ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
QUẬN ỦY TÂN BÌNH
PHẦN I : ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TỪ SAU ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ I ĐẾN NAY.
Hai năm qua, kể từ Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận lần thứ nhất đến nay, tình hình quận ta đã có những chuyển biến quan trọng.
Dưới ánh sáng Nghị quyết của Đảng, bằng sự nổ lực vượt bậc, liên tục của Đảng bộ, chính quyền và đồng bào trong quận, chúng ta đã giành được những thành tích to lớn, làm biến đổi sâu sắc bộ mặt của toàn quận.
Công tác cải tạo được tiến hành nhanh, toàn diện, làm xong về cơ bản một số ngành như tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp…Qua đó nắm chắc hơn năng lực và tình hình cơ bản phục vụ một cách có hiệu quả cho việc phát triển sản xuất, bố trí lại lao động, giải quyết công ăn việc làm và phục vụ đời sống nhân dân.
Tình hình sản xuất tiếp tục phát triển, được quy hoạch và tổ chức lại dưới các hình thức làm ăn tập thể. Sản phẩm tăng, đa dạng, được quản lý và đưa vào sử dụng có hiệu quả hơn.
Trong lúc đời sống nhân dân lao động có những khó khăn lớn, Đảng bộ đã có nhiều cố gắng chăm lo đời sống giảm bớt được những khó khăn vật chất cho bà con. Mạng lưới phân phối được tổ chức đến cơ sở, đưa đến tay người lao động những mặt hàng thiết yếu, từng bước đấu tranh quản lý thị trường, chống tăng giá, chống đầu cơ tích trữ, hạn chế một phần sự thao túng và bóc lột của lối kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Thông qua những cố gắng liên tục để thực hiện các nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội IV, nghị quyết 3, nghị quyết 4, nghị quyết 5, gần đây là Nghị quyết 16 của Bộ chính trị, các nghị quyết và sự chỉ đạo của Thành ủy, Đảng bộ đã trưởng thành một bước toàn diện, cả về tư tưởng, tổ chức đến năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, trình độ tổ chức thực hiện. Trên lĩnh vực lãnh đạo và quản lý kinh tế, chúng ta cũng cótiến bộ.
Quần chúng nhân dân tiếp tục có chuyển biến theo hướng tích cực. Giai cấp công nhân-nông dân có nhiều chuyển biến mới, thể hiện bản chất cách mạng, đi đầu trong công cuộc cải tạo và xây dựng.
Các giới lao động khác đồng tình với chủ trương của Đảng, đa số tích cực tham gia các công tác cách mạng.
Trong cải tạo, bà con tiểu thương hiểu được chính sách cókhả năng cải tạo nhưng tư tưởng chưa muốn chuyển qua sản xuất, còn dằng co day dứt.
Trước sức mạnh của nhân dân, giai cấp tư sản buộc phải chấp nhận cải tạo, một số nhà tư sản công nghiệp tỏ ra thức thời, song đa số cố tìm cho mình một lối thoát bằng nhiều thủ đoạn tội lỗi.
Đồng bào tôn giáo, đặc biệt là Thiên chúa giáo tuy vẫn bị kẻ địch, bọn xấu lợi dụng kích động, biểu hiện một số mặt tiêu cực, nhưng nhìn chung bà con lao động tin vào đường lối chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước, đóng góp nhiều công sức vào các công tác địa phương.
Ở Quận ta, đồng bào Hoa có trên 24.000 người. Trước nay bà con lao động vẫn làm ăn yên ổn, nhưng từ sau khi bọn phản động Bắc Kinh kích động, lôi kéo người Hoa về Trung Quốc, gây chiến tranh với ta thì tình hình ngày càng có những phức tạp. Tâm tư tình cảm của bà con người Hoa bị xáo động mạnh bị dồn vào chỗ bế tắc, không biết nên đi hay nên ở. Tuy hiểu được sai trái, tin ở Đảng và Nhà nước ta, nhưng vẫn lo sợ trước sự đe doạ, kích động nham hiểm của kẻ thù, không chủ động được lý trí lại vốn có những mặc cảm tiêu cực nên một bộ phận đồng bào người Hoa đã bị kẻ địch lôi kéo.
Hai năm qua diễn ra những biến động chính trị quan trọng, đặc biệt là đợt cải tạo thương nghiệp, đổi tiền, chiến tranh biên giới Tây nam, bọn phản động Trung quốc tung ravụ nạn kiều, gây chiến tranh xâm lược nước ta, cộng với những khó khăn về kinh tế đã tác động nhiều mặt đến tâm tư tình cảm và đời sống của quần chúng, có lúc có nơi gây ra những phức tạp và căng thẳng. Nhưng trước chính nghĩa của cách mạng, trước sự sáng suốt vững vàng của Đảng và Nhà nước, trước những thắng lợi to lớn của ta cả về chính trị, quận sự, ngoại giao, đã củng cố lòng tin của quần chúng, bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, cổ vũ và phát huy khí thế cách mạng, giác ngộ, tập hợp ngày càng đông đội ngũ quần chúng tích cực, có tác dụng lôi cuốn và làm chuyển biến tầng lớp trung gian và một bộ phận quần chúng lạc hậu. Chính trong cuộc vật lộn gay go này, quần chúng càng tỏ rõ tinh thần cách mạng ý thức làm chủ tập thể, sự chịu đựng và chấp nhận khó khăn là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ của Đảng, bảo đảm cho chúng ta hoàn thành nhiệm vụ lịch sử trong giai đoạn mới.
KIỂM ĐIỂM VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ NHẤT ĐẾN NAY:
Quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng, Nghị quyết đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ nhất, Đại hội Đại biểu lần thứ nhất của Đảng bộ của quận đã đề ra một nghị quyết toàn diện, xác định rõ vị trí tiềm năng, nhiệm vụ chính trị và thế mạnh của Quận. Đó là nghị quyết đầu tiên của Quận, Đảng bộ được xây dựng bằng trí tuệ tập thể ở đại hội đại biểu toàn đảng bộ, trong điều kiện từ chiến tranh chuyển sang hoà bình. Hai năm qua, Đảng bộ đã bám sát nghị quyết ấy, kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện các nghị quyết của Đảng, hướng toàn bộ nổ lực thực hiện tốt 5 công tác chính: Cải tạo và đẩy mạnh sản xuất, chăm lo đời sống nhân dân, phát huy quyền làm chủ tập thể, giữ gìn an ninh chính trị, sẳn sàng chiến đấu và chiến đấu, ra sức củng cố và xây dựng lực lượng.
A. CÔNG TÁC CẢI TẠO PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT VÀ GIẢI QUYẾT LAO ĐỘNG THẤT NGHIỆP.
Đây là công tác trung tâm xuyên suốt mà Đảng bộ dồn hết sức làm trong 2 năm qua. Kết quả của công tác này có tác động toàn diện đến mọi mặt của tình hình, là nội dung đấu tranh giai cấp rất quyết liệt, làm thay đổi hẳn quan hệ sản xuất, tạo nên cơ sở vật chất vững chắc để chúng ta tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1/ VỀ CẢI TẠO VÀ ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP:
Đầunăm 1977 toàn quận có 286 hộ A và 3.274 hộ B với tổng số trên 2.000 cơ sở sản xuất và 18.575 công nhân. Những cơ sở sản xuất này còn cá thể, tự sản tự tiêu, hoặc tự ký hợp đồng gia công với công ty Trung ương và Thành phố. Tình hình này gây khó khăn lớn cho sản xuất và đời sống do ta không quản lý được sản phẩm và tiêu thụ.
Đại hội Đảng lần thứ nhất đã Nghị quyết phải đẩy mạnh cải tạo ngành tiểu thủ công nghiệp đi vào làm ăn tập thể dưới sự quản lý của Nhà nước.
Trong 2 năm 1977 và 1978, Quận ủy tập trung chỉ đạo, có sự phối hợp khá tốt của các ngành đoàn thể, đã tổ chức, sắp xếp lại với tốc độ nhanh các ngành nghề sản xuất, quy tụ phần lớn vào các hình thức làm ăn tập thể. Đến nay, ta đã xây dựng được 28 xí nghiệp công tư hợp doanh, 1 xí nghiệp tập thể, 12 hợp tác xã, gom trên 2.000 cơ sở tư nhân thành lập trên 900 tổ hợp sản xuất và 34 xí nghiệp hợp tác. Đến nay, chúng ta đã nắm và quản lý được 90% cơ sở này thông qua công tác cải tạo, đăng ký kinh doanh và tổ chức cho họ ký hợp đồng hai chiều với Nhà nước.
Kết quả công tác cải tạo trên gắn liền và thúc đẩy sản xuất phát triển. Trên cơ sở quy hoạch và tổ chức lại sản xuất đã đi vào tập trung hơn, mức độ phân tán ngày một giảm. Đồng thời sức sản xuất được giải phóng, quan hệ sản xuất mới hình thành cộng với công tác quản lý chặt hơn, hướng sản xuất đi vào có kế hoạch nên so với những năm mới giải phóng sản phẩm tăng rõ rệt, đưa vào phục vụ sản xuất và đời sống có hiệu quả hơn. Năm 1977 giá trị tổng sản lượng đạt được là 64.700.000đ, năm 1978 là 128.000.000. Trong khi đó, năm 1976 chỉ đạt 33.000.000. Một số ngành chủ yếu như cơ khí năm 1977 đạt 6,9 triệu, năm 1978 đạt 17,3 triệu. Ngành hoá chất 1977 đạt 3,3 triệu, đạt 1978 đạt 5,2 triệu, ngành xuất khẩu ngày càng chiếm vị trí quan trọng, đang có thể phát triển mạnh. Năm 1977 đạt 10,2 triệu, năm 1978 đạt 19.000.000. Chúng ta đã khai thác và mở rộng được nhiều mặt hàng phong phú như: mây tre, lá, đan thêu, móc, mỹ nghệ sừng, đồ chơi trẻ em và cả quạt điện. Trong 30 sản phẩm chủ yếu, chúng ta đạt và vượt chỉ tiêu 20 loại sản phẩm, trong đó có một số loại sản phẩm mũi nhọn như dệt, da, may, cơ khí, hoá chất, xuất khẩu.
Đặc biệt ngành dệt mũi nhọn được chú trọng tổ chức lại đã đưa toàn bộ vào hợp tác xã; phát triển, khai thác thêm máy, đào tạo thêm thợ, động viên phát huy sáng kiến, tổ chức hội nghị chuyên đề về ngành dệt, đã khắc phục khó khăn về nguyên liệu, phụ tùng đưa sản lượng dệt hàng năm tăng lên: năm 1976-11 triệu m, 1977-16 triệu m, 1978-19 triệu m. Năm 1978 mặt dù khó khăn về nguyên liệu, phụ tùng rất lớn, song do cố gắng sản lượng vẫn vượt chỉ tiêu kế hoạch 14,9%. Trong năm này, ngành dệt có 15 sáng kiến có giá trị, làm lợi cho Nhà nước 115.000đ.
Đến năm 1978, bình quân 1 lao động tiểu thủ công nghiệp thu nhập hàng tháng là 78,72đ, vượt so với chỉ tiêu 25%.
Điểm nổi bật là chúng ta đã có sự chú ý động viên tinh thần tự lực tự cường, đã tận dụng và huy động được từ 20 đến 30% nguồn nguyên vật liệu tại chỗ, tự lực làm được một số phụ tùng thay thế (thoi dệt) phát huy sáng kiến cải tiến máy móc.
Hai năm qua, ngành tiểu thủ công nghiệp ở quận ta đã có 1 bước tiến tới, ngày càng nổi rõ thế mạnh và đảng bộ đã biết khai thác, phát huy thế mạnh đó. Chúng ta đã đẩy lên một sốngành quan trọng như dệt, may xuất khẩu, phát triển một số ngành truyền thống, bước đầu tổ chức cho công nghiệp phục vụ nông nghiệp.
Về Nông nghiệp: Đại hội Đảng lần thứ nhất đề ra nhiệm vụ cải tạo nông nghiệp là phải chuyển từ sản xuất lúa sang rau màu, chăn nuôi và đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể.
Trong 2 năm qua, chúng ta đã tích cực thực hiện theo phương hướng đó. Cuối năm 1977, ta đã tập trung sức quy hoạch và xây dựng một vùng rau chuyên canh (100 ha) ở phường 16, khai phá khả năng chuyên trồng rau màu thay lúa bằng con đường làm ăn tập thể, với phương thức kết hợp giữa cơ giới với thủ công, phù hợp với bước phát triển ban đầu. Hiện nay tập đoàn rau này đã đủ điều kiện để đưa lên thành hợp tác xã.
Từ giữa tháng 5/1978 thực hiện Chỉ thị số 43 của Bộ Chính trị, chúng ta đã tiến hành đồng loạt việc xây dựng đại trà các tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Đến tháng 2/1979, tổ chức được 25 tập đoàn, quy tụ 1.096 hộ nông nghiệp (chiếm 70% tổng số hộ), gồm 9.212 nhân khẩu (chiếm 68,3%), 2.338 lao động (chiếm 53%) với 594,78 ha đất canh tác (chiếm 71,7%).
Đây là bước chuyển nhanh của phong trào đưa nông dân vào làm ăn tập thể, vừa thể hiện đường lối chủ trương của Đảng là kịp thời, vừa thể hiện bản chất cách mạng của giai cấp nông nhân.
- Sản xuất nông nghiệp đã tập trung chuyển theo hướng chuyên canh rau màu kết hợp với chăn nuôi.
Diện tích trồng lúa so với năm 1975-1976 giảm 40% trong khi đó diện tích gieo trồng các loại rau từ 393ha năm (1975) tăng lên 2000ha (1978) sản lượng rau từ 4.000 tấn lên 19.000 tấn.
Về chăn nuôi tuy có nhiều khó khăn về giống và thức ăn nhưng vẫn duy trì được đàn heo 15.000 con, đàn gà 28.000 con.
So với chỉ tiêu kế hoạch, trong hai năm qua diện tích gieo trồng đạt 95% (4085/4300 ha), sản lượng lúa, rau màu. Chăn nuôi đạt 80-90%. Qua quy hoạch và tổ chức vào làm ăn tập thể nông nghiệp đang hình thành những vùng chuyên canh, sản xuất đã đi vào kế hoạch, thâm canh, tăng vụ và trên một số loại cây trồng năng suất đã có tăng chút ít (lúa từ 1 đến 1,5 tấn/ha lên 1,7 đến 2 tấn/ha; rau từ 9 tấn lên 9,6 tấn/ha).
Về thương nghiệp: Cải tạo thương nghiệp là một công tác gay go phức tạp và là quá trình phải làm đi làm lại liên tục. Ngay từ năm 1977, Quận ủy đã chỉ đạo các cơ quan thương nghiệp-Thuế-cải tạo kết hợp tiến hành các đợt điều tra nắm chắc lực lượng thương nghiệp tư nhân, phân loại cụ thể và lên kế hoạch cải tạo. Tổng số hộ thương nghiệp tư nhân ta nắm tương đối chắc là 6.400 hộ. Trước năm 1977 những hộ này buôn bán linh tinh, lấn chiếm lòng lề đường, có nơi rất phức tạp như Lăng Cha Cả, Chợ Ông Tạ, Bảy Hiền, Nguyễn Văn Thoại…
Từ sau Đại hội Đảng bộ Quận tập trung sắp xếp bà con vào các chợ và khu vực quy định, vừa trật tự nề nếp hơn, vừa quản lý và kiểm soát tốt hơn.
Đặc biệt từ 23/3/78 thực hiện sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương và Thành phố, chúng ta tiến hành chiến dịch lớn cải tạo thương nghiệp, huy động lực lượng toàn quận, tập trung trong một thời gian 2 tháng, đấu tranh kiên quyết. Chúng ta đã xoá bỏ xong giai cấp tư sản thương nghiệp, chấm dứt kinh doanh của họ, chuyển toàn bộ sang sang sản xuất (107 hộ) kiểm kê trưng thu mua 222 hộ tiểu thương 3 ngành hàng (trong đó có 142 hộ thuộc Quận Tân Bình), chuyển sang sản xuất, tuyển dụng vào mạng lưới thương nghiệp Quận… Tiếp đó là chiến dịch đổi tiền và các chiến dịch gom quét chợ trời, dọn dẹp lòng lề đường đã hổ trợ cho cải tạo thương nghiệp giành thắng lợi lớn cả về mặt kinh tế lẫn chính trị. Cuộc đấu tranh này đã thu hẹp một mức cơ bản diện kinh doanh tư bản chủ nghĩa, mở đường cho thương nghiệp quốc doanh phát triển, làm cho quần chúng lao động phấn khởi, tin tưởng và hăng hái sản xuất.
Giao thông vận tải: Đã đưa toàn bộ lực lượng vận tải nhẹ vào 4 HTX (gồm 2HTX xe lam 185 xe- 1HTX 3 gác máy 96 xe-1 HTX xích lô máy 94 xe).
Về Y tế: có 390 hộ, đã cải tạo 13 hộ y dược, còn lại đã lên xong kế hoạch cải tạo trong năm 1979.
Ngành Văn hoá: Đã cải tạo xong 29 hộ bán sách loại nhỏ, đưa vào làm đại lý. Đưa 4/8 hộ in vào công tư hợp doanh và xí nghiệp tập thể. Còn lại các hộ chụp ảnh photocoppy, ronéo, đánh chữ, nhạc cụ, dạy võ… điều tra xong và đang lên kế hoạch cải tạo.
Ngành thể dục thể thao: Đã quốc doanh 4 hồ bơi, còn 3 hồ bơi thuộc các đơn vị bộ đội và Trung ương quản lý. Điều tra nắm 20 hộ bi-da, bóng bàn lên kế hoạch cải tạo.
Nhà đất và công trình công cộng: có 56 hộ thuộc diện cải tạo gồm 285 căn với diện tích gần 34.000 m2. .Trong đợt cải tạo thương nghiệp ta trưng thu mua và cấp 69 căn cho cán bộ, công nhân viên và cơ quan.
Đối với đất cho thuê, đã cải tạo 79 hộ với diện tích 810.375 m2 . Phần lớn đã giao cho các tập đoàn sản xuất sử dụng, làm bến bãi đậu xe và một phần giải quyết cho đồng bào nghèo.
Các ngành ăn uống, dịch vụ, lâm nghiệp, kim hoàn cũng đang ở bước hoàn thành điều tra cơ bản để lên kế hoạch cải tạo.
Về Ngân hàng: Thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng bộ, hoạt động của ngân hàng đã hướng theo trọng tâm là huy động và quản lý chặt hơn tiền mặt, tăng thêm nguồn thu, cố gắng đảm bảo cân đối về thu chi.
Năm 1977 thu gần 40 triệu, đạt 95% kế hoạch, tăng hơn năm 1976 là 12 triệu. Năm 1978 thu 43 triệu, đạt86,4% kế hoạch (cả hai năm thu 81,7 triệu). Do nền kinh tế đang hướng mạnh vào con đường tập thể nên bảo đảm cho việc quản lý tiền tệ được chặt chẽ hơn, nguồn thu tăng, được mở rộng và ổn định hơn.
Về tín dụng, trong 2 năm 1977-1978 cho vay trên 20 triệu đồng. Trong đó cho khu vực quốc doanh vay chiếm 90-93%; HTX vay chiếm 5%, còn 2% vay là cho tư nhân. Điều đáng chú ý là chúng ta chưa nắm chắc được hiệu quả đầu tư vốn và việc cho vay còn chủ yếu là cho xây dựng cơ bản, còn phục vụ sản xuất chưa bao nhiêu.
Về tiết kiệm: số dư hàng năm tăng từ 20-50% (năm 1977:3 triệu, năm 1978 trên 4,5 triệu). Tổng thu 2 năm là 15,8 triệu, bình quân đầu người năm 1977 là 24đ (tăng 60% so với năm 1976). Năm 1978 là 40đ. So với nghị quyết, bình quân đầu người gởi năm 1977 tăng 14%, năm 1978 tăng 15%.
Về thuế: Tổng thu 2 năm là 11,6 triệu. Trong đó riêng 2 loại thuế: lợi tức thể nhân và doanh nghiệp thể nhân đã chiếm 9,8 triệu đồng. Thông qua công tác thuế, đã phục vụ đắc lực cho công tác cải tạo, góp phần kiểm soát chặt hơn các cơ sở sản xuất kinh doanh cả trong khu vực tập thể và cá thể.
Về giải quyết lao động: Từ đầu năm 1977 đến nay, một vấn đề quan tâm lớn của Đảng bộ là giải quyết công ăn việc làm cho người lao động thất nghiệp. Thông qua công tác cải tạo và đẩy mạnh sản xuất lên một bước, chúng ta đã điều tra nắm chắc hơn lực lượng lao động các loại chưa có việc làm và đã cố gắng giải quyết được một mức đáng kể. Đầu năm 1977, Quận ta có 20.908 lao động thất nghiệp, qua hơn 2 năm, chúng ta giải quyết được 11.613 người vào lao động ở các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, vào mạng lưới phân phối quốc doanh, HTX. Như vậy đến nay quận ta còn khoản gần 1 vạn lao động thất nghiệp chưa có việc làm. Nổi rõ trong Đại hội cơ sở vừa rồi, do quán triệt nghị quyết của Trung ương, các chi bộ phường đã chú ý đúng mức đến bố trí sắp xếp lao động ở trong địa phương, trong đó đặt trọng tâm là giải quyết lao động thất nghiệp. Từ sau Đại hội đến nay, nhiều phường đã giải quyết được hàng trăm lao động (Phường 8, 3). Tất cả các chi bộ phường đều có quyết tâm đến năm 1980 sẽ giải quyết hết hoặc cơ bản lao động thất nghiệp.
Tuy nhiên trong lĩnh vực này, bên cạnh những thắng lợi lớn, cơ bản cũng bộc lộ một số khuyết nhược điểm.
Về cải tạo: Ta chưa cố gắng liên tục để phát huy thắng lợi, mà chỉ tập trung làm mạnh ở cao điểm, sau đó lơi dần. Có những cái ta không phát triển nhanh tốc độ mà dừng lại hơi lâu như trong cải tạo ngành dệt. Quán triệt chủ trương chính sách chưa sâu, chấp hành chưa đến nơi đến chốn, nhất là ở cơ sở, dẫn đến lệch lạc, nhầm lẫn. Trong cải tạo tư sản thương nghiệp ta đánh trật đối tượng nhiều, có phường kiểm kê 100% là tiểu thương.
- Sau cải tạo, ta chưa có phương thức quản lý tốt, do đó ít phát huy được hiệu quả.
- Xây dựng không theo kịp với cải tạo, không đáp ứng kịp những yêu cầu thiết yếu cho sản xuất, đời sống, chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Tốc độ xây dựng đã chậm lại kém chất lượng. Trong tất cả các ngành đều chưa biến thành quyết tâm cao thực hiện chủ trương của Đảng là: cải tạo phải đi đôi với xây dựng mà xây dựng là chủ yếu. HTX dệt, tập đoàn rau Tân Thắng, HTX xe lam, mạng lưới thương nghiệp, HTX tiêu thụ… đều còn đang yếu, chưa thể hiện đầy đủ tính ưu việt của phương thức làm ăn tập thể. Tình hình tổ hợp cũng phức tạp, có một số tổ hợp trá hình làm ăn gian dối mà ta chưa kiểm soát được.
Tình trạng đó có nguyên nhân khách quan về tính thời gian luôn phải tiến hành trong điều kiện gấp, khẩn trương chưa được chuẩn bị chu đáo, có khó khăn chung tác động (như nguồn hàng, nguyên vật liệu) và hậu quả chiến tranh, nhưng nguyên nhân chủ quan là tinh thần tự lực tự cường chưa cao, trình độ tổ chức, quản lý đã yếu lại thiếu kiên trì, thiếu học hỏi rút kinh nghiệm để tự nâng cao trình độ, còn ỷ lại trông chờ vào trên, còn để những tình trạng tiêu cực trì kéo, chưa tích cực khẩn trương khắc phục.
Mặt khác về phân công phân cấp quản lý giữa Trung ương, Thành phố và quận còn nhiều chồng chéo, cản trở nhau, các chính sách về chế độ, giá cả còn nhiều chổ chưa hợp lý.
Về sản xuất: một vấn đề nổi lên là chưa điều phối tốt các ngành tác động mạnh vào sản xuất theo tinh thần hợp tác XHCN. Các ngành chưa thật sự hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Trong chỉ đạo ta chưa chú ý đến việc tổ chức cho công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Trong sản xuất công –nông nghiệp vấn đề tự lực, tự cường chưa được phát huy đúng mức, chưa khai thác hết tiềm năng tại chỗ, chưa tận dụng mọi khả năng về nguyên liệu, phế phẩm, phế liệu. Các ngành chuyên môn vừa chưa làm tốt chức năng tham mưu, vừa chưa quản lý ngành tốt. Một số ngành chưa đáp ứng kịp thời các yêu cầu của sản xuất, đôi khi nặng nề về nguyên tắc, thủ tục, thiếu sâu sát, linh hoạt và cản trở sản xuất.
Nhược điểm lớn trong khi vựt sản xuất là bước điều tra cơ bản, ta chưa làm kỹ. Chúng ta còn bỏ sót chưa nắm hết được lực lượng máy móc, vật liệu, lao động còn tiềm tàng trong quần chúng, chỉ đạo sản xuất chưa kịp thời, nhạy bén, nhiều khi còn bị động, lúng túng. Và rõ ràng trong lĩnh vực này, trình độ tính toán, năng lực quản lý để đưa guồng máy sản xuất đạt được hiệu quả tối ưu còn rất non kém.
B. VỀ CHĂM LO ĐỜI SỐNG:
Đứng trước những khó khăn về đời sống, Đảng bộ đã cố gắng liên tục kết hợp chặt chẽ giữa thực hiện các mặt công tác với chăm lo đời sống nhân dân.
Song song với đấu tranh cải tạo, ta đã củng cố, phát triển mạng lưới phân phối quốc doanh, HTX cung cấp những mặt hàng thiết yếu cho đời sống và sinh hoạt bình thường của nhân dân, góp phần quan trọng giảm bớt những khó khăn về đời sống.
- Về thương nghiệp: Trong 2 năm chúng ta đã xây dựng được:
19771978
Cửa hàng thương nghiệp quốc doanh828
Cửa hàng HTX tiêu thụ99142
Riêng HTX tiêu thụ đã thu hút được 50.000 xã viên, đóng góp 90.000 cổ phần, trị giá trên nửa triệu đồng. Hàng tháng mỗi xã viên mua được từ 13-18đ các loại hàng thiết yếu, một số mặt hàng như muối, nước chấm, tương chao…Hợp tác xã đã đáp ứng tương đối đủ sức cho xã viên mua.
Điều quan trọng là mạng lưới phân phối quốc doanh và HTX đã góp phần tích cực vào việc đấu tranh giá cả, từng lúc kéo giá xuống, làm giảm bớt những biến động giá cả căng thẳng ngoài thị trường.
Về lương thực: Tình hình lương thực trong 2 năm qua là một trong những vấn đề gặp khó khăn đặc biệt. Tỷ lệ gạo giảm đáng kể, hiện nay chỉ còn 5-10%. Năm 1978 chỉ đạt 92% kế hoạch lương thực trên giao (25.686 tấn/27.788 tấn). Bị ảnh hưởng do nạn lụt giá gạo tăng vọt từ 2 đến 3 đ, đầu năm lên 7 đến 8 đồng, thậm chí có lúc 12 đ. Toàn quận có 443 hộ đói với gần 3.000 nhân khẩu, Đảng bộ đã tập trung giải quyết vấn đề này đã cứu trợ hàng chục tấn gạo, không để một ai chết đói, vận động bà con khá giả nhường phần lương thực, tăng cường chế biến mì, phát triển từ 14 lò lên 37 lò và 7 lò chế biến bánh mì, nui. Việc vận động bà con nộp thuế nông nghiệp cũng được chú ý để bổ sung vào sổ lương thực, năm 1978 thu vượt 2% kế hoạch (51.079/50.300 tấn).
Về văn hoá thông tin: Đã bám sát và phục vụ các nhiệm vụ chính trị của Quận, nhất là trong các đợt công tác lớn, so với năm 1976 cả về hình thức nội dung và quy mô hoạt động đã có mở rộng, cải tiến, nâng lên phong phú và có chất lượng hơn. Ngành đã kết hợp tuyên truyền rộng (phát loa, hệ thống truyền thanh, pa-nô, khẩu hiệu…) với tuyên truyền điểm vào từng tổ dân phố cho gần 90 vạn lượt người.
Công tác văn nghệ quần chúng được đẩy mạnh. Năm 1976 các đội văn nghệ quần chúng đã có nhiều tiết mục tự biên tự diễn, có chất lượng, phù hợp với yêu cầu.
Ngành mở ra nhiều câu lạc bộ, hoạt động bổ ích, thu hút một số đông khán giả, nhất là lớp trẻ.
Mạng lưới thư viện và phát hành sách báo cũng có nhiều tiến bộ, Quận có thư viện, 21/26 phường có phòng đọc sách.
Ngành còn đẩy mạnh công tác triển lãm phục vụ kịp thời yêu cầu tuyên truyền, giới thiệu và cổ động khán giả.
Đặc biệt ngành đã chú ý đến công tác bảo tồn, bảo tàng, tích cực sưu tầm các hiện vật và sự kiện lịch sử, bước đầu sưu tầm được trên 300 hiện vật có giá trị lịch sử, kịp thời trưng bày nêu lên truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân quận nhà.
Công tác y tế: Đang được đẩy mạnh cả hai mặt phòng bệnh và điều trị, vừa mở rộng mạng lưới y tế cơ sở phục vụ nhân dân, vừa đẩy mạnh các phong trào kết hợp giữa thuốc tây và thuốc nam. Từng đội vệ sinh phòng bệnh thường xuyên xuống phường kiểm tra sức khoẻ của nhân dân, phun thuốc trừ muỗi, tổ chức diệt chuột, tiêm phòng cho dân, mở thêm phòng khám đa khoa ở khu vực.
Năm 1978 Hội chữ thập đỏ thành lập, đã thu hút gần 15.000 hội viên, hoạt động có hiệu quả bên cạnh tổ chức y tế.
Nhờ vậy tình hình vệ sinh đường phố, vệ sinh nơi công cộng đã có bước tiến bộ, dịch bệnh được ngăn chặn.
Về công tác bảo vệ bà mẹ trẻ em: Đã xây dựng được 23 nhà trẻ gồm 857 cháu. So với kế hoạch chỉ đạt 78% nhưng là một cố gắng lớn. Trong khi phải đào tạo gấp một số lượng cô nuôi dạy trẻ, tìm nhà và phương tiện rất khó khăn. Nói chung công tác này thực hiện nhưng chưa được lãnh đạo lưu tâm đúng mức. Các điều kiện vật chất cho các cháu bị thiếu thốn nhiều, có nhà trẻ mưa là bị ngập (phường 12, dột P.9), không có hệ thống nước (phường 23), yêu cầu năm 1978 hầu như các nhà trẻ đều phải sửa chữa, nhưng mới sửa chữa được 2 nhà trẻ (phường 7, 24). Đồng thời một số nhà trẻ tinh thần phục vụ của các cô nuôi dạy trẻ còn kém, do vậy cán bộ, công nhân viên gửi con vào nhà trẻ mà chưa an tâm.
Công tác giáo dục: Đã có một bước tổ chức và phân cấp lại chặt chẽ và hợp lý hơn giữa quận và sở, do ngành này có nhiều tiến bộ rõ rệt.
Ngành chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong giáo viên, học sinh, làm chuyển biến chắc hơn nhận thức về vai trò, trách nhiệm trong sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nhiều giáo viên, học sinh còn tình nguyện đi chiến đấu.
Lực lượng nòng cốt trong Nhà trường cũng được chú ý xây dựng phát triển, kết nạp 1509/1954 giáo viên vào công đoàn, thành lập 20 chi đoàn, 257 chi đội Thiếu niên tiền phong, kết nạp thêm 15 đoàn viên.
Số học sinh năm 1978 cũng tăng hơn năm 1977 trên 6.000 em, đa số là con em nhân dân lao động.
Ngành đã khẩn trương tiến hành cải tạo trường tư, quyết định cônglập hoá 45 trường (kể cả tư nhân, tôn giáo).
Trong nhà trường có phong trào thi đua dạy tốt và học tốt, năm học 1977-1978, 94% học sinh thi đậu hết cấp I, 92% học sinh thi đậu hết cấp II, 634 giáo viên tiên tiến và đặc biệt đã sáng tạo ra 7.229 đồ dùng dạy học có giá trị.
Công tác bổ túc văn hoá cơ bản đã xoá xong nạn mù chữ (94,18%), mở 6 trường dân chính cho trên 8.000 học viên là cán bộ, nhân viên, chiến sĩ.
Nhưng ngành cũng còn một số phức tạp, nhất là trong giáo viên, đặc biệt là số giáo viên, học sinh người Hoa, Thiên Chúa giáo. Nhiều vụ viết khẩu hiệu chống đối, giáo viên kích động học sinh và nỗi bật là vấn đề tung tin ta lấy máu học sinh đã có tác dụng xấu đối với một bộ phận giáo viên, học sinh và cả phụ huynh.
Công tác thương binh xã hội: Tập trung làm khẩn trương việc điều tra, xác nhận liệt sĩ, thương binh, gia đình có công với cách mạng. Qua làm thí điểm rút kinh nghiệm đã làm đồng loạt ở toàn quận, xác minh 1793 hồ sơ kê khai, công nhận được 1372, trao 1072 bằng tổ quốc ghi công cho gia đình, giải quyết cho 14 con liệt sĩ đi học, công nhận 21 hồ sơ thương binh, tu sửa 258 mộ liệt sĩ, chú trọng thực hiện chế độ chính sách đối với gia đình các thương binh, tác động phong trào đền ơn đáp nghĩa, giáo dục toàn dân biết ơn, tôn trọng và chăm sóc các gia đình này. Ngoài ra còn dựng một số bia truyền thống, cứu trợ xã hội cho 10.300 người.
Đây là một công tác phức tạp đòi hỏi phải hết sức công phu, thực hiện đúng chính sách, đúng đối tượng. Tuy cũng còn một vài thiếu sót như xét duyệt chậm, một vài nơi thiếu chính xác, xong cơ bản là ta làm tốt, động viên được nhân dân.
Về thể dục thể thao: Năm 1978 ta đẩy lên một phong trào khá hơn, thường xuyên phát động tập thể dục buổi sáng, thể dục giữa giờ ở tất cả các cơ quan, trường học, xí nghiệp, nhất là tổ chức huấn luyện cho các đơn vị cơ quan, phục vụ nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu.
Tuy có nhiều khó khăn về vật chất, xong ngành đã xây dựng được đủ các bộ môn thể thao, tập hợp các huấn luyện viên, cầu thủ có kinh nghiệm để làm nòng cốt cho phong trào.
Ngành đã bước đầu cải tạo những cơ sở tư nhân, đã làm xong đối với các hồ bơi trong quận (3 hồ bơi) và một cơ sở bóng bàn chuyển sang quốc doanh, còn 43 cơ sở tư nhân khác đang tiếp tục cải tạo.
Kiểm điểm công tác chăm lo đời sống các ngành, các cơ quan đã cố gắng phục vụ nhân dân trong khả năng của mình, nhiều lúc tập trung đấu tranh mạnh, góp phần ổn định một mức tình hình thị trường. Song vì mạng lưới phân phối quốc doanh ta chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu của nhân dân, nguồn hàng mới nắm được trong tay từ 3 đến 40%, vì vậy, đời sống nhân dân còn phụ thuộc vào giá cả lên xuống thất thường (có lúc cao vọt) ngoài thị trường tự do nhân dân lao động có thu nhấp thấp, đời sống còn khó khăn chật vật. Trong đấu tranh giá cả ta chưa nắm và quản lý được nguồn hàng nên không hạn chế được tăng giá.
Hệ thống thương nghiệp quốc doanh và HTX còn hoạt động theo một phương thức kinh doanh đơn thuần, một phương thức phân phối bình quân, chưa đủ sức và cũng chưa phát huy đầy đủ chức năng là một người nội trợ đắc lực của nhân dân lao động, chưa xuất phát từ quan điểm phục vụ. Các nguyên tắc, chế độ không được tôn trọng, buông lỏng kiểm tra đẫn đến tham ô, ăn cắp, hư hao, mất mát phát triển, có vụ nghiêm trọng. HTX không chấp hành quy định về đại hội xã viên, coi thường quyền làm chủ của xã viên xảy ra ở một số nơi, Ban quản trị tự do thao túng, dùng HTX kinh doanh cho mình. Mặt khác, chúng ta chưa có biện pháp kiên quyết đấu tranh giá cả ngoài thị trường, khiến hàng hoá ngày càng lên giá, nhất là những mặt hàng thiết yếu, tác động rất xấu đến tâm tư tình cảm của quần chúng.
Công tác văn hoá thông tin chưa chú trọng nắm sát tâm tư tình cảm của quần chúng để có nội dung tuyên truyền, giáo dục kịp thời và thích hợp với từng loại đối tượng. Cuộc đấu tranh để giải quyết những xung đột về tư tưởng trong quần chúng giữa cái củ và cái mới chưa sâu sắc và nhạy bén. Kinh nghiệm trong thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng, lúc nào ta tập trung làm tốt những công tác vận động giáo dục thì quần chúng tham gia đông đảo, kết quả đạt được rất cao. Việc tuyên truyền phổ biến những điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt để bồi dưỡng xây dựng những con người mới xã hội chủ nghĩa còn thiếu thường xuyên, thiếu nội dung phong phú.
C. CÔNG TÁC GIỮ GÌN AN NINH CHÍNH TRỊ VÀ TRẬT TỰ XÃ HỘI, CHIẾN ĐẤU VÀ SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU.
Hai năm qua, cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra khá gay gắt. Kẻ địch (cả củ và mới) phản ứng quyết liệt và ra sức phá hoại. Nhưng dựa vào dân, Đảng bộ đã lãnh đạo thực hiện thắng lợi chủ trương đường lối của Đảng, vừa ngăn chặn và trấn áp kịp thời mọi âm mưu và hành động chống phá của địch.
Do đặc điểm chính trị và dân cư, quận ta là một địa bàn tập trung đủ loại phản động và tệ nạn xã hội, chúng hoạt động khá tinh vi, táo bạo, kể cả âm mưu bạo loạn, gây biến động võ trang.
Phát hiện địch lập ra 17 nhen nhóm phản động. Những nhen nhóm này ta đều khám phá và dập tắt. Bọn này đều là nguỵ quân, nguỵ quyền, cả số đi học tập cải tạo về, thậm chí có tên đầu thú xin làm việc cho ta, nhưng thực chất là chui vô tổ chức lực lượng chống đối.
Ngoài ra, các bọn phản động khác như tình báo Pháp, Nhật, Tưởng và đặc biệt là bọn phản động Trung Quốc cũng ráo riết hoạt động, gây rối về chính trị, tung tin kích động, thậm chí xúi dục biểu tình.
Khi bọn phản động Trung Quốc tung ra vụ nạn kiều thì hàng loạt người Hoa bỏ trốn hoạt xin về nước, nhiều phường, xí nghiệp xin về gần như 100% ( phường 24, Xí nghiệp thuỷ tinh Tân Bình), kể cả cán bộ đảng viên. Tính chung toàn quận có 2287 hộ gồm 12.338 người Hoa xin đi, trong đó có đại diện Hội đồng nhân dân phường, 45 tổ trưởng phó dân phố.
Tuy không có cơ sở trong người Hoa, nhưng ta đã tập trung cán bộ tuyên truyền giải thích và bằng hành động thực tế đã làm nhiều bà con Hoa thấy rõ phải trái, xin ở lại.
Hoạt động của bọn chống đối trong tôn giáo cũng khá phức tạp. Bọn Thiên Chúa giáo có 3 xu hướng: thích nghi thời đại, cực đoan và lưng chừng xong nguy hiểm vẫn là bọn “cực đoan”. Bọn Phật giáo Ấn quang thì chống đối ta ra mặt, từ việc treo cơ đạo lên trên cờ Tổ quốc, đến công khai không cho Phật tử đi bộ đội, đi kinh tế mới, đe doạ tự thiêu và chứa chấp vào chùa cả hàng hoá bất hợp pháp của tư sản (như Chùa Phổ Hiền phường 1).
Đối với bọn này, ta đã vận dụng tốt chính sách, nắm giáo dân và tín đồ, nhất là bà con lao động, xây dựng cơ sở, do đó đã vạch mặt cô lập, trừng trị bọn phản động, làm cho bà con thấy rỏ chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng là tôn trọng tín ngưỡng, nhưng không cho phép bọn phản động lợi dụng chống phá cách mạng, phản bội tổ quốc.
Về tội phạm hình sự xảy ra 1424 vụ. Năm 1978 giảm 160 vụ so với năm 1977. Trong đó có 83 vụ trọng án.
Cần chú ý là tính chất một số vụ trọng án khá nghiêm trọng. Trong 83 vụ có 10 vụ giết người, có vụ rất man rợ. Một số tên gây án lại giả danh bộ đội, công an, công nhân thu tiền điện nước… Phần đông trong bọn chúng đều có vũ khí, kể cả súng ngắn (ta đã khám phá ra 56 vụ bắt 101 tên).
Tất cả những hoạt động của bọn phản động, cũng như hình sự đều gắn chặt với giai cấp tư sản và đều nhằm một mục đích phục thù giai cấp, lật đổ chính quyền, gây rối và làm chậm lại tốc độ xây dựng XHCN của ta.
Sở dĩ kẻ địch các loại không thực hiện được ý đồ của chúng, vì các lực lượng công an, quân sự được chỉ đạo chặt chẽ dựa vào dân, khoanh và bám chắc bọn nguy hiểm như tình báo các loại, cảnh sát đặc biệt…và lên danh sách, theo dõi các loại tình nghi. Và điều chủ yếu là đã phát huy được quyền làm chủ tập thể, phát động liên tục và rộng rãi phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc nâng cao lòng yêu nước.
Ta đã thành lập các tổ thanh niên xung kích tự vệ võ trang rộng rãi mà thanh niên là nòng cốt, thành lập trung đội bạch đầu quân, vận động thanh niên tòng quân và đi thanh niên xung phong được trên 1.500 người (vượt chỉ tiêu trên giao). Khí thế chung là đồng bào hiểu được tình hình đất nước, thể hiện tinh thần quyết tâm bảo vệ đất nước, sẵn sàng cho con em đi nhập ngũ và sẵn sàng chiến đấu.
Riêng lực lượng quân sự được xây dựng thường xuyên vững mạnh, bảo đảm tính chiến đấu cao. Công tác huấn luyện, học tập đã thành nề nếp trong lực lượng bộ đội của quận và còn tổ chức huấn luyện cho tự vệ các xí nghiệp, cơ quan, trường học, phường. Trong đợt hội thảo, bắn đạn thật, toàn bộ 537 đ/c tham dự đều đạt loại khá và giỏi.
Việc bảo vệ pháp chế XHCN cũng được tăng cường, vừa đẩy mạnh công tác tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân, vừa coi sự hoạt động phối hợp giữa viện kiểm sát, Toà án và các ngành hữu quan giải quyết và xử lý các vụ phạm pháp, kể cả việc đưa ra xử ở toà án.
Về tuyển quân, do chỉ đạo chặt, phối hợp giữa các ngành tốt hơn và bằng những hình thức tuyên truyền phong phú, đã khơi dậy trong nhân dân đặc biệt là thanh niên lòng yêu nước, căm thù giặc, ý thức trách nhiệm với Tổ quốc, vì thế cả hai năm, công tác tuyển quân đều đạt kết quả cao. Toàn quộc đã động viên được 2.560 thanh niên nhập ngũ, so với chỉ tiêu vượt 3,98%.
Tuy nhiên trong tình hình hiện nay, ta chưa có sự kết hợp chặt giữa các lực lượng công an, quân sự, các đoàn thể để phối hợp nhịp nhàng trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội. Một bộ phận quần chúng còn lo sợ chiến tranh, chưa có ý thức phát hiện và dám truy bắt kẻ gian. Trong thanh niên còn có tình trạng trốn tránh nghĩa vụ quân sự, nạn trộm cướp còn khá nhiều, nhất là kẻ địch còn cấu kết được các lực lượng với nhau có lúc phối hợp hành động gây cho ta những khó khăn và tác động xấu trong quần chúng. Một vấn đề nổi lên mà chúng ta phải thấy là: nếu chúng ta lơ là cảnh giác, thì kẻ địch vẫn có khả năng tổ chức và kích động gây bạo loạn võ trang hoặc xúi dục biểu tình chống đối. Mặc dù nếu xảy ra bạo loạn, biểu tình, Quận chúng ta có đủ khả năng dập tắt, song chúng ta phải bằng mọi biện pháp ngăn chặn không để nó xảy ra.
Vấn đề cơ bản vẫn là dựa vào quần chúng lao động, đồng thời phải nhanh chóng xây dựng một lực lượng nòng cốt rộng rãi ở khắp các đường phố, trường học, xí nghiệp thì mới ngăn chặn có hiệu quả.
D. CÔNG TÁC XÂY DỰNG CÁC ĐOÀN THỂ VÀ THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG.
Trước yêu cầu và nội dung thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ngày càng trở nên bức thiết, thành nội dung xuyên suốt trong chủ trương của Đảng và sự chỉ đạo của Thành ủy, Đảng bộ đã nghiêm chỉnh thực hiện vấn đề này.
Cùng với việc giáo dục, vận động tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân lao động hiểu và phát huy quyền làm chủ tập thể của mình, nhất là trong các cuộc vận động chính trị lớn, Quận ủy đã chỉ đạo cho các cơ quan chuyên môn đi sát kiểm tra, kịp thời giáo dục, xử lý sai trái, đặc biệt là tổ chức các cuộc báo cáo của chính quyền ra dân hàng tháng để dân đóng góp.
Đầu năm 1979, thực hiện cuộc vận động lớn của Thành uỷ tổ chức các cuộc báo cáo ra quần chúng ở cơ quan, xí nghiệp và ra dân, Quận ủy tập trung chỉ đạo tiến hành làm 2 đợt. Nhân dân và quần chúng cơ quan, xí nghiệp đã đóng góp trên 10.000 ý kiến, trong đó có 75% ý kiến đóng góp là xác đáng, chân tình, xây dựng. Ý kiến quần chúng đóng góptập trung vào 3 vấn đề lớn: vấn đề đời sống, vấn đề vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân, vai trò của chi bộ, ủy ban và các cơ quan phường.
Về đời sống: Quần chúng rất thông cảm với khó khăn hiện nay, song phê phán nhiều việc phân phối không cân bằng (dành đồ ngon, của hiếm cho cán bộ, cho người thân trong bộ máy phân phối), cân đong thiếu phổ biến nhất là HTX tiêu thụ xảy ra nhiều vụ tham ô, ăn cắp, kinh doanh lấy lời quá đáng, tự ý tăng giá bán chợ đen (phường 2, 12, 7…). Nhiều nơi quần chúng rất bất bình về việc ta để cho con buôn tự ý tăng giá mà không có biện pháp ngăn chặn, làm cho đời sống quần chúng rất chật vật. Thời gian phân phối hàng hoá không hợp lý, gây trở ngại cho cán bộ công nhân viên, người lao động.
Về vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân: Quần chúng nêu khá mạnh về những vụ công an, cán bộ nhân viên ức hiếp, gây phiền hà cho dân. Chính quyền chưa coi trọng Hội đồng nhân dân, phần lớn các phường có khi 4, 5 tháng mới hợp một lần. Nhiều ý kiến của dân không được xem xét, giải quyết thoả đáng, có khi còn trù ém, hù đoạ. Nói chung quần chúng phê phán thái độ tiếp dân của cán bộ, nhân viên phường thường là thiếu hoà nhã, thậm chí nạt nộ, gây khó dễ, nhiều trường hợp công an bắt người, đánh người trái phép, cán bộ ăn hối lộ, lo làm giàu.
Về lãnh đạo của chi bộ ủy ban và các cơ quan phường: Quần chúng phê phán chưa sát dân, chưa quan tâm đến đời sống và giải quyết công ăn việc làm cho dân. Nhiều nơi chính quyền, công an, phường đội, doàn thể mỗi nơi nói một khác, không ăn khớp, không hợp đồng chặt chẽ, làm cho dân không biết cách nào thực hiện, chính quyền phần lớn làm việc theo kiểu mệnh lệnh; ít giáo dục giải thích.
Nhìn chung, các đợt sinh hoạt chính trị và tự phê bình được quần chúng rất phấn khởi, thấy rõ ưu điểm, tích cực, tận tuỵ của cán bộ chiến sĩ, mạnh dạn phê phán sai trái và kết quả lớn là tạo được lòng tin của quần chúng đối với Đảng, chính quyền, củng cố khối đoàn kết, gắn bó hơn giữa dân với chính quyền, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Trong phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, Quận ủy đã chú trọng chỉ đạo phát huy vai trò của các đoàn thể và trong năm qua, các đoàn thể cũng có nhiều hoạt động khá tốt.
Công đoàn: Đã tập hợp được lực lượng công nhân thành một tổ chức thống nhất, thường xuyên giáo dục, nâng cao và giác ngộ giai cấp, phát huy được vai trò của đội quân chủ lực cách mạng trong cải tạo vàxây dựng. Tổ chức công đoàn ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống chính trị và quyền lợi của công nhân. Trong mọi công tác cách mạng, công nhân đều tích cực tham gia, đặc biệt là đã góp phần rất lớn trong công tác cải tạo, xây dựng, sản xuất ra của cải vật chất. Phong trào thi đua lao động và sẵn sàng chiến đấu trong công nhân phát triển khá sôi nổi, 37 xí nghiệp hoàn thành xuất sắc kế hoạch nhà nước, công nhân có 417 sáng kiến, làm lợi cho nhà nước 3 triệu đồng, tận dụng nguyên vật liệu tiết kiệm được 614.000 đồng. Trong 2 năm, công đoàn đã kết nạp xây dựng được 44 BCH công đoàn cơ sở, 15 ban vận động kết nạp trên 5.000 đoàn viên công đoàn, nâng tổng số đoàn viên lên gần 9.000 người (tăng hơn năm 1976 gấp 3 lần). Ngoài ra còn thành lập được 34 hội lao động hợp tác, thu hút gần 20.000 công nhân.
Đoàn thanh niên: Được chỉ đạo chặt đã phát huy tốt vai trò xung kích làm chủ tập thể trên mọi lĩnh vực. Đoàn liên tục phát động các phong trào “3 xung kích”, phong trào “thanh niên hăng hái tòng quân giết giặc bảo vệTổ quốc”, phong trào “trách nhiệm và tình thương” trên 50 vạn lượt đoàn viên thanh niên đã tham gia các cuộc sinh hoạt chính trị, gần 3.000 đoàn viên thanh niên tham gia chiến dịch cải tạo tư sản, làm ngày làm đêm và không một ai vi phạm kỷ luật, một số nêu gương tốt không để bị tư sản mua chuộc hối lộ. Thanh niên đã đào đắp được trên 1 triệu mét khối đất thuỷ lợi, tận dụng chất phế thải làm lợi cho nhà nước 14.000 đồng. Đặc biệt trong phong trào thanh niên hăng hái tòng quân đã có khí thế tốt, số thanh niên nhập ngũ vượt chỉ tiêu trên giao, ngoài ra còn có 1.243 thanh niên vào quân dự bị, thành lập 36 đội thanh niên xung kích với 15.300 đội viên.
Qua thử thách, đoàn đã kết nạp được 2.160 đoàn viên, 12.786 hội viên, Đoàn còn chú trọng dìu dắt giáo dục đội thiếu niên tiền phong, đưa các hoạt động của các cháu lên đạt nhiều thành tích, là đơn vị khá của toàn thành.
Đoàn thể phụ nữ: cũng đã đi sâu hơn vào công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, mở rộng mạng lưới tuyên truyền, xây dựng thêm nhiều nòng cốt, tập hợp ngày càng đông chị em phụ nữ thực hiện các công tác cách mạng và tham gia 3 phong trào phụ nữ. Chị em còn đặc biệt chú trọng công tác hậu phương, chăm sóc tốt các gia đình thương binh, liệt sĩ, tổ chức 1.819 cuộc thăm viếng tặng quà trị giá trên 3.000 đồng.
Đoàn thể nông hội vừa qua đã phát huy tác dụng trong việc vận động bà con làm ăn tập thể. 11 phường nông nghiệp đã có ban chấp hành nông hội với trên 3.000 hội viên đang làm nòng cốt trong các tập đoàn, hướng dẫn bà con nông dân đi theo con đường tập thể do Đảng vạch ra.
Mặt trận: đã góp phần tích cực tuyên truyền giáo dục chủ trương chính sách của Đảng đối với đồng bào tôn giáo trí thức, nhất là hàng giáo phẩm, động viên họ góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước, hạn chế các mặt tiêu cực của họ. Mặt trận đã thực hiện tốt chính sách đoàn kết, chính sách tôn giáo của Đảng, góp phần giải quyết có kết quả một số việc chống đối phức tạp do địch lợi dụng tôn giáo gây ra như vụ linh mục Tường, vụ chùa Phổ Hiền chứa hàng tẩu tán của tư sản…
Mặt trận còn động viên các cụ phụ lão, đưa các cụ vào tổ chức, thành lập trung đội bạch đầu quân, đẩy mạnh hoạt động của các cụ trong phong trào thi đua 3 giỏi có tác dụng tốt đối với phong trào quần chúng.
Tuy nhiên, việc các đoàn thể tham gia vào việc kiểm tra, góp ý xây dựng chính quyền chưa làm được bao nhiêu và hoạt động của đoàn thể còn đơn giản, chưa đi sâu vào từng đối tượng, nhất là đối tượng Thiên Chúa giáo và người Hoa.
E. CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, TỔ CHỨC VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG:
Trọng tâm công tác chính trị tư tưởng từ sau đại hội Đảng bộ đến nay là: làm cho Đảng viên, cán bộ, nhân viên, chiến sĩ và các tầng lớp quần chúng quán triệt và tích cực thực hiện Nghị quyết Đại hội 4 của Đảng, NQ đại hội lần thứ nhất của Đảng bộ Thành phố, NQ đại hội lần thứ nhất của Đảng bộ quận, Đảng bộ đã kiên trì đấu tranh chống những tư tưởng tiêu cực, thoả mãn, hoà bình, hưởng thụ và những biểu hiện thoái hoá xuất hiện khá phức tạp trong nội bộ để đạt được sự thống nhất về tư tưởng và hành động, củng cố nâng lên về lập trường, quan điểm, về trình độ, năng lực, về ý chí cách mạng tiến công.
Công tác chính trị tư tưởng còn gắn rất chặt và phục vụ tốt cho các công tác trọng tâm, đột xuất như cải tạo tư sản thương nghiệp, đổi tiền, vận động thanh niên đi nghĩa vụ quân sự…và trong việc phát động nội bộ và nhân dân xác định rõ kẻ thù, nhận rõ tình hình mới của đất nước đang có chiến tranh do bọn phản động Bắc kinh gây ra.
Trong thời gian qua, công tác tổ chức và xây dựng lực lượng cũng đã bám sát phục vụ cho nhiệm vụ chính trị, đã có một bước tiến bộ.
Hướng chủ yếu của công tác này là dồn sức xây dựng củng cố ở cơ sở, theo như Nghị quyết của Đảng bộ Thành phố và Đảng bộ Quận.
Bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở, đặc biệt là ở đơn vị phường được kiện toàn một bước chắc chắn hơn, chất lượng về mọi mặt đều được nâng lên.
Cuối năm 1976, đầu năm 1977, các chi bộ phường mới có 3 chi bộ khá, 5 chi bộ trung bình, còn lại 18 chi bộ kém, nay đã có 6 chi bộ khá, 12 chi bộ trung bình, còn 8 chi bộ kém.
Thường vụ Quận ủy thường xuyên duy trìlịch phân công các đ/c Quận ủy viên, các cán bộ chủ chốt phụ trách và bám sát giúp phường, chỉ đạo các ngành, đoàn thể tung cán bộ, nhân viên xuống phường thực hiện các công tác.
Nhìn chung tình trạng thiếu sâu sát cơ sở đang được tích cực khắc phục. Qua đó, vừa trực tiếp giúp cơ sở bảo đảm thực hiện đúng các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, vừa đi sát kiểm tra, uốn nắn lệch lạc, phát hiện những chi bộ, những đ/c yếu kém, có vấn đề, kịp thời kiểm điểm giải quyết, thay đổi hoặc xử lý những đ/c quá yếu hoặc phạm kỷ luật.
Đi đôi với xây dựng Đảng, Đảng bộ chú trọng phát huy chức năng của bộ máy chính quyền, các đoàn thể, nâng cao được hiệu lực của các bộ máy này trong việc quản lý hành chánh, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, và bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Đặc biệt các đoàn thể công đoàn, thanh niên, phụ nữ, nông hội, mặt trận đã tích cực hoạt động góp phần rất lớn vào việc vận động tập hợp các tầng lớp quần chúng nhất là công nhân, thanh thiếu niên, thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng. Vì thế, chúng ta đã dần dần đi vào thực hiện theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, chính quyền quản lý.
Qua các bước xây dựng và kiện toàn cơ sở, và đặc biệt qua kỳ Đại hội chi bộ vừa rồi, Đảng bộ lớn mạnh lên một bước, năng lực, phẩm chất được nâng lên, lực lượng trẻ được tăng cường, đội ngũ cán bộ được bố trí, sắp xếp một cách hợp lý hơn.
Cuộc đấu tranh để bảo vệ nội bộ, tăng cường sức mạnh của Đảng được chỉ đạo gắn chặt các đợt công tác với việc thực hiện NQ 28-29, thông tri 22, chỉ thị 46 và gần đây là chỉ thị 72 của Trung ương, chỉ thị 39 của Thành uỷ (trong 2 năm 1977-1978 đã xử lý kỷ luật 117 vụ, đưa ra khỏi Đảng 47 đảng viên thoái hoá).
Hai năm qua, đội ngũ cán bộ đảng viên thể hiện một tinh thần cố gắng liên tục, dám nghỉ dám làm, có tinh thần trách nhiệm, đã tích cực hoàn thành nhiệm vụ trong điều kiện công việc hết sức dồn dập.
Tuy nhiên chỗ yếu hiện nay trong công tác xây dựng Đảng là Đảng bộ chưa kết hợpchặt công tác chính trị tư tưởng với tổ chức, chưa đề cao đúng mức công tác quan trọng này. Đa số các chi bộ xem nhẹ công tác chính trị tư tưởng, trong khi công tác tổ chức, xây dựng lực lượng lại không được chặt chẽ, có nơi buông lỏng.
