Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Nghị quyết đại hội đại biểu quận Tân Bình lần thứ V

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

*

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ

QUẬN TB LẦN THỨ V

Tân Bình, ngày 12/4/1989

Đại hội đại biểu Đảng bộ quận Tân Bình lần thứ V họp trong hai ngày 11 và 12/4/1989, sau khi Ban Chấp hành Đảng bộ quận Tân Bình nhiệm kỳ IV trình bày bản báo cáo tình hình và nhiệm vụ, bản báo cáo kiểm điểm Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ IV và ý kiến chỉ đạo của Ban Thường vụ Thành ủy, Đại hội đã thảo luận và quyết nghị.

PHẦN I :

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH

I. TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ :

1/ Sản xuất tiểu thủ công nghiệp-công nghiệp :

Trong nhiệm kỳ qua, ngành tiểu thủ công nghiệp-công nghiệp quận Tân Bình luôn hoàn thành vượt mức chỉ tiêu tổng sản lượng được giao : năm 1987 đạt 2,896 tỷ đồng, vượt 2,9%KH, năm 1988 đạt 3,256 tỷ đồng, vượt 5%KH. Ngành dệt là ngành mũi nhọn của quận, tuy gặp rất nhiều khó khăn trong hai năm qua vẫn hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch và chiếm tỷ trọng 53,29% giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp (43 triệu mét). Năng lực sản xuất mới được tăng cường đáng kể (tập trong ở ngành may mặc, da, cao su...).

Trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp-công nghiệp, có nhiều mặt thiếu sót do lãnh đạo, quản lý và cónhiều vấn đề lớn đặt ra :

- Ngành dệt là ngành mũi nhọn của quận, tuy hai năm 1987, 1988 vẫn chiếm tỷ trọng lớn, nhưng từ cuối năm 1988 đến nay, đã và đang lâm vào tình trạng khó khăn gay gắt, chưa tìm ra lối thoát.

- Ngành cơ khí được xác định là ngành chủ lực của quận nhưng trong nhiệm kỳ qua vẫn chỉ sản xuất những mặt hàng đơn điệu, chất lượng không được cải tiến, máy móc thiết bị không được trang bị thêm, vì thế, tuy chưa lâm vào tình trạng như ngành dệt, nhưngcũng chưa thể vươn lên trong tương lai gần.

Các ngành da, thủy tinh, may mặc, đan thêu, mỹ nghệ sừng... cũng chậm phát triển, trong đó, có một số ngành nghề truyền thống bị mai một dần (da, đan thêu...).

- Hiệu quả hoạt động của nhiều xí nghiệp quốc doanh, hợp doanh còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém khi chuyển từ chế độ bao cấp qua hạch toán kinh tế đầy đủ. Các hình thức làm ăn tập thể (hợp tác xã, tổ sản xuất) bộc lộ nhiều mặt thiếu sót, hạn chế và trong chừng mực nhất định, đã trở thành lực cản của sản xuất.

- Thử thách lớn nhất của sản xuất tiểu thủ công nghiệp-công nghiệp trong nhiệm kỳ qua là phải đáp ứng yêu cầu của thị trường. Điều đó đòi hỏi phải thực hiện nhiều biện pháp về quản lý, kỹ thuật, tiết kiệm... để có hàng hoá chất lượng tốt, đẹp, giá cả phải chăng. Nhưng khả năng đáp ứng các yêu cầu đó ở nhiều cơ sở sản xuất, nhiều ngành nghề còn thấp.

2/ Sản xuất nông nghiệp :

So với nhiệm kỳ trước, sản xuất nông nghiệp có một số mặt tiến bộ : một số cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp được tăng cường (nhà kho, sân phơi, điện giếng...). Việc phát triển thêm ngành nghề thủ công đã tạo điều kiện tăng thêm thu nhập người lao động. Sản lượng và năng suất có mức tăng lên. Một số cây trồng mới được thử nghiệm. Các đơn vị sản xuất, kinh doanh nông, lâm nghiệp ngoài địa bàn quận, trong đó các đơn vị kinh tế của lực lượng thanh niên xung phong, vừa bước đầu hoạt động có hiệu quả kinh tế, vừa góp phần giải quyết một số yêu cầu về xã hội. Hình thức khoán hộ bước đầu được nông dân đồng tình, góp phần giữ được hình thức hợp tác xã, tập đoàn sản xuất.

Nhưng nhìn chung, sản xuất-kinh doanh hiệu quả thấp mà nguyên nhân chủ quan là chưa tập trung nghiên cứu toàn diện về nông nghiệp để có quy hoạch tổng thể cho vùng ven theo nhịp độ đô thị hoá, thiếu các chính sách và thực hiện các biện pháp cần thiết để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển và cải thiện đời sống nhân dân vùng ven.

3/ Về hoạt động thương nghiệp, dịch vụ, xuất nhập khẩu :

Với việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, bộ mặt thương nghiệp của quận có bước phát triển khá phong phú về mạng lưới, mặt hàng. Nhiều nhà cửa được cải tạo, tận dụng đưa vào kinh doanh thương nghiệp. Đã hình thành một số khu vực thương nghiệp trung tâm, tiện lợi cho người tiêu dùng. Ngoài ngành thương nghiệp thuần túy, ngành kinh doanh vàng bạc bắt đầu được tổ chức với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, đã có tác động nhất định đến việc kềm giữ giá vàng và tạo được nguồn thu mới vào ngân sách mà trước đây, do chưa có chủ trương công nhận việc kinh doanh vàng bạc, đã bị thất thu. Hoạt động xuất nhập khẩu có mức được tăng cường, năm nào cũng hoàn thành vượt mức chỉ tiêu nộp ngân sách và chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng nguồn thu vào ngân sách (năm 1988 chiếm 23% tổng nguồn thu vào ngân sách). Qua hoạt động xuất nhập khẩu, đã bước đầu tiếp nhận đầu tư vào nước ngoài vào khu vực sản xuất kinh doanh, huy động một số lượng kiều hối để phục vụ các yêu cầu khác. Hoạt động dịch vụ cũng được sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và có nhiều mặt tác dụng tích cực như hoạt động thương nghiệp. Dịch vụ quốc doanh từng bước phát triển về mạng lưới, ngành nghề bằng cách tạo được nguồn vốn từ nhiều thành phần kinh tế, sử dụng tay nghề, nghiên cứu đáp ứng thị trường, thị hiếu.

Trong lĩnh vực thương nghiệp, dịch vụ xuất nhập khẩu có những khuyết điểm, tồn tại :

Thành phần tư nhân, cá thể đi vào kinh doanh thương nghiệp nhiều hơn sản xuất. Các đơn vị thương nghiệp, dịch vụ quốc doanh (trong đó có dịch vụ ăn uống) bộc lộ sự yếu kém trước thị trường có nhiều thành phần kinh tế : vòng quay chậm, hiệu quả đồng vốn thấp, cơ sở vật chất được giao chưa được sử dụng đúng mức, thái độ phục vụ thua kém tư nhân. Thương nghiệp HTX ngày càng lúng túng trong việc giải quyết vấn đề vốn, quy mô hoạt động và đối tượng phục vụ, nhất là ởHTX các phường. Nhìn chung, thương nghiệp XHCN và dịch vụ quốc doanh thua kém các thành phần kinh tế cùng ngành nghề nhiều mặt.

Công tác xuất nhập khẩu chậm vươn lên tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của quận, thiếu căn cơ : chưa có nguồn hàng xuất khẩu ổn định, chưa tạo được mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chưa huy động được nhiều kiều hối, chưa gắn với sản xuất và ngược lại. Kim ngạch xuất khẩu đạt thấp (năm 1988 bình quân đầu người chỉ đạt 14,54 rúp-USD/năm.

4/ Công tác thu thuế, tài chánh, ngân hàng và kế hoạch :

Hai năm qua, thuế vẫn là nguồn vốn thu quan trọng nhất vào ngân sách (năm 1988 chiếm tỷ trọng 68%). Nguồn thu thuế ngày một tăng. Tình trạng thất thu khá phổ biến, nguyên nhân là do không nắm được doanh thu, không làm hết số hộ chịu thuế, thất thu ở các đối tượng hợp tác kinh doanh, sử dụng tay nghề, do một số cán bộ nhân viên ngành thuế có tiêu cực... Việc vận dụng chính sách thuế chưa khuyến khích sản xuất phát triển.

Công tác tài chánh có bước đổi mới theo hướng chuyển qua hạch toán kinh doanh, khai thác nhiều nguồn thu để thu vào ngân sách, chú ý sử dụng ngân sách có hiệu quả nhất... Tuy nhiên, các nguồn phải thu chưa được thu vào ngân sách được đầy đủ và kịp thời. Việc giám sát sử dụng đồng vốn và các qũy ở các cơ sở sản xuất kinh doanh chưa được thực hiện tốt, gây ra thất thu và lãng phí. Việc xác định giá trị tài sản cố định chậm được thực hiện, vừa làm cho ngân sách bị thất thu, vừa không kiểm soát được hạch toán thực ở các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Ngân sách luôn bị mất cân đối, thu không đủ chi, thiếu vốn cấp cho các đơn vị sản xuất kinh doanh và không đáp ứng đầy đủ, kịp thời các yêu cầu chi hành chính sự nghiệp và thực hiện các chính sách xã hội.

Hoạt động ngân hàng có nhiều mặt tích cực hơn so với thời kỳ bao cấp, rõ nét nhất là trong quan hệ với khách hàng, bước đầu đã chuyển qua kinh doanh. Tuy nhiên, ngân hàng luôn ở tình trạng thiếu tiền mặt và thiếu cả nguồn cho vay tín dụng. Tình trạng bất bình đẳng với khách hàng vẫn chưa được chấm dứt. Tình trạng khó khăn của ngân hàng trong việc cấp vốn và tình trạng khó khăn tiền mặt và vốn tín dụng của ngân hàng làm cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh thiếu vốn gay gắt.

Loại hình HTX tín dụng ra đời và trong đó, có một số HTX hoạt động có hiệu quả : huy động được một phần tiền nhàn rỗi trong nhân dân, góp phần giải quyết khó khăn về vốn và tiền mặt cho các thành phần kinh tế, kể cả kinh tế quốc doanh.

Công tác kế hoạch có cố gắng chuyển hướng bảo đảm cho cơ sở có quyền chủ động sản xuất, kinh doanh. Diện chỉ tiêu pháp lệnh đã được thu hẹp. Cùng với công tác tài chánh, công tác kế hoạch có khuyết điểm là chưa kiểm tra kiểm soát hiệu quả thực của các đơn vị sản xuất, kinh doanh.

5/ Lĩnh vực xây dựng cơ bản, nhà đất, công trình công cộng :

Về thực hiện kế hoạch xây dựng cơ bản trong nhiệm kỳ qua đã thể hiện một số quan điểm đổi mới về cơ cấu và hướng đầu tư.

Trước hết là đã tập trung đầu tư cho khu vực sản xuất vật chất (chiếm tỷ trọng 60%). Kế đến là đầu tư cho các công trình phi sản xuất vật chất (chiếm tỷ trọng 40%).

Để giải quyết vấn đề nhà ở, quận đã cấp đất cho gần 500 hộ để cất nhà ở và xây dựng 200 căn nhà mới bán cho cán bộ công nhân viên và nhân dân.

Một số công trình công cộng mới được xây dựng. Trật tự lòng lề đường bước đầu được khôi phục. Ngành giao thông vận tải đã chuyển qua hạch toán và hoạt động bước đầu có hiệu quả.

Trong các lĩnh vực trên còn nhiều vấn đề đáng quan tâm. Chất lượng công trình nhìn chung còn thấp. Một số công trình xây dựng mới chậm phát huy hiệu quả, đường sá, cống rãnh tiếp tục xuống cấp. Việc sử dụng số nhà thuộc Nhà nước quản lý còn nhiều lãng phí. Việc cấp đất cất nhà, xây dựng mới thiếu quy hoạch.

Nhìn chung, trong nhiệm kỳ qua, trong lĩnh vực kinh tế các chỉ tiêu cơ bản đều hoàn thành. Đó là kết quả sự nỗ lực rất lớn của cấp ủy, chính quyền, các ngành, các cấp và người lao động trong điều kiện bất ổn định chung về kinh tế. Nhưng so với yêu cầu trong lĩnh vực này, nổi lên nhiều vấn đề lớn : sản xuất kinh doanh đều bấp bênh, hiệu quả thấp, tiêu cực kinh tế nhiều, đời sống cán bộ công nhân viên, các đối tượng chính sách và một bộ phận nhân dân lao động làm ăn chân chính vẫn rất chật vật. Số cán bộ được phân công làm kinh tế biểu lộ nhiều mặt yếu kém. Trong lãnh đạo, Đảng bộ vẫn chưa thật quán triệt quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá, chưa tạo điều kiện phát huy đầy đủ sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế và vai trò của khoa học kỹ thuật.

II. TRONG LĨNH VỰC XÃ HỘI :

Trong nhiệm kỳ qua, đã có 13.800 người được giải quyết việc làm, trong đó, 62% được giải quyết việc làm ở khu vực ngoài quốc doanh. Hiện nay vẫn còn trên 12.000 người chưa có việc làm, trong đó có nhiềungười là bộ đội xuất ngũ, thanh niên xung phong. Khoảng gần 200 cán bộ công nhân viên dôi ra do tinh giảm biên chế chưa được giải quyết.

Ngoài một bộ phận nhân dân do có sự giúp đỡ về kinh tế của thân nhân ở nước ngoài, một số người buôn bán tương đối lớn và một số ít người có thu nhập bằng nguồn thu bất chính là có đời sống tương đối ổn định, trong đó có một số ít khá giả, còn đại bộ phận nhân dân, nhất là người lao động nghèo, CBCNV hành chính sự nghiệp và các đối tượng chính sách còn gặp rất nhiều khó khăn.

- Việc chăm sóc sức khoẻ của nhân dân trong 02 năm qua được tăng cường. Nhưng, công tác phòng bệnh chưa được quan tâm đúng mức. Chất lượng điều trị chưa cao. Việc giữ gìn vệ sinh chưa được quan tâm. Cơ sở vật chất phục vụ cho việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân tiếp tục xuống cấp, vệ sinh môi trường chưa tốt.

- Các phong trào thể dục thể thao có mức phát triển ở trường học, cơ quan, phụ lão và một số đội chuyên nghiệp nhưng nhìn chung, phong trào chưa đều, chưa mạnh, chưa mang tính quần chúng rộng rãi.

- Công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em chưa được quan tâm thường xuyên, hiệu quả còn thấp. Trẻ em chưa ngoan có xu hướng phát triển, trẻ em suy dinh dưỡng ở các nhà trẻ, mẫu giáo khá đông (37%).

- Trong 02 niên học qua, công tác giáo dục đã tạo được chuyển biến bước đầu trên cả 3 hệ phổ thông cơ sở, bổ túc văn hoá và giáo dục mầm non. Ngoài ra, đã bước đầu kết hợp giáo dục văn hoá với giáo dục hướng nghiệp, giáo dục quốc phòng, nhiều trường đã tổ chức được các cơ sở sản xuất, từng bước gắn giáo dục với lao động sản xuất.

- Lĩnh vực giáo dục đang có nhiều vấn đề đặt ra hết sức gay gắt : chất lượng dạy và học tiếp tục giảm sút. Đời sống giáo viên vẫn rất khó khăn, mặc dù đã huy động sự đóng góp từ nhiều nguồn để giải quyết. Đạo đức và lý tưởng của học sinh là vấn đề đáng lo ngại. Cơ sở vật chất phục vụ giáo dục chưa được quản lý tốt, xuống cấp nhanh.

- Công tác văn hoá-văn nghệ đã có bước chuyển biến đáng kể theo hướng đổi mới, nhất là phong trào văn nghệ quần chúng. Một số mô hình xây dựng đời sống văn hoá cơ sở được xây dựng mang tính thiết thực. Trong điều kiện có nhiều khó khăn, nhưng các tổ chức câu lạc bộ được hình thành và duy trì hoạt động là một cố gắng trong việc phục vụ nhu cầu văn hoá của quần chúng.

- Điều đáng quan tâm là công tác văn hoá văn nghệ chưa đủ sức đáp ứng đáng kể nhu cầu thưởng thức văn hoá văn nghệ quần chúng, chưa góp phần ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tệ nạn xã hội. Công tác quản lý hành chính văn hoá góp phần lỏng lẻo.

Nhìn chung, Đảng bộ có nhiều cố gắng để giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng kết quả vẫn rất hạn chế. Nhiều vấn đề xã hội đặt ra không kém phần quan trọng so với các vấn đề kinh tế. Sự lãnh đạo của Đảng bộ trong lĩnh vực xã hội chưa ngang tầm với lĩnh vực kinh tế.

III. LĨNH VỰC AN NINH CHÍNH TRỊ VÀ QUỐC PHÒNG :

Hai năm qua, trong bối cảnh của tình hình kinh tế-xã hội còn nhiều khó khăn, nhưng tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội về cơ bản là ổn định. Đó là kết quả sự nỗ lực lớn của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và lực lượng của các ngành nội chính và phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc.

- Hoạt động của các ngành nội chính đã từng bước củng cố và tăng cường, tạo được sự phối hợp trong việc xử lý những vụ việc vi phạm pháp luật cho cán bộ công nhân viên và quần chúng nhân dân được thực hiện nhiều hơn. Mạng lưới thanh tra nhân dân được củng cố và bước đầu phát huy được tác dụng, giải quyết được nhiều vụ việc khiếu tố ngay từ cơ sở. Công tác kiểm sát, xét xử có nhiều chuyển biến. Ngành công an đã chú trọng củng cố xây dựng lực lượng, mạnh dạn trẻ hoá đội ngũ nên việc đấu tranh chống hoạt động của bọn tội phạm có nhiều hiệu quả.

Công tác quốc phòng toàn dân trên địa bàn được củng cố, từng bước hoàn thiện kế hoạch chiến đấu, phòng thủ; kế hoạch động viên thời chiến, huấn luyện lực lượng dự bị động viên và dân quân chỉ tiêu tuyển quân hàng năm đều hoàn thành. Bộ máy quân sự được tinh giảm phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới.

Tuy có những cố gắng lớn nhưng các biện pháp bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội chỉ mới có tác dụng ngăn chặn, hạn chế. Số vụ phạm pháp hình sự, kinh tế vẫn tăng, trật tự an toàn xã hội chưa được đảm bảo. Số đơn từ khiếu tố còn nhiều và nhiều vụ giải quyết còn dây dưa kéo dài. Mạng lưới thanh tra nhân dân chưa đủ mạnh để giải quyết được. Công tác quản lý quân dự bị chưa chặt chẽ, chất lượng quân dự bị còn thấp. Đời sống của cán bộ nhân viên các ngành nội chính tuy được quan tâm giải quyết nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, làm ảnh hưởng tình hình tư tưởng và công tác của cán bộ chiến sĩ. Phương tiện cho hoạt động nghiệp vụ thiếu, lạc hậu đã ảnh hưởng nhiều đến kết quả hoạt động của các ngành nội chính.

IV. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN VÀ CÔNG

TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG :

- Công tác chính trị tư tưởng đã có nhiều cố gắng trong việc làm rõ quan điểm đổi mới của Đảng, tăng cường nhận thức, nâng cao trình độ lý luận, góp phần tạo nên chuyển biến tích cực trong nhận thức chính trị và ý thức của một bộ phận đảng viên và quần chúng trước tình hình mới, tạo ra không khí dân chủ và công khai trong nhiều lĩnh vực, nhất là trong đấu tