng chí Quận uỷ viên, các cán bộ chủ chốt phụ trách và bám sát giúp phường; chỉ đạo các ngành, đoàn thể tung cán bộ, nhân viên xuống phường thực hiện các công tác.

Nhìn chung tình trạng thiếu sâu sát ở cơ sở đang được tích cực khắc phục. Qua đó, vừa trực tiếp giúp cơ sở bảo đảm thực hiện đúng các chỉ thị Nghị quyết của Đảng, vừa đi sát kiểm tra uốn nắn lệch lạc, phát hiện những chi bộ những đồng chí yếu kém, có vấn đề, kịp thời kiểm điểm giải quyết, thay đổi hoặc xử lý những đồng chí quá yếu hoặc phạm kỷ luật.

Đi đôi với xây dựng Đảng, Đảng bộ chú trọng phát huy chức năng của bộ máy chính quyền, các đoàn thể, nâng cao được hiệu lực cuả các bộ máy này trong việc quản lý hành chính, quản lý kinh tế, quản lý xã hội và bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Đặc biệt các đoàn thể, công đoàn, thanh niên, phụ nữ, nông hội, mặt trận đã tích cực hoạt động góp phần rất lớn vào việc vận động tập hợp các tầng lớp quần chúng nhất là công nhân, thanh thiếu niên thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng. Vì thế, chúng ta đã dần dần đi vào thực hiện theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, dân làm chủ, chính quyền quản lý.

Qua các bước xây dựng và kiện toàn cơ sở, và đặc biệt qua kỳ đại hội chi bộ vừa rồi, Đảng bộ đã lớn mạnh lên một bước, năng lực, phẩm chất được nâng lên, lực lượng trẻ được tăng cường, đội ngũ cán bộ được bố trí, sắp xếp một cách hợp lý hơn.

Cuộc đấu tranh bảo vệ nội bộ, tăng cường sức mạnh của Đảng được chỉ đạo gắn chặt các đợt công tác với việc thực hiện NQ 28 – 29, thông tri 22, chỉ thị 46 và gần đây là Chỉ thị 27 của Trung ương, Chỉ thị 39 của Thành uỷ (trong 2 năm 1977 – 1978 đã xử lý kỷ luật 117 vụ, đưa ra khỏi Đảng 47 đảng viên thoái hoá).

Hai năm qua, đội ngũ cán bộ đảng viên thể hiện một tinh thần cố gắng liên tục, dám nghĩ dám làm, có tinh thầntrách nhiệm, đã tích cực hoàn thành nhiệm vụ trong điều kiện công việc hết sức dồn dập.

Tuy nhiên chỗ yếu hiện nay trong công tác xây dựng Đảng là Đảng bộ chưa kết hợp chặt công tác chính trị tư tưởng với tổ chức chưa đề cao đúng mức công tác quan trọng này. Đa số các chi bộ xem nhẹ công tác chính trị tư tưởng, trong khi công tác tổ chức, xây dựng lực lượng không được chặc chẽ, có nơi buông lõng.

Nội dung sinh hoạt cho bộ chưa mang tính chiến đấu cao, thường bàn những công tác chuyên môn đơn thuần, mà chưa kiểm điểm sâu về lập trường, tư tưởng, về phẩm chất, đạo đức, về đấu tranh phê và tự phê xây dựng nội bộ. Nhiều chi bộ cơ quan (chuyên môn) chưa xác định rõ được tính chất và nhiệm vụ chính trị của chi bộ. Trongcác cuộc họp chi bộ thường nặng kiểm điểm công tác chuyên môn như họp chính quyền mà không xoáy vào trọng tâm chính là kiểm điểm việc lãnh đạo công tác chính trị, tư tưởng, công tác tổ chức, đời sống và xây dựng lực lượng để đảm bảo và phục vụ cho cơ quan hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn mà Quận uỷ giao cho. Một số chi bộ còn bỏ bê sinh hoạt, có khi 2,3 tháng, thậm chí 4,5 tháng không sinh hoạt chi bộ.

Một số chi bộ, vấn đề đoàn kết chưa tốt có những biểu hiện đoàn kết một chiều, cảm tình, nể nang, sợ không dám góp ý phê phán, cá biệt có nơi có hiện tượng bè phái, cục bộ kình địch lẫn nhau, chèn ép nhau.

Lề lối làm việc, tác phong công tác nhìn chung còn lề mề đơn giản, một số nơi rất lượm thượm. Các chi bộ chưa thật sự quan tâm đến công tác phát triển Đảng, cả năm 1977 kết nạp được 19 đảng viên. Năm 1978 kết nạp được 32 đảng viên, nhưng chất lượng cũng chưa thật bảo đảm. So với chỉ tiêu thì chỉ đạt 15%.

Công tác nắm bố trí và xử lý cán bộ, đảng viên chưa có hệ thống chặt chẽ, chắc chắn. Vì thế co tình trạng một số cán bộ bị điều động liên tục, gây xáo trộn cả về mặt tổ chức lẫn tư tưởng. Việc thực hiện các chế độ chính sách về đào tạo, giáo dục để bồi dưỡng và nâng đỡ còn thiếu thường xuyên, thiếu kịp thời.

Mộtvấn đề cần lưu ý là hiện nay tình trạng tham ô hối lộ móc ngoặc với tư sản, thu vén cá nhân, ăn cắp tài sản XHCN vẫn đang xảy ra ở nhiều mức độ khác nhau. Trong đợt cải tạo tư sản thương nghiệp cán bộ đảng viên vi phạm kỷ luật nhiều hơn quần chúng (10/1). Trong cải tạo nông nghiệp một số cán bộ đảng viên chẳng những đã không gương mẫu chấp hành chủ trương của Đảng mà còn phản đối mạnh hơn quần chúng trước tình hình đất nước có chiến tranh, nhiều gia đình nhân dân tự nguyện làm đơn cho con em mình nhập ngũ chiến đấu thì 1 vài cán bộ đảng viên lại viện lý do này lý do khác để giữ con em mình lại không cho đi bộ đội bảo vệ tổ quốc.

Tệ quan liêu xa rời quần chúng, hống hách nạt nộ, vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân còn xảy ra ở nhiều nơi.

Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên chính là do lập trường tư tưởng giai cấp công nhân không vững vàng, sa sút ý chí chiến đấu, thõa mãn. Hòa bình hưởng thụ và ở một số đồng chí, trong một chừng mực nào đó đã bị kẻ địch và giai cấp tư sản lung lạc, lôi kéo.

Đồng thời, một nguyên nhân quan trọng là công tác giáo dục, bồi dưỡng về chính trị tư tưởng, công tác quản lý và kiểm tra đảng viên của Đảng bộ còn yếu. Việc xử lý kỷ luật vừa chậm vừa chưa phát huy được tác dụng mang tính giáo dục sâu sắc.

Điều đáng chú ý là tư tưởng tiểu tư sản đã có ảnh hưởng ở một mức độ nhất định trong cán bộ đảng viên. Tư tưởng đó biểu hiện chủ yếu ở chỗ: thõa mãn, dừng lại, đòi hỏi hưởng thụ, nặng tính toán cá nhân, thu vén cho gia đình hơn là lo cho tập thể, lo cho công tác có phần nào bị cuộc sống vật chất chi phối. Có biểu hiện làm việc cầm chừng, thủ lợi, thủ tiêu đấu tranh hoặc vì lợi ích riêng tư mà gây rối cho tổ chức, cho đồng chí mình.

XX

X

Tóm lại hai năm qua Đảng bộ đã nỗ lực vượt bậc, bám sát đường lối chủ trương của Đảng và nghị quyết của Đảng bộ, làm được nhiều việc và thu thắng lợi lớn. Kết quả đó thể hiện chất lượng chính trị của Đảng bộ vững mạnh, trình độ lãnh đạo, tổ chức thực hiện được nâng lên, có thêm kinh nghiệm, tạo ra được một số cơ sở vững chắc cho bước phát triển mới trong sự nghiệp cải tạo và xây dựng, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu.

Sau hơn 3 năm cải tạo và xây dựng ở quần chúng ta đã hình thành một cơ cấu kinh tế có nông nghiệp, có công nghiệp, thế mạnh vẫn là tiểu thủ công nghiệp mà ngành dệt may là mũi nhọn, và trong đó, ngành xuất khẩu được chú ý phát triển đang chiếm một vị trí quan trọng. Đồng thời trong nông nghiệp, đang được quy họach lại theo hướng chuyên canh rau, màu, cây công nghiệp đi đôi với phát triển chăn nuôi, làm thành một vành đai xanh của thành phố.

Tuy nhiên, chúng ta còn một nhược điểm lớn là: chưa quản lý chặt, chưa tổ chức sắp xếp một cách hợp lý, chưa động viên cao tinh thần tự lực, tự cường để giải quyết những khó khăn trong quá trình sản xuất. Xây dựng không theo kịp với cải tạo, việc giải quyết lao động thất nghiệp chậm và lúng túng.

Hình thức làm ăn tập thể đang thay lối làm ăn cá thể, quan hệ sản xuất cũ cơ bản bị xóa bỏ, lực lượng lao động được giải phóng đang tạo sức mạnh to lớn, phát huy được khả năng tiềm tàng và sức sáng tạo của quần chúng lao động.

Qua 4 năm sống dưới chế độ mới XHCN, quần chúng nhân dân ngày càng hiểu rõ được bản chất tốt đẹp của cách mạng, đã có chuyển biến lớn trong suy nghĩ, trong nếp sống, trong tâm tư tình cảm, hướng về cách mạng, đồng tình và tham gia thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng. Nhưng công tác giáo dục giác ngộ quần chúng ta làm còn đơn giản, sơ sài, chưa phù hợp với trình độ từng giới, do đó quần chúng tiếp thu đường lối chủ trương của Đảng còn ít, có khi còn mơ hồ chưa làm cho tư tưởng XHCN thâm nhập chiếm ưu thế trong suy nghĩ, trong tình cảm của quần chúng. Quyền làm chủ tập thể của quần chúng chưa được tôn trọng đúng mức, trong khi đời sống khó khăn chiến tranh tác động đã có ảnh hưởng làm nảy sinh một số tiêu cực và phức tạp mới.

Bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể từ quận đến cơ sở củng cố và xây dựng đến nay đã vững mạnh hơn và bước đầu biết cách làm việc. Cơ cấu tổ chức đang dược hòan thiện theo mô hình mới. Tuy vậy, hoạt động của các bộ máy này chưa thật sự có hiệu lực, nhất là trên lĩnh vực quản lý kinh tế, đội ngũ cán bộ đảng viên có được nâng lên về trình độ, năng lực, nhưng so với yêu cầu thì chưa đáp ứng, do văn hóa thấp, chuyên môn yếu, sự phấn đấu vươn lên chưa cao. Mộ số đồng chí không phát triển được khả năng.

Từ thực tế 2 năm qua, chúng ta có thể rút ra một bài học kinh nghiệm sau đây:

1/ Trong chỉ đạo sản xuất, muốn cho việc xây dựng kế họach và sản xuất được kịp thời, bảo đảm tính vững chắc và tính chính xác thì phải tiến hành điều tra nắm chắc số liệu cơ bản. Trước nay vấn đề này ta nắm rất ít, không có hệ thống hoặc không nắm được. Vì vậy từ phường đến quận đều gặp lúng túng trong xây dựng kế họachvà khi đặt kế họach thì thì không sát, làm tốt bước điều tra cơ bản, sẽ giúp chúng ta nắm chắc năng lực tại chỗ, trên cơ sở đó mà có kế hoạch khai thác, tận dụng tổ chức sản xuất, phát triển và mở rộng nó lên, phục vụ đời sống nhân dân.

2/ Tăng cường cho cơ sở, bám sát và trực tiếp giúp cơ sở là yếu tố quan trọng bảo đảm thực hiệnthắng lợi nghị quyết của Đảng. Hai năm qua, thực tế chứng minh chủ trương của trung ương và Thành ủy dồn sức cho cơ sở, hướng về cơ sở là hết sức chính xác và đúng đắn. Đây là biện pháp then chốt trong tổ chức thực hiện mà Đảng bộ bước đầu rút kinh nghiệm nhằm đáp ứng việc hòan thiện nhiệm vụ chính trị trong giai đọan mới.

3/Kinh nghiệm nơi nào xây dựng được một chi bộ mạnh thì ở đó bộ máy chính quyền, đoàn thể đều mạnh và các phong trào đều lên khá. Chỗ nào chi bộ yếu thì ở đó rõ ràng là nẩy sinh nhiều mặt phức tạp, tiêu cực và phong trào cách mạng của quần chúng cũng khó lên nổi.

Vì vậy xây dựng chi bộ mạnh là yêu cầu hàng đầu công việc củng cố, xây dựng một đơn vị cơ sở mạnh toàn diện.

4/ Phải tổ chức và bảo đảm cho quần chúng lao động thực hiện đầy đủ quyền làm chủ tập thể của mình. Đó là nội dung cơ bản trong đường lối chủ trương của Đảng. Nhưng muốn làm tốt điều đó thì trước hết trong nội bộ phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân và gương mẫu thực hiện. Đồng thời phải tổ chức giáo dục cho nhân dân hiểu rõ cả hai mặt quyền lợi và nghĩa vụ để thực hiện đầy đủ quyền làm chủ tập thể của mình.

5/ Trong từng vấn đề, chỉ đạo phải tập trung, dứt điểm gọn, nhất là phải xuyên suốt từ đầu đến cuối, không nên để tình trạng chỉ tập trung lúc đầu sau đó lơi dần làm công việc dây dưa, kém hiệu quả.

6/ Cấp ủy phải chỉ đạo các ngành, đoàn thể, các đơn vị (kể cả quận và phường), phối hợp, kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, thành sức mạnh tổng hợp thì mới đạt hiệu suất công tác cao. Trước nay chúng ta thường ít phối hợp với nhau, hoặc phối hợp không chặt, nhiều khi ngành nào chỉ biết ngành nấy, do đó vừa không tập trung được sức mạnh mà có khi còn gâytrở ngại cho nhau.

Thông báo