ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAMTân Bình ngày 11 tháng 10 năm 1986
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
****
ooOoo
Đại hội Đại biểu Đảng bộ quận Tân Bình lần thứ IV, họp từ ngày 06 đến ngày 11 tháng 10 năm 1986, sau khi nghe và thảo luận bản báo cáo tình hình và nhiệm vụ tại Đại hội lần thứ IV của Ban chấp hành Đảng bộquận Tân Bình nhiệm kỳ 3.
QUYẾT NGHỊ
PHẦN THỨ NHẤT
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH 3 NĂM 1983- 1986
Ba năm qua, trong bối cảnh chung của thành phố và cả nước, Quận ta đã trải qua những khó khăn, thử thách to lớn trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội, đặc biệt là từ sau đổi tiền và tổng điều chỉnh giá từ tháng 9/1985 đến nay.
Trong tình hình đó, Đảng bộ và nhân dân ta đã biết dựa vào các nghị quyết, chủ trương Trung ương, của Thành ủy và căn cứ vào Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng bộ quận, vận dụng nhanh nhạy và sáng tạo, mang lại những kết quả lớn trên nhiều lĩnh vực. Bên cạnh đó, chúng ta cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm. Tình hình kinh tế còn bấp bênh, đời sống khó khăn gay gắt, tâm lý xã hội có nhữngdiễn biếnphức tạp.
Tình hình trên các lĩnh vực như sau:
I.- VỀ KINH TẾ- ĐỜI SỐNG:
1/ Trong sản xuất: Mặc dù những yếu tố đảm bảo cho sản xuất gặp phải khó khăn gay gắt, ba năm qua, sản xuất của quận vẫn đạt được những tiến bộ quan trọng, với nhịp độ phát triển cao.
a) Sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp: đã liên tục vượt mức chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng và giao nộp sản phẩm. Đây là thắng lợi lớn và cũng là cơ sở nói lên thế mạnh cơ bản của quận. ( Giá trị tổng sản lượng năm 1993 đạt 1,26 tỷ, năm 1984 đạt 1,8 tỷ, năm 1985 đạt 2,2 tỷ đồng. Tốc độ tăng bình quân là 30% (chỉ tiêu Đại hội III là 20- 25%). Tỷ trọng giá trịsản phẩm giao nộp từ 74,2% năm 1982, tăng lên 88,8% năm 1985).
Đạt thắng lợi trên đây, trước hết là do ta biết chủ động đẩy mạnh công tác cải tạo, gắn liền với sắp xếp lại sản xuất; biết phát huy các thế mạnh của sản xuất, như tập trung phát triển ngành dệt và các ngành nghề truyền thống khác
Tồn tại lớn trong tiểu thủ công nghiệp là sản xuất còn bấp bênh, thiếu những mặt hàng chủ lực, hàng xuất khẩu quá ít (mới chiếm tỷ trọng 6,2%, chỉ tiêu Đại hội III là 10%), ngành cơ khí tăng chậm, mất vai trò chủ lực, năng suất, chất lượng và hiệu quả đạt thấp. Nguyên nhân chủ yếu là do đầu tư thiếu trọng tâm, trọng điểm và chưa tháo gỡ được cơ chế cũ chuyển mạnh sang cơ chế quản lý mới theo tinh thần nghị quyết 6 và 8 của Trung ương.
b) Sản xuất nông nghiệp cũng có những tiến bộ đáng kể, tạo ra nhiều triển vọng đi lên, bước đầu khắc phục được một số tồn tại, yếu kém của những năm trước. Diện tích trồng trọt tăng bình quân 4,8%, sản lượng rau tăng 7%, rau xuất khẩu tăng 46%. Chăn nuôi được nâng lên thành một ngành sản xuất chính, với đàn heo 21.000 con; chăn nuôi cá, gà và bò sữa có triển vọng tốt.
Tồn tại trong sản xuất nông nghiệp là nhịp độ phát triển còn chậm, giá trị tổng sản lượng và giao nộp không đặt kế hoạch, chưa khai thác đúng tìm năng về xuất khẩu, thu nhập của xã viên, tập đoàn viên nhiều nơi còn thấp. Nguyên nhân chính là do quan điểm tập trung sức phát triển nông nghiệp chưa thật sự được quán triệt, thể hiện việc liên kết kinh tế trên địa bàn còn lỏng; đầu tư đã ít, lại phát huy hiệu quả thấp, do việc xác định chỉ tiêu không xác thực tế; cơ chế giá thường không hợp lý và công tác quản lý ngành, quản lý sản xuất còn kém.
c) Trong xây dựng cơ bản: đã vận dụng tốt phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhân dân đóng góp trên 54% tổng vốn đầu tư. Lĩnh vực đầu tư cao nhất là giáo dục (39,6%), nhà ở (23,57%), nhưng đầu tư cho khu vực sản xuất rất thấp (công nghiệp chỉ 1,1%, nông nghiệp 9,7%). Nhìn chung, đầu tư xây dựng cơ bản chưa hợp lý, lại có những khoản đầu tư lớn phát sinh ngoài kế hoạch, tiến độ thi công chậm, chất lượng công trình còn kém.
Công tác cải tạo nhà đất có nhiều cố gắng, nhưng còn chậm.Tình trạng chiếm dụng nhà không hợp lý, không hợp lệ còn rất lớn, chưa được xử lý kiên quyết. Việc xét cấp nhà và giải quyết mua bán nhà còn nhiều tồn tại. Mạng lưới giao thông vận tải bước đầu được quy hoạch, nhưng việc duy trì đường sá và năng lực vận tải tăng chậm. Gần đây, một số con lộ bị xuống cấp rất nhanh, chưa được sửa chữa, tu bổ.
2/ Về phân phối lưu thông:
Trong tình hình khó khăn gay gắt về sản xuất và đời sống, hoạt động phân phối lưu thông đã rất cố gắng vươn lên nắm hàng, nắm tiền, mở rộng mạng lưới và từng bước cải tiến phương thức kinh doanh…Kết quả quan trọng là đã nhanh chóng mở rộng mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa (trên 750 cửa hàng, điểm bán), việc đưa hàng đến tay ngườitiêu dùng khá hơn. Tổng giá trị bán lẻ của thị trường có tổ chức tăng bình quân 155%. Nhiều ngành trong khối thương nghiệp xã hội chủ nghĩa đã có phần đóng góp tốt cho ngân sách, nhất là ngành cung ứng hàng xuất khẩu.
Bên cạnh đó, mặt trận này còn nhiều rối ren và mất cân đối nghiêm trọng. Nhiều ngành thiếu quan tâm phục vụ phát triển sản xuất (tỷ trọng kinh doanh vật tư hàng năm đều giảm), phục vụ đời sống cũng chưa nhiều (năm 1985, sức phục vụ chưa tới 120đ/người/ tháng). Việc nắm hàng tại chỗ, nhất là nông sản phẩm còn thấp. Ngành ăn uống quốc doanh chậm củng cố, ăn uống tư nhân phát triển ngày càng nhiều. Dịch vụ quốc doanh phục vụ sản xuất và đời sống còn quá ít. Tình trạng chiếm dụngvốn chưa được khắc phục . Thuế thất thu rất lớn. Các ngành kinh tế tổng hợp tuy có nhiều cố gắng, nhưng còn ảnh hưởng nặng bởi cơ chế cũ, chưa phục vụ tốt cho sản xuất kinh doanh.
Những tồn tại trên, có những nguyên nhân khách quan rất lớn. Nhưng phần chúng ta cũng mắc nhiều sailầm, khuyết điểm nghiêm trọng, trước hết là khâu tổ chức điều hành thiếu tâp trung, thống nhất, nhiều ngành hoạt động riêng lẻ và trong quan điểm kinh doanh, chưa thật sự lấy việc phục vụ cho sản xuất và đời sống người lao động làm mục tiêu hàng đầu. Tình trạng cục bộ, bản vị , chạy theo lợi ích trước mắt, tranh mua ,tranh bán làm đẩy giá lên chậm được khắc phục. Những tồn tại, khuyết điểm trên đây chứng tỏ ta còn buông lơi chuyên chính vô sản trên nhiều mặt của trận địa này.
3/ Về cải tạo xã hội chủ nghĩa:
Trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đẩy mạnh cải tạo, tổ chức những hình thức sản xuất thích hợp. Xây dựng được 11 xí nghiệp quốc doanh, hợp doanh, tốc độ sản xuất tăng bình quân 208%, chiếm tỷ trọng từ 0,41% năm 1982 lên 10% năm 1985. Kinh tế tập thể phát triểnnhanh, xây dựng thêm 64 hợp tác xã và 118 tổ sản xuất, nâng tổng số hợp tác xã lên 93 và tổ sản xuất lên 304. Tốc độ sản xuất khu vực tập thể tăng bình quân 64%.
Về cải tạo nông nghiệp đã sớm điều chỉnh ruộng đất và hoàn thành cơ bản việc tổ chức làm ăn tập thể. Từ 2 hợp tác xã năm 1982 nâng lên 7 hợp tác xã năm 1985. Mô hình nông – công – thương- tín – dịch vụ- xuất khẩu được xác định. Bộ mặt nông thôn mới bước đầu được hình thành.
Trong cải tạo thương nghiệp, đã bước đầu đi sâu điều tra cơ bản, sắp xếp tiểu thương theo tổ ngành hàng, củng cố sắp xếp lại các chợ. Triển khai nhanh mô hình hợp tác kinh doanh. Tổ chức được 58 cửa hàng hợp tác.
Bên cạnh đó, ta còn mắc nhiều khuyết điểm và tồn tại quan trọng. Nói chung, công tác cải tạo trong các ngành tiến hành chậm và thiếu gắn bó nhau. Tỷ trọng của công nghiệp quốc doanh, hợp doanh trong giá trị tổng sản lượng tiểu thủ công nghiệp còn thấp. Không ít những đơn vị sản xuất tập thể còn mang tính chất chủ thợ. Sản xuất tư nhân, cá thể chưa được quản lý chặt chẽ. Chất lượng hoạt động của nhiều hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp chậm được củng cố, nâng cao. Đặc biệt, công tác cải tạo thương nghiệp tư doanh còn nhiều tồn tại hơn hết, nổi rõ lên là công tác cải tạo chưa gắn chặt với xây dựng, nhiều ngành hoạt động chạy theo bề nổi, số lượng, xem nhẹ chất lượng, hiệu quả. Mô hình hợp tác kinh doanh thiếu được quan tâm kiểm tra, củng cố, nhiều mặt tiêu cực kéo dài, nhiều cửa hàng hợp tác kinh doanh thực chất là bình phong cho thị trường làm ăn không chính đáng. Quản lý thị trường nhiều lúc buông lơi, cả ba biện pháp kinh tế, giáo dục, hành chánh đều làm chưa được tốt vàthiếu kết hợp gắn bó nhau.
4/ Về khoa học kỹ thuật:
Đã phát động khá tốt phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật ở một số ngành, cơ sở sản xuất. Điển hình xây dựng to khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất ở phường 24 được nhân ra ở nhiều phường và cơ sở khác. Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật được tập hợp rộng rãi hơn. Đã phối hợp với một số cơ quan nghiên cứu và trường đại học đi vào điều tra cơ bản phục vụ cho qui hoạch tổng thể của quận và nghiên cứu một số đề tài phục vụ sản xuất.
Tuy vậy, vai trò của khoa học – kỹ thuật chưa được phát huy đúng mức, chưa tương xứng với tiềm năng của quận. Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật chưa nâng cao hiệu quả hoạt động. Phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học, kỹ thuật chưa được phát động đều. Hoạt động khoa học, kỹ thuật chưa đi sâu phục vụ thiết thực cho yêu cầu cải tiến quản lý, cải tiến thiết bị máy móc, nhằm tạo nhiều nguồn hàng xuất khẩu, hàng chủ lực có giá trị kinh tế cao. Những hạn chế trên đây, trước hết là do thiếu quan tâm thường xuyên, thiếu những hình thức tổ chức và phương hướng hoạt động có hiệu quả cao, cùng những chính sách động viên, khuyến khích tốt đội ngũcán bộ khoa học, kỹ thuật trên địa bàn.
5/ Chăm lo đời sống:
Bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất, cải tiến phân phốilưu thông, giải quyết việc làm cho trên 2 vạn người, xây dựng 1.273 căn nhà ở, trong đó, hơn 450 căn diện chính sách và diện thay thế nhà lụp xụp, nhà trên kênh rạch. Đã chú trọng tổ chức sản xuất phụ, thực hiện lương khoán ở một số đơn vị, lập quỹ cứu trợ ở các phường và từng lúc thực hiện điều tiết thu nhập từ các đơn vị sản xuất, kinh doanh…Ưu điểm cơ bản của Đảng bộ chính là ở chổ thể hiện được tinh thần cố gắng chăm lo đời sống, coi đó là mục tiêu hàng đầu, dù hiệu quả còn nhiều hạn chế.
Từ sau đổi tiền và tổng điều chỉnh giá cuối năm 1985 đến nay, tình hình kinh tế- xã hội có nhiều biến động lớn, giá cả tăng vọt, đời sống nhân dân hết sức khó khăn.Còn hơn một vạn người chưa có việc làm, nhưng chưa có hướng giải quyết căn cơ, vững chắc. Thiếu biện pháp kiên quyết điều tiết thu nhập giữa các ngành, các khu vực. Việc tổ chức sản xuất tự túc còn nhiều lúng túng.
II.-VỀ VĂN HOÁ – XÃ HỘI:
1/ Trong giáo dục:
Đã có nhiều cố gắng nâng cao chất lượng dạy và học. Số học sinh lên lớp đạt và vượt chỉ tiêu. Công tác hướng nghiệp được cải tiến. Cơ sở vật chất được tăng cường, căn bản giải toả được lớp học ca ba. Tỷ lệ ra lớp hệ phổ thông hàng năm từ 97-98%, mẫu giáo 70%, nhà trẻ 16%. Công tác bổ túc văn hoá phát triển tốt. Bên cạnh đó, chất lượng giáo dục còn thấp, cả về văn hoá, chính trị và đạo đức. Một bộ phận giáo viên chưa phát huy đúng năng lực, nhiệt tình cách mạng. Nhiều trường lớp xuống cấp nhanh. Công tác phát triển Đảng còn chậm (tỷ lệ chưa tới 1% trong đội ngũ giáo viên, trong các Ban giám hiệu cũng mới đạt 69,5% trường có hiệu trưởng là đảng viên, so với chỉ tiêu 100%). Đời sống giáo viên rất khó khăn, do quận lo chưa tốt, ngành thiếu chủ động.
2/ Văn hoá thông tin:
Thành tích quan trọng là xây dựng được những mô hình “văn hoá cụm phường” và “đời sống văn hoá ở tổ dân phố”. Phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng phát triển tốt. Mạng lưới hoạt động văn hoá toả rộng xuống cơ sở. Các hoạt động truyền thanh, bản tin ,thông tin cổ động, triển lãm… có nhiều cố gắng. Mặt hạn chếlà hoạt động thông tin, tuyên truyền chưa được tập trung đúng mức, hoạt động văn hoá văn nghệ chưa được chú trọng ở cơ sở. Đội ngũ cán bộ của ngành ở cơ sở nhìn chung còn mỏng, thiếu chất lượng. Cơ sở vật chất còn ít, chưa đáp ứng tốt nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân.
3/ Đã hoàn thành tương đối toàn diện phương hướng chỉ tiêu về chăm lo sức khoẻ nhân dân. Phong trào “5 dứt điểm” phát triển khá. Cơ sở vật chất và trang bị phục vụ khám và trị bệnh được tăng cường.Phong trào phát huy sáng kiến được đẩy mạnh. Thực hiện tốt công tác phát triển lực lượng chính trị trong ngành (đảng viên chiếm tỷ lệ 14%, đoàn viên 95%). Tồn tại là phong trào sinh đẻ có kế hoạch chưa phát động rộng khắp, thuốc trị bệnh chưa tự lực cao, phong trào trồng và chế biến thuốc Nam còn thấp, hoạt động kết hợp đông tây chưa mạnh.