Nội dung sinh hoạt chi bộ chưa mang tính chiến đấu cao. Trường chỉ bàn những công tác chuyên môn đơn thuần, mà chưa kiểm điểm sâu về lập trường, tư tưởng, về phẩm chất đạo đức, vừa đấu tranh phê tự phê xây dựng nội bộ. Nhiều chi bộ cơ quan (chuyên môn) chưa xác định rõ được tính chất và nhiệm vụ chính trị của chi bộ. Trong các cuộc hợp chi bộ thường nặng về kiểm điểm công tác chuyên môn như hợp chính quyền mà không xoáy vào trọng tâm chính là kiểm điểmviệc lãnh đạo công tác chính trị, tư tưởng, công tác tổ chức, đời sống và xây dựng lực lượng để bảo đảm và phục vụ cho cơ quan hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn mà Quận ủy giao cho. Một số chi bộ còn bỏ sinh hoạt, có khi 2,3 tháng, thậm chí 4, 5 tháng không sinh hoạt chi bộ.
Một số chi bộ, vấn đề đoàn kết chưa tốt, có những biểu hiện đoàn kết một chiều, cảm tình, nể nang, sợ không dám góp ý phê phán, cá biệt có nơi có hiện tượng bè phái, cục bộ kình địch lẫn nhau, chèn ép nhau.
Lề lối làm việc, tác phong công tác nhìn chung còn lề mề đơn giản, một số nơi rất lượm thượm. Các chi bộ chưa thật sự quan tâm đến công tác phát triển Đảng, cả năm 1977 kết nạp được 19 đảng viên. Năm 1978 kết nạp được 32 đảng viên, nhưng chất lượng cũng chưa thật bảo đảm. So với chỉ tiêu thì chỉ đạt 15%.
Công tác nắm bố trí và sử dụng cán bộ, đảng viên chưa có hệ thống chặt chẽ, chắc chắn. Vì thế có tình trạng một số cán bộ bị điều động liên tục, gây xáo trộn cả về mặt tổ chức lẫn tư tưởng. Việc thực hiện các chế độ chính sách về đào tạo, giáo dục để bồi dưỡng và nâng đỡ còn thiếu thường xuyên, thiếu kịp thời.
Một vấn đề cần lưu ý là hiện nay tình trạng tham ô hối lộ, móc ngoặc với tư sản, thu vén cá nhân, ăn cắp tài sản XHCN vẫn đang xảy ra ở nhiều mức độ khác nhau. Trong đợt cải tạo tư sản thương nghiệp, cán bộ đảng viên vi phạm kỷ luật nhiều hơn quần chúng (10/1). Trong cải tạo nông nghiệp một số cán bộ đảng viên chẳng những không gương mẫu chấp hành chủ trương của Đảng mà còn phản đối mạnh hơn quần chúng. Trong tình hình đất nước có chiến tranh, nhiều gia đình nhân dân tự nguyện làm đơn cho con em mình nhập ngũ chiến đấu thì cán bộ đảng viên lại viện lý do này lý do khác để giữ con em mình lại không cho đi bộ đội bảo vệ Tổ quốc.
Tệ quan liêu xa rời quần chúng, hống hách nạt nộ, vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân còn xảy ra ở nhiều nơi.
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên chính là do lập trường tư tưởng giai cấp công nhân không vững vàng, sa sút ý chí chiến đấu, thoả mãn hoà bình, hưởng thụ và ở một số ít đồng chí trong một chừng mực nào đó đã bị kẻ địch và giai cấp tư sản lung lạc, lôi kéo.
Đồng thời, một nguyên nhân quan trọng là công tác giáo dục, bồi dưỡng về chính trịtư tưởng, công tác quản lý và kiểm tra đảng viên của Đảng bộ còn yếu. Việc xử lý kỷ luật vừa chậm vừa chưa phát huy được tác dụng mang tính giáo dục sâu sắc.
Điều đáng chú ý là tư tưởng tiểu tư sản đã có ảnh hưởng ở một mức độ nhất định trong cán bộ, đảng viên. Tư tưởng đó biểu hiện chủ yếu ở chổ: thoả mãn, dừng lại, đòi hỏi hưởng thụ, nặng tính toán cá nhân, thu vén cho gia đình hơn là lo cho tập thể, lo cho công tác, có phần nào bị cuộc sống vật chất chi phối. Có biểu hiện làm việc cầm chứng, thủ lợi, thủ tiêu đấu tranh hoặc vì lợi ích riêng tư mà gây rối cho tổ chức, cho đồng chí mình.
Tóm lại hai năm qua Đảng bộ đã nổ lực vượt bực, bám sát đường lối chủ trương của Đảng và Nghị quyết của Đảng bộ, làm được nhiều việc và thắng lợi lớn. Kết quả đó thể hiện chất lượng chính trị của Đảng bộ vững mạnh, trình độ lãnh đạo, tổ chức thực hiện được nâng lên, có thêm kinh nghiệm, tạo ra được một cơ sở vững chắc có bước phát triển mới trong sự nghiệp cải tạo và xây dựng, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu.
Sau hơn 3 năm cải tạo và xây dựng, ở Quận ta đã hình thành một cơ cấu kinh tế có công nghiệp, có nông nghiệp, thế mạnh vẫn là tiểu thủ công nghiệp mà ngành dệt là mũi nhọn, và trong đó, ngành xuất khẩu được chú ý phát triển đang chiếm một vị trí quan trọng. Đồng thời trong nông nghiệp, đang được quy hoạch lại theo hướng chuyên canh rau màu, cây công nghiệp đi đôi với phát triển chăn nuôi, làm thành một vành đai xanh của Thành phố.
Tuy nhiên chúng ta còn một nhược điểm lớn là: chưa quản lý chặt, chưa tổ chức sắp xếp một cách hợp lý, chưa động viên cao tinh thần tự lực tự cường để giải quyết những khó khăn trong quá trình sản xuất. Xây dựng không theo kịp với cải tạo, việc giải quyết lao động thất nghiệp chậm và lúng túng.
Hình thức làm ăn tập thể đang thay thế lối làm ăn cá thể, quan hệ sản xuất củ cơ bản bị xoá bỏ, lực lượng lao động được giải phóng đang tạo nên sức mạnh to lớn, phát huy được khả năng tìm tàng và sức sáng tạo của quần chúng lao động.
Qua 4 năm sống dưới chế độ mới XHCN, quần chúng nhân dân ngày càng hiểu rõ được bản chất tốt đẹp của cách mạng, đã có chuyển biến lớn trong suy nghĩ, trong nếp sống, trong tâm tư tình cảm, hướng về cách mạng, đồng tình và tham gia thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng. Nhưng công tác giáo dục giác ngộ quần chúng ta làm còn đơn giản, sơ sài, chưa phù hợp với trình độ từng giới, do đó quần chúng tiếp thu đường lối chủ trương của đảng còn ít, có khi còn mơ hồ, chưa làm cho tư tưởng XHCN thâm nhập chiếm ưu thế trong suy nghĩ trong tình cảm của quần chúng. Quyền làm chủ tập thể của quần chúng chưa được tôn trọng đúng mức, trong khi đời sống khó khăn, chiến tranh tác động đã có ảnh hưởng làm nẩy sinh một số mặt tiêu cực và phức tạp mới.
Bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể từ Quận đến cơ sở qua củng cố và xây dựng đến nay đã vững mạnh hơn và bước đầu biết cách làm việc. Cơ cấu tổ chức đang được hoàn thiện theo mô hình mới. Tuy vậy, hoạt động của các bộ máy này chưa thật sự có hiệu lực, nhất là trên lĩnh vực quản lý kinh tế, đội ngũ cán bộ, đảng viên có được nâng lên về trình độ, năng lực, nhưng so với yêu cầu thì chưa đáp ứng, do văn hoá thấp, chuyên môn yếu, sự phấn đấu vươn lên chưa cao. Một số đ/c không phát triển được khả năng.
Từ thực tế 2 năm qua, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:
1/ Trong chỉ đạo sản xuất, muốn cho việc xây dựng kế hoạch và tổ chức sản xuất được kịp thời, bảo đảm tính vững chắc và chính xác thì phải tiến hành điều tra nắm chắc số liệu cơ bản. Trước nay vấn đề này ta nắm chắc ít, không có hệ thống hoặc không nắm được. Vì vậy từ phường đến Quận đều gặp lúng túng trong xây dựng kế hoạch và khi đặt kế hoạch thì không sát. Làm tốt bước điều tra cơ bản, sẽ giúp chúng ta nắm chắc năng lực tại chỗ, trên cơ sở đó mà có kế hoạch khai thác, tận dụng tổ chức sản xuất, phát triển và mở rộng nó lên, phục vụ đời sống nhân dân.
2/ Tăng cường cho cơ sở, bám sát và trực tiếp giúp cơ sở là yếu tố quan trọng bảo đảm thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng. Hai năm qua, thực tế chứng minh chủ trương của Trung ương và Thành ủy dồn sức cho cơ sở, hướng về cơ sở là hết sức chính xác và đúng đắn. Đây là biện pháp then chốt trong tổ chức thực hiện mà Đảng bộ bước đầu rút được kinh nghiệm nhằm đáp ứng việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới.
3/ Kinh nghiệm nơi nào xây dựng được một chi bộ mạnh thì ở đó bộ máy chính quyền, đoàn thể đều mạnh và các phong trào đều lên khá. Chỗ nào chi bộ yếu thì ở đó rõ ràng là nảy sinh nhiều mặt phức tạp, tiêu cực và phong trào cách mạng của quần cũng khó lên nổi.
Vì vậy xây dựng chi bộ mạnh là yêu cầu hàng đầu công việc củng cố, xây dựng một đơn vị cơ sở mạnh toàn diện.
4/ Phải tổ chức và bảo đảm cho quần chúng lao động thực hiện đầy đủ quyền làm chủ tập thể của mình. Đó là nội dung cơ bản trong đường lối chủ trương của Đảng. Nhưng muốn làm tốt điều đó thì trước hết trong nội bộ phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân và gương mẫu thực hiện. Đồng thời phải tổ chức giáo dục cho nhân dân hiểu rõ cả hai mặt quyền lợi và nghĩa vụ để thực hiện đầy đủ quyền làm chủ tập thể của mình.
5/ Trong từng vấn đề, chỉ đạo phải tập trung, dứt điểm gọn, nhất là phải xuyên suốt từ đầu đến cuối, không nên để tình trạng chỉ tập trung lúc đầu sau đó lơi dần làm công việc dây dưa, kém hiệu quả.
6/ Cấp ủy phải chỉ đạo các ngành, đoàn thể, các đơn vị (kể cả Quận và Phường), phối hợp, kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, thành sức mạnh tổng hợp thì mới đạt hiệu quả công tác cao. Trước nay chúng ta thường ít phối hợp với nhau, hoặc phối hợp không chặt, nhiều khi ngành nào chỉ biết ngành nấy, do đó vừa không tập trung được sức mạnh mà có khi còn gây trở ngại cho nhau.
PHẦN THỨ HAI
NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU CỦA QUẬN, ĐẢNG BỘ TRONG HAI NĂM 1980-1981.
Tân Bình là Quận ven nội, có thế mạnh là sản xuất tiểu thủ công nghiệp đa dạng mà ngành dệt là mũi nhọn tuy trước mắt còn gặp khó khăn vềnguyên liệu. Ngành cơ khí đang trên đà phát triển mạnh.
Quận còn có hơn 990 ha đất nông nghiệp, trong đó có 300 ha đang chuyên canh rau xanh, đàn heo có 15.000 con, đàn gà có 28.000 con…
Tiềm năng lớn của Quận là một lực lượng lao động dồi dào với 112.000 người (chiếm 43% dân số), trong đó riêng lực lượng lao động tiểu thủ công nghiệp đã có trên 17 ngàncông nhân kỷ thuật, thợ lành nghề và gần một vạn lao động nông nghiệp. Toàn quận có 17 HTX và gần 1.000 cơ sở sản xuất công nghiệp lớn nhỏ do quận quản lý, ngoài ra có 75 nhà máy, xí nghiệp Trung ương, Thành phố đóng trên Quận.
Khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp có khoảng 10.400 máy móc các loại. Hàng năm sản xuất ra giá trị tổng sản lượng trên 100 triệu đồng.
Trong phương hướng tới đây trên cơ sở quy hoạch và tổ chức lại sản xuất, sẽ đưa nền kinh tế địa phương từsản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN đáp ứng ngày càng cao đời sống của nhân dân.
Bên cạnh những thuận lợi có những khó khăn là sản xuất còn phân tán, nguyên liệu lệ thuộc, tình hình còn có những phức tạp. Trong cơ cấu dân cư, chiếm 38% theo đạo Thiên Chúa, phản động là đồng bào Bắc di cư và trên 2 vạn người Hoa.
Xuất phát từ thực tế của Quận và quán triệt đường lối, chủ trương, nhất là Nghị quyết 6 của Trung ương, Nghị quyết 9 của Thành ủy, gần 2 năm 1980-1981 Quận ta phải thực hiện đồng thời 3 nhiệm vụ sau đây:
1. Phát triển mạnh sản xuất trên cơ sở cải tạo và xây dựng, từng bước tổ chức theo ngành sản xuất, quản lý sản phẩm và bảo đảm yêu cầu trong phân phối, nhằm ổn định đời sống nhân dân.
2. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, sẵn sàng chiến đấu và chống bạo loạn.
3. Tăng cường công tác xây Đảng, chính quyền vững mạnh, trong sạch, củng cố các đoàn thể quần chúng vững chắc trên cơ sở phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, giáo dục tư tưởng chính trị, suy thóai, ăn cắp, hối lộ và ức hiếp quần chúng.
Cụ thể:
1. Tiếp tục công tác cải tạo, tổ chức lại sản xuất theo hướng làm tập thể vừa khẩn trương vừa vững chắc. Ra sức phát triển tiểu thủ công nghiệp, làm ra nhiều hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu bằng nguyên liệu tại nước. Sản xuất nông nghiệp chuyển nhanh sang chuyên canh rau, từng bước chăn nuôi tương đối với trồng trọt, tạo ra một vành đai thực phẩm của thành phố.
Phấn đấu giải quyết cơ bản lao động thất nghiệp trong Quận và đưa lên khu giản dân, từng bước ổn định và nâng cao đời sống cho quần chúng.
2. Tập hợp toàn dân thành đội ngũ, củng cố và phát triển các lực lượng vũ trang và bán vũ trang, tổ chức tốt các bộ phận phục vụ chiến đấu.
3. Phải làm cho hệ thống chuyên chính vô sản vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Bằng cách xây dựng cho được chế độ làm toàn diện, bao gồm sức chiến đấu của Đảng bộ, hiệu lực quản lý của Nhà nước và năng lực làm chủ của quần chúng thông qua các tổ chức đoàn thể.
- Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng phải nhằm phục vụ cuộc đấu tranh giữa hai con đường XHCN và TBCN. Cán bộ, Đảng viên phải dứt khoát với những tư tưởng phi vô sản để rèn luyện, nâng cao năng lực về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, giáo dục các tầng lớp nhân dân tập trung cho sản xuất đi vào nề nếp, chống tư tưởng ăn bám, bóc lột, chống tư tưởng tự do vô kỷ luật, kiên quyết chống những biểu hiện suy thoái trong nội bộ, ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả hiện tượng tiêu cực.
- Công tác tổ chức phải xoáy sâu vào tổ chức thực hiện đạt hiệu quả, có kế hoạch đào tạo cán bộ quản lý kinh tế, quản lý được nội bộ, xây dựng chặt chẽ.
I. NHIỆM VỤ VÀ CHỈ TIÊU KINH TẾ.
A. Những chỉ tiêu chủ yếu.
Chỉ tiêu | 1980 | 1981 | Ghi chú |
Giá trị tổng sản lượng TTCN.Trong đó Giá trị hàng hoá XK Vải vụn các loại Nông cụ cầm tay May nội địa May xuất khẩu Thủy tinh Thuộc da Hài thêu xuất khẩu Đan len xuất khẩu Mây tre lá xuất khẩu D/tích chuyên canh rau Tổng đàn heo |
110 triệu đồng 15 triệu đồng 15 triệu đồng 250 ngàn cái 500 ngàn SP 650 ngàn SP 300 tấn 200 ngàn pia 150 ngàn đôi 100 ngàn SP 1 triệu đồng 300 ha 20 ngàn con
|
130 triệu đồng 20 triệu đồng 15 triệu đồng 350 ngàn cái 600 ngàn SP 800 ngàn SP 350 tấn 400 ngàn pia 200 ngàn đôi 100 ngàn SP 1 triệu đồng 500 ha 25 ngàn con. |
KH năm 1981 chưa có sổ kiểm tra của Thành phố, Quận tạm dự tính. |
B. Nhiệm vụ biện pháp cụ thể để phát triển kinh tế 2 năm 1980-1981.
Đối với việc hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN cần nhanh chóng tổ chức cơ sở kinh tế quốc doanh và tập thể có tính chất quyết định chủ đạo nền kinh tế XHCN, ra sức phát triển toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc. Phát triển mạnh tiểu thủ công nghiệp, sản xuất nhiều hàng tiêu dùng và đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tạo thành vành đai thực phẩm, giải quyết căn bản nạn thất nghiệp, đến năm 1981 tạo đủ công ăn việc làm cho người trong độ tuổi lao động. Cải tiến cách phân phối cho hợp lý đến tay người tiêu dùng, góp phần từng bước ổn định và cải tạo nhân dân lao động.
1/ Công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp.
- Đẩy mạnh cải tạo XHCN đối với ngành tiểu thủ công nghiệp theo con đường tập thể dưới các hình thức HTX, tổ hợp. Tiến hành quy hoạch theo nhóm sản phẩm, hình thành những vệ tinh cho các tổ hợp, HTX và gia công cho các xí nghiệp Trung ương và Thành phố, tạo điều kiện chuyên môn hoá một số ngành trọng điểm như dệt, sản xuất nông cụ, kim khí tiêu dùng…
Ngành dệt là ngành mũi nhọn cần dồn sức tập trung, duy trì phát triển những mặt hàng truyền thống như tơ tằm, các mặt hàng xuất khẩu. Trước mắt ngành dệt có khó khăn về nguyên liệu nên cần khẩn trương chuẩn bị phương án chuyển sang mặt hàng khi không đủ nguyên liệu để đảm bảo công ăn việc làm, ổn định đời sống. Đồng thời phải có kế hoạch để bảo quản các máy móc, trang thiết bị ngành dệt.
- Đẩy mạnh chế biến lương thực, thực phẩm cho người và thức ăn cho gia súc.
- Chú trọng phát triển những mặt hàng bằng nguyên liệu nội địa, những mặt hàng tận dụng từ phế liệu, phế thải như sắt vụn, vải vụn, sợi rối để góp phần cải thiện đời sống của quần chúng, giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân.
- Đặc biệt quan tâm đầu tư chiều sâu vào ngành cơ khí lên vị trí từ phục vụ cho sửa chữa, mà trọng tâm phục vụ cho nông nghiệp, chế biến thực phẩm, phụ tùng cho ngành dệt, đẩy mạnh việc tự trang tự chế các thiết bị chuyên dùng để sản xuất nhiều mặt hàng phong phú, đa dạng phục vụ tiêu dùng, cần đảm bảo nông cụ cải tiến, nửa cơ giới cho các phường nông nghiệp, cho vùng kinh tế Thái Mỹ, nông trường Duyên Hải và tiến tới cung cấp cho các nơi khác. Cơ khí phải thực sự phục vụ cho ngành dệt để thực sự trở thành ngành mũi nhọn, có kế hoạch phục hồi ngay, tận dụng 300 thiết bị hư hỏng, tháo gở để lắp ráp tư trang, tự chế tạo máy mới, sản xuất phụ tùng cho máy dệt như thoi, vòng da, dầu da, suốt, chuột các lọai ... trước mắt phục vụ trong quận và sau đó là các nơi khác.
Nhanh chóng hình thành cơ sở xi mạ, nhiệt luyện cho ngành cơ khí.Coi trọng phát triển ngành vật liệu xây dựng gạch, ngói để đáp ứng cho công việc kiến thiết sửa chữa trong Quận. Đẩy mạnh sản xuất đồ chơi trẻ em thành hình mới. Khôi phục lại một số cơ sở sản xuất giấy đã có để đáp ứng một phần nhu cầu cho học sinh và các cơ quan trong Quận.
Quan hệ với các cơquanThành phố, Trung ương để khôi phục và đẩy mạnh ngành da.
- Phát triển ngành thuỷ tinh sản xuất từ cát, nghiên cứu sản xuấtcườm để xuất khẩu.
- Cần duy trì sản xuất đồ mộc làm ra nhiều hàng phục vụtrong nước và xuất khẩu.
- Đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng xuất khẩu bằng nguyên liệu nội địa và gia công từ nguyên liệu nhậpnước ngoài như đan len, may mặc, thêu ,mây tre lá , đồ chơi trẻ em, dao nhíp, thảm sơ dừa…
- Nhanh chóng thu gom và tổ chức tốtlựclượng thiết bị còn vắng chủ nằm phân tán trong quận có biện pháp khôi phục ngay sản xuấtkiên quyết không để một cơsở sản xuất nào ngừng hoạt động. Để đảm bảo sản xuất được liên tục, ổn định được công ăn việc làm của quần chúng, ổn định đời sống người lao động, các cơ sở, các đơn vị sản xuất luôn luôn có phương hướng mới trong khi thiếu nguyên liệu mà các hợp đồng kinh tếkhông cungcấp đầy đủ.
Coi trọng công tác quản lý kinh tế , áp dụng chế độ hạch toán kinh tế ở các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, áp dụng ngay, kịp thời,chặt chẽ mức kinh tế kỹ thuật, phải quản lý cho được sản phẩm.
Trên cơ sở cải tạo, tổ chức lại sản xuất mà tiến hành sắp xếp, bố trí hợp lý lao động, thu hút thêm lao động, đồng thời sử dụng hết lựclượng lao động có tay nghề, có kỹ thuật, cần có chế độ chính sách hợp lý.
Biện pháp thực hiện :
Nguyên liệu: là vấn đề sống còn của sản xuất cần đưa xí nghiệp vật tư về liên hiệp xã củng cố về số lượng và chất lượng ,đẩy mạnh sự hoạt động của xí nghiệp vật tư , trong việc thu mua nguyên liệu, phế thải ở các quận, đồng thời mở rộng khai thác thu muaở các tỉnh. Đề nghị Trung ương cung cấp đủ nguyên liệu cho ngành dệt và nguyên liệu cho những mặt hàng gia công xuất khẩu.
- Giao liên hiệp xã với các ngành có liên quan tổ chức hội nghị chuyên đề bàn về nguyên liệu, phế liệu phục vụ cho sản xuất.
Quan hệ mật thiết với các xí nghiệp Trung ương và Thành phố đóng ở địa phương để trao đổi học tập về kinh nghiệm tổ chức sản xuất quản lý, đào tạo công nhân kỹ thuật, giải quyết công ăn việc làm cho quần chúng lao động, hỗ trợ về nguyên liệu phế liệu phế thải (sắt vụn, sợi rối,..)
- Đẩy mạnh quan hệ hợp tác XHCN giữa các cơ quan, ban ngành trong các cơ quan xí nghiệp Trung ương Thành phố với địa phương trên cơ sở bình đẳng giúp đỡ nhau và cùng có lợi.
- Trên cơ sở quy hoạch mà có kế hoạch sử dụng hết công suất thiết bị, máy móc, nhanh chóng khôi phục ngay một số máy móc bị hư hỏng hoặc thiếu phụ tùng thay thế để sớm đưa vào sản xuất hoặc chuẩn bị sẵn sàng khi có nguyên liệu thì sản xuất được ngay.
- Đẩy mạnh sự hoạt động của nhóm khoa học kỹ thuật của ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp Quận, nghiên cứu các đề tài thiết thực phục vụ trước mắt cũng như lâu dài để đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt phục vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp cũng như các nhu cầu khác. Công tác phát minh sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nhầm giải quyết khó khăn về vật tư nguyên liệu phải nhập từ nước ngoài bằng nguyên liệu trong nước đặc biệt nghiên cứu sử dụng tốt nguồn phế liệu phế thải. Nghiên cứu sản xuất các mặt hàng mới có giá trị phục vụ cho sản xuất, đời sống và xúât khẩu.
- Có kế hoạch đào tạo công nhân kỹ thuật, các môn quản lý kinh tế thống kê kế hoạch bằng nhiều hình thức như chế độ kềm cập, mở các lớp ngắn hạn… để làm cho đội ngũ công nhân cán bộ ngày càng lớn về số lượng và chất lượng.
- Hàng năm vào đầu quý phải tổ chức cho được Hội nghị khách hàng bao gồm cả cơ quan Trung ương, Thành phố, các Tỉnh bạn, ký hợp đồng với địa phương để địa phương chủ động kế hoạch, bảo đảm thhực hiện chỉ tiêu của Nhà nước.
- Về chỉ đạo lấy phường 1, phường 3 và phường 8 làm điểm để chỉ đạo vềtiểu thủ công nghiệp. Phường 1 chỉ đạo về công tác quy hoạch tổ chức sản xuất ngành dệt và hàng tiêu dùng; phường 3 chỉ đạo điểm về ngành cơ khí phục tiêu dùng và sản xuất nông nghiệp; phường 8 chỉ đạo điểm về phát triển các mặt hàng xuất khẩu và giải quyết công ăn việc làm cho quần chúng lao động.
2/ Nông nghiệp: từng bước quy hoạch Quận thực sự trở thành vành đai thực phẩm của Thành phố. Dựa vào thế mạnh của tiểu thủ công nghiệp, lao động thừa hiện nay mà tác động vào nông nghiệp đầu tư thêm chiều sâu: giống ,phân, thuỷ lợi, công cụ sản xuất và các biện pháp kỹ thuật khác để thúc đẩy nông nghiệp phát triển mạnh lên, đưa dần nông nghiệp phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN có cơ cấu cây con hợp lý không ngừng tăng năng suất cây trồng , tăng năng suất lao động.
Trong trồng trọt phải sử dụng triệt để hết diện tích đất đai để trồng hoa màu, không được để một tất đất hoang. Đẩy mạnh phong trào trồng cây rau màu trong nhân dân.
Tiến hành quy vùng cây trồng hợp lý: vùng cây thực phẩm, vùng hoa màu, cây dược liệu … để đi vào chuyên canh, thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồngtrên cơ sở đó mà cân đối lương thực cho nông nghiệp. Trước mắt trong năm 1979 coi trọng cả 3 loại cây trồng lúa, rau màu và cây dược liệu, chú trọng cả 3 mặt : diện tích, năng suất, sản lượng. Quy hoạch dành một diện tích thích đáng để trồng cây thức ăn gia súc. Đẩymạnh trồng câysua đũa để chắn gió, cải tạo đất và sử dụng làm nấm xuất khẩu. Nghiên cứu chuyển dần diện tích trồng lúa sang trồng rau màu.
Trong chăn nuôi trước hết phải tập trung giải quyết thức ăn và giốnggia súc, đây là vấn đề cơ bản của chăn nuôi. Đẩy mạnh sự hoạt động củatrạm vật tư nông nghiệp, hướng dẫn cáctập đoàn quy hoạch trồng cây thức ăngia súc và tổ chức chế biến tại chỗ, quan hệ chặt chẻ với các xí nghiệp,Trung ương, Thành phố (xí nghiệp đông lạnh….) đóng trong quận để hổ trợ một phầnthức ăn cho chăn nuôi, đồng thời trạm vật tư tiến hành quan hệ hợp đồng kinh tếcác tỉnh để giải quyết thức ăn cho chăn nuôi.
Phải tận dụng triệt để các cơ sở chuồng trại còn trống, kịp thời sửa chữa hư hỏng để tăng đầu gia súc, nếu phường nào còn để trống thì giao cho các cơ quan, phường khác .
Kết hợp 3 hình thức chăn nuôi: quốc doanh, tập thể và chăn nuôi gia đình. Đặc biệt chú trọng phát triển chăn nuôi gia đình. Coi trọng tổng kết kinh nghiệm chăn nuôi, nhất là chăn nuôi heo giống đối với một số gia đình có kỹ thụâtchăn nuôi giỏi để phổ biếnsâu rộng trong quần chúng. Cũng cố và phát triển đàn heo, gà đã có, phấn đấu năm 1980 đạt bình quân 4 đầu heo / 1hagieo tập thể (khoảng 3600 con heo ). Tận dụng triệt để những ao hồ đã nuôi cá. Phải tạo nhanh heo giống theo hướng là thụ tinh nhân tạo. Trại heo quốc doanh cung cấp con giống trước nhất là cơ sở chăn nuôi quốc doanh, HTX và một phần cho cán bộ công nhân viên có chăn nuôi. Coi trọng phát triểnđàn trâu bò đặc biệt là trâu bò cày kéo để hỗ trợ sức kéo cho các tập đoàn sản xuất nông nghiệp, khôi phục lại nghề nuôi thỏ truyền thống ở phường 20. Trong chăn nuôi lấy phường 15 và trạiheo quốc doanh Quận chỉ đạo điểm từđó rút kinh nghiệm chỉ đạo ra diện.
Về biện pháp : có kế hoạch trồng hết diện tích đất nông nghiệp, đẩy mạnh các biện pháp thâm canh cây trồng, các biện pháp kỹ thuật trong chăn nuôi trước hết là làm tốt các khâu : giải quyết giống câytrồng và thức ăn gia súc. Áp dụng rộng rãi các giống kháng rầy, có năng suất cao ít sâu bệnh và từ đó tăng thu nhập cho người nông dân.
- Tranh thủ mùa khôhàng năm mà phát động phong trào làm thuỷ lợi nhỏ, kết hợp xây dựng đồng ruộng với cải tạo đất. Thuỷ lợi là biện pháp hàng đầu đối với điều kiện đất đai của Quận ta. Vì vậy phải có kế hoạch khai tháctốt nước ngầm coi trọng đào giếng tay là chủ yếu để đảm bảo nước tưới trong mùa khô đào đắp kênh mương thoát nước trong mùa mưa. Khẩn trương đưa điện nước vào HTX và các tập đoàn sản xuất từ quý 4/79.
Đẩy mạnh chế biến phân hữu cơ, tận dụng tốt nguồn phân rác hiện có,phấn đấu mỗi lao động nông nghiệp làm được từ 2 tấn phân hữu cơ trở lên. Ý thức cho cán bộ công nhân viên, nhân dân và các đoàn thể quần chúng trong cáccơ quan xí nghiệp trường họcphong tràolàm phân rác, phân chuồng , phânxanh cho nông nghiệp. Đẩy mạnh hoạt động của tổ bảo vệ thực vật, công tác thú y kịp thời phòng và trị bệnh cho gia súc, nhanhchóng xây dựng xưởng chế biến thực phẩm thức ăn gia súc.
- Cần chỉ đạo tốt việc đưa những người không có công ăn việc làm nội thành tăng cường các phường nông nghiệp, đưa lực lượng đi khai thác củi ở Long Hồ,tự túc chất đốt, đi sản xuất ở nông trường Duyên Hải, đi Cù Lao Vung và huyệnVũng Liêm kết nghĩa.
Việc đưa nông dân vào làm ăn tập thể trong những năm tới theo phương châm khẩn trương nhưng vững chắc; trước mắt nhấn mạnh vững chắc. Tích cực củng cố các tập đoàn sản xuất bảo đảm thu nhập của tập đoàn viên và gia đình phải cao hơn làm cá thể và ngày càng nâng lên. Phải chuẩn bị thật tốt các điều kiện cần thiết mới xây dựng tập đoàn mới. Phải để cho nông dân tự nguyện, tuyệt đối không gò ép, cưỡng bức khi họ chưa muốn vào tập đoàn.
3/ Ngành lương thực : Thành lập tổ hợp và tiến lên hợp tác chế biến, tiến hànhcông ty hợp doanh số lò bánh mì nhằm quản lý tốt khâu chế biến không để một cơ sở chế biến nào ngoài diện quản lý của Nhà nước. Đầu tư thêm cơ sở vật chất để nâng cao công suất máy móc và năng lực chế biến, tăng năng suất lao động. Tiến hành điều tra cơ bản nắm cho được hết năng lực chế biến của Quận và vận động một số cơ sở làm bún, bánh có trang thiết bị chuyển sang chế biến lương thực trên cơ sở hiện có mà xem xét đầu tư thêm máy móc, thiết bị hoặc mở rộng mặt bằng cho phù hợp với yêu cầu chế biến hiện nay, giải quyết tốt hai bữa ăn cho quần chúng. Các cơ sở chế biến bột mì phải thông qua cấp phường quản lý về hợp đồng kinh tế, kiểm tra thực hiện các chế độ định mức, giao nộp, thanh toán… Từđầu năm 1980 thực hiện chế biến mì khô 100%.
Tăng cường công tác kiểm tra quản lý phân phối lương thực ở các cửa hàng trung tâm, khu vực, các tổ phục vụ về giá cả tiêu chuẩn, định lượng phân phối, chất lượng thành phẩm chế biến, kiểm tra việc thanh quyết toán…
Đồng thời ngành lương thực cùng với các cơ quan hữu quan nắm chắcdi biến động dân số, kiểm tra việc sử dụng lương thực ở các cơ quan, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, tổ hợp, HTX, tiểu thủ công nghiệp… theo chế độ chính sách của Nhà nước. Tổ chức tốt mạng lưới phân phối lương thực nhanh, gọn, kịp thời đến các đối tượng.
Ngành lương thực cùng với nông nghiệp, Nông hội, Tài chính … đẩy mạnh công tác thu mua lương thực đối với các phường có sản xuất lương thực. Giải quyết kịp thời lương thực cho các hộ nông nghiệp thiếu ăn, ưu tiên phân phối lương thực cho cán bộ, công nhân viên Nhà nước, cho khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp và HTX chuyên canh rau.
4/Cải tạo và xây dựng ngành thương nghiệp :
Đối với tư sản thương nghiệp chuyển sang sản xuất ra khỏi thành phốnay họ bỏ về, bằng mọi cách đưa họ trở lại nơi cũ tiếp tục sản xuất. Trong năm 1979 phải giải quyết dứt điểm những mặt tồn đọng trong đợt cải tạo vừa qua, hòan thànhviệc thanh lý, thanh toán nhà cửa, hàng hoá, vốn liếng.
Đối với tiểu thương tiếp tục xem xét chuyển phần lớn sang sản xuất, trước hết nhằm những người buôn bán trao tay, bắt mối đến trung tiểu thương, buôn bán những mặt hàng thuộc diện Nhà nước quản lý, những quán cà phê, chè, lấn chiếm lòng lề đường hoặc vi phạm nếp sống văn hoá mới. Những người tiểu thương được phép tạm thời buôn bán phải đăng ký kinh doanh, tập hợp lại các hình thức thích hợp và hoạt động trong phạm vi pháp luật của Nhà nước. Mỗi phường nắm chắc yêu cầu trong phường để định tỉ lệhợp lý, để lại bao nhiêu tiểu thương phục vụ thiết thực cho sinh hoạt, đời sống của nhân dâncòn bao nhiêu dứt khoát chuyển sang sản xuất (khoảng 60% hộ tiểu thương). Ngăn chặn tiểu thương mới xuất hiện.
Đối với thương nghiệp XHCN: Nhiệm vụ chủ yếu là tiến hành tổ chức hợp lý mạng lưới lưu thông, phân phối hàng hoá, ưu tiên phục vụ tốt đời sống quần chúng, trong cơ quan xí nghiệp, HTX, tổ hợp, tập đoàn sản xuất, sản xuất phát triển, chống quan điểm kinh doanh đơn thuần vì mục đích lợi nhuận.
Song song với việc hoàn thành công tác cải tạo thương nghiệp phải hình thành nhanh chóng mạng lưới thương nghiệp quốc doanh theo ngành hàng để đủ sức nắm trọn khâu bán buôn đẩy mạnh vai trò đắc lực cải tạo giá cả thị trường củng cốtốt hệ thống thương nghiệp HTX 26 phường để vươn lên nắm nguồn hàng nhất là những mặt hàng thiết yếu phục vụ trực tiếp đến đời sống quần chúng, các phường khẩn trương tiến hành quy hoạch tổ chức lại mạng lưới dịch vụ phục vụ cho địa phương mình trên cơ sở điều tra nắm chắc yêu cầu thực tế với phương hướng chung của mình.
Tổ chức thu mua nắm nguồn hàng vươn lên quản lý cho được thị trường 70%, ngăn chặn tận gốc bọn buôn lậu, làm và bán hàng giả, bọn đầu cơ tích trữ, trị thật nặng bọn này. Sắp xếp ổn định lại các chợ.
Biện pháp thực hiện :
Các HTX tiêu thụ phường phải thu mua nắm nguồn hàng thiết yếu phục vụ đời sống quần chúng như đẩy mạnh thu mua mặt hàng tự doanh, hàng công nghệ phẩm, nhất là các mặt hàng ngoài tiêu chhuẩn của Nhà nước, hàng tự sản tự tiêu, thu mua hàng nông sản thông qua hợp đồng kinh tế hai chiều với nông dân ở địa phương và các tỉnh khác trên cơ sở giá cả hợp lý. Phải dành một tỉ lệ hàng công nghiệp phẩm thích đáng để trao đổi với nông dân, kích thích sản xuất. HTX phường phải thực hiện cho được hậu cần cho phường. Ngân hàng, tài chính, tổ vật giá và Liên hiệp HTX có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho thương nghiệp trong việc thu mua nguồn hàng được kịp thời.
- Đẩy mạnh công tác chế biến thực phẩm tiêu dùng để tăng cường chất lượng 02 bữa ăn cho cán bộ, công nhân viên và quần chúng.
- Củng cố và tăng cường sự hoạt động của các cửa hàng rau quả, thực phẩm tươi sống, chất đốt các cửa hàng ăn uống để phục vụ tốt hai bữa ăn cho công nhân viên và nhân dân lao động. Đối với Công ty ăn uống phải tự túc về thực phẩm bằng cách đẩy mạnh chăn nuôi, tận dụng thức ăn thừa thãi của khách hàng, trồng cây thức ăn gia súc, quận sẽ xem xét giao cho một số cơ sở chăn nuôi còn trống chuồng ở các phường cho công ty.
Thương nghiệp sẽ chỉ đạo tốt các cửa hàng ăn uống và xây dựng cửa hàng điểm để rút kinh nghiệm chỉ đạo chung toàn quận. Nhanh chóng chuyển toàn bộ các cửa hàng ăn uống HTX sang Công ty ăn uống quản lý.
Làm kỹ, thường xuyên công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao tinh thần trách nhiệm cho anh chị em trong ngành về tinh thần, thái độ và quan điểm phục vụ khách hàng, xứng đáng là một nhân viên thương nghiệp XHCN là “người nội trợ” tận tụy của nhân dân lao động.
5/ Giải quyết công ăn việc làm-góp phần ổn định đời sống quần chúng lao động :
Giải quyết công ăn việc làm ổn định đời sống quần chúng là vấn đề cấp bách hiện nay. Trước hết thông qua công tác điều tra hộ khẩu, tổng điều tra dân số mà tổ lao động cùng với một số cơ quan chức năng nắm chắc lại toàn bộ lực lượng lao động và sức lao động, lao động thường xuyên và lao động có kỹ thuật đã được phân bổ sắp xếp cho các ngành, các cơ quan xí nghiệp, các cơ sở sản xuất trong lãnh thổ địa phương, đồng thời qua việc xây dựng kế hoạch từ cơ sở mà thu hút thêm lao động cho các ngành để phát triển sản xuất giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đặc biệt nắm chắc chính xác số lao động chưa có công ăn việc làm trên cơ sở đó mà có kế hoạch phân bổ lao động hợp lý, tạo điều kiện mở rộng sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp, nông trường xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 1981 ai cũng có công ăn việc làm, giải quyết cơ bản nạn thất nghiệp 85-90% số người thất nghiệp).
Những người lao động chưa có công ăn việc làm cần được giải quyết ưu tiên trước cho những người trong diện chính sách như: gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có con em đi nghĩa vụ, thanh niên xung phong, gia đình có công cách mạng và quần chúng nghèo.
Giải quyết công ăn việc làm cho quần chúng lao động phải thể hiện tính tích cực theo quan điểm đường lối của Đảng, Nhà nước ta, tránh có thành kiến với quá khứ.
Trong công tác xét duyệt đơn xin việc làm của quần chúng lao động phải đảm bảo nguyên tắc, chính sách. Nhất thiết phải cải tiến lề lối làm việc, giảm bớt thủ tục giấy tờ không cần thiết để tạo điều kiện được dễ dàng nhanh chóng cho người dân có việc làm. Cuối năm 1979 đầu 1980 tổ chức đưa hết số đồng bào các vùng kinh tế mớichạy về trở lại lập nghiệp sớm ổn định đời sống cho họ.
Hướng giải quyết lao động :
- Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp : tập trung thêm lao động cho ngành đan, thêu, móc, các mặt hàng xuất khẩu bằng nguyên liệu nội địa: chiếu cói, thảm sơ dừa, thảm bẹ dừa, mây tre lá… đẩy mạnh các mặt hàng tận dụng phế liệu, phế thải.
- Nông nghiệp, nông trường: thu hút lao động thừa ở các phường nội thành mà khả năng địa phương không giải quyết đủ công ăn việc làm cho họ thì tập trung lao động phân bổ cho các tập đoàn sản xuất nông nghịêp, tận dụng đất đai nông nghiệp, ao hồ, chuồng trại chăn nuôi để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Phân bổ lao động cho vùng kinh tế Thái Mỹ và giãn dân ra các tỉnh bạn theo phương châm từng bước, giãn dân đến đâu ổn định đời sống đến đó, cho khai thác gạch ngói Bình Chánh, cho nông trường Duyên Hải, cho khai thác gỗ ở Long Hồ.
Cho các yêu cầu khác : bổ sung thêm lao động cho kiến thiết cơ bản cho mạng lưới thương nghiệp, cho giao thông vận tải…
Bảo đảm cung cấp lao động theo chỉ tiêu lao động, tuyển sinh, NVQS, thanh niên xung phong,… của thành phố giao.
Biện pháp thực hiện :
- Kiện toàn và củng cố Ban xét duyệt lao động phường, Hội đồng xét duyệt lao động Quận, Ban chỉ đạo sắp xếp công ăn việc làm quận, phường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đoàn thể làm tốt công tác nghĩa vụ quân sự, thanh niên xung phong, tuyển lao động và vận động đồng bào đi hồi hương lập nghiệp.
Kiểm tra soát xét lại việc chuẩn bị xây dựng cơ sở vật chất và các mặt khác ở những địa phương đưa lao động đi sản xuất .
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho quần chúng lao động để họ thấy rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động. Thực hiện cưỡng bức lao động đối với những người có sức lao động mà không chịu đi lao động.
- Về chỉ đạo lấy phường 8, phường 3 làm thí điểm và phân bố lực lượng lao động giải quyết công ăn việc làm cho quần chúng lao động.
6/ Nhà đất và công trình công cộng :
Nhiệm vụ của ban nhà đất và quản lý công trình công cộng phải góp phần ổn định đời sống cho quần chúng, giải quyết tốt các công trình công cộng phục vụ cho dân, bố trí một cách hợp lý nhà làm việc cho các cơ quan trong quận, trên cơ sở tập trung để quản lý và chỉ đạo công tác, trong đó ưu tiên cho nhà trẻ mẫu giáo, trường học, y tế, thương nghiệp, quan tâm giảiquyết nhà ở cho cán bộ, công nhân viên và người lao động.
Hoàn thành công tác cải tạo nhà đất, nhà sĩ quan học tập cải tạo, nhà cho thuê, nhà vắng chủ, đẩy mạnh công tác thu tiền nhà.
Trong năm 1980-1981 có quy hoạch sắp xếp lại nhà ở cho công nhân viên và nhân dân lao động trong các khu vực ổ chuột trong diện giải thể. Phải có kế họach cân đối giữa hai nhiệm vụ vừa sửa chữa vừa xây dựng mới; phải tập trung vào những công trình trọng tâm để đáp ứng yêu cầu về chính trị, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở địa phương.
Nhanh chóng giải quyết điện nước cho nhân dân các phường chưa có hoặc có một phần (điện hương lộ 14, 15; nước phường 15, 16 và một phần phường 14). Kiện tòan hệ thống đèn chiếu sáng nơi công cộng và tổ chức bảo vệ tốt hệ thống nhằmđảm bảo an ninh đi lại, góp phần bảo vệ trật tựan ninh chung của Thành phố.
Biện pháp :
- Củng cố tốt bộ phận theo dõi quản lý nhà đất các phường, nắm chắc tình hình nhà cửa của địa phương, phản ảnh kịp thời để quản lý và giải quyết đúng chế độ, đúng chính sách, đúng đối tượng.
- Tăng cường sự hoạt động của Hội đồng xử lý nhà cửa của Quận, hội đồng xét duyệt nhà cửa chẳng những xét cấp nhà mà còn xét duyệt sửa chữa nhà cho CBCNV dựa trên nguyên tắc chế độ của Nhà nước, xử lý nghiêm minh những trường hợp chiếm nhà, chiếm tài sản bất hợp pháp.
7/ Giao thông vận tải :
a) Về giao thông : Dựa vào phân cấp quản lý của ngành, xác định nhiệm vụ công tác giao thông của Quận là : quản lý, duy tu, dậm vá, nạo vét thông cốnh rãnh, bảo đảm đường sá trong Quận.
Tăng cường công tác kiểm tra nắm chắc tình hình cầu đường cống rãnh... Đề xuất với Sở giao thông trong việc mở rộng theo phương hướng phát triển thành phố. Hoàn thành quy hoạch, cải tạo và mở rộng các bến bãi xe, đặc biệt là các tụ điểm giao thông quan trọng trong quận phải làm trước một bước, bảo đảm giao thông thông suốt phục vụ cho sản xuất, cho đời sống. Quan tâm thích đáng đến các phường sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt là vùng rau Tân thắng.
Ngành giao thông phải tạo điều kiện thuận lợi nhất phục vụ cán bộ, công nhân viên và công nhân đi lại làm việc vào lúc giờ cao điểm, quản lý tốt giá cả.
b) Về vận tải : đáp ứng yêu cầu cho sản xuất, lưu thông phân phối phục vụ chiến đấu. Nắm sắp xếp và quản lý chặt lực lượng vận tải của các HTX, tổ hợp và tư nhân để huy động hết năng lực vận tải hiện có, có sự phân công quản lý giữa quận và phường.
Đề nghị sở phân cấp cho quận 1 đội vận tải chủ lực .
Ngoài ra nghiên cứu vận tải đường thuỷ từ thành phố đi nông trường Duyên Hải, Cù lao Vung, Thuận Hải, Vũng Liêm kết nghĩa. Để bảo đảm các đầu xe hoạt động cần tiến hành tổ chức và quản lý các tổ hợp sản xuất và sửa chữa phương tiện vận tải quy mô vừa và nhỏ. Đồng thời tiến hành thành lập HTX cơ khí sửa chữa các loại xe tải trong Quận.
8/ Công tác tiền tệ: (bao gồm Tài chính –Thuế-Ngân hàng)
Nhiệm vụ của công tác tiền tệ là phải phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ sản xuất góp phần cải tạo thị trường phát triển kinh tế, góp phần ổn định đời sống cho nhân dân địa phương. Cải tiến một bước quan trọng về lề lối làm việc, giảm bớt thủ tục không cần thiết, tăng hiệu lực quản lý và phục vụ, giải quyết được nhanh chóng kịp thời tiền vốn cho công tác lưu thông phân phối. Đặc biệt ưu tiên cho vay những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu đời sống nhân dân và xuất khẩu, nhưng phải đảm bảo hiệu quả kinh tếcho sản xuất và đời sống.
Với chức năng nhiệm vụ của ngành mà đưa dần công tác quản lý kinh tế vào nề nếp đảm bảo nhiệm vụ quản lý và phânbố nguồn vốn đúng chế độ chính sách để thúc đẩy công tác cải tạo và phát triển sản xuất.
Căn cứ vào tìnhhình và đặc điểm hiện naycông tác tài chính phải phục vụ kịp thời, thiết thực, thúc đẩy được sản xuất, cân đối vốn đầu tư thích đáng cho phát triển kinh tế, văn hoá xã hội của địa phương .
Đẩy mạnh hoạt động công tác tín dụng thêm một bước đảm bảo hiệu quả vòng quay đồng vốn.
Đảm bảo chỉ tiêu thu thuế hàng tháng, quý kết hợp với phường làm tốt công tác đốc thu, có biện pháp tốt để đẩy mạnh nguồn thu đảm bảo chính sáchthúc đẩy sản xuất, tránh thất thu.
Các ban ngành, các đơn vị phải thực hiện nghiêm chỉnh về nguyên tắc, chế độ thu chi tài chính thanh quyết toán kịp thời,đồng thời phải quản lý chặt chẽ tiền mặt, tài sản phân phối hợp lý và tiết kiệm.
Ngân hàng phải tổ chức tốt mạng lưới tiết kiệm rộng rãi đều khắp trong nhân dân, trong các cơ quan xí nghiệp, trường học … để huy động tiền tạm nhàn rỗi rồi góp phần phát triển kinh tế, cải thiện đời sống cho quần chúng.
Đề nghị ngân hàng thành phố điều tiết cho các nơi khác, đảm nhiệm tiền chi cho quân khu 7 để góp phần giải quyết khó khăn về tiền vốn cho sản xuất (tiền mặt), đẩy mạnh hoạt động của công tác tín dụng của địa phương thêm một bước :
- Công tác tài chính, ngân hàng thuế phải phục vụ đắc lực cho phát triển sản xuất lưu thông phân phối.
Biện pháp thực hịên:
Thuế: Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho các nhân viên làm công tác thuế , tổ chức cho quần chúng học tập chính sách thuế mới của Nhà nước, trên cơ sở đó mà phục vụ tốt cho công tác cải tạo và phát triển sản xuất.
- Tổ chức cùng với các phường nắm chắc các hộ đăng ký kinh doanh, tránh trùng, sót để đảm bảo nguồn thu cho Nhà nước tránh thất thu.
Tài chính:Thường xuyên tiến hành kiểm tra thanh lý, thanh toán đảm bảo chế độ quản lý tài sản..
- Mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn về nghiệp vụ kế toán, cho các ban ngành, cùng với các cơ quan chủ quản, các lớp kế toán cho cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và tập đoàn sản xuất nông nghiệp.
- Cùng với các cơ quan chức năng thông qua duyệt kế hoạch mà cấp vốn để đảm bảo thực hiện chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước.
- Nghiên cứu áp dụng chính sách giá cả hợp lý bảo đảm 3 lợi ích.
Ngân hàng:Vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương mà có chính sách tiền mặt để đẩy mạnh sản xuất (chi phí sản xuất, tiền công tiền thu mua nguyên vật liệu)
- Ưu tiên cho tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và xuất khẩu. Đặc biệt dùng một lượng tiền mặtưu tiên cho việc thu mua nguyên vật liệu.
- Đẩy mạnh sự hoạt động của công tác tín dụng cân đối đầu tư giữa Trung ương, Thành phố với địa phương để đẩy mạnh sản xuất.
-Chú ý huy động tiền tiết kiệm thành phong trào thường xuyên, rộng khắp đạt kết quả cao.
II/ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VĂN HOÁ.
Đi đôi với việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế phải đẩy mạnh công tác tư tưởng văn hoá phục vụ sát sừơn nhiệm vụ chính trị của Quận Đảng bộ.
Nhiệm vụ chung của công tác tư tưởng và văn hóa là tạo nên chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước và giác ngộ XHCN trong cán bộ chiến sĩ và quần chúng nhân dân, nhằm phát động thành những phong trào hành động cách mạng sôi nổi rộng lớn liên tục và tự giác. Thông qua các phong trào mà phát huy các hoạt động văn hoá, thông tin giáo dục và nhà trẻ, y tế và thể dục thẻ thao, thương binh xã hội, nhanh chóng giải quyết về cơ bản các tệ nạn xã hội, hình thành nền văn hoá mới và con người mới XHCN.
Khâu trung tâm của công tác tư tưởngvà văn hoá là tiếp tục giáo dục cán bộ chiến sĩvà quần chúng nhân dân hiểu rõ và thực hiện tốt quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, lấy đó làm động lực thúc đẩy mọi mặt công tác và phong trào quần chúng tiến lên.
Đối tượng phục vụ chủ yếu của công tác tư tưởngvà văn hoá vẫn là giai cấp công nhân (chú ý đến thợ thủ công), nông dân và tầng lớp trí thức yêu nước, coi đây là chỗ dựa, là nồng cốt của mọi hoạt động tư tưởng và văn hoá. Mặt khác xuất phát từ đặc điểm của Quận ta, cần chú trọng công tác tư tưởng văn hoá đúng mức đối với quần chúng Thiên Chúa giáo và người Hoa. Tuyệt đối không được buông lơi và xem nhẹ đối với khu vực này.
Cần quán triệt cuộc đấu tranh trên các lĩnh vựcthuộc mặt trận tư tưởng và văn hoá ở Quận ta đang và sẽ có diễn ra rất gay gắt, quyết liệt và phức tạp. Kết quả cuộc đấu tranh này có ý nghĩa quyết định cho việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của đảng bộ ta trong những năm tới.
1/ Công tác tuyên truyền cổ động
a) Nhiệm vụ của công tác tuyên truyền cổ động là phổ biến sâu rộng trong cán bộ chiến sĩ và quần chúng nhân dân các nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Trước mắt tập trung phổ biến sâu rộng về nội dung nghị quyếtcủa đại hội đại biểu Đảng bộ kỳ này, phải tạo nên chuyển biến tư tưởng mạnh mẽ trong nội bộ và ngoài quần chúng, đánh giá đúng tình hình, phấn khởi về những thành quả đạt được, tin tưởng triển vọng tới, kiên quyết khắc phục khó khăn, tiến lên gìanh những thắng lợi mới.
Nội dung chủ yếu của công tác tuyên truyền cổ động là không ngừng nângcao tinh thần yêu nước, giác ngộ XHCN đồng thời hướng dẫn biện pháp để sử dụng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, cần xoáy vào các vấn đề cụ thể sau đây:
- Phát động tinh thần cách mạng tiến công, ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tựcường sẵn sàng vượt qua khó khăn để gìanh thắng lợi, chống tư tưởng cố thủ, bàng quan ỷ lại bên ngoài hoặc nặng quyền lợi nhẹ nghĩa vụ.
- Đề cao lao động là tiêu chuẩn của đạo đức, động viên quyết tâm lao động sản xuất trong cải tạo và xây dựng, chống tư tưởng ăn bám, hưởng thụ tham ô, lãng phí.
- Thường xuyên nâng cao tinh thần cảnh giác, tích cực thực hiện đội ngũ hoá, tăng cường luyện tập quân sự, sẳn sàng chiến đấu tốt và làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn. Chống mọi biểu hiện mất cảnh giác lơ là đối với kẻ thù.
- Tích cực đảm bảo an ninh chính trị và trật tự xã hội, kiên quyết và kịp thời đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của kẻ xấu. Chống tư tưởng hoài nghi nhẹ dạ, dẫn đến đồng tình, phụ hoạ với những tin đồn nhảm một cách vô ý thức.
- Đề cao tinh thần máu chảy ruột mềm sẵn sàng chi viện tốt nhất cho tuyến đầu Tổ quốc đánh thắng kẻ thù chung. Tăng cường đoàn kết toàn dân, đoàn kết Việt Hoa, lương giáo, thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và Campuchia.
c) Về hình thức tuyên truyền cổ động ngoài việc nghiên cứu nâng cao chất lượng bề sâu, cần phát triển trên diện rộng. Chú trọng củng cố hệ thống truyền thanh quận và các phường nhất là các phường nông nghiệp. Đẩy mạnh hoạt động của các đội truyền thanh lưu động. Phát triển các hoạt động tuyên truyền trực quan như khẩu hiệu, panô, triển lãm nâng cao chất lượng nhà thông tin triển lãm của quận nhầm thu hút đông đảo người xem, củng cố và xây dựng các trạm, bảng dán tin các cơ sở, các phường xây dựng nhiều bản tin xuống tận tổ dân phố.
d) Về biện pháp: Cần khẩn trương xây dựng mạng lưới tuyên truyền quần chúng. Xây dựng phong trào quần chúng nắm thế chủ động trên mặt trận đấu tranh dư luận. Dập tắt kịp thời các tin đồn nhảm, đồng thời đấu tranh kiên quyết đối với hiện tượng trốn tránh nghĩa vụ quân sự và nghĩa vụ lao động.
Cần bám sát phong trào kịp thời phát hiện bồi dưỡng các điển hình tiến tiến, cổ vũ mạnh mẽ các phong tràohọc tập và thi đua với các điển hình tiên tiến.
Mỗi cán bộ chiến sĩ, công nhân viên chức Nhà nước dù ở cương vị công tác nào đều là một tuyên truyền viên tích cực trong quần chúng. Quận uỷ khẩn trương chuẩn bị hệ thống báo cáo viên của quận (ít nhất khoảng 20 đồng chí) và các đoàn thể cơ sở phải khẩn trương xây dựng và quản lý chật chẽ mạng lưới tuyên truyền viên của đoàn thể mình, để đủ sức phục vụ mọiyêu cầu thường xuyên và trung tâm đột xuất. Ngoài ra cần kết hợp chặt chẽ mọi lực lượng tuyên truyền cổ động.
2/ Công tác văn hoá văn nghệ.
- Phát triển rộng khắp phong trào xây dựng nếp sống văn hoá mới. Mở rộng mạng lưới nồng cốttrong công nhân, nông dân và trí thức yêu nước, tăng cường đấu tranh tích cực trong đời sống xã hội, xây dựng tư tưởng mới, con người mới XHCN.
- Khẩn trương xây dựng hoàn chỉnh trung tâm văn hoá của Quận, làm mẫu hướng dẫn cho cơ sở phát triển hoạt động này. Mặt khác phải khẩn trương hoàn thành công tác cải tạo đối với các cơ sở văn hoá tư nhân; xây dựng tốt mạng lưới phát hành quốc doanh, hiệu ảnh, cơ sở thâu băng…
- Ban văn hoá và thông tin phối hợp với ban sưu tầm tài liệu lịch sử Đảng tiến hành xây dựngtương đối hoàn chỉnh nhà truyền thống của quận vào cuối năm 1979, xây dựng năm bia truyền thống của quận.
- Đẩy mạnh phong trào đọc sách trong nội bộ quần chúng, chú ý các xí nghiệp và các phường nông nghiệp, phát triển phòng đọc sách của quận, thành lập mỗi xí nghiệp, phường, trường học một phòng đọc sách vào cuối năm1979.
- Tiếp tục đẩy mạnh phong trào văn nghệ quần chúng, không ngừng nâng cao chất lượng nghệ thuật, nội dung bám sát phục vụ các yêu cầu cụ thể từng lúc của địa phương. Phải chuyển mạnh phong trào văn nghệ quần chúng tại các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp. Luôn luôn đào tạo hạt nhân để nuôi dưỡng và phát triển phong trào. Đẩy mạnh phong trào tự biên, tự diễn. Mặt khác cần tiếp tục phát triển các cơ sở vật chất như nhà đất, sân khấu lộ thiên để đưa các đoàn hát chuyên nghiệp về phục vụquần chúng.
3/ Công tác giáo dục nhà trẻ:
a) Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua dạy tốt và học tốt. Phấn đấu đạt 1/3 số trường; nhà trẻ tiên tiến vào cuối năm 1980 và nâng lên ½vào cuối năm 1981. Số học sinh lên lớp đạt 95-97%, thi chuyển cấp đạt 95%. Phải chuyển hướng nhanh theo như Nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách giáo dục. Để đạt các yêu cầu trên vấn đề cấp bách trước mắt là phải tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo giáo dục chính trị tư tưởng, chăm lo tốt đời sống vật chất cho đội ngũ giáo viên. Thường xuyên củng cố các Ban giám hiệunhà trường đồng thời quan tâm đúng mức việc xây dựng vững mạnh các đoàn thể trong nhà trườngđặc biệt là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và đội thiếu niên nhi đồng Hồ Chí Minh. Cần xây dựng hai trường điểm phát triển toàn diện ( trường phổ thông cấp 1,2 Nguyễn Gia Thiều và trường mẫu giáo tuổi xanh) để rút kinh nghiệm cho các trường khác.
- Ưu tiên giải quyết cơ sở vật chất cho trường học, nhà trẻ. Tiếp tục vận động nhân dân tích cực bảo trợ từng trường, lớp, nhà trẻ để bảo đảm 100% con em đến tuổi được nhập học. Khẩn trương sửa chữa 20 trường hư hại nhiều, đóng mới 500 bộ bàn ghế phổ thông; 9000 chỗ ngồi mẫu giáo và xây dựng 10 phòng học mới. Mặt khác khẩn trương hoàn thanh cải tạo 5 trường còn lại vào cuối năm 1979.
- Phát triển phong trào bổ túcvăn hoá. Thực hiện phổ cập đối tượng 1và 2 trong năm 1979. Đưa 5000 học viên cấp 1, 3000 học viên cấp 2 và 1200 học viên cấp 3 và 200 học viên cho trường bổ túc văn hoá tập trung. Phát động phong trào thi đua học tập văn hoá trong cán bộ nhân viên chiến sĩ, coi đây là một tiêu chuẩn xét đề bạt khen thưởng.
b) Phối hợp với Hội phụ nữ quận và các phường đẩy mạnh tuyên truyền thường xuyên về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác nuôi dạy trẻ. Không ngừng giáo dục nâng cao nhận thức tư tưởng và nhiệt tình công tác trong đội ngũ cô dạy trẻ. Năm 1979 phát triển thêm 24 nhà trẻ, cộng chung là 58 nhà trẻ với 1600 cháu. Cần quan tâm trang bị đầy đủ vật chất cho các nhà trẻ phục vụ tốt nuôi dạy các cháu.
4/- Công tác Y tế và Thể dục thể thao.
a- Phát triển phong trào chống dịch, bệnh. Thường xuyên vận động nhân dân giữ gìn vệ sinh, chú trọng quản lý tốt phân, nước, rác và các nhà vệ sinh công cộng. Có kế hoạch ngăn chăn hiệu quả các dịch nguy hiểm. Đẩy mạnh phong trào sinh đẻ có kế hoạch. Mở rộng công tác quản lý thai sản tiến đến quản lý 100% về thai sản vào cuối năm 1980. Tiếp tục phát triển phong trào trồng và sử dụng thuốc nam, chữa trị hiệu quả các bệnh thông thường.
- Tăng cường công tác quản lý sức khoẻ, chú trọng quản lý tốt sức khoẻ cán bộ, công nhân viên, chiến sĩ, học sinh và các diện ưu tiên khác. Đến cuối năm 1980, mỗi người dân đều có sổ sức khoẻ riêng và được quản lý, chăm sóc chu đáo.
- Đẩy mạnh xây dựng mạng lưới y tế cơ sở, đưa việc phục vụ đến sát dân. Tiếp tục xây dựng các trạm y tế phường, phòng khám khu vực.
b) Phát triển mạnh mẽ phong trào tập thể dục buổi sángrèn luyện sức khoẻ, chủ yếu là thể dục thể thao quốc phòng; thực hiện trước hết trong khu vực Nhà nước và học sinh. Phát động trong thanh niên phong trào khoẻ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Mở rộng phong trào thể dục thể thao quần chúng, quy tụ mọi hoạt động thể dục thể thao ở các cơ sở và phong trào TDTT yêu nước. Đẩy mạnh phong trào thể dục buổi sáng, giữa giờ với chỉ tiêu học sinh:100%, lực lượng vũ trang, công an;100%, cơ quan, xí nghiệp 50%, phường 50% chú trọng phát triển vào cuối năm 1979.
5/-Công Tác Thương Binh Xã Hội:
Ngành thương binh xã hội cần kết hợp chặt chẽ với các ngành, đoàn thể ở phường nắm chắc tình hình đời sống nhân dân, nhất là diện thực hiện chính sách hậu phương, để giải quyết chu đáo. Đối với các gia đình có công với cách mạng, phải giải quyết chế độ chính sách chính xác và kịp thời. Nỗ lực ổn định căn bản vào cuối năm 1980 và các tệ nạn xã hội như xì ke ma tuý, cướp giật, mãi dâm…mặt khác có kế hoạch sẳn sàng chăm lo tốt cho đời sống nhân dân di tản khi có tình hình đột biến. Cần có kế hoạch cụ thể để bảo đảm bốc mộ liệt sĩ về nghĩa trang thành phố từnay đến năm 1980 xong 100%. Các yêu cầu và biện pháp cụ thể của công tác này là:
- Hoàn thành tốt điều tra cơ bản vào cuối năm 1979 nhằm phân loại chính xác đối tượng để quản lý và chăm sóc một cách chủ động và chu đáo. Riêng đối với quân nhân phục viên, xuất ngũ, chuyển ngành, tổng số mộ liệt sĩ trong quận phải hoàn thành điều tra cơ bảntrong quý I/1980.
- Phát triển mạnh và rộng khắp phong trào quần chúng thực hiện chính sách hậu phương quân đội. Đặc biệt chú ý phát huy vai trò của đoàn thể phụ nữ trong phong trào này. Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc vận động chính trị trong thương binh và gia đình liệt sĩ, vận động nhân dân tích cực tham gia xác nhận gia đình gương mẫu. Cần hoàn thành việc xác nhận này trong quý III/1979.
- Tăng cường săn sóc con em liệt sĩ, phấn đấu đạt yêu cầu 80% vào cuối 1979 và 100% vào cuối 1980.
- Quan tâm hơn nữa đối với số cán bộ hưu trí. Đến năm 1980 xây dựng 70-75% hưu trí khá theo 4 tiêu chuẩn quy định và đến cuối năm 1981 nâng lên 95-100%. Vận động khoản 80% cán bộ hưu trí thường xuyên tham gia công tác tại địa phương .
III. RA SỨC CŨNG CỐ VÀ ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC GIỮ VỮNG AN NINH CHÍNH TRỊ, TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI; QUÂN SỰ HOÁ TOÀN DÂN, SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU VÀ CHIẾN ĐẤU.
Yêu cầu nhiệm vụ công tác nội chính là: “trên cơ sở phát huy quyền làm chủ tập thể XHCN của nhân dân và tăng cường pháp chế XHCN, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tiến công tích cực, chủ động và kiên quyết tấn công trấn áp các thế lực phản động, ngăn chăn tội phạm hình sự, bài trừ tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội, bảo vệ thật tốt tài sản của Nhà nước. Chống trộm cấp thất thóat ổn định vững chắc hậu phương, ngăn ngừa dập mọi âm mưu gây bạo loạn; góp phần bảo vệ tuyệt đối an toàn thành phố. Chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ tổ quốc.
Cụ thể có 4 nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
1/ Đẩy mạnh phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc đều khắp: cơ quan xí nghiệp trường học, phố, phường; kết hợp tấn công chính trị cải tạo tại chỗ với cưỡng bức lao động tập trung và truy quét bọn tội phạm chính trị và trị an xã hội; củng cố phát triển lực lượng chuyên nghiệp và nữa chuyên nghiệp, kết hợp với phong trào quần chúng tạo thành thế áp đảo tại cơ sở, để giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội và luôn chủ động trong mọi tình huống.
2/ Tăng cường công tác quân sự địa phương, hoàn thành chỉ tiêu nghĩa vụ quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang, nửa vũ trang , lực lượng dân quân tự vệ đều khắp ; thực hiện đầy đủ chính sách hậu phương quân đội; xây dựng kế hoạch vật chất bảo đảm cho kế hoạch phòng thủ; ra sức xây dựng quận thật sự là một pháo đài tấn công và tự vệ.
3/ Bảo vệ và phát huy quyền làm chủtập thể XHCN của nhân dân lao động tăng cường công tác bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động nhằm ngăn chặn triệt để có hiệu quả tệ tham ô, lãng phí trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và tệ quan liêu, cửa quyền hách dịch, ức hiếp và làm phiền hà nhân dân.
4/ Tăng cường pháp chế XHCN thi hành triệt để pháp luật trong mọi lĩnh vực, trên cơ sở đó cũng cố tổ chức kỷ luật, giữ vững trật tự, an ninh, ổn định hậu phương, nâng cao năng suất lao động, hiệu suất công tác và hiệu quả chiến đấu.
Để hoàn thành các nhiệm vụ trên biện pháp chủ yếu là:
1-Giữ vững an ninh chính trị phòng chống bạo loạn: thường xuyên phát động toàn dân tham gia làm công tác trật tựan ninh và sẳn sàng chiến đấu, đưa phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc vào chiều sâu, có tổ chức có chất lượng … mở rộng mạng lưới cộng tác viên, cơ sở mật, khối nội chính kết hợp chặt chẽ với các đoàn thể quần chúng để tiến hành chặt chẽ quản lý hộ khẩu di biến động, thường trú, tạm trú, nắm chắc tình hình chính trị, tư tưởng đời sống của từng hộ, từng gia đình, từng người.
- Nắm chắc âm mưu thủ đoạn họat động của các loại đối tượng tình báo, gián điệp, phản động: phá án kịp thời chủ động, chính xác thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng trong các lực lượng chuyên chính và trong quần chúng; hếtsức chú ý kiểm tra và thực tập phương án chống bạo loạn.
2- Giữgìn trật tự an toàn xã hội: trên cơ sở giáo dục chính trị, chăm lo đời sống quần chúng, giải quyết việc làm mà từng bước hạn chế, đẩy lùi đi đến xoá bỏ nguyên nhân phát sinh tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội.
Kết hợp phong trào quần chúng kịp thời phát hiện truy bắt bọn lưu manh chuyên nghiệp hoạt động hiện hành nghiêm trị trước pháp luật; đồng thời đẩy mạnh cải tạo tại chổ kết hợp với tập trung cưỡng bức lao động, học tập ở các trường, trại “xây dựng cuộc sống mới”, “phục hồi nhân phẩm”.
3- Bảo vệ nội bộ bảo vệ kinh tế văn hoá: Xây dựng cơ quan, xí nghiệp an toàn; thẩm tra xác minh những cán bộ công nhân viên lai lịch không rõ ràng, kiên quyết không để kẻ địch, bọn xấu chui vào nội bộ, củng cố kiện toàn các tổ chức, lực lượng bảo vệ cơ quan, xí nghiệp trường học,…và thường xuyên kiểm tra, thực tập phương án bảo vệ.
Đặc biệt tăng cường công tác bảo vệ tài sản XHCN, chống tham ô, lãng phí thất thóat trộm cắp.
4- Về quân sự: giáo dục truyền thống anh hùng và bản chất tốt đẹp của quân đội ta, làm cho toàn dân nhận rõ tình hình và nhiệm vụ trước mắt, qua đó tổ chức quần chúng vào đội ngũ. Tuỳ theo mức độ tin cậy về chính trị mà trang bị vũ khí, hoặc thành lập các đội chuyên môn phục vụ chiến đấu. Củng cố cả về số lượng và chất lượng các đơn vị bộ đội quận, các đội tự vệ tập trung ở 26 phường và các đơn vị tự vệ của các cơ quan, xí nghiệp, bệnh viện, trường học…Đồng thời phải tổ chức và xây dựng tốt lực lượng dân quân tự vệ rộng rãi, đặc biệt chú ý bảo đảm chất lượng và số lượng mỗi phường từ 1 tiểu đoàn trở lên.
Thông qua việc giáo dục thường xuyên về công tác nghĩa vụ quân sự, làm cho nhân dân nhận thức được đầy đủ về nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ chung của toàn dân, kết hợp với việc tổ chức xây dựng lực lượng mà thực hiện nghiêm túc và vượt chỉ tiêu tuyển nghĩa vụ quân sự của từng năm.
Phải làm tốt chính sách hậu phương quân đội. Đây là chính sách lớn nhất của Đảng và nghĩa vụ của chúng ta đối với những gia đình, những người có công đối với Tổ quốc, dân tộc.
Phải huấn luyện cho bộ đội và tự vệ võ trang thành thạo về kỹ chiến thuật, đảm bảo sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu cao.
5- Tăng cường pháp chế XHCN: Đẩy mạnh công tác điều tra, truy tố, xét xửphục vụ kịp thời yêu cầu chính trị của địa phương.
- Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật XHCN, chú ý các pháp quy về quyền làm chủ tập thể XHCN của nhân dân lao động và quy chế về trách nhiệm kỹ luật, bảo vệ của công và phục vụ nhân dân của hội đồng chính phủ, coi đây là một nội dung sinh hoạt thường xuyên trong cơ quan chánh quyền, trong đoàn thể quần chúng, trong tổ chức và là một môn học trong các trường.
- Phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật trong quản lý Nhà nước, kinh tế, xãhội và trong việc thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
- Đẩy mạnh công tác xét xử hình sự. Các ngành công an, kiểm sát, toà án, thanh tra tích cực thực hiện tinh thần nội dung hội nghị 4 ngành thống nhất về công tác xét xử hình sự, nhằm phục vụ kịp thời yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Nhân tố có tính chất quyết định nhất cho việc hoàn thành các nghiệp vụ, công tác chính trên đây là khâu xây dựng lực lượng, tổ chức thực hiện chỉ đạo, chỉ huy. Vì vậy phải đặc biệt chú ý.
Kiện toàn tổ chức nội chính quận, phường đủ sức làm tham mưucho cấp uỷ về công tác nội chính. Thành phần ban nội chính quận và khối nội chính phường phải đủ đại diện của lực lượng chuyên chính vô sản (quân sự, công an, kiểm sát, toà án, thanh tra pháp chế và các đoàn thể quần chúng). Mỗi thành viên trong Ban, khối nội chính phải xác định vai trò và chức năng nhiệm vụ của mình để góp phần tích cực vào công tác nội chính, nhất là vai trò của các đoàn thể quần chúng. Khẩn trương xây dựng 3 tổ chức thanh tra nhân dân, tổ hoà giải, tổ kiểm sát cơ sở và tích cực bồi dưỡng nghiệp vụ để các tổ chức này thực hiện sự hoạt động có hiệu lực ở địa phương. Tăng cường sự chỉ đạo của cấp uỷ Quận, phường đối với tổ chức, sinh hoạt của các Ban, khối nội chính.
Đối với ngành công an cần phải tiến hành song song, vừa bổ sung lực lượng, vừa trong sạch hoá nội bộ, đào tạo huấn luyện nghiệp vụ chuyên môn, giáo dục kỹ về chính trị, tư tưởng tổ chức kỷ luật, cảnh giác cách mạng, chống thoái hoá nâng cao chất lượng ngành công an của Quận và phường có đủ khả năng chiến đấu trong mọi tình huống.
Bổ sung cán bộ có năng lực cho ngành Thanh tra, cán bộ thẩm phán, kiểm soát viên xét xử và kiểm sát để có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Trong hai năm tới làm tốt công tác nội chính sẽ có tác dụng quan trọng thúc đẩy công cuộc xây dựng kinh tế, ổn định, cải thiện đời sốngcủa toàn quận, vì vậy, cần có sự tập trung lãnh đạo của Đảng đối với công tác nội chính, cử cấp ủy viên có năng lực, nhiệt tình trực tiếp phụ trách ban, khối nội chính và các ngành chủ lực trong khối nội chính làm tham mưu đắc lực cho Quận ủy, phường ủy . Hàng tháng ban chấp hành phải nghe báo cáo tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội, phòng thủ bảo vệ trong tòan quận và hoạt động của khối nội chính .
IV. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG ,CŨNG CỐ CHÁNH QUYỀN VÔ SẢN ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC DÂN VẬN –MẶT TRẬN NGÀY CÀNG LỚN MẠNH .
Để thực hiện đươc nhiệm vụ chính trị của Quận Đảng bộ, trong khi 1980-1981 cần phải xây dựng cũng cố hệ thống chuyên chính vô sản vững mạnh đủ sức tiến hành 3 cuộc cách mạng yêu cầu mà cấp bách trước mắt là tập trung mọi cố gắn để phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, giữ vững an ninh trật tự trong toàn quận , sẵn sàng chiến đấu bảo vê Tổ quốc. Vì vậy, phải nâng cao sức chiến đấu của toàn Đảng bộ trong vai trò lãnh đạo dân của mình . Nhất là phải chuyển hướng công tác tổ chức cán bộ, tổ chức chỉ đạo thực hiện nhằm vào quản lý kinh tế, quản lý thị trường. Phải bồi dưỡng phát huy cao độ năng lực làm chủ tập thể toàn diện của quần chúng và phải đề cao đúng mức hiêu lực quản lý chánh quyền từ Quận đến phường ,nhằm thực hiện được quyền làm chủ tập thể củanhân dân lao động, trên cả hai mặt nghĩa vụ và quyền lợi.
1/ Đẩy mạnh công tác dân vận – mặt trận
a-Nhiệm vụ chung của mặt trận và các đoàn thể.
Trong hai năm 1980 –1981 công tác dân vận mặt trận phải thường xuyên giáo dục tập hợp quần chúng các ngành, các giới, các tầng lớp, giai cấp thành một khối đoàn kết, toàn dân vững chắc. Phải làm cho mỗi người dân trong quận là một chiến sĩ trong mặt trận kinh tế, mặt trận sản xuất cũng như trong mặt trận chiến đấu và sẳn sàng chiến đấu. Đặc biệt phải đầy công giáo dục, tập hợp quần chúng lao động các tôn giáo, chú ý tranh thủ tầng lớp trên phải dần dần tách ảnh của tôn giáo ra khỏi thanh thiếu niên và nhi đồng
Cùng với việc thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động chủ yếu bằng lòng yêu nước phải thực quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động mà chỗ dựa là các đoàn thể quần chúng. Các đoàn thể quần chúng là nền tảng cơ bản để thực hiện các phong trào cách mạng, là trường học giáo dục nâng cao trình độ giác ngộ XHCN cho quần chúng .
Thành lập Ban dân vận mặt trận của Quận ủy đồng thời cũng cố các BCH của các đoàn thể công đoàn, thanh niên, phụ nữ, nông hội, các tiểu bang mặt trận đủ sức hoạt động làm theo chương trình kế hoạch. Hàng tuần, hàng tháng có sơ tổng kết, rút kinh nghiệm thỉnh thị Quận ủy kịp thời .
Tăng cường công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ các đoàn thể quần chúng cán bộ mặt trận, nhằm vừa bảo vệ công tác dân vận mặt trận, vừa nguồn bổ sung cán bộ cho các ngành, các cấp trong quận. Chú trọng đào tạo cán bộ trẻ, những thành phần cơ bản cách mạng trưởng thành qua các phong trào cách mạng quần chúng. Vận động quần chúng tham gia xây dựng Đảng chính quyền, kiểm tra việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước. Bồi dưỡng điển hình phát động phong trào thi đua sản xuất, phục vụ gắn chặt với việc nhân điển hình tiên tiến. Chọn lọc những quần chúng cơ bản có đủ phẩm chất giới thiệu phát triển Đảng .
Đoàn thể phải phát triển tổ chức của mình trong các cơ sở sản xuất , trong các hoạt động phải gắn chặt với sản xuất phải giáo dục, xây dựng trong giai cấp công nhân, nông dân và bà con lao động một tư tưởng chủ đạo là đi với con đường làm ăn tập thể .
- Công tác công đoàn :Kiện tòan ban tổ chức công đoàn các cấp, các đơn vị thông qua bằng đại hội công đoàn dân chủ. Các cấp uỷ, chọn cử cấp uỷ viên đảng viên ưu tú phụ trách công đoàn. Hàng tháng cấp ủy phải báo cáo tình hình công tác công đoàn và có nghị quyết về công tác công đoàn kịp thời (bao gồm cả chi uỷ phường và hội lao động hợp tác) .Đối với cán bộ công đoàn hội lao động hợp tác không nên thuyên chuyển hoặc kiêm nhiệm nhiều công tác (trường hợp đặc biệt phải xin ý kiến cấp uỷ và công đoàn ngành dọc).
Phải lãnh đạo tốt công việc mở đại hội công nhân viên thực hiện ký kết hợp đồng giữa chính quyền và công đoàn một cách thực sự vì quyền lợi chung . Mở rộng dân chủ trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất từ tổ công đoàn với tin thần làm chủ, tự lực, tự cường. Cần tăng cường giáo dục về kỷ luật lao động bảo đảm ngày làm việc 8 giờ, có năng suất lao và hiệu suất công tác cao . Thực hiện chấm công hàng ngày đi báo việc về báo công .
Phải ưu tiên phục vụ sản xuất, cho đời sống của cán bộ công nhân viên . Không để sản xuất ngưng trễ, không buộc thôi việc vô cớ . Ưu tiên xuất cấp nhà ở đi lại hàng hóa, lương thực, phục vụ ăn sáng ăn trưa cho công nhân . Phải chi hết quỹ phúc lợi công cộng và giải quyết kịp thời đầy đủ chế độ bảo hiểm xã hội bảo đảm lao động cho công nhân viên chức nhà nước .
- Ban Tuyên huấn Quận ủy cùng với công đoàn có kế hoạch huấn luyện chính trị cơ bản, giác ngộ về giai cấp và tình hình, nhiệm vụ mới.Tổ chức nắm tình hình tư tưởng trong công nhân viên chức và trong thợ thủ công tòan quận. Xây dựng điển hình tiên tiến những tập thể và cá nhân mới xã hội chủ nghĩa .
- Công tác nông hội :
Cũng cố tổ chức nông hội từ quận đến phường đủ sức hoạt động, đồng thời củng cố các ban sản xuất nông nghiệp phường và các ban quản lý tập đoàn bao gồm những nông dân tiên tiến đã được học tập và bồi dưỡng kĩ về công tác quản lý tập đoàn và đã đạt được trình độ quản lý nhất định. Đưa công tác đào tạo cán bộ quản lý tập đoànHTX nông nghiệp thành nề nếp Chính quyền và nông hội phải có mối quan hệ thống nhất, chặt chẽ, kể cả các đoàn thể – thanh niên, phụ nữ .
- Phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nông thôn hơn nữa nhằm làm cho nông dân thấy được sự cần thiết cải tạo và xây dựng ngành nông nghiệp đi theo con đường làm ăn tập thể, sản xuất đi vào chuyên canh hóa và cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi, để nâng cao đời sống cuả nhân dân, sản xuất tập thể phải hơn cá thể .
- Công tác đoàn thanh niên, đội thiếu niên và nhi đồng.
- Trong hai năm tới phải tập trung hơn giữa lãnh đạo công tác đoàn đội, tập hợp giáo dục thanh niên, thiếu niên nhi đồng với những hình thức phù hợp, sinh động.
- Lực lượng thanh thiếu niên phải xung kích trong đấu tranh cho con đường làm ăn tập thể, sản xuất lớn XHCN; xung kích trong việc phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, vận dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và xung kích đi đầu trong việc đào tạo, xây dựng con người mới có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, có sức khoẻ tốt có văn hóa cao và tâm hồn trong sáng lành mạnh .
- Phải làm cho thanh thiếu nhi tăng thêm lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Từ đó mà phấn đấu trở thành người chủ nhân đất nước XHCN Trong độ tuổi thanh niên phải thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ lao động thật tốt. Thiếu nhi thì chủ yếu phải học tập tốt, lao động tốt, tham gia tích cực phong trào “Trần Quốc Toản” và “phong trào kế hoạch nhỏ”.
Củng cố đội ngủ cán bộ hiện có và tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ đoàn, đội, phụ trách thiếu nhi nhất là trong công nghiệp, TTCN, nông nghiệp, thương nghiệp và trường học. Quận đoàn phải tổ chức đủ các bộ phận giúp việc. Nắm chắc phong trào thanh niên toàn quận, đủ sức tập hơp giáo dục, rèn luyện thanh thiếu niên, kết nạp đoàn theo thông tri 100-TT-TV của Ban Thường vụ Thành uỷ .
- Cải tiến mối quan hệ giữa đoàn, chính quyền, địa phương với nhà nước. Hết sức tránh huy động chồng chéo, kém linh hoạt, kém sinh động không phù hợp với tâm sinh lý tuổi trẻ, ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ, học tập và đời sống của các em. Tăng cường hoạt động câu lạc bộ thanh thiếu nhi, tổ chức diễn đàn khoa học, kỹ thuật, nếp sống mới, thể dục thể thao quốc phòng.
-Công tác Hội Liên hiệp Phụ nữ:Tập hợp tuyên truyền giáo dục phụ nữ trong quận, không phân biệt quá khứ đóng góp hơn nữa và công tác cải tạo, xây dựng các ngành kinh tế, đời sống, xã hội, công tác bảo vệ an ninh trật tự, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Hội liên hiệp phụ nữ phải động viên lực lượng, vừa tổ chức chỉ đạo chị em tham gia các phong trào, các mặt công tác và đồng thời phải đấu tranh bảo vệ quyền lợi phụ nữ. Chị em phải đươc lao động sản xuất, học tập, phải được nghỉ ngơi giải trí, phải được bình đẳng với nam giới ở mọi phương tiện. Tích cực xây dựng mô hình người phụ nữ mới “đảm việc nước, giỏi việc nhà”. Vận động phần lớn tiểu thương chuyển sang sản xuất tiểu thủ công nghiệp hoặc nông nghiệp .
2/ Tăng cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền vô sản chuyên chính :
- Đảng bộ ta phải vươn lên thật mạnh mẽ mà cả 3 mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Phải nâng cao chất lượng cán bộ đảng viên ngang tầm với nhiệm vụ chính trị trong 02 năm tới.
Thông qua các trường huấn luyện chính trị cơ bản, các lớp tập huấn và học tập chủ trương đường lối của đảng qua các cuộc hội nghị tổng kết từng mặt công tác, từng phong trào và nâng cao trình độ chính trị, năng lực công tác của cán bộ đảng viên, từ đó mà từng cán bộ đảng viên xác định tinh thần trách nhiệm, phấn đấu thực hiện tốt chủ trương đường lối của đảng và lãnh đạo quần chúng thực hiện. Trong hai năm tới phải nâng trình độ chính trị của đảng viên lên 1 cấp.
- Chi bộ là gốc, là nơi quản lý, rèn luyện phấn đấu của đảng viên dù là giữ chức vụ gì trong bộ máy đảng, chính quyền, đoàn thể. Sinh hoạt chi bộ phải đảm bảo 3 tính chất : chiến đấu, xây dựng và giáo dục, đấu tranh với mọi biểu hiện tư tưởng và hành động đi ngược lại với lý tưởng Đảng đi ngược lại quyền lợi của giai cấp công nhân và của dân tộc. Trong 2 năm tới, tích cực thực hiện 5 xây, 5 chống mà tập trung xây dựng được:
+Tư tưởng tiến công cách mạng, dám đấu tranh, dám nghĩ, dám làm ,dám chịu trách nhiệm. Phấn đấu cho sự toànthắng của chủ nghĩa xã hội .
+ Quan điểm thực tiển, khách quan, khoa học, toàn diện trong nhận định đánh giá của tình hình, đánh giá quần chúng trong thực hiện từng mặt công tác.
Kiên quyết chống:
+ Tư tưởng hoang man, dao động, hoài nghi, trước tình hình khó khăn chung.
+ Tư tưởng coi thường quần chúng, quan liêu cửa quyền, ức hiếp quần chúng, xa rời thực tế, tham ô, lãng phí của công, biến chất thoái hoá, rượu chè bê tha.
+ Tư tưởng tự do vô kỷ luật , thoả mãn, thu vén cá nhân .
+ Tư tưởng bè phái, cục bộ, địa phương, gây mất đoàn kết nội bộ.
- Ban Tuyên huấn tập trung xây dụng mô hình con người mới XHCN trên các lĩnh vực hoạt động của các cấp các ngành trong quận, đảng viên và quần chúng, có đúc kết và tổ chức nhân điển hình tốt. Đi đôi cần tổ chức nắm tình hình diễn biến tư tưởng trong nội bộ và quần chúng nhân dân để lãnh đạo kịp thời.
- Ban Tổ chức nghiên cứu phát triển tổ chức chi bộ trong các HTX, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Từ nay đến năm 1980 tiến hành tổ chức chi bộ cho những cơ sở sản xuất có đủ điều kiện còn những cơ sở chưa đủ điều kiện thì xây dựng nhóm trung kiên, để đến năm 1981 tiến hành xây dựng chi bộ. Bảo đảm trong các cơ sở sản xuất đều có chi bộ Đảng lãnh đạo.
Tổ chức sinh hoạt chi bộ đều đặn nâng cao tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình. Quan tâm đến đời sống cán bộ công nhân viên, chiến sĩ cả tinh thần và vật chất. Tạo mọi điều kiện để cán bộ công nhân viên, chiến sĩ cống hiến nhiều nhất cho sự nghiệp cách mạng.
Để đảm bảo trình độ chính trị của Đảng viên, cần củng cố tốt Trường Đảng của Quận cả về cơ sở vật chất, cán bộ phục vụ và nâng cao chất lượng các bài giảng. Mạnh dạn gởi cán bộ Đảng viên đi học dài hạn về lý luận chính trị và nghiệp vụ chuyên môn. Vừa kết hợp giáo dục cơ bản về chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa phải giáo dục cho mọi người hiểu rõ 3 nhiệm vụ trước mắt, nhất là hiểu được thời kỳ quá độ và bước đi ban đầu để vận dụng linh hoạt và sáng tạo vào tình hình địa phương.
Đẩy mạnh hoạt động của bộ môn nghiên cứu lịch sử Đảng. Hai năm tới phải xây dựng xong tài liệu về lịch sử Đảng bộ và truyền thống đấu tranh cách mạng của đồng bào Quận nhà.
Công tác tổ chức chỉ đạo thực hiện:
Chuyển hướng công tác tổ chức và tổ chức chỉ đạo thực hiện đi vào đảm bảo thực hiện nhiệm vụ chính của Quận Đảng bộ. Hướng là xoáy sâu vào công tác xây dựng và quản lý kinh tế, quản lý thị trường, quản lý an ninh. Tăng cường kiểm tra của cấp ủy đối với chánh quyền trong quản lý kinh tế, quản lý thị trường nắm nguồn hàng lưu thông phân phối, quản lý an ninh.
Phải tăng cường công tác quản lý nội bộ, kể cả quần chúng là cán bộ nhân viên chiến sĩ theo công tác 5 quản: hồ sơ lý lịch, tư tưởng, tổ chức, sinh hoạt, quan hệ cá nhân với xã hội bên ngoài, nhằm đảm bảo chấp hành chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước nói chung. Nhất là chấp hành chỉ thị nghị quyết, nguyên tắc của Đảng và các quy định trong quản lý kinh tế.
Chống thoái hóa biến chất trong cán bộ Đảng viên, cán bộ công nhân viên, đặc biệt là cán bộ Đảng viên có chức có quyền và cán bộ Đảng viên hoạt động trong các ngành kinh tế, lưu thông phân phối.
Củng cố Ban Tổ chức Quận ủy, Tổ chức Chánh quyền đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng. Ban Tổ chức phải có kế hoạch về quy hoạch cán bộ và kế hoạch đào tạo cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ kỹ thuật, cán bộ đoàn thể. Trước mắt lo tập trung ổn định đội ngũ cán bộ chủ chốt của các ngành kinh tế, lưu thông phân phối quận, phường, xí nghiệp.Mạnh dạn đào tạo và giao trọng trách cho cán bộ trẻ, có năng lực, có phẩm chất, đạo đức theo tinh thần Chỉ thị 55/TW. Việc thuyên chuyển, đào tạo, đề bạt cán bộ chủ chốt quận và phường phải được tập thể Ban Thường vụ bàn bạc quyết định.
Tiếp tục củng cố kiện toàn cơ sở cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nhất là sau khi thực hiện Chỉ thị 72 của Trung ương và Chỉ thị 39 của Thường vụ Thành ủy và thực hiện các Nghị quyết 228 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 28 – 29 của Thường vụ Thành ủy kết hợp vừa phải bồi dưỡng xây dựng điển hình tiên tiến, vừa phải xem xét, giải quyết tư cách Đảng viên của cán bộ. Đảng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật nguyên tắc cơ bản của Đảng. Nếu nghiêm trọng thì xử lý trước pháp luật.
Tăng cường sự lãnh đạo và kiểm tra của cấp uỷ đối với các ngành kinh tế, lưu thông phân phối và các cơ sở kinh tế trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp đời sống. Các cấp cần duy trì sinh hoạt thường kỳ 1 tháng 1 lần có kiểm điểm đưa ra nghị quyết của tháng trước và đề ra nghị quyết của tháng tới, có đấu tranh phê bình, tự phê bình hết sức dân chủ nội bộ. Phải bảo đảm sự đoàn kết nhất trí thành sức mạnh tập thể, bảo đảm chấp hành tổ chức kỷ luật nghiêm minh, có nghị quyết phải thực hiện bằng được nghị quyết.
Đối với các ngành chỉ đạo kinh tế, lưu thông phân phối của Quận hàng tháng phải dựa vào chỉ thị nghị quyết của Quận ủy, Ủy ban Quận mà kiểm điểm cùng với Ban Kế hoạch Thống kê tổ chức nắm tình hình sản xuất và báo cáo kịp thời cho Thường vụ và Thường trực ủy ban.
Cần cải tiến lề lối làm việc, cải tiến trên cơ sở chức năng nhiệm vụ giữa Đảng, chánh quyền, không giẫm chân nhau về tác phong công tác mới chạy kịp với tình hình cấp bách hiện nay. Phải xây dựng thành chế độ bám sát cơ sở thiết thực cùng cơ sở tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng. Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ hội họp, đúng định kỳ (theo điều lệ mới quy định) bảo đảm và đúng thành phần, có quyết nghị cụ thể những vấn đề được bàn bạc và quyết định.
Phải cải tiến và tăng cường công tác kế hoạch hóa vừa phải có kế hoạch, quy hoạch tổng thể, toàn diện, vừa phải có kế hoạch, quy hoạch từng vùng. Kế hoạch phải làm từ cơ sở, phải nắm cho được tiềm năng và năng lực tại chỗ để từ đó mà khai thác, thúc đẩy sản xuất phát triển, phục vụ tốt đời sống.
Phải tổ chức và động viên khả năng sáng tạo vô tận của quần chúng, trong đó biện pháp chủ yếu là phát động liên tục phong trào đồng khởi thi đua trên tinh thần tự lực, tự cường, ý thức làm chủ tập thể.
Thực hiện nghiêm chỉnh công tác Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ. Tránh việc Đảng bao biện làm thay chánh quyền.
Hết sức đề cao vai trò tập thể lãnh đạo, song cũng tăng cường làm tốt vai trò cá nhân phụ trách. Chống tư tưởng sợ trách nhiệm, sợ mất chức và thiếu kiên quyết, thiếu sáng tạo trong chỉ đạo và trong giải quyết những vướng mắc khó khăn. Coi sự chậm trễ buông trôi, thả nổi, không cộng tác XHCN, không sát thực tế là tiêu biểu cho sự quan liêu, cửa quyền. Cán bộ Đảng viên phải dành nhiều thời gian đi xuống cơ sở để chỉ đạo cơ sở và giúp cho cơ sở kịp thời rút kinh nghiệm từ thực tế khách quan, bổ sung cho đường lối chủ trương.
Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng:
Tăng cường đẩy mạnh công tác phát triển Đảng viên mới, nhất là các đơn vị cơ sở. Nhiệm vụ này phải do đồng chí Bí thư trực tiếp làm và các Đảng viên quan tâm thực hiện. Hướng phát triển nhằm vào các cơ quan, khu vực sản xuất tập thể là chính.
Chi bộ phải có quy hoạch về công tác phát triển Đảng viên mới, củng cố bồi dưỡng các nhóm trung kiên, thông qua việc xây dựng điển hình mà phân loại quần chúng cảm tình, thử thách quần chúng và hàng tháng phải kiểm điểm về công tác này. Trong 2 năm 1980 – 1981 phấn đấu phát triển thêm 528 Đảng viên mới bảo tốt về mặt chất lượng.
Qua việc kiểm điểm Đảng viên theo Chỉ thị 39 của Thành ủy việc thực hiện các Chỉ thị 228/TW, Thông tri 22, 46/TW và Nghị quyết 28 – 29 của Thành ủy vào nề nếp để vừa nâng cao chất lượng Đảng viên, vừa đấu tranh xem xét những Đảng viên không còn đủ tư cách Đảng viên, đưa ra khỏi Đảng.
Phải tăng cường sự kiểm tra của cấp ủy và của cơ quan kiểm tra đối với các cấp bộ Đảng trong việc thực hiện chủ trương đường lối, việc chấp hành điều lệ Đảng, các quy định, các nguyên tắc chỉ thị và nghị quyết của Đảng, đảm bảo dân chủ và kỷ luật trong Đảng. Phải kịp thời biểu dương những mặt tốt và kịp thời ngăn chặn những mặt tiêu cực.
Ban Kiểm tra có kế hoạch cùng với các cơ quan chuyên môn Đảng và Ban Thanh tra chánh quyền giúp cấp ủy lãnh đạo thắng lợi mọi nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới này.
Nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong hai năm 1980 – 1981 đã được xác định, đòi hỏi công tác lãnh đạo phải vươn lên hơn nữa. Tập trung vào phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, giữ vững an ninh trật tự xã hội, xây dựng Đảng, chánh quyền, đoàn thể vững mạnh.
Trước mắt chúng ta còn nhiều khó khăn phức tạp, đây là bước thử thách mới, song chúng ta tin vào sức mình, tin vào quần chúng cách mạng, biết phát huy những kết quả đã đạt được và khắc phục những thiếu sót tồn tại một cách nghiêm túc thì chúng ta sẽ giành được thắng lợi to lớn hơn trong hai năm 1980 – 1981.
Ngày 19 tháng 11 năm 1979
TM. BCN Quận Đảng bộ
Bí thư
Phan Tấn Thành