Phát triển khá rộng phong trào thể dục thể thao quần chúng ở cơ sở. Tổ chức được nhiều loại hình rèn luyện thân thể cho các lứa tuổi, tổ chức nhiều đợt hoạt động khá phong phú. Mặt hạn chế là cơ sở vật chất còn nghèo, xuống cấp, phong trào phát triển chưa đều và thường xuyên.
4/ Thực hiện chính sách thương binh xã hội tương đối có nề nếp, các phường ngày càng đề cao trách nhiệm, phường nào cũngcó nhiều phong trào đền ơn đáp nghĩa. Việc giải quyết việc làm cho gia đình diện chính sách, cho số phục viên xuất ngũ được chú trọng tốt hơn (đã giải quyết được 75% số phục viên, xuất ngũ). Bên cạnh đó, việc chăm lo thực hiện chính sách chưa thường xuyên, giải quyết trợ cấp cho cán bộ hưu trí theo chế độ lươmg mới làm trì trệ. Các tệ nạn xã hội còn tập trung ở một số khu vực chưa được giải quyết dứt điểm. Nhìn chung, việc chăm lo đời sống cácgia đình chính sách, cán bộ về hưu, còn nhiều thiếu sót, do Đảng bộ quan tâm chưa thườngxuyên, mặt khác, do cơ quan tham mưu điều hành còn nhiều trì trệ, yếu kém, chưa được kiểm tra, củng cố kịp thời.
5/ Công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày càng được chú trọng tốt hơn, thể hiện qua phong trào khá phong phú ở cơ sở, nhất là phong trào tiếng kẻng văn hoá, xây dựng các tụ điểm sinh hoạt văn hoá. Việc chăm lo cho trẻ em nghèo thất học là điểm nổi bật ở các phường. Một số phường còn tổ chức dạy nghề, tạo việc làm ngoài giờ học cho các em. Bên cạnh đó, do sự quan tâm của các cấp ủy, chính quyền cơ sở và các ngành liên quan chưa đều , nên phong trào phát triển chưa rộng khắp, những mô hình mới về chăm sóc, giáo dục trẻ em chưa được nhân rộng, việc kết hợp ba môi trường giáo dục ở từng phường chưa được đề cao đúng mức. Cũng vì vậy, tình trạng trẻ em hư gần đây có chiều hướng phát triển ở một số nơi.
III. AN NINH QUỐC PHÒNG:
Do là một địa bàn trọng điểm nên tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn quận hết sức phức tạp. Ba năm qua, ta vẫn ổn định được tình hình, bảo vệ tốt cho sản xuất và cuộc sống an lành của nhân dân, đồng thời góp phần xứng đáng vào công cuộc bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.Đó là thắng lợi quan trọng.
1/Về an ninh - trật tự xã hội:
Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc có mức phát triển khá ở cơ sở. Công tác chuyển hoá địa bàn trọng điểm được triển khai tậptrung. Đã xây dựng 10/26 phường, 91/126 khu phố và 958/1.004 tổ dân phố an toàn, đạt chỉ tiêu nghị quyết Đại hội III. Nạn phạm pháp hình sự giảm, các vụ trọng án được ngăn ngừa tương đối tốt.
Lực lượng công an nhân dân thường xuyên nâng cao chất lượng. Số sai phạm kỷ luật giảm rõ (năm 1982 tỷ lệ sai phạm 7,80%, năm 1985 còn 1,03%). Hoạt động của các ngành trong khối nội chính có mức phối hợp tương đối chặt chẽ hơn. Đội ngũ cán bộ của các ngành được tăng cường chất lượng.
Tồn tại hiện nay là tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội chưa đảm bảo vững chắc. Khẩu hiệu “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” chưa được đề cao. Bọn tội phạm chính trị chưa được nắm chắc, tội phạm hình sự chưa được ngăn ngừa có hiệu quả cao, tệ nạn xã hội vẫn còn nhiều.
Đặc biệt, công tác an ninh kinh tế còn nhiều mặt yếu, chưa đánh trúng bọn đấu sỏ phá hoại kinh tế, chưa trừng trị đích đáng bọn đầu cơ buôn lậu, chưa phát hiện tận gốc các hoạt động chiến tranh tâm lý, phao tin đồn nhảm. Không ít các hiện tượng xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa chưa được truy tìm có hiệu quả.
Những tồn tại trên đây, trước hết là do ta chưa xây dựng vững chắc phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc trên các địa bàn trọng điểm, trong các tổ dân phố, chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của các ngành, các giới và chưa sử dụng đồng bộ các biện pháp cần thiết, công tác nắm hộ, nắm người chưa chặt. Mặt khác, hoạt động của các lực lượng công an ở cơ sở nói chung, chưa dựa hẳn vào quần chúng, chưa phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể.
2/ Công tác quân sự địa phương:
Có nhiều cố gắng từng bước xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng hậu phương chiến lược vững mạnh trên địa bàn. Đã tập trung củng cố lực lượng tự vệ cơ sở, căn bản đảm bảo 100% phường đội trưởng là đảng viên theo nghị quyết Đại hội III. Chất lượng chỉ đạo, chỉ huy được nâng lên một bước. Chỉ tiêu tuyển quân liên tục hoàn thành. Quân dự bị các loại được nắm chắc hơn. Công tác hậu phương quân đội đảm bảo tốt. Tình đoàn kết quân dân được tăng cường,bằng công tác giáo dục và bằng nhiều hình thức kết nghĩa với các đơn vị quân đội. Ta còn tổ chức kết nghĩa với một số đơn vị bạn Campuchia, với quận 7/1 thành phố Pnôm- Pênh, góp phần cùng thành phố làm tốt nghĩa vụ quốc tế.
Mặt yếu hiện nay là tinh thần cảnh giác cách mạng chưa được đề cao. Các yêu cầu về xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên địa bàn làm chậm. Kế hoạch sản xuất của nhiều đơn vị chưa gắn chặt với kế hoạch bảo vệ. Công tác giáo dục quốc phòng chưa được đẩy mạnh. Lực lượng tự vệ và lực lượng dân phòng ở phường chưa đạt yêu cầu chất lượng. Các cơ quan quân sự nói chung chưa làm tốt vai trò tham mưu. Đời sống anh em tự vệ ở phường còn rất nhiều thiếu thốn.
IV.- CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN:
A. Công tác vận động quần chúng:
1/ Đảng bộ quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng đối với quần chúng và phong trào cách mạng của quần chúng, thể hiện rõ trong các Nghị quyết, chủ trương của Đảng bộ và hoạt động của cán bộ, đảng viên.
Đảng bộ đặc biệt quan tâm công tác vận động và tổ chức quần chúng theo đạo thiên chúa đi vào hành động cách mạng, biết coi trọng việc giáo dục gắn với tổ chức sản xuất và chăm lo đời sống, để thuyết phục và tập hợp bà con trong khối đại đoàn kết toàn dân.
Các tầng lớp quần chúng đã tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, chịu đựng khó khăn, tin vào sự lãnh đạo của Đảng và tích cực tham gia đẩy mạnh các phong trào lao động sản xuất, tiết kiệm, giữ gìn an ninh trật tự, củng cố quốc phòng…
Thực tiễn chỉ rõ: thành tích đạt được trong những năm qua của Đảng bộ chính là xuất phát từ phong trào cách mạng khá rộng khắp của quần chúng, từ quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, mọi yêu cầu cách mạng phải lấy dân làm gốc. Đó chính là bài học lớn của Đảng bộ.
Công tác giáo dục, vận động quần chúng được tiến hành thường xuyên và có mức đi sâu từng đối tượng qua các đoàn thể quần chúng:
a) Tiếp tục nâng cao giác ngộ giai cấp công nhân và thợ thủ công với nhiều nội dung khá phong phú. Tổ chức học tập rộng rãi Nghị định 182/CP và nhiều nghị quyết, chủ truơng quan trọng khác về tổ chức phát huy quyền làm chủ tập thể của người lao động ở cơ sở. Hoạt động tuyên truyền giáo dục được gắn chặt với chăm lo đời sống, nâng cao thu nhập cho công nhân, thợ thủ công. Công tác tập hợp công nhân và thợ thủ công tiến hành khá chặt chẽ. Đã tập hợp 95% công nhân viên chức vào tổ chức công đoàn cơ sở.
b)Tăng cường giáo dục bà con nông dân về truyền thống đấu tranh cách mạng, về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hội Liên hiệp nông dân tập thể tiếp tục tham gia xây dựng các tập đoàn, hợp tác xã và vận động nhân dân thực hiện nghĩa vụ đối vớiNhà nước và đoàn kết tương trợ trong sản xuất, cuộc sống. Đã tập hợp được 78% nông dân vào Hội.
c) Các tầng lớp thanh niên ngoài Đoàn được chú trọng giáo dục tốt hơn, nhất là giáo dục về truyền thống, về tình hình nhiệm vụ cách mạng. Phong trào hành động cách mạng trong thanh niên bước đầu có chuyển hướng tốt trên lĩnh vực kinh tế- đời sống. Đã có trên 60% thanh niên được đưa vào tổ chức Hội.
d) Tầng lớp phụ nữ được đẩy mạnh giáo dục thường xuyên, với nhiều nội dung phong phú. Chị em đã đẩy mạnh phong trào cách mạng, từ xây dựng gia đình văn hoá mới cho đến phát triển sản xuất, quản lý thị trường, giá cả… phù hợp với từng đối tượng. Hội Liên hiệp phụ nữ quận nhiều năm liền là đơn vị thi đua xuất sắc. Có 10/24 phường hội đạt loại A, không còn cơ sở yếu kém. 65% chị em phụ nữ được đưa vào tổ chức Hội.
e) Công tác mặt trận ngày càng mở rộng được khối đoàn kết toàn dân và đi sâu vận động đồng bào tôn giáo, người Hoa. Bà con giáo dân tập hợp đông đảo trong phong trào sản xuất, chăm lo đời sống và nhiều phong trào khác. Bà con người Hoa được nâng cao hiểu biết về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, ngày càng tích cực tham gia sản xuất. Phong trào phụ lão phát triển khá vững chắc trên các lĩnh vực chăm lo đời sống, hướng về tuyến đầu Tổ quốc và vận động phát triển sản xuất.
Bên cạnh đó, công tác vận động quần chúng vẫn còn những hạn chế quan trọng:
Sự giác ngộ xã hội chủ nghĩa của quần chúng nói chung chưa nhiều, tính tự giác của các phong trào chưa cao, do đó mà phong trào còn thiếu tính vững chắc. Việcphát triểnmột bộ phận đoàn viên, hội viên chưa thực sự bắt nguồn từ phong trào cách mạng của quần chúng, nên chất lượng còn thấp. Đội ngũ những người lao động sản xuất chưa được củng cố vững chắc…
Những tồn tại trên đây, trước hết là do Đảng bộ và các đòan thể còn nhiều lúng túng về phương thức và nội dung vận động quần chúng trong giai đoạn mới. Chưa tập trung đúng mức và có chiều sâu trong công tác vận động quần chúng theo đạo thiên chúa, quần chúng gốc Hoa và tầng lớp đông đảo những người có quan hệ tiền, hàng nước ngoài. Nhiều cơ quan quản lý và cả một số cơ sở Đảng còn xem nhẹ đoàn thể, xem nhẹ công tác vận động quần chúng. Tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, quan liêu giấy tờ, xa rời quần chúng còn khá phổ biến. Nhiều cơ quan, đơn vị không có quy chế phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng. Bản thân các đòan thể và mặt trận chưa thật chủ động, nhất là chủ động tham gia xây dựng, triển khai thực hiện và kiểm tra việc thực hiện cácnhiệm vụ kinh tế- xã hội; hoạt động thiếu gắn bó nhau, tác phong làm việc ít nhiều còn quan liêu, mức tập hợp quần chúng còn ít, chất lượng hoạt động chưa cao. Nói chung, các đoàn thể và mặt trận ở một số nơi chưa thật sự là chỗ dựa tin cậy để quần chúng phát huy quyền làm chủ tập thể của mình.
B. Xây dựng chính quyền:
a) Hội đồng nhân dân quận và phường được chú ý nâng cao chất lượng ngay từ lúc tổ chức bầu cử và ngày càng hoạt động có hiệu quả, từng bước phát huy được quyền lực của Hội đồng nhân dân và của từng thành viên. Bên cạnh đó, Hội đồng nhân dân nói chung vẫn còn những hạn chế, nhất là đi sâu kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan chính quyền. Nhiều phiên họp của Hội đồng nhân dân còn nặng tính hình thức, chất lượng thấp. Nhiều đại biểu Hội đồng nhân dân chưa phát huy hết vai trò của mình.
b) Bộ máy chính quyền quận và cơ sở từng bước nêu cao vai trò cụ thể hoá và tổ chức thực hiện những nghị quyết, chủ trương của Đảng, của Hội đồng nhân dân trên nhiều lĩnh vực. Quận đã quan tâm củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền cơ sở. Cơ chế tổ chức mới được khẩn trương thực hiện và từng bước tiến đến hoàn chỉnh, theo hướng mạnh dạng phân công, phân cấp, tạo thêm chủ động cho cơ sở.
Đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sởngày càng nâng cao trình độ, năng lực quản lý. Các đồng chí chủ chốt ở phường hầu hết được bồi dưỡng về chính trị cơ bản, về quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước. Cán bộ trẻ, nữ bổ sung vào các cương vị chủ chốt ngày càng nhiều.
Tuy nhiên, bộ máy chính quyền từ quận đến cơ sở nói chung còn những hạn chế về năng lực tổ chức quản lý. Bộ máy các phòng, ban còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, có thể tinh giảm được. Hoạt động của nhiều ngành thiếu phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, tổ chức thực hiện một số lĩnh vực thiếu kịp thời, nhạy bén. Việc phân công, phân cấp cho phường, nhiều ngành ở quận do còn có phần cục bộ, bảo thủ chưa khẩn trươngthực hiện theo đúng tinh thần chủ trương chung. Một số cơ sở chậm được củng cố, kiện toàn. Một số ban điều hành tổ dân phố còn yếu, chưa thực sự là chỗ dựa để chính quyền phường triển khai thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội.
V. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN:
A. Vềxây dựng Đảng:
Ba năm qua Đảng bộ đã thường xuyên chú trọng tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng bộ cả về chính trị tư tưởng và tổ chức, nhằm đáp ứng tốt cho yêu cầu lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ kinh tế- xã hội.
1/ Công tác chính trị tư tưởng được tăng cường tốt hơn, nhất là công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên về chính trị, văn hoá và chuyên môn nghiệp vụ. Đã chủ động mở các lớp bồi dưỡng tại chỗ, cả lớp chính trị trung cấpvà quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, đồng thời mạnh dạn gởi cán bộ, đảng viên đi đào tạo,bồi dưỡng ở trung ương và thành phố (ba năm qua, có 86 cán bộ chủ chốt được đào tạo dài hạn, chiếm gần 50% số được đào tạo dài hạn từ sau giải phóng).
Đảng bộ đặc biệt coi trọng việc làm quán triệt các nghị quyết, chủ trương của trung ương, thành phố và của quận, qua đó giúp cán bộ, đảng viên nắm được tình hình, nhiệm vụ và có mức củng cố thêm lập trường, quan điểm giai cấp. Những đợt sinh hoạt chính trị lớn được tiến hành thường xuyên, những lần sơ kết, tổng kết công tác, và tự phê bình và phê bình tiến hành hàng năm, nữa năm, đã góp phần củng cố, nâng cao phẩm chất và năng lực của cán bộ, đảng viên.
Bên cạnh đó, công tác chính trị tư tưởng còn nhiều bị động, lúng túng, thiếu tính linh hoạt, nhạy bén, thiếu bám sát tình hình, bám sát đội ngũ để đáp ứng sátsườn nhiệm vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ. Công tác chính trị tư tưởng nói chung chưa đi sâu củng cố lập trường giai cấp công nhân, quan điểm quần chúng, quan điểm quần chúng, chưa bồi dưỡng đúng mức về phẩm chất đạo đức trong cán bộ, đảng viên. Từ đợt đổi tiền tháng 9/1985, tình hình kinh tế- xã hộicó những biến động gay gắt, làm ảnh hưởng lớn đến lĩnh vực chính trị tư tưởng, trong nội bộ Đảng củng có những diễn biến phức tạp. Trước tình hình đó, công tác chính trị tư tưởng thường bị động đối phó, thậm chí có lúc, có nơi đã tỏ ra thụ động, bế tắc, chưa vươn lên tương xứng với những yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Những thiếu sót khuyết điểm trên đây biểu hiện trong nội dung, chương trình của các lớp bồi dưỡng, đào tạo trong những đợt sinh hoạt chính trị của Đảng bộ và cả trong chất lượng sinh hoạt, chất lượng tự phê bình và phê bình ở từng cơ sở Đảng. Nhìn chung, chất lượng sinh hoạt Đảng ở một số cơ sở chưa thực sự là nơi giáo dục, bồi dưỡng và rèn luyện tốt cho cán bộ, đảng viên.
Công tác tổ chức có nhiều cố gắng và đạt được những tiến bộ nhất định. Ta đã khẩn trương xây dựng quy hoạch cán bộ năm 1983-1985 ngay sau Đại hội Đảng bộ lần thứ III. Việc bố trí, sử dụng cán bộ biết căn cứ vào yêu cầu công việc và phẩm chất, năng lực của cán bộ, biết kết hợp hài hoà các mặt mạnh của từng loại cán bộ, biết vận dụng tốt quan điểm của Đảng về cán bộ trẻ, nữ. Tổ chức cơ sở Đảng được thường xuyên củng cố, tăng cường, xây dựng được nhiều đơn vị vững mạnh (hai năm 1983-1984 có 25,5% số đảng bộ, chi bộ cơ sở được Thành ủy công nhận vững mạnh, trong đó, có 30% số phường vững mạnh).
Công tác phát triển Đảng viên mới được thực hiện chặt chẻ hơn, nguồn phát triển ngày càng nhiều, nhất là từ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Ba năm qua, phát triển trên 650 đảng viên (gần 2/3 số đảng viên được phát triển từ sau ngày giải phóng đến nay).
Công tác kiểm tra được chú trọng tăng cường, có mức đi sâu vào kiểm tra việc thi hành các quyết định, thi hành điều lệ Đảng. Việc giáo dục, ngăn ngừa sai phạm có tác dụng tốt. Trong ba năm, có 132 vụ vi phạm kỷ luật, phần lớn là thoái hoá về phẩm chất đạo đức, giảm so với nhiệm kỳ trước là 32%.
Tuy vậy, công tác tổ chức còn nhiều lúng túng,chưa đáp ứng kịp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, với những đòi hỏi của cơ sở, của yêu cầu đổi mới cơ chếquản lý. Việc đánh giá, bố trí cán bộ phần nào còn theo cảm tính, thiếu những căn cứ khoa học. Một số tổ chức cơ sở Đảng thiếu đoàn kết và một số cán bộ chủ chốt thiếu năng lực, chưa được củng cố, thay đổi kịp thời. Bộ máy tổ chức nhiều nơi cồng kềnh, kém hiệu lực. Nhiều cơ quan có tình trạng vừa thiếu, vừa thừa cán bộ, công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn lỏng ở một số đơn vị cơ sở.
Công tác phát triển Đảngchưa đạt yêu cầu về cơ cấu, như khu vực sản xuất, phân phối lưu thông và giáo dục còn rất mỏng, một số cơ sở quan trọng chưa có đảng viên. Việc giáo dục, kèm cặp đảng viên mới chưa được chú trọng đúng mức ở một số nơi.
Công tác kiểm tra còn sa vào sự vụ. Kiểm tra việc tổ chức thực hiện chưa được thường xuyên. Việc xử lý kỷ luật trong một số ít trường hợplàm còn chậm và thiếu chế độ thông báo kịp thời đến cơ sở, để giáo dục, ngăn ngừa. Một số cán bộ có dư luận không tốt về phẩm chất đạo đức, đã được kết luận, nhưng thiếu thông báo kịp thời, gây thắc mắc kéo dài.
2/ Đội ngũ đảng viên nói chung có tinh thần tận tụy rèn luyện, phấn đấu, ngày càng nâng cao được phẩm chất, năng lực. Đảng bộ hiện có 2.457 đảng viên, sinh hoạt trong 84 tổ chức cơ sở Đảng. Số đông đảng viên có mức trưởng thành về trình độ nhận thức, tư tưởng, về kiến thức quản lý kinh tế, vận dụng có hiệu quả các nghị quyết chủ trương của Đảng vào thực tế địa phương đơn vị. Phần lớn đảng viên giữ gìn được phẩm chất và lối sống lành mạnh, dù tình hình kinh tế- xã hội có nhiều biến động, đời sống hết sức khó khăn.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên trẻ, nữqua học tập, rèn luyện từ trường lớp, từ thực tiễn cuộc sống và biết dựa vào các đồng chí lớn tuổi, về hưu, đã có bước trưởng thành nhanh chóng. Trong tổng số 343 đồng chí cấp ủy viên cơ sở, có 41% đồng chí trẻ, 26% nữ, và 64% được kết nạp Đảng từ sau giải phóng.
Lớp đảng viên về hưu chiếm tỷ lệ đông đảo ở phường (63%). Hầu hết các đồng chí vẫn giữ được phẩm chấtđạo đức trong sáng, gắn bó với quận, với cơ sở và quần chúng, đóng góp nhiều trong công tác xây dựng Đảng, công tác vận động quần chúng. Đặc biệt có nhiều đồng chí hết lòng tận tụy chăm lo cho lớp trẻ trưởng thành.
Bên cạnh đó, đội ngũ đảng viên cũng còn nhiều mặt yếu và tồn tại với những mức độ khác nhau. Một bộ phận đảng viên chưa được kiên định lập trường giai cấp công nhân, quan điểm quần chúng và vận dụng lập trường, quan điểm ấy vào thực tế công tác ởcơ sở , nhất là ở những đơn vị sản xuất,kinh doanh. Một số đảng viên, trước hết là đảng viên có chức, có quyền trong các cơ quan quản lý sản xuất, kinh doanh và pháp luật, do yếu về trình độ nhận thức, quan điểm chính trị, thiếu tinh thần trách nhiệm, còn mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, độc đoán, coi thường lợi ích của quần chúng, không nhạy cảm trước những nỗi khổ của quần chúng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên trẻ, nữ trưởng thành nhanh, nhiều đồng chí giữ cương vị chủ chốt, nhưng một số ít do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, đã tỏ ra tự cao, tự mãn, có người thoái hoá, biến chất. Điều đáng quan tâm hiện nay là một bộ phận đảng viên có phần sa sút về phẩm chất chính trị, biểu hiện ở chỗ giảm sút ý chí chiến đấu, nhiệt tình cách mạng, tránh công tác khó khăn, tránh những nơithu nhập kinh tế ít, chạy theo thụ hưởng cá nhân, sống cách biệt với quần chúng.
B. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh:
Được Đảng bộ quan tâm thường xuyên xây dựng, củng cố, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của quận và cơ sở đã có nhiều hoạt động tích cực và sáng tạo, thể hiện được vai trò xung kích trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh quốc phòng…Đặc biệt, Đoàn đã phát động khá liên tục phong trào” Toàn Đoàn tham gia xây dựng Đảng” đạt được nhiều kết quả thiết thực. Qua giáo dục và rèn luyện từ thực tiễn, đội ngũ của Đoàn ngày càng phát triển nhanh chóng. Đến nay, toàn quận có trên 10.000 đoàn viên, trong đó 5.500 đoàn viên được phát triển 3 năm qua. Tổ chức Đoàn được hình thành ở 100%khu phố, mỗi tổ dân phố đều có đoàn viên. Có 55% tổ chức cơ sở đoàn vững mạnh. Quận đòan nhiều năm liền là đơn vị vững mạnh. Đội Thiếu niên Tiền phong phát triển tốt, quitụ được 85% số em nằm trong độ tuổi.
Tuy nhiên, do Đoàn chưa được nhiều cấp ủy cơ sở đầu tư chăm sóc tốt và bản thân Đoàn cũng chưa chủ động cao, nên phong trào của Đoàn phát triển chưa thật vững chắc, liên tục và có chiều sâu; chất lượng một bộ phận đoàn viên còn nhiều mặt yếu, vai trò lãnh đạo của Đoàn chưa thực sự được xác lậptrong một bộ phận thanh niên.
VI. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Kiểm điểm thực hiện nhiệm vụ chính trị ba năm qua, Đại hội đánh giá khái quát về những thành tích, ưu điểm, những tồn tại, khuyết điểm và những nguyên nhân của chúng, cùng rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
A. Về thành tích, ưu điểm:
Ba năm qua, Đảng bộ và nhân dân ta đã phấn đấu thực hiện nhiệm vụ chính trị của quận trong tình hình kinh tế- xã hội của thành phố và cả nước có nhiều khó khăn gay gắt, nhiều mặt mất cân đối nghiêm trọng, đặc biệt là từ sau tháng 9/1985. Trong điều kiện như vậy, Đảng bộ và nhân dân ta đã cố gắng vươn lên hoàn thành khá toàn diện các nhiệm vụ, chỉ tiêu kinh tế- xã hội, trước hết là về cải tạo, phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp: tăng cường có hiệu quả các hoạt động y tế, văn hoá, giáo dục bảo đảm được tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội; công tác xây dựng Đảng, chính quyền và đoàn thể, mặt trận có bước trưởng thành đáng kể…Đó là những thắng lợi quan trọng, tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho những bước phát triển mới.
Nguyên nhân của những thành tích trên đây, trước hết là nhờ có đường lối chung, đường lối kinh tế đúng đắn của Đảng được cụ thể hoá trong Nghị quyết Đại hội V, có nhiều Nghị quyết của Trung ương soi sáng, nhất là Nghị quyết 6 và 8; có các Nghị quyết, chủ trương đúng đắn và sự chỉ đạo sâu sát của Thành ủy.
Ba năm qua, Đảng bộ và nhân dân ta có những ưu điểm, mặt mạnh chủ yếu sau:
1/ Các tầng lớp nhân dân ta đã ra sức phát huy quyền làm chủ tập thể, phát huy truyền thống đoàn kết, lao động cần cù, sáng tạo, có tinh thần chịu đựng và khắc phục, vượt qua khó khăn, giữ vững các phong trào hành động cách mạng, nỗ lực cùng với Đảng và Nhà nước giải quyết nhiều khó khăn to lớn trong sản xuất, đời sống và các lĩnh vực khác.
2/ Đảng bộ có sự đoàn kết nhất trí cao về chính trị, tư tưởng. Phần lớn các cơ sở Đảng và cán bộ, đảng viên thể hiện sự năng động, sáng tạo trong việc vận dụng đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tế cơ sở. Ủy ban nhân dân và các ban, ngành, đoàn thể ở quận và cơ sở đã có nhiều cố gắng trong tổ chức thực hiện, góp phần tạo nên sức mạnh tồng hợp để vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.
3/ Trong nhận thức tư tưởng, Đảng bộ ngày càng thể hiện rõ quan điểm quần chúng đúng đắn, khẳng định quan điểm tin và dựa vào quần chúng, luôn quan tâm đến lợi ích của quần chúng. Quan điểm đó thể hiện trong cácnghị quyết, chủ trương của Đảng bộ. Trong lãnh đạo điều hành, Đảng bộ chú trọng thường xuyên lắng nghe ý kiến và bàn bạc với quần chúng, phát động được phong trào cách mạng khá sâu rộng.
4/ Ban chấp hành Đảng bộ có khả năng quán triệt và vận dụng khá nhanh nhạy đường lối, quan điểm và các bài học kinh nghiệm của Đảng, nắm được tình hình thực tế ở cơ sở và đề ra nghị quyết, chủ trương sát đúng, kịp thời,thể hiện rõ tinh thần cách mạng tiến công. Trong điều hành công việc, biết dựa vào nghị quyết, vào quy chế và bằng chương trình kế hoạch cụ thể và có mức kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Nhờ đó đã tạo điều kiện cho các ngành và cơ sở đưa phong trào cách mạng đi lên.
B. Về tồn tại, khuyết điểm:
Bên cạnh những thành tích trên, Đảng bộ còn vấp phải nhiều khó khăn, tốn tại gay gắt, đó là:
Chưa khai thác phát huy đúng mức tiềm năng kinh tế của quận. Tình trạng mất cân đối diễn ra trên nhiều lĩnh vực, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Sản xuất còn bấp bênh, thiếu tính vững chắc, năng suất, chất lượng và hiệu quả đều thấp. Mặt trận phân phối lưu thông mất trật tự kéo dài, công tác cải tạo, quản lý thị trường còn buông lỏng. Đời sống của nhân dân lao động hết sức khó khăn. Nạn thất nghiệp còn lớn. Hoạt động văn hoá- xã hội chưa đi vào chiều sâu. Tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội chưađảm bảo vững chắc…
Nguyên nhân của những khó khăn, tồn tại trên đây, về khách quan cũng rất quan trọng, nhưng cần phải xác định rõ những nguyên nhân chủ quan là chính, để có biện pháp khắc phục, sửa chữa nghiêm túc. Có 4 nguyên nhân chủ quan, đồng thời cũng là 4 khuyết điểm chủ yếu sau:
1/ Công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện còn chậm, nhiều mặt kém hiệu quả. Ban chấp hành Đảng bộ, mà trước hết là Ban Thường vụ, thiếu đi sâu kiểm tra phát hiện hết vấn đề trong tổ chức thực hiện, hoặc có một số vấn đề được phát hiện, cũng thiếu biện pháp giải quyết có hiệu quả. UBND quận tổ chức điều hành chưa bám vào qui chế và thiếu đồng bộ, có những chủ trương quan trọng chưa được thực hiện đến nơi đến chốn. Hoạt động của các khối, các ngành, các cơ sở sản xuất, kinh doanh còn rời rạc, chưa phối hợp chặt chẽ trên tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa. Việc sơ kết tổng kết rút kinh nghiệm chưa được quan tâm đúng mức.
2/ Quan điểm lấy dân làm gốc chưa được thấu suốt trong nhận thức và hành động một cách sâu sắc. Bộ máy Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng còn biểu hiện quan liêu với những mức độ khác nhau. Nhiều cơ quan chính quyền, đơn vị sản xuất kinh doanh chưa có qui chế cụ thể phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng. Hội đồng nhân dân, Mặt trận, đoàn thể nói chung, chưa được coi trọng đúng mức. Một bộ phận cán bộ đảng viên còn xa rời quần chúng, xa rời cơ sở.
3/ Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế về tư tưởng và tổ chức. Công tác tư tưởng và tổ chức còn yếu, chưa đáp ứng tốt cho yêu cầu nhiệm vụ chính trị, yêu cầu đổi mới cơ chế, đổi mới tư duy, đổimới tổ chức và phong cách hoạt động. Bộ máy tổ chức nhiều nơi cồng kềnh, kém hiệu lực, chậm được củng cố, kiện toàn. Việc đào tạo, bồi dưỡng và bố trí cán bộ còn có phần chấp vá, chưa theo quy hoạch lâu dài, ổn định. Lập trường giai cấp công nhân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa thật vững vàng, kiên định, còn có mức ảnh hưởng bởi tư tưởng, tácphong tiểu tư sản. Trình độ nhận thức và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên nói chung chưa theo kịp với những đòi hỏi cấp bách và phức tạp của tình hình.
4/ Chưa kết hợp nhuần nhuyễn ba cuộc cách mạng trên từng lĩnh vực hoạt động, từng đơn vị cơ sở và trên địa bàn quận. Cách mạng khoa học kỹ thuật chưa được nhận thức đầy đủ và tổ chức thực hiện tương xứng với vai trò then chốt của nó trong ba cuộc cách mạng, biểu hiện ở chỗ ta chưa tập trung đúng mức cho lĩnh vực KHKT, cả về chính sách khuyến khích, huy động lực lượng cán bộ và xác định những trọng tâm, trọng điểm đầu tư.
VI. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Những ưu điểm, khuyết điểm trên đây đều có ý nghĩa là những bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ trong những năm qua. Có một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau:
1/ Phải nắm bắt kịp thời các nghị quyết, chủ trương đúng đắn của Đảng, nhất là các nghị quyết về đổi mới quản lý kinh tế, và phải nhanh chóng cụ thể hoá bằng kế hoạch, bằng chuyên đề sát với điều kiện cụ thể của địa phương, cơ sở và có biện pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả.
Phải có nhận thức lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ chủ yếu của Đảng trong cách mạng XHCN. Vì vậy, phải làm cho các cơ sở, các ngành hướng mọi suy nghĩ và hoạt độngcủa mình vào yêu cầu này, nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Đó là thước đonăng lực lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới.
2/ Phải hết sức tin và dựa vào quần chúng vào cơ sở, phát huy quyền làm chủ tập thể và quyền chủ động của cơ sở. Thực tiễn 3 năm qua cho phép Đảng bộ khẳng định rằng: càng khó khăn thìcàng phải dựa vào quần chúng, dựa vào cơ sở, mọi hoạt động cách mạng lấy dân làm gốc.
Nhờ đi sâu, đi sát quần chúng và cơ sở, tập trung cho cơ sở, đã sáng tạo ra nhiều kinh nghiệm mà Đảng bộ đã tổng kết được như phương châm “3 lo, 4 nguồn”, “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” khó khăn dù to lớn, nhưng khi quần chúng đã thấy rõ trách nhiệm của mình thì nhất định tháo gỡ được.
3/ Phải luôn đổi mới công tác cán bộ cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới. Trong đó phải tạo mọi điều kiện phát huy đội ngũ cán bộ trẻ, nữ, cán bộ khoa học kỹ thuật, kết hợp hài hoà các nguồn cán bộ, vì suy cho cùng, cán bộ là khâu quyết định. Trong thực tế vừa qua, có một vài khâu yếu kèm kéo dài, cũng chính là do thiếu kiên quyết trong việc bố trí, sử dụng cán bộ.
4/ Phải luôn tập trung cho công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức, để Đảng bộ luôn đủ sức lãnh đạo toàn diện, đặc biệt là kinh tế xã hội. Kết quả việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội chính là chiều sâu của công tác xây dựng Đảng, nơi nào thiếu quan tâm công tác xây dựng Đảng thì nơi đó không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.
5/ Phải rất coi trọng khâu chỉ đạo tổ chức thực hiện, vì thực tiễn 3 năm qua cho thấy, những thành công hay thất bại lệ thuộc rất quan trọng vào khâu này. Trong đó, phải thường xuyênquan tâm đến biện pháp thực hiện, như phải có chuyên đề, biết chọn và tập trung cho những vấn đề then chốt, như coi trọng chỉ đạo điểm và xây dựng mô hình như sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm và tăng cường công tác kiểm tra, nhất là kiểm tra việc thực hiện các quyết định quan trọng và kiên quyết xử lý vấn đề qua kiểm tra phát hiện được.
PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRONG NHỮNG NĂM 1986-1988.
Thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong những năm tới, Đảng bộ có nhiều thuận lợi lớn. Những thắng lợi đạt được trong 3 năm qua tạo ra nhiều điều kiện và khả năng cho những bước phát triển mới. Tiềm năng kinh tế của Quận còn lớn. Phong trào hành động cách mạng của quần chúng đã và đang có những chuyển biến tốt. Đội ngũ cán bộ, đảng viên có bước trưởng thành, các cấp ủy có thêm nhiều kinh nghiệm. Đại hội Đảng bộ thành phố và Đại hội Đảng toàn quốc sẽ mở ra những chuyển biến mới trên các lĩnh vực.
Mặt khác, Đảng bộ cũng đứng trước những khó khăn hết sức gay gắt trên các lĩnh vực kinh tế xã hội. Cơ chế quản lý mới chỉ mới bước đầu hình thành, nhiều chính sách kinh tế không còn phù hợp, chưa kịp sửa đổi. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường còn rất phức tạp. Trong khi đó, khả năng lãnh đạo, tổ chức thực hiện của Đảng bộ còn nhiều mặt hạn chế trước những đòi hỏi đổi mới của tình hình. Tiêu cực trong nội bộ Đảng và ngoài xã hội còn có mức phát triển.
Để góp phần xứng đáng vào việc thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IV, phát huy thành quả đạt được trong những năm qua, toàn thể Đảng bộ và nhân dân ta phấn đấu thực hiện bằng được những nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu dưới đây:
1/ Xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế, kinh doanh XHCN, đổi mới kế hoạch hoá trên cơ sở vận dụng đúng đắn hệ thống, các quy luật kinh tế, chấn chỉnh và kiện toàn bộ máy và đội ngũ cán bộ theo yêu cầucủa cơ chế mới. Đi sâu khai thác những năng lực kinh tế theo cơ cấu kinh tế thống nhất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp- xuất khẩu thương nghiệp- dịch vụ và nông nghiệp, gắn liền với cơ chế quản lý kinh tế mới, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, tăng cường có hiệu quả các hoạt động phân phối lưu thông và văn hoá, xã hội. Trên cơ sở đó hướng mọi cố gắng nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp bách và thiết yếu nhất của xã hội, tạo ra những tiền đề tương đối vững chắc để tiến đến ổn định đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, trước hết đối với công nhân viên chức, lực lượng vũ trang, các đối tượng chính sách và nhân dân lao động nghèo. Phải phấn đấu không ngừng để không còn người ăn đói, mặc quá rách rưới, ở nhà quá dột nát, bệnh tật không thuốc men, để mọi trẻ em được đến trường và mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng lên rõ rệt.
2/ Phấn đấu tạo ra một bước chuyển biến quan trọng về mặt xã hội, thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm phân phối đúng chính sách, đúng chế độ, thực hiện điều phối thu nhập, làm giảm hẳn mức sống chênh lệch bất hợp lý hiện nay giữa các khu vực cán bộ, công nhân viên và có mức giản quan trọng về thu nhập quá bất hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Phát động mạnh mẽ phong trào xây dựng nếp sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, trước hết là sống có văn hoá, có lý tưởng, hăng hái lao động, sáng tạo trong mọi người, nhất là thanh niên; chặn đứng và đẩy lùi những mặt tiêu cực trong Đảng, trong cơ quan Nhà nước và ngoài xã hội.
3/ Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ thường xuyên, liên tục suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở quá trình phát triển tới. Tập trung phát triển thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể, làm cho kinh tế xã hội chủ nghĩa thể hiện rõ vai trò ưu việt của nó, qua đó, quản lý, sử dụng tốt các thành phần kinh tế khác. Trong hai năm tới, phải phấn đấu thiết lập cho được trật tự trong phân phối lưu thông và quản lý thị trường trên địa bàn quận.
4/ Nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, góp phần đập tan mọi âm mưu của kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội trên toàn địa bàn, đồng thời góp phần làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, đấu tranh bảo vệ an ninh kinh tế, đẩy lùi các hoạt động đầu cơ, buôn lậu, làm và bán hàng giả, gây rối thị trường, phá hoại kinh tế. Khẩn trương củng cố, nâng cao chất lượng chiến đấu của các lực lượng thường trực và dự bị. Tăng cường hoạt động của các cơ quan pháp luật. Đề cao ý thức “Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật” đối với mọi người.
5/ Phát huy tốt sức mạnh tổng hợp của cơ chế “Đảng lãnh đạo- nhân dân làm chủ- Nhà nước quản lý”. Nhanh chóng đổi mới tư duy, phong cách, tổ chức và cán bộ, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất và năng lực, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Phát huy tốt vai trò của các Đoàn thể và Mặt trận, để xứng đáng là người đại biểu và là công cụ, là chỗ dựa tin cậy cho quần chúng phát huy quyền làm chủ tập thể. Xây dựng bộ máy chính quyền vững mạnh, đủ sức đáp ứng nhiệm vụ quản lý kinh tế- xã hội. Đẩy lùi bệnh quan liêu, trước hết là quan liêu mệnh lệnh, cửa quyền, xa rời quần chúng. Quyết tâm xây dựng Đảng bộ đoàn kết thống nhất, năng động, sáng tạo, gắn bó với quần chúng, với thực tiễntheo quan điểm lấy dân làm gốc và không ngừng phấn đấu để xây dựng Đảng bộ thực sự ngang tầm với những nhiệm vụ mới.
Nhằm đạt được các mục tiêu chủ yếu trên đây, trong những năm tới, phải phấn đấu thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể sau đây:
I. VỀ KINH TẾ- ĐỜI SỐNG:
A.Phát triển sản xuất:
1/ Về sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp:
Phương hướng chính là đẩy mạnh sản xuất theo cơ cấu dệt- chế biến nông sản phẩm- cơ khí- cao su- thủy tinh- da. Lấy năng suất, chất lượng và hiệu quả làm thước đo chủ yếu. Tập trung sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu có chất lượng cao với nhiều mẫu mã mới, hấp dẫn, trước mắt phát triển mạnh sản xuất mũ, giày và may mặc…Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp còn phải nhằm phục vụ thật tốt cho nông nghiệp trên địa bàn.
Tập trung đẩy mạnh sản xuất ngành dệt theo phương châm “mua nguyên liệu bán thành phẩm” hoặc đối lưu tạo nguồn nguyên liệu trong quỹ đạo Nhà nước, nhằm giảm dần tỷ trọng gia công để tăng quỹ hàng hoá. Mặt khác, từng bước đổi mới thiết bị để tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm. Nhanh chóng củng cố, phát triển xí nghiệp hợp doanh ngành dệt của quận.
Phấn đấu 3 năm tới đạt giá trị tổng sản lượng 3,250 tỷ đồng, tốc độ bình quân tăng trên 15%. Tỷ trọng hàng xuất khẩu đạt 12-15% trong giá trị tổng sản lượng tiểu thủ công nghiệp vào năm 1988, tốc độ tăng bình quân 40%. Phát triển thêm nhiều mặt hàng mới và tạo một số mặt hàng chủ lực.
Tạo điều kiện phát triển kinh tế cá thể, kinh tế phụ gia đình theo Quyết định 34 của Ủy ban nhân dân Thành phố, thu hút từ 2.000-2.500 hộ sản xuất.
Có biện pháp tháo gỡ đồng bộ về vốn, tiền mặt giá cả và cân đối vật tư, nguyên liệu, năng lượng…Phải từ các nguồn liên doanh, liên kết kinh tế, xuất nhập khẩu, trao đổi hàng hoá, nhận sản xuấtgia công, nguồn vật tư lo của các cơ sở sản xuất…mà cân đối vật tư, nguyên liệu. Phải tăng cường quản lý thống nhất các nguồn vật tư, nguyên liệu, điều phối kịp thời và hợp lý cho sản xuất và xây dựng cơ bản, trước hết cho những ngành quan trọng và hàng chủ lực có giá trị kinh tế cao. Có kế hoạch sắp xếp hợp lý việc tổ chức cung ứng, bảo đảm đưa vật tư, nguyên liệu đến thẳng cơ sở sản xuất, giảm chi phí lưu thông. Các công ty kinh doanh vật tư phải nhanh chóng cải tiến phương thức kinh doanh, nhằm phục vụ tích cực nhất nhu cầu vật tư, nguyên liệu cho sản xuất trong quận.
Phát huy đúng mức khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất trong những khâu then chốt. Trên cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có và đầu tư mới, hình thành một số khu vực sản xuất với quy mô lớn hơn về những mặt hàng tiêu dùng chủ lực và hàng xuất khẩu có chất lượng cao.
Khẩn trương cải tiếnquản lý theo cơ chế mới, nhân rộng những điển hình tốt trong cải tiến quản lý, nhằm tăng năng suất lao động, tăng chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Chuẩn bị tốt những điều kiện cần thiết để bố trí lại một số ngành sản xuất gây ô nhiễm môi trường (phường 20, 21, 22, 24…).
Đi đôi với phát triển sản xuất, phải triệt để thực hành tiết kiệm ở tất cả mọi khâu, mọi phương diện, từ nguyên vật liệu, năng lượng, thời gian, đến công tác chuẩn bị sản xuất, thi công…Phát động cho được phong trào tiết kiệm cả trong sản xuất và đời sống và là một tiêu chuẩn thi đua trong từng cơ quan, đơn vị. Mỗi cơ quan, đơn vị phải rà soát lại tình hình tiết kiệm và phải xây dựng quy chế tiết kiệm của cơ quan, đơn vị mình. Phấn đấu đạt mức tiết kiệm từ 10-15% đến năm 1988.
2/ Sản xuất nông nghiệp:
a) Phương hướng chính là tập trung phát triển nông nghiệp theo mô hình nông- công- thương- tín dịch vụ- xuất khẩu, trên ba chân rết phát triển chăn nuôi, trồng trọt và ngành nghề. Xác định vị trí chăn nuôi là ngành chính, trong đó, nuôi heo là chủ lực; rau cao cấp là cây trồng chính. Đẩy mạnh sản xuất các loại rau xuất khẩu, heo xuất khẩu, tăng nhanh năng suất cả chăn nuôi, trồng trọt.
Phấn đấu sản xuất các loại rau đạt từ 25-30.000 tấn, tốc độ tăng bình quân 6-8% vào năm 1988. Trong đó, bắp cải xuất khẩu đạt 1000 tấn, tốc độ tăng bình quân từ 14-15%. Phát triển nhanh các loại rau xuất khẩu khác (Bông cải, cải bắp thảo, tiêu, gừng…).
Đưa đàn heo từ 21.000 con hiện nay lên 24.000 con vào năm 1988, tốc độ tăng bình quân từ 8-10%. Phảikhẩn trương đưa phong trào nuôi heo xuất khẩu phát triển liên tục. Chú trọng mở rộng liên kết kinh tế với các địa phương khác để đầu tư trồng trọt tạo nguồn thức ăn gia súc, cùng với tận dụng hết đất đầu thừa, đuôi thẹo của quận. Xây dựng thêm một cơ sở chế biến nhằm đảm bảo một phần quan trọng thức ăn gia súc.
Đầu tư thích đángđể nâng cao hiệu quả hoạt động các nông trường của quận ở Đắc Nông, Duyên Hải.
Khai thác 100% diện tích ao hồ trong năm 1988 đưa chăn nuôi cá lên hàng thứ hai sau heo, hướng đạt trên 300 tấn vào năm 1988. Tiếp tục phát triển nuôi gà ,trâu bò, phát triển mạnh phong trào nuôi bò sữa, phát triển rộng rãi Bioga để giải quyết chất đốt.
Phát triển nhanh mô hình kinh tế tổng hợp ở những vùng nông thôn mới đã định hình (xen canh, sản xuất phụ gia đình, nuôi heo, cá, bò sữa, trồng cây, bảo vệ môi sinh).
Đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi, tăng cường giống mới (bông cải, bắp cải thảo…). Phát huy hiệu quả hoạt động của các tổ khoa học kỹ thuật ở các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất. Củng cố đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật của toàn ngành.
Khẩn trương hoàn chỉnh mạng lưới điện trung và hạ thế phục vụ sản xuất nông nghiệp vào cuối năm nay, kiện toàn hệ thống thuỷ lợi lớn, nhỏ. Xác định đầu tư các trọng điểm (phường 15 và phường 16), khắc phục tình trạng phân tán và không phát huy tốt hiệu quả vốn đầu tư.
Tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý theo cơ chế khoán mới, trên cơ sở tiến hành sơ kết rút kinh nghiệm, cải tiến thường xuyên. Nỗ lực cùng với trên tháo gỡ những khó khăn về chính sách giá cả thu mua, chính sách lương thực…để thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
Tiếp tục đưa nhanh sản xuất tiểu thủ công nghiệp với những ngành nghề thích hợp vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Bằng những biện pháp đồng bộ, trước hết là cải tiến quản lý, tăng năng suất, tăng thu nhập, để thu hút thêm nhiều lao động nông nghiệp vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất.
Xây dựng và triển khai sớm phương án liên kết kinh tế trên địa bàn, nhằm tác động cho nông nghiệp phát triển. Từ nay, trong chương trình kế hoạch của mình, các ban, ngành, nhất là các ngành kinh tế, kỹ thuật, đều phải đề ra nhiệm vụthúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn quận.
3/ Về xây dựng cơ bản, nhà đất, giao thông vận tải:
a). Xây dựng cơ bản: Xác định rõ hướng đầu tư từng năm, trên cơ sở nắm chắc các nguồn vốn. Hướng chủ yếu là đầu tư nâng cấp các công trình hiện có, chỉ đầu tư xây dựng một số công trình trọng điểm, một số yêu cầu then chốt. Cơ cấu đầu tư phải gắn với cơ cấu kinh tế của quận. Phải ưu tiên chủ yếu cho sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu, hàng xuất khẩu và yêu cầu ứng dụng khoa học kỹ thuật của quận và phường. Thực sự coi trọng hiệu quả của vốn đầu tư. Trong xây dựng cơ bản, chú trọng khâu quản lý thi công chặt chẽ, bảo đảm đúng tiến độ và chất lượng cao.
b). Nhà đất, công trình công cộng: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 12 của Thành ủy, chỉ thị 216 của Hội đồng Chính phủ về vấn đề nhà đất. Xây dựng khẩn trương các công trình nhà ở theo quy hoạch. Củng cố khâu mua bán, xét cấp nhà ở đúng chính sách, đúng đối tượng. Nhanh chóng củng cố nhân sự ngành xây dựng- nhà đất, công trình công cộng, cả về quan điểm chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn.
Các phường đẩy mạnh vận động và tổ chức cho nhân dân xây dựng các công trình tu sửa đường sá, nạo vét kênh mương, cống rãnh, bảo đảm tốt vệ sinh công cộng (chú trọng các phường 5, 8, 9, 10, 21, 22, 23, và 24).
c) Giao thông vận tải: Quản lý chặt chẽ các bến bãi, nâng cao năng lực vận tải và công tác duy tu, sửa chữa đường sá do quận quản lý. Cố gắng cùng với thành phố và huy động các công ty, xí nghiệp trung ương và thành phố trên địa bàn tập trung tu sửa tốt các hương lộ 14, 15, đường Lạc Long Quân…Phấn đấu giải tỏa căn bản nạn lấn chiếm lòng lề đường.
B. Tăng cường hoạt động phân phối lưu thông:
1/ Về thương nghiệp, thị trường: Nhiệm vụ cấp bách và thường xuyên hiện nay là phải phấn đấu thiết lập trật tự trong phân phối lưu thông, quản lý thị trường, nghiêm trị bọn phá hoại kinh tế, đầu cơ tích trữ…trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của các đoàn thể quần chúng và các ngành chức năng của sự phối hợp chặt chẽ giữa quận và phường, ít nhất củng khôi phục được tình hình trị trường như trước ngày đổi tiền (tháng 9/1985).
Biện pháp đặc biệt quan trọng là phải tăng cường lực lượng thương nghiệp XHCN đủ sức chi phối thị trường xã hội. Các ngành thương nghiệp phải cải tiến mạnh phương thức kinh doanh, nhắm vào phục vụ thiết thực cho sản xuất và đời sống người lao động, cho việc ổn định thị trường, giá cả. Các ngành thương nghiệp phải vươn lên nắm cho được nhu cầu của sản xuất trong quận, nhu cầu thị trường trong và ngoài quận, tác động cho sản xuất từ đầu vào, để nắm được đầu ra, tạo quỹ hàng hoá phong phú, mở rộng liên doanh, liên kết với các cơ sở sản xuất và các địa phương trở lại phục vụ cho sản xuất và đời sống.
Phải chú trọng nắm những mặt hàng thiết yếu bán theo giá bảo đảm kinh doanh cho cán bộ, công nhân viên và người lao động. Cải tiến phương thức phân phối, đưa hàng trực tiếp đến tay người tiêu dùng, tăng cường văn minh thương nghiệp. Các ngành thương nghiệp phải tăng cường quản lý nắm chắc các chợ, nhất là chợ Tân Bình và các chợ khác do quận quản lý.
Tiến hành giáo dục, kiểm tra chặt chẽ và uốn nắn thường xuyên, kịp thời đối với các hoạt động kinh doanh thương nhghiệp, đưa các hoạt động kinh doanh thương nghiệp nhanh chóng đi vào quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Nghiêm cấm việc mua bán lòng vòng, tranh mua tranh bán làm đẩy giá lên, không chấp hành nghiêm kỷ luật giá. Kiên quyết đấu tranh chống quan điểm kinh doanh đơn thuần, chạy theo doanh số, lợi nhuận, quan điểm cục bộ, bản vị trong các hoạt động kinh doanh thương nghiệp. Sớm nghiên cứu có phương án sắp xếp lại các công ty ngành hàng của quận cho hợp lý, khắc phục tốt tình trạng tổ chức cồng kềnh, hoạt động dẫm chân, trồng tréo nhau.
Phấn đấu đến năm 1988, nắm được đại bộ phận bán buôn và phần lớn bán lẻ, tỷ trọng bán lẻ chiếm từ 60-65% so với thị trường xã hội. Các đơn vị kinh doanh vật tư phải chuyển hướng phục vụ tích cực cho nhu cầu sản xuất, phấn đấu đạt tỷ trọng từ 70- 80% trong doanh số bán của mỗi đơn vị.
Tăng cường hơn nữa hoạt động của ngành lương thực, phấn đấu bảo đảm chất lượng, định lượng phân phối theo qui định và bảo đảm có nguồn dự trữ. Đẩy mạnh công tác chế biến lương thực, hoa màu. Phát triển mạnh mạng lưới dịch vụ quốc doanh phục vụ sản xuất và đời sống, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và doanh số phục vụ. Mở rộng mạng lưới dịch vụ ở các phường nông nghiệp. Phấn đấu đưa doanh số phục vụ chiếm 20-25% vào năm 1987 và 25-30% vào năm 1988 trong tổng doanh số của ngành dịch vụ. Ngành ăn uống phải xác định rõ mục tiêu phục vụ người lao động làm chính. Phải bảo đảm nâng cao chất lượng các bếp ăn tập thể của cán bộ, công nhân viên, có phần bù lỗ hợp lý, đồng thời tăng cường phục vụ những bữa ăn rẽ tiền cho người lao động. Kiên quyết đóng cửa những cửa hàng tư nhân không lành mạnh. Các ngành dịch vụ và ăn uống trong khi phát triển mạng lưới phục vụ theo hướng trên đây, phải gắn liền với việc cải tạo, sắp xếp hợp lý mạng lưới dịch vụ, ăn uống tư nhân. Dịch vụ và ăn uống quốc doanh phấn đấu và bảo đảm trên 50% nhu cầu xã hội.
2/ Về xuất nhập khẩu:
Phải tạo nên chuyển biến mới, toàn diện trong hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng thực sự đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu tại quận. Bằng đòn bẩy kinh tế khuyến khích các phường, các cơ quan, đơn vị và cơ sở sản xuất làm hàng xuất khẩu. Tập trung đầu tư mạnh cho sản xuất hàng tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp để xuất. Mặt khác, mở rộng liên kết sản xuất với các địa phương khác để có thêm nguồn hàng xuất khẩu. Phải chủ động tạo cho được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của quận.
Đẩy mạnh vận động kiều hối trên cơ sở kêu gọi lòng yêu nước, gắn bó với quê hương, Tổ quốc, ích nước lợi nhà để tạo nguồn kiều hối tương ứng với khả năng vốn có. Quản lý, sử dụng chặt chẽ và có hiệu quả ngoại tệ, bảo đảm quay nhanh đồng vốn. Cơ cấu hàng nhận phải bảo đảm chủ yếu là vật tư nguyên liệu cho sản xuất. Có phương án huy động kiều hối dưới dạng ngoại tệ và vật tư, nguyên liệu, thiết bị theo chủ trương chung của thành phố. Kim ngạch xuất khẩu trong 3 năm tới đạt ít nhất 8 triệuUSD/R.
3/ Ngân hàng, tài chánh, giá cả phải chuyển mạnh theo cơ chế quản lý mới, vươn lên góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, ổn định tình hình kinh tế xã hội, chú trọng bảo đảm quyền tự chủ cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Ngân hàng phải nhanh chóng chuyển sang phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thông qua hoạt động tín dụng đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, bảo đảm mang lại hiệu quả cao của đồng tiền. Huy động vốn nhàn rỗi trong nhân dân với lãi xuất qui định. Cải tiến nhanh thủ tục, không gây phiền hà cho các cơ sở sản xuất và quần chúng.
Vấn đề cấp bách là phải nhanh chóng lập lại trật tự lưu thông tiền mặt, mở rộng hình thức thanh toán bằng chuyển khoản. Kết hợp nhiều biện pháp để huy động tiền mặt từ các nguồn, tạo thế chủ động cân đối tiền tệ.Ưu tiên tiền mặt cho thu mua hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông sản thực phẩm, hàng xuất khẩu, nguyên liệu cho sản xuất và thu mua sản phẩm ở khu vực kinh tế gia đình.
Khẩn trương nắm chắc lại các nguồn vốn từ cơ sở đến quận. Khai thác hết các nguồn thu, thực hiện thu đủ, đúng, kịp thời. Tập trung các nguồn thu vào ngân sách, sử dụng có kế hoạch và theo kế hoạch chung. Chống thất thu, nhất là thất thu thuế công, thương nghiệp. Thực hiện có hiệu quả việc điều tiết thu nhập giữa các khu vực. Quản lý chặt chẽ trong chi tiêu, kiên quyết giảm hẳn những khoản chi chưa thực sự cần thiết.
Nhanh chóng tăng cường kỷ luật tài chánh, xây dựng một chế độ tài chánh lành mạnh ngay từ đơn vị sản xuất, kinh doanh. Phấn đấu cân đối được ngân sách quận từ năm 1987, từng bước có tích luỹ, đáp ứng tốt yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và những mục tiêu kinh tế xã hội của quận.
C. Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường quan hệ sản xuất mới:
Tiến hành thường xuyên, liên tục công tác cải tạo XHCN. Kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo công, nông nghiệp và thương nghiệp, nhằm vào mục tiêu là phát triển sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân lao động và ổn định thị trường, giá cả. Phương hướng quan trọng là tăng cường các lực lượng xã hội chủ nghĩa, làm cho kinh tế quốc doanh và tập thể chiếm vị trí chủ đạo, chi phối trong nền kinh tế.
Trong công nghiệp, tiếp tục củng cố, hoàn thiện và mở rộng các cơ sở sản xuất quốc doanh, hợp doanh hiện có, cả về tổ chức, quản lý và kỹ thuật. Chuẩn bị tốt các phương án kinh tế- kỹ thuật để tiến đến xây dựng mới 5 cơ sở hợp doanh, đưa một số cơ sở hiện có thuộc ngành cơ khí, cao su lên quốc doanh và xây dựng mới một số cơ sở quốc doanh may mặc, phấn đấu phát triển kinh tế quốc doanh, chiếm tỷ trọng từ 12-15% trong giá trị tổng sản lượng tiểu, thủ công nghiệp vào năm 1988.
Tập trung củng cố, nâng chất lượng các hợp tác xã, tổ sản xuất hiện có và xây dựng một số hợp tác xã, tổ sản xuất mới trong điều kiện thật cần thiết, đưa từ 20-25% hợp tác xã lên bậc cao. Đi sâu kiểm tra, giám sát, sớm xoá bỏ quan hệ chủ thợ trong khu vực sản xuất tập thể. Củng cố quản lý chặt chẽ các cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể hiện có, đồng thời khuyến khích mở rộng sản xuất theo Quyết định 34 của Ủy ban nhân dân Thành phố. Tăng cường nắm hàng tự sản tự tiêu (80-85%) trước hết đối với những hàng thiết yếu.
Trong nông nghiệp, tập trung củng cố, nâng cao chất lượng toàn diện của các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất theo mô hình đã xác định. Phấn đấu phát triển từ 6 hợp tác xã hiện nay lên mười hợp tác xã vào năm 1988 và củng cố 3 tập đoàn sản xuất còn lại. Từng bước phát triển bộ mặt nông thôn mới.
Trong thương nghiệp, nhanh chóng tạo nên một bước chuyển biến cơ bản trong cải tạo, sắp xếp lại trât tự trên thị trường xã hội. Đối với những người buôn bán nhỏ và vừa, phải sắp xếp, cải tạo, sử dụng dưới nhiều hình thức, đồng thời phải thu hẹp lại, chuyển dần một bộ phận sang sản xuất, dịch vụ. Thường xuyên tiến hành kiểm tra đăng ký kinh doanh, bảo đảm kinh doanh đúng qui định. Đình chỉ ngay những hộ kinh doanh trá hình, làm ăn phi pháp. Thường xuyên sơ, tổng kết rút kinh nghiệm để củng cố, nâng cao hiệu quả thực sự của các cửa hàng hợp tác kinh doanh các loại.
D. Chăm lo đời sống:
Bên cạnh những biện pháp cơ bản là thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng cường hoạt động phân phối lưu thông, vươn lên làm chủ thị trường, cần phải thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ khác để chăm lo tốt đời sống cán bộ, công nhân viên và nhân dân lao động.
Giải quyết việc làm: đang là vấn đề bức bách, là trách nhiệm của các cấp, các ngành. Từng cơ sở phải hết sức chủ động giải quyết việc làm bằng phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề, phát triển các hoạt động dịch vụ. Đẩy mạnh phát triển ngành nghề trong các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Tập trung củng cố, mở rộng hoạt động của các nông trường của quận để thu hút lao động. Bằng mọi biện pháp, tận dụng mọi nguồn thu hút lao động, phấn đấu giải quyết từ 60-70% lao động không việc làm trong các năm. Đặc biệt giải quyết tốt việc làm cho các đối tượng diện chính sách.
Phấn đấu đảm bảo tiền lương thực tế cán bộ công nhân viên, tăng quỹ hàng hoá thiết yếu, bán giá bảo đảm kinh doanh trực tiếp qua căn tin, kịp thời bù giá, trợ cấp theo đúng chế độ, chú trọng trợ cấp các gia đình khó khăn. Có biện pháp tích cực điều phối thu nhập giữa các ngành, đơn vị cố gắng bảo đảm cơm trưa cho cán bộ công nhân viên khu vực hành chính sự nghiệp.
Tích cực phát triển sản xuất phụ ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, tạo điều kiện ưu tiên cho cán bộ, công nhân viên sản xuất theo Quyết định 34 và các chính sách của UBND Thành phố. Phân công kết nghĩa giữa các cơ sở sản xuất, kinh doanh với các cơ quan hành chính sự nghiệp khác, để hỗ trợ tạo điều kiện sản xuất phụ. Đẩy mạnh sản xuất phụ gia đình ở khu nông nghiệp.
Tăng cường nhiều biện pháp chăm lo đời sống các gia đình chính sách bằng phát lương đúng kỳ, đưa hàng về tận nhà và tạo điều kiện sản xuất phụ gia đình. Các phường nắm chắc số hộ thiếu ăn, không việc làm, nhà ở lụp xụp…để có biện pháp giải quyết kịp thời.
Đ. Đổi mới cơ chế quản lý:
Khẩn trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo Nghị quyết 6, 7, 8 của Trung ương, Nghị quyết 28, Nghị quyết (dự thảo) 306 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6. Trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phải thực sự lấy kế hoạch làm trung tâm, lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo chủ yếu trong hoạt động của các đơn vị. Phải bảo đảm lãnh đạo tập trung thống nhất, phối hợp đồng bộ, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Trước hết phải đổi mới phong cách quản lý, điều hành của Ủy ban nhân dân quận và các phòng, ban chức năng, kiên quyết sắp xếp tổ chức lại, giảm hẳn các khâu trung gian để không gây trở ngại cho cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Phải cải tiến nội dung giao chỉ tiêu kế hoạch, cung ứng vật tư, giá cả, tài chánh, tín dụng ngân hàng, nhằm đảm bảo cho các đơn vị thực sự chủ động trong việc phát triển sản xuất, đồng thời để đơn vị tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh tế, về nghĩa vụ nộp ngân sách, chăm lo đời sống công nhân, viên chức. Tiếp tục thực hiện phân cấp cho phường theo đúng những qui định của Thành phố, khắc phục những mặt trì trệ của các ngành cấp quận trong việc phân cấp cho phường.
Tăng cường quản lý, kiểm tra chặt chẽ, chống lãng phí, chống thất thoát tài chánh, vật tư, hàng hóa…Công đoàn và Đoàn Thanh niên phải làm nòng cốt tích cực đấu tranh chống tiêu cực, hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đồng thời với đổi mới cơ chế quản lý, phải củng cố tổ chức và cán bộ, giúp cho đội ngũ cán bộ chuyển hẳn từ nhận thức đến hành động về cách làm ăn mới, có hiệu quả cao. Khẩn trương thực hiện thu gọn đầu mối các ngành, các bộ phận và tinh giảm bộ máy gián tiếp.
E. Về công tác khoa học-kỹ thuật:
Tất cả các ngành, các cơ sở phải thực sự đưa khoa học kỹ thuật đúng với vị trí then chốt của nó trong 3 cuộc cách mạng, đối với mọi hoạt động của ngành, cơ sở mình phải gắn khoa học kỹ thuật với kế hoạch kinh tế- xã hội trên toàn quận và từng cơ sở.
Trước hết phải coi trọng việc tổ chức sử dụng tốt các lực lượng khoa học, kỹ thuật trên địa bàn quận và trong từng ngành, từng phường. Vận dụng chính sách khuyến khích thỏa đáng, để thu hút các lực lượng khoa học, kỹ thuật. Tập trung nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ cho sản xuất đời sống và cải tiến quản lý. Đầu tư 2% ngân sách quận cho hoạt động khoa học kỹ thuật.
Tổ chức sự kết hợp một cách hữu cơ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Chú trọng đưa khoa học quản lý xuống phường và cơ sở sản xuất kinh doanh, giúp cán bộ lãnh đạo và quản lý ở cơ sở từng bước tiếp thu và vận dụng tốt.
Củng cố phát triển trung tâm dạy nghề của quận và hệ thống dạy nghề của các cơ sở, để vừa đào tạo một đội ngũ công nhân kỹ thuật giỏi, vừa phổ biến nghề nghiệp cho đông đảo nhân dân, nhất là thanh niên, phục vụ tốt cơ cấu kinh tế- xã hội của quận.
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào quần chúng tiến quân vào mặt trận khoa học và kỹ thuật. Khuyến khích các sáng kiến, các ý kiến về mọi lĩnh vực. Coi trọng công tác phổ biến khoa học và kỹ thuật phổ thông, tổng kết và áp dụng rộng rãi các kinh nghiệm và điển hình tiên tiến.
II. HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ-XÃ HỘI:
Phải đẩy mạnh các hoạt động văn hoá xã hội gắn liền với nội dung kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế và trực tiếp xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.
1/. Về giáo dục:
Không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục cả về văn hoá, chính trị và đạo đức nhằm mục tiêu hình thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ. Tiến hành tốt cải cách giáo dục vòng hai cấp một và vòng một cấp hai. Đẩy mạnh giáo dục kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp, đảm bảo tất cả các trường cấp 2 đều có cơ sở hướng nghiệp cho học sinh, học sinh lớp 9 ra trường có thể làm một nghề cụ thể.
Xây dựng hoàn chỉnh trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp và mạng lưới phân xưởng ở các trường học, đảm bảo hai chức năng giáo dục và sản xuất, đồng thời góp phần cải thiện đời sống trong ngành. Đầu tư xây dựng một trường cấp hai thuộc khu vực phường 9 và phường 10. Xây dựng mới 50 phòng học, cải tạo và xây dựng mẫu giáo điểm và 7 công trình sửa chữa năm 1988.
Cố gắng đảm bảo các chi tiêu huy động ra lớp phổ thông cơ sở 100%, mẫu giáo 80%, nhà trẻ 20%. Hoàn chỉnh phổ cập cấp 1 trong nhân dân, cấp 2 trong cán bộ, công nhân viên, và cấp 3 trong cán bộ chủ chốt vào cuối năm 1988. Đầu tư để thu nhận 75% học sinh tốt nghiệp cấp 2 và cấp 3 tại quận. Nâng chất lượng các lớp phổ cập phổ thông cơ sở ban đêm.
Tăng cường củng cố đội ngũ giáo viên. Hoàn thành công tác tiêu chuần hoá 75% giáo viên và 100% cán bộ quản lý. Đảm bảo đủ số giáo viên chính trị. Phấn đấu để 2/3 các trường phổ thông cơ sở có tổ Đảng, các trường phổ thông cơ sở khác và mẫu giáo, nhà trẻ đều có đảng viên. Nâng cao hơn nữa chất lượng đoàn viên.
Chăm lo thiết thực đời sống cán bộ, giáo viên, đảm bảo có thu nhập thêm hàng tháng và các chế độ chính sách quy định. Có chính sách khen thưởng thoả đáng cho những tập thể và cá nhân dạy giỏi, quản lý giỏi. Các ngành kinh tế và các đơn vị sản xuất kinh doanh chịu trách nhiệm hỗ trợ để các trường phổ thông, mẫu giáo, nhà trẻ tổ chức sản xuất, nâng cao đời sống cán bộ, giáo viên. Mặt khác, bản thân ngành giáo dục phải hết sức chủ động tổ chức sản xuấtđể phục vụ cho yêu cầu giảng dạy, học tập và tăng thu trong nội ngành.
2/ Văn hoá văn nghệ:
Các hoạt động văn hoá- văn nghệ phải theo hướng tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân.
Huy động mọi phương tiện và bằng nhiều hình thức hoạt động phong phú, tuyên truyền kết quả Đại hội Đảng các cấp, đặc biệt là Đại hội VI của Đảng, truyền đến quần chúng quyết tâm của Đảng đổi mới toàn diện, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ, yếu kém hiện nay.
Tập trung nhiệm vụ xây dựng nếp sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, ngoài những yêu cầu cơ bản của con người mới cần bổ sung một nội dung rất quan trọng là phải trung thực, rèn luyện tính nói thẳng, nói thật, không dấu diếm, che đậy, chống lối xuê xoa, e ngại hoạt nịnh hót, cơ hội. Đồng thời phải tập trung chống các tệ nạn xã hội trong cưới xin, ma chay, giảm hẳn tệ nạn mê tín dị đoan, cờ bạc, ăn xin.
Về giáo dục truyền thống, quyết tâm quy hoạch xây dựng khu truyền thống địa đạo Phú Thọ Hòa. Hoàn chỉnh bản đồ địa chỉ đỏ, sưu tầm đầy đủ các sự kiện, tư liệu lịch sử truyền thống, bảo quản và xây dựng thêm các bia, đài kỷ niệm. Các phường thực hiện xong việc viết sử truyền thống ở mỗi phường.
Tăng cường cơ sở vật chất phục vụ văn hóa, chú trọng nâng cấp các công trình hiện có. Tiếp tục chăm lo đời sống văn hoá ở cơ sơ, bảo đảm mỗi phường có một nhà văn hóa, một thư viện (từ 2.000 cuốn sách trở lên). Ở khu phố, tổ dân phố có điểm văn hóa, điểm đọc sách báo, có một người trong Ban điều hành Tổ dân phố phụ trách công tác văn hóa. Thực hiện đủ kinh phí phúc lợi văn hoá tính trên đầu người dân theo quy định từng năm.
Đẩy mạnh phục vụ chiếu phim, văn nghệ chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp đối với cơ sở, xây dựng từ 40-45% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa mới.
Bộ máy ngành văn hóa cần được tổ chức lại theo hướng chia làm 3 mảng: Văn hoá văn nghệ, thông tin tuyên truyền và hoạt động kinh tế trong văn hóa. Cán bộ ngành phải được tiêu chuẩn hóa theo quy chế của Bộ. Mở một lớp tại chức hàng năm cho đội ngũ cán bộ văn hóa phường.
3/ Chăm sóc sức khoẻ của nhân dân:
Đẩy mạnh hơn nữa phong trào vệ sinh phòng bệnh khắp các cơ sở. Giải quyết tốt tình trạng vệ sinh các phường, cơ sở sản xuất, trường học, tạo thành ý thức tự giác trong nhân dân. Phát triển mạnh phong trào 5 dứt điểm ở cấp phường, phấn đấu 24/26 phường đạt 5 dứt điểm với chất lượng cao. Đẩy mạnh phong trào sinh đẻ có kế hoạch, hạ thấp tỷ lệ tăng dân số còn 1,4%.
Phát triển phong trào trồng và chế biến cây thuốc nam rộng khắp, nhất là ở các phường nông nghiệp. Thực hiện kết hợp tốt giữa đông tây y. Phấn đấu tự lực cao về thuốc chữa bệnh.
Đưa công tác chăm sóc sức khoẻ phụ nữ, trẻ sơ sinh và chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho trẻ em vào nề nếp. Ngành y tế kết hợp với các đoàn thể, nhất là phụ nữ, đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục vệ sinh, y học trong nhân dân. Nâng cao hoạt động của Hội chữ thập đỏ, phát triển mỗi hộ gia đình một hội viên. Tăng cường thêm mạng lưới y tế đều khắp các khu vực.
Phát triển sâu rộng phong trào thể dục thể thao các cơ sở, chú trọng phong trào thể dục buổi ở trường học, cơ quan, bảo đảm 60% thanh niên tham gia. Thực hiện thắng lợi các” Hội khoẻ Phù đổng” trong từng năm. Đẩy mạnh phong trào dưỡng sinh ở người lớn, phấn đấu nâng chất lượng thi đấu ở các bộ môn thể dục thể thao, khắc phục mức giảm sút hiện nay, cố gắng xây dựng một cơ sở thể dục thể thao tổng hợp của quận theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
4/ Thương binh xã hội:
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào đền ơn đáp nghĩa với nhiều hình thức sinh động, phong phú. Chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần cho người nghỉ hưu, thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, quân nhân phục viên, động viên lực lượng này theo khả năng và điều kiện của mình tham gia công tác xã hội, làm nòng cốt vận động, giáo dục các tầng lớp quần chúng khác tham gia các phong trào hành động cách mạng. Phải thực hiện đầy đủ các chính sách, chế độ qui định, chấm dứt gây phiền hà trong phân phối hàng tiêu dùng và giải quyết tiền trợ cấp cho các đối tượng trên. Ưu tiên bố trí việc làm cho thương binh và quân nhân phục viên. Tạo điều kiện cho những người nghỉ hưu tham gia sản xuất, dịch vụ hoặc những việc làm thích hợp.
5/ Công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em phải thể hiện thực sự là trách nhiệm của toàn Đảng bộ và nhân dân, của các ngành, các cấp. Phải ưu tiên chăm sóc sức khoẻ, ăn mặc, học hành, vui chơi giải trí cho các em, nhất là các em diện gia đình chính sách, gia đình nghèo, thất học. Chú trọng tổ chức và giáo dục tốt số trẻ em hư. Có biện pháp kết hợp tốt 3 môi trường giáo dục trên từng địa bàn phường. Cần nhanh chóng nhân rộng mô hình dạy nghề và tổ chức việc làm ngoài giờ cho các em.
III. VỀ AN NINH QUỐC PHÒNG:
Trong những năm tới tiếp tục nâng cao cảnh giác cách mạng thường xuyên trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, góp phần tích cực đập tan kiểu chiến tranh nhiều mặt của địch, gĩư vững an ninh chính trị, bảo vệ trật tự an toàn trên các địa bàn, góp phần xứng đáng vào công việc xây dựng bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
1/ Gĩư vững an ninh chính trị và trật tự xã hội:
Phát huy sức mạnh cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”, phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc rộng khắp, trên cơ sở đó củng cố hoàn thiện công tác quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, nắm hộ, nắm người gắn liền với xây dựng đơn vị an toàn (phấn đấu đến cuối năm 1986 đạt 20/26 phường an toàn, 2/3 cơ quan xí nghiệp an toàn và đến năm 1988 hầu hết các phường phải đạt an toàn từ 70-80% cơ quan xí nghiệp an toàn, không còn đơn vị yếu kém).
Thông qua định kỳ nhận xét nhân khẩu trên địa bàn dân cư 6 tháng một lần mà phát hiện, củng cố, phát huy nhân tố tích cực của nhân dân trong việc tham gia xây dựng và quản lý xã hội, giải quyết những hiện tượng tiêu cực, chủ động phòng chống vi phạm, tội phạm, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương. Phải nắm cho được 100% hộ khẩu và hầu hết nhân khẩu trên địa bàn quận.
Nhiệm vụ quan trọng bức thiết hiện nay là phải phát động mạnh mẽ phong trào quần chúng kết hợp chặt chẽ với các ban ngành chức năng, đẩy mạnh bảo vệ kinh tế, trước hết là bảo vệ sản xuất, cải tạo quản lý thị trường. Đi sâu đánh trúng bọn đầu cơ, buôn lậu, phá rối thị trường, phá hoại kinh tế. Phấn đấu giảm hẳn các vụ lãng phí, ăn cắp vật tư, hàng hoá của Nhà nước.
Trong tổ chức thực hịên, cấp ủy Đảng phải chú ý lãnh đạo, chỉ đạo công tác an ninh trật tự, xây dựng bổ sung kế hoạch trong từng thời gian, định kỳ sơ kết chỉ đạo chặt an ninh cơ sở phường, cơ quan, xí nghiệp. Đẩy mạnh thực hiện các nghị quyết liên tịch (Công an, Quân đội, Đoàn thanh niên, Công đoàn) nhằm huy động lực lượng tổng hợp trên toàn quận.
Đẩy mạnh phong trào hành động cách mạng theo 6 điều Bác Hồ dạy, xây dựng lực lượng công an vững mạnh toàn diện, chăm lo cải thiện đời sống tinh thần và vật chất cán bộ chiến sĩ công an, đảm bảo nâng cao phẩm chất và năng lực công tác của toàn lực lượng, giảm tỷ lệ sai phạm kỷ luật từ 1,03% xuống 0,5%, xây dựng lực lượng công an thực sự là công cụ tin cậy của Đảng, là con em ưu tú của nhân dân.
2/ Công tác quân sự địa phương:
Theo quan điểm “ Toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”, “ Toàn quân xây dựng Tổ quốc và bảo vệ đất nước” triển khai thực hiện chặt chẽ việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc trên địa bàn quận và từng đơn vị cơ sở.
Tăng cường giáo dục quốc phòng và luật nghĩa vụ quân sự trong nhân dân và thanh niên. Phấn đấu đảm bảo chỉ tiêu tuyển quân hàng năm với chất lượng cao. Vận động tốt phong trào thực hiện nghĩa vụ xây dựng kinh tế quốc phòng.
Tiếp tục thực hiện tốt công tác hậu phương quân đội. Chăm lo giải quyết đầy đủ chính sách đối với những gia đình có con em đi nghĩa vụ quân sự. Phong trào hậu phương quân đội phải trở thành phong trào rộng rãi và thường xuyên. Phấn đấu giải quyết 95-100% bộ đội phục viên, xuất ngũ có việc làm ổn định. Nâng cao hiệu quả hoạt động kết nghĩa của quận với một số đơn vị bộ đội và với các đơn vị bạn Campuchia. Đặc biệt, mở rộng quan hệ kết nghĩa về mọi mặt đối với quận 7/1, tích cực góp phần thắt chặt tình đoàn kết hữu nghị với bạn.
Củng cố cơ quan quân sự quận và phường đủ số lượng, mạnh về chất lượng để đủ sức làm tham mưu cho cấp ủy chỉ đạo công tác quân sự địa phương. Đặc biệt, nâng cao chất lượng phường đội trưởng, bảo đảm được hầu hết cơ cấu cấp ủy phường trong nhiệm kỳ sau. Củng cố vững chắc các lực lượng tự vệ ở phường và cơ quan xí nghiệp, đảm bảo đạt tỷ lệ 10% dân số. Quản lý chặt chẽ các lực lượng dự bịvà nắm chắc phương tiện chiến kỹ thuật để sẵn sàng huy động 100% khi cần thiết. Có nội dung và chương trình huấn luyện quân sự, chính trị cho các loại lực lượng. Hết sức chú trọng chăm lo giải quyết đời sống cho lực lượng tự vệ tập trung.
Bằng các biện pháp đồng bộ, kết hợp chặt chẽ cả về kinh tế, xã hội, về giáo dục, tổ chức chặt chẽ các lực lượng quần chúng và củng cố phát huy các công cụ chuyên chính vô sản, sớm hình thành một thế trận mới, một pháo đài chiến đấu vững chắc trên toàn địa bàn.
3/ Công tác pháp chế xã hội chủ nghĩa:
Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục cho mọi tổ chức, mọi người hiểu rõ và tuân theo pháp luật. Thường xuyên kiểm tra, nâng cao nề nếp tuân theo pháp luật, có kế hoạch phòng ngừa vi phạm và đấu tranh chống các loại tội phạm có hiệu quả cao hơn.
Củng cố, kiện toàn tổ chức và tăng cường cán bộ có phẩm chất, năng lực, có kiến thức pháp lý và quản lý kinh tế cho các ngành Thanh tra, Viện kiểm sát, Tư pháp, Toà án, Trọng tài kinh tế. Củng cố tổ chức và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thanh tra ở cơ sở. Phải bảo đảm đúng pháp luật, đúng chính sách trong việc khám xét, bắt giữ, điều tra và truy tố xét xử trước pháp luật.
IV. ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC VẬNĐỘNG QUẦN CHÚNG:
Trong những năm tới, phải quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân, lấy dân làm gốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phải xác định rõ công tác vận động quần chúng có vị trí quan trọng đặc biệt, là trách nhiệm của cả hệ thống chuyên chính vô sản.
1/ Quận ủy và các cấp ủy cơ sở phải tăng cường đúng mức sự lãnh đạo đối với các đoàn thề. Mặt trận, với công tác vận động quần chúng. Trước hết, Quận ủy và các cấp ủy cơ sở phải xác định rõ nội dung công tác vận động quần chúng trong từng thời gian, gắn liền với việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội, phải quán triệt và vận dụng tốt các chủ trương, chính sách, nhất là chủ trương, chính sách kinh tế đúng đắn và chăm lo tốt đời sống quần chúng; mặt khác, phải quan tâm đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ đảng viên có phẩm chất và năng lực phụ trách công tác dân vận, mặt trận và các đoàn thể. Mỗi chi bộ, đảng viên phải hiểu rõ đời sống, tư tưởng, và nguyện vọng của quần chúng trong phạm vi mình hoạt động, phải chăm lo giáo dục chính trị, tư tưởng cho quần chúng và bằng hành động gương mẫu của mình mà vận động, thiết phục quần chúng. Quận ủy và các cấp ủy cơ sở thường xuyên kiểm tra, sơ kết rút kinh nghiệm công tác vận độngquần chúng có đạo Thiên chúa.
2/ Các cơ quan chính quyền, các cơ sở sản xuất, kinh doanh đều phải lấy việc vận động, thuyết phục quần chúng làm chính trong việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật Nhà nước. Tất cả các cơ quan, đơn vị đều phải xây dựng cơ chế làm chủ tập thể ở cơ quan, đơn vị mình. Cán bộ, nhân viên Nhà nước, nhất là những người thường xuyên tiếp xúc quần chúng, phải thực sự kính trọng quần chúng và biết vận động quần chúng. Kiên quyết chống tệ nạn quan liêu cửa quyền, ức hiếp gây phiền hà cho quần chúng. Các cơ quan chính quyền từ quận đến cơ sở phải thực sự coi trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho các đoàn thể và Mặt trận hoạt động.
3/Các đoàn thể và mặt trận phải tăng cường mọi hoạt động nhằm nêu cao vai trò là công cụ, là chỗ dựa tin cậy cho quần chúng phát huy quyền làm chủ tập thể. Nhiệm vụ chủ yếu của các đoàn thể mặt trận là giáo dục lòng yêu nước, từng bước nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa trong quần chúng, nhằm tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh phong trào hành động cách mạng một cách tự giáccủa quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị của quận và cơ sở, đấu tranh thực hiện công bằng xã hội, lối sốngcó văn hóa, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nội dung chủ yếu của công tác vận động quấn chúng của các đoàn thể, mặt trận là chủ động tham gia xây dựng, triển khai thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế- xã hội. Phương thức hoạt động chủ yếu của đoàn thể, Mặt trận là bàn bạc, trao đổi, giáo dục, thuyết phục quần chúng.
Các phong trào quần chúng đều phải mang tính hiệu quả thiết thực, trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Để thực hiện tốt các yêu cầu trên đây, điều quan trọng là phải thường xuyên chăm lo củng cố, bồi dưỡng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của bộ máy các đoàn thể, mặt trận, từ Ban chấp hành cho đến đội ngũ cán bộ cốt cán. Mặt khác, các cơ quan Đảng, chính quyền quận và cơ sở cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đoàn thể và mặt trận hoạt động, trong đó chú trọng chăm lo tốt đời sống tinh thần lẫn vật chất cho cán bộ đoàn thể, mặt trận.
a) Công đoàn phải tăng cường giáo dục, nâng cao giác ngộ giai cấp công nhân, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống tiêu cực trong từng cơ quan, đơn vị và ngoài xã hội, tham gia xây dựng và thực hiện cơ chế quản lý kinh tế mới, đạt năng suất cao, chất lượng tốt, giá thành hạ; phát động phong trào thi đua liên tục và đều khắp, thực hiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội.
Công đoàn phải tích cực bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động, vận động công nhân viên chức và người lao động tương trợ giúp nhau về đời sống. Trong 3 năm tới, công đoàn phải đảm bảo 100% công nhân viên chức học xong hai chương trình chính trị phổ thông. Tập trung củng cố các tổ chức công đoàn cơ sở, phát triển trên 95% công nhân viên chức vào tổ chức công đoàn và 80% thợ thủ công vào Hội lao động hợp tác. Phấn đấu có trên 80% công đoàn cơ sở, tổ công đoàn vững mạnh và từ năm 1987 trở đi, phấn đấu không còn tổ chức công đoàn, Hội lao động hợp tác yếu.
b) Hội nông dân tập thể: tích cực củng cố, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, gắn với phát triển lực lượng sản xuất, góp phần đưa nông nghiệp của quận từng bước lên sản xuất lớn. Trước mắt, tập trung củng cố các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, đẩy mạnh cải tiến cơ chế quản lý ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển theo đúng phương hướng sản xuất của quận đã được xác định, kết hợp với việc xây dựng nếp sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, thuyết phục bà con nông dân tự giác đi vào làm ăn tập thể, sớm khắc phục tình trạng thiếu lao động của các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất hiện nay. Tập trung củng cố các tổ chức Hội ở cơ sở, phấn đấu đạt 70% đơn vị vững mạnh, tập hợp 85% nông dân vào Hội.
c) Hội Liên hiệp thanh niên có trách nhiệm tập hợp, giáo dục các tầng lớp thanh niên ngoài đoàn bằng nhiều hình thức sinh hoạt phong phú, dìu dắt thanh niên đi theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, xây dựng cho thanh niên một lối sống lành mạnh, có văn hóa, có đạo đức, có trách nhiệm với xã hội, có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
Trong 3 năm tới, phấn đấu tập hợp từ 70-80% thanh niên vào các tổ chức thích hợp. Các tổ chức thanh niên phải ngày càng nâng cao chất lượng hoạt động. Quan tâm đúng mức việc giáo dục, tập hợp số thanh niên chậm tiến.
d) Hội Liên hiệp phụ nữ:
Tích cực tổ chức vận động chị em phụ nữ tham gia mạnh mẽ phong trào người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh hơn nữa phong trào đấu tranh quản lý thị trường, giá cả, tăng cường giáo dục tiểu thương và cổ động các loại hình hợp tác kinh doanh. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, Hội cần phối hợp với các cơ quan chính quyền thực hiện tốt Chỉ thị 44 Ban Bí thư về công tác cán bộ nữ và Nghị quyết 176A của Hội đồng Bộ trưởng về chính sách đối với lao động nữ.
Đi sâu củng cố tổ chức Hội ở phường, chợ và các cơ sở khác. Phấn đấu đưa 21/26 chi hội phường đạt tiêu chuẩn tiên tiến.
đ) Ủy Ban mặt trận Tổ quốc: tăng cường củng cố, mở rộng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết các tôn giáo, các dân tộc, thường xuyên phối hợp chặt chẽ hoạt động giữa các tổ chức thành viên trong Mặt trận. Tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị 17 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, đẩy mạnh giáo dục, động viên các tầng lớp, giai cấp, tôn giáo, dân tộc, trí thức…tích cực góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế- xã hội. Tập trung đi sâu vận động bà con lao động có đạo Thiên chúa, kiên trì tuyên truyền giáo dục, vận động và tổ chức phát triển sản xuất, chăm lo đời sống, mặt khác, tranh thủ tốt tầng lớp trên và thực hiện đúng chính sách tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng. Tiếp tục vận động quần chúng gốc Hoa tăng cường đoàn kết, huy động tay nghề, vốn liếng đẩy mạnh sản xuất, chăm lo đời sống, đồng thời từng bước khắc phục những phong tục, tập quán không lành mạnh. Chăm lo phát triển phong trào phụ lão xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mở rộng các nội dung, hình thức hoạt động phong phú, phù hợp với phụ lão. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc quận và cơ sở tăng cường phối hợp hoạt động chặt chẽ với chính quyền dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, đẩy mạnh phong trào chăm lo tốt đời sống nhân dân trên địa bàn quận.
B. Tăng cường củng cố chính quyền:
a) Tăng cường hoạt động của Hội đồng nhân dân quận và phường xứng đáng với vị trí là cơ quan quyền lực Nhà nước, là công cụ chủ yếu của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xứng đáng là Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại biểu Hộiđồng nhân dân phải thường xuyên và định kỳ tiếp xúc với dân, giải thích vận động nhân dân thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; lắng nghe và nói lên ý kiến của dân, cùng với các ngành chức năng chăm lo lợi ích của dân. Thường xuyên củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các bộ phận chuyên môn của Hội đồng Nhân dân.
b) Củng cố bộ máy chính quyền cấp quận và cơ sở : Trước hết phải tập trung đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức bộ máy, tăng cường tính quần chúng và tính cách mạng, khắc phụcnhững biểu hiện của bệnh quan liêu xa rời quần chúng.
Ủy ban nhân dân quận và phường, trước hết là Thường trực Ủy Ban phải bảo đảm triển khai thực hịên kịp thời các nghị quyết, chủ trương của Đảng và Nhà nước cấp trên. Ngay trong năm nay, Ủy Ban nhân dân các phòng, ban ở quận và phường phải xây dựng cho được quy chế hoạt động cụ thể. Khẩn trương cải tiến sắp xếp các phòng, ban của quận và phường bảo đảm gọn nhẹ đầu mối và hoạt động có hiệu quả cao. Cải tiến, bãi bỏ những thủ tục không cần thiết, gây phiền hà cho dân. Tổ chức tốt công tác tiếp dân và giải quyết đơn từ của dân kịp thời. Khắc phục triệt để tệ quan liêu cửa quyền đối với dân.
c) Riêng đối với cấp phường, ngoài những yêu cầu, nhiệm vụ nêu trên, cần phải tiếp tục nắm vững và thực hiện tích cực vững chắc Quyết định 30 của Thành ủy và Quyết định 123 của Ủy Ban nhân dân thành phố, nhằm xây dựng phường vững mạnh.
Yêu cầu rất quan trọng hiện nay đối với cấp phường là phải khẩn trương xây dựng phường là cấp kế hoạch và ngân sách. Muốn vậy, một mặt phải tăng cường phân công, phân cấp cho phường, tạo cho phường khai thác, phát huy hết tiềm năng kinh tế, chăm lo đời sống nhân dân và mở rộng liên kết kinh tế với các địa phương khác, mặt khác, bản thân phường phải hết sức chủ động củng cố bộ máy tổ chức và cán bộ, nâng cao trình độ, năng lực quản lý tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế phường.
Trong việc phân công, phân cấp cho phường, phải tránh cả hai khuynh hướng: Một là các ban ngành cấp quận trì trệ, quan liêu cửa quyền đối với phường, thiếu quan tâm hỗ trợ những phường yếu, khó khăn, hai là các phường cục bộ bản vị, tự do tản mạn, thiếu tôn trọng quy chế của ngành dọc.
Về ngân sách phường, phấn đấu đến năm 1988, có 18/26 phường tự cân đối được ngân sách.
V. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN:
A.Về xây dựng Đảng: Những nhiệm vụ cụ thể về công tác xâydựng Đảng trong 3 năm tới:
1/Nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng trong thời gian tới là làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân quán triệt nội dung Nghị quyết Đại hội 6, nhất là quan điểm về đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất cách mạng, khơi dậy ý chí cách mạng của quần chúng. Công tác tư tưởng phải đổi mới về mọi mặt, cả về nội dung và hình thức, tổ chức và phương pháp, con người và phương tiện, trước hết là nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức Đảng.
2/ Củng cố, kiện toàn các cấp ủy Đảng từ quận đến cơ sở:
Các cấp ủy Đảng phải trưởng thành hơn nửa về năng lực lãnh đạo toàn diện, nhất là về lãnh đạo kinh tế, lãnh đạo bộ máy chính quyền, về công tác vận động quần chúng.
Để phát huy hiệu quả lãnh đạo của cấp ủy, trước hết cấp ủy phải xây dựng được các nghị quyết sát đúng, kịp thời và nâng cao trình độ tổ chức thực hiện. Cấp ủy phải phát huy cách làm việc tập thể dân chủ, giữ gìn nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt của cấp ủy, phải có quy chế làm việc chặt chẽ, và định kỳ sơ kết rút kinh nghiệm việc thực hiện quy chế.
Phải xây dựng, kiện toàn các cấp ủy Đảng thành tập thể lãnh đạo có phẩm chất và năng lực, đoàn kết nhất trí, gương mẫu về đạo đức và giữ gìn kỷ cương của Đảng. Những cấp ủy có tình hình mất đoàn kết nội bộ, phải kịp thời kiểm điểm và xử lý nghiêm về mặt tổ chức.
Củng cố, kiện toàn cấp ủy phải gắng liền với việc củng cố xây dựng bộ máy chính quyền và đoàn thể vững mạnh. Phải khắc phục tình trạng cấp ủy buông lơi lãnh đạo, bao biện, dẫm chân, hoặc chính quyền tuỳ tiện, thiếu báo cáo thỉnh thị cấp ủy.
Trong từng thời gian, cần mở hội nghị chuyên đề về xây dựng Đảng, về công tác tư tưởng, công tác tổ chức, cán bộ…để tổng kết rút kinh nghiệm bồi dưỡng cho các đồng chí Bí thư và cấp ủy Đảng.
Các cơ quan Tổ chức, Tuyên huấn, Kiểm tra, Văn phòng, Trường Đảng v.v…Cần phải được củng cố, tăng cường cán bộ có phẩm chất và năng lực, đồng thời phải có quy chế làm việc chặt chẽ, giúp cho công tác tham mưu về xây dựng Đảng có chất lượng cao.
3/ Xây dựng cơ sở Đảng vững mạnh:
Tập trung sức xây dựng cơ sở Đảng vững mạnh trong 3 năm tới là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng. Công tác xây dựng Đảng ở cơ sở phải được đổi mới một cách toàn diện. Phấn đấu trong 3 năm tới đạt từ 35-40% đơn vị vững mạnh, riêng khối phường phải chiếm từ 45-50%. Ra sức củng cố các đơn vị cơ sở, không còn đơn vị yếu.
Nhiệm vụ, yêu cầu xây dựng Đảng đối với từng loại cơ sở như sau :
a)Đối với phường:
Phát huy vai trò lãnh đạo toàn diện, nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo kinh tế để xây dựng phường thực sự là cấp kế hoạch và ngân sách, đồng thời phải quan tâm đầy đủ đến công tác vận động quần chúng. Phải tăng cường công tác kiểm tra và quản lý kinh tế, hạn chế tối đa những tiêu cực trong sản xuất và kinh doanh.
Qui hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phường theo hướng trẻ hoá và phát triển người tại chỗ. Cán bộ chủ chốt, nhất là Bí thư, chủ tịch phải có trình độ chính trị trung cấp và văn hoá cấp III.
Có kế hoạch phát triển đảng viên, xoá trắng các hợp tác xã sản xuất, hợp tác xã mua bán, trường học, nhà trẻ, mẫu giáo và 1/3 tổ hợp sản xuất. Rất coi trọng phát triển đảng viên mới, nhưng bảo đảm chất lượng. Phải bố trí đảng viên gắn chặt với quần chúng, với sản xuất kinh doanh.
Tăng cường đoàn kết trong nội bộ cấp ủy, trong chi bộ. Phát huy khả năng đóng góp của các đồng chí hưu trí, mất sức, kịp thời giúp đỡ các đồng chí gặp nhiều khó khăn về đời sống.
b)Đối với công ty, xí nghiệp:
Tập trung xây dựng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về công tác Đảng và xây dựng “bộ tứ” vững mạnh, đồng bộ thực hiện đúng nguyên tắc Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân lao động làm chủ tập thể và chế độ một thủ trưởng trong quản lý kinh tế. Kiên quyết khắc phục khuynh hướng buông lơi, tách công tác xây dựng Đảng với việc hoàn thành kế hoạch của đơn vị.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, chi bộ đối với sản xuất, kinh doanh của từng đơn vị. Không buông lơi, khoán trắng cho Giám đốc, nhưng cũng tránh bao biện, dẫm chân vào chức trách của Giám đốc. Cần quan tâm kiểm tra và quản lý chặt chẽ khâu quản lý sản xuất kinh doanh.
Phải linh hoạt trong vận dụng cơ chế quản lý, song phải lãnh đạo chặt chẽ, chống tuỳ tiện, làm ăn dối trá kinh doanh đơn thuần, chống tiêu cực trong cán bộ đảng viên.
Đặc biệt coi trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý về quan điểm chính trị và quản lý kinh tế. Đẩy mạnh phát triển Đảng viên ở các phân xưởng, cửa hàng, trạm trại. Đặc biệt quan tâm chăm sóc, lãnh đạo tốt Công đoàn và Đoàn Thanh niên.
c) Đối với khối nội chính:
Thường xuyên nâng cao chất lượng sinh hoạt của đảng bộ, chi bộ. Đẩy mạnh công tác chính trị tư tưởng với nội dung cụ thể, sát hợp. Hết sức coi trọng công tác quản lý đảng viên, bảo đảm cho đội ngũ đảng viên ở từng ngành phải có phẩm chất đạo đức tốt và thành thạo chuyên môn nghiệp vụ. Quan tâm chăm lo tốt đời sống, thực hiện cho tốt chính sách, đồng thời đấu tranh ngăn ngừa sai phạm trong nội bộ và ngoài quần chúng.
d) Đối với các cơ quan hành chánh sự nghiệp:
Quan tâm giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, công nhân viên, bảo đảm nắm vững tình hình và nhiệm vụ, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và thực hiện tốt nề nếp giữ gìn kỷ luật, quản lý đảng viên. Mỗi cơ quan đơn vị phải quan tâm chăm sóc xây dựng “Bộ tứ” thực sự vững mạnh, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Phải làm tốt hơn nữa công tác bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản, bảo vệ bí mật của Đảng và Nhà nước. Củng cố lực lượng tự vệ cơ quan. Cần phải có kế hoạch tổ chức sản xuất tập thể và gia đình để từng bước ổn định đời sống cho cán bộ, công nhân viên.
4/ Rèn luyện, xây dựng đôi ngũ cán bộ, đảng viên:
a) Công tác đảng viên:
Nhiệm vụ chủ yếu sắp tới là xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh, tiên phong, gương mẫu, có sức chiến đấu cao, thực hiện đúng 15 điều quy định của Ban Bí thư đối với đảng viên.
Phải thường xuyên làm tốt công tác quản lý đảng viên. Chi bộ, cấp ủy phải quản lý chặt chẽ đảng viên ở chi bộ, cơ quan và cả nơi cư trú của đảng viên, đảng viên thoái hóa, biến chất, tham ô hối lộ, cửa quyền, ức hiếp quần chúng v.v… phải được xử lý kỷ luật nghiêm minh và có chế độ thông báo kết quả kiểm tra, xử lý đối với các vụ cần thiết để giáo dục, ngăn ngừa và làm thông suốt trong nội bộ Đảng. Mỗi năm tiến hành kiểm tra tư cách đảng viên, thực hiện tốt việc phân loại đảng viên và kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không đủ tư cách.
Trong 3 năm tới, phấn đấu phát triển từ 800-900 đảng viên mới, trong đó khối sản xuất chiếm 15-20%, giáo dục 12-15%, nông nghiệp 5%, quần chúng có đạo 2-3%, quần chúng gốc Hoa 1% và từ 60-70% đảng viên trẻ. 35-40% đảng viên nữ. Tất cả bộ phận thường trực của ban chấp hành đoàn thể ở cơ sở phải có đảng viên. Bảo đảm chất lượng đảng viên mới, không chạy theo số lượng. Chú ý giáo dục nâng cao trình độ giác ngộ về Đảng, về giai cấp, về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cho đảng viên dự bị và đối tượng Đảng.
b) Công tác cán bộ:
Trước hết, cần tập trung bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt hiện có, tạo điều kiện cho cán bộ trưởng thành nhanh hơn về chính trị, tư tưởng, đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, chuyển biến kịp với sự đổi mới về cơ chế quản lý. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt Chỉ thị 44 của Ban Bí thư về công tác cán bộ nữ, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ nữ học tập, công tác.
Việc lựa chọn, bố trí, cất nhắc, đề bạt, nâng cấp, nâng lương cho cán bộ v.v… đều phải đảm bảo nguyên tắc tập thể, đúng chính sách của Đảng. Phải khắc phục thái độ hẹp hòi, bảo thủ, cảm tình thiên vị.
Có chương trình học tập chính trị, văn hoá và quản lý kinh tế cho cán bộ. Mở thêm một lớp chính trị kinh tế trung cấp tại chức trong năm 1987-1988, lớp quản lý kinh tế ngắn ngày và củng cố trường bổ túc văn hoá. Cán bộ chủ chốt cấp quận và cơ sở phải có trình độ chính trị trung cấp và văn hoá cấp III, cán bộ từng ngành phải được đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành.
Nửa năm, cấp ủy cần kiểm điểm nhận xét, đánh giá mặt mạnh mặt yếu của cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý, để có chương trình giáo dục và rèn luyện. Mỗi năm phải tổ chức kiểm điểm cán bộ chủ chốt, thực hiện tự phê bình, phê bình trong các cấp ủy và các ban ngành, đoàn thể từ quận đến cơ sở.
5/ Công tác kiểm tra và bảo vệ Đảng:
Các cấp ủy phải nắm vững tăng cường chỉ đạo công tác kiểm tra, coi đây là một chức năng chủ yếu của Đảng, là một khâu quan trọng của tổ chức thực hiện, là một biện pháp hiệu nghiệm để khắc phục bệnh quan liêu. Từng thời gian phải có chương trình kiểm tra việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy và kiểm tra xử lý nghiêm minh kịp thời mọi vi phạm điều lệ, vi phạm kỷ luật Đảng của cán bộ đảng viên. Bảo đảm giữ gìn 4 nề nếp kỷ luật ở cơ sở. Củng cố Ủy ban kiểm tra Quận ủy và các ban kiểm tra cơ sở. Có kế hoạch tập huấn bồi dưỡng về nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa kiểm tra của Đảng với thanh tra của Nhà nước.
Nghiêm chỉnh thực hiện Chỉ thị 32 của Ban bí thư về công tác bảo vệ Đảng, giáo dục nâng cao cảnh giác cách mạng, giữ gìn bí mật, bảo vệ nội bộ và làm trong sạch tổ chức, nhất là khâu phát triển Đảng và tuyển sinh, tuyển dụng.
VI. XÂY DỰNG ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH:
Nắm vững và chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 26 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảngđối với công tác thanh niên. Các cấp ủy phải trực tiếp chỉ đạo, dành thời giờ tương xứng đầu tư chăm sóc Đoàn, đưa công tác Đoàn và phong trào thanh niên lên ngang tầm với nhiệm vụ mới.
Trước hết phải tăng cường công tác giáo dục lý tưởng cộng sản, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nâng cao trình độ chính trị, văn hoá kiến thức kinh tế và khoa học kỹ thuật cho thanh niên.
Đoàn phải bám sát sự phát triển kinh tế xã hội mà giáo dục và tổ chức tập hợp thanh niên, đẩy mạnh phong trào hành động cách mạng sâu rộng, thực hiện vai trò xung kích trên các mặt trận, các yêu cầu trọng yếu nhất. Trong hành động cách mạng, cần chú trọng đẩy mạnh thường xuyên phong trào “Toàn Đoàn tham gia xây dựng Đảng”, “Toàn Đoàn tham gia chống rtiêu cực” trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, phát động cho được dũng khí cách mạng, đề cao tinh thần nói thẳng, nói thật trong toàn thể đoàn viên. Trong tất cả phong trào, đều phải chú trọng đến hiệu quả thiết thực, tránh phô trương hình thức không cần thiết.
Chú trọng nâng cao chất lượng đoàn viên. Kết nạp đoàn viên phải coi trọng chất lượng, 3 năm tới phát triển 5.500-6.000 đoàn viên, hướng tập trung ở các khu vực trọng điểm. Củng cố nhanh chất lựợng đoàn viên hiện có, kiên quyết đưa ra khỏi Đoàn những đoàn viên yếu kém.
Phải tập trung sức củng cố, xây dựng Đoàn cơ sở đạt vững mạnh và khá. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của những cơ sở Đoàn ở khối phường và sản xuất, kinh doanh đang còn nhiều mặt hạn chế. Quan tâm củng cố, nâng cao chất lượng Đoàn, Đội ở trường học gắn với việc nâng cao chất lượng dạy và học. Ba năm tới, xây dựng củng cố tổ chức Đoàn đạt từ 50-60% cơ sở vững mạnh.
Nắm chắc nguồn cán bộ trẻ từ Đoàn Thanh niên, nhất là số thành phần công nhân. Có kế hoạch bồi dưỡng, xây dựng qui hoạch cán bộĐoàn từ cơ sở và chuẩn bị đội ngũ cán bộ trẻ cho Đảng và Nhà nước. Chăm sóc bồi dưỡng, ổn định đội ngũ cán bộ thường trực đoàn ở cơ sở, phấn đấu tất cả Bí thư đoàn cơ sở đều là đảng viên. Khi xét công nhận Đảng bộ cơ sở vững mạnh thì ở Đảng bộ đó tổ chức Đoàn Thanh niên phải đạt tiêu chuẩn vững mạnh.
Đoàn phải tăng cường chỉ đạo và phân công cán bộ có năng lực để chăm lo phong trào thiếu nhi và hoạt động của Đội thiếu nhi tiền phong Hồ Chí Minh và Đội thiếu nhi Hồ Chí Minh.
XX
X
Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trên đây, điều kiện quyết định là phải có sự đổi mới, không những đổi mới tư duy kinh tế, mà phải đổi mới tư duy trong mọi lĩnh vực khác. Đó là ý chí , trách nhiệm và là nguyện vọng sâu xa của Đảng bộ và nhân dân ta. Phát huy truyền thống cách mạng, truyền thống đoàn kết nhất trí của Đảng bộ và nhân dân ta, đề cao tinh thần Đảng tin dân, dân tin Đảng, Đại hội kêu gọi toàn thể đảng viên, đoàn viên, các tầng lớp nhân dân hãy dấy lên phong trào thi đua hành động cách mạng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng bộ và nhân dân ta vững bước tiến lên.
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ
QUÂN TÂN BÌNH LẦN THỨ 4
DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ QUẬN KHOÁ IV
1.TRƯƠNG MỸ HOA- Bí thư
2.NGUYỄN CHÍ PHƯƠNG- Phó BT- thường trực
3.LÊ THỊ VÂN- Phó BT- Chủ tịch UBND Quận
4.TRẦN KIM CÚC- UVTV- Trưởng Ban Tổ chức
5.PHẠM VĂN HOÀ-UVTV-Chủ nhiện UB Kiểm tra
6.PHẠM VĂN HOAN (3 THẮNG)-UVTV-Trưởng Công an Quận
7.HUỲNH VĂN KHÁNH (3 KHOA)-UVTV-Trưởng ban Tuyên huấn
8.LÊ THANH NIÊN-UVTV-Chỉ huy trưởng Quân sự
9.TRẦN NGỌC QUẾ (10 AN)-UVTV-Phó Chủ tịch TT UBND Quận
10.NGUYỄN THỊ MINH TÂM-UVTV-Phó Chủ tịch UBND Quận
11.PHẠM PHÚ TÂM-UVTV-Bí thư Quận đoàn
12.VŨ PHƯƠNG THUỶ- UVTV-Chủ tịch Phường 24
13.LÂM VĂN TIẾP (2 AN)-UVTV-PT Dân Vận Mặt trận
14.LÊ VĂN AN- Bí thư Đảng ủy Phường 6
15.TRẦN TẤN BA-Bí thư Đảng ủy Phường 1
16.TRẦN THỊ BÍCH-Phó Chủ nhiệm UB Thanh tra NN
17.PHẠM BÌNH-Chủ nhiệm Liên hiệp HTX
18.DƯƠNG VĂN CỤA-Bí thư Đảng ủy Phường 17
19.ĐẶNG VĂN CƯỜNG-Phó ban Tổ chức Quận ủy
20.ĐÀO THỊ MỸ DUNG-Hội trưởng Phụ nữ Quận
21.NGUYỄN THỊ NGỌC HÀ-Trưởng phòng Giáo dục
22.NGUYỄN TẤN LỘC-Phó chủ tịch UBND Quận
23.LÊ MINH KIỆM-Chánh án TAND
24.MAI THANH TÙNG-GĐ Công ty Thương nghiệp HTX
25.ĐÀO THỊ CẨM NHUNG- Phó thư ký LHCĐ
26.TRẦN QUỐC DŨNG- Viện trưởng Viện KSND
27. VÕ CHÍ THANH- Giám đốc XN chế biến lâm sản
28. THÁI VĂN RÊ- Bí thư Đảng ủy Phường 15
29. NGUYỄN LỘC- Phó chủ tịch UBND Quận
30. NGUYỄN THẾ THÔNG- Bí thư Đảng ủy Phường 3
31. PHẠM THỊ XUÂN- Bí thư Đảng ủy Phường 25
32. NGUYỄN XUÂN HÙNG- Giám đốc C.ty cung ứng XNK
33. NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN- Phó GĐ Ngân Hàng
34. ĐOÀN THỊ THU- Phó Công An Quận
35. ĐẶNG VĂN HOÀ- Bí thư Đảng ủy Phường 21
36. HOÀNG TRÁNG- GĐ c.ty Thương nghiệp TH
37.NGUYỄN VĂN HIỆU- Phụ trách tôn giáo
38. DƯƠNG TẤN THANH- Bí thư Đảng ủy Phường 20
39. LÂM XUÂN ĐIỀN- Trưởng phòng Y tế
ỦY VIÊN DỰ KHUYẾT
40. LÊ THỊ THU NGUYỆT- Cửa hàng trưởng lương thực TT
41. HUỲNH TẤN PHẨM- Chủ nhiệm HTX Tân Thắng
42. NGUYỄN LƯƠNG- Giám đốc XN QD cơ khí
43. LÊ THANH TRUYỀN- Phó ban Tuyên huấn
44. BÙI ĐỨC TRÁNG- Trưởng phòng Văn hoá TT
45. NGUYỄN VĂN KHƯƠNG - Bí thư Đảng ủy Phường 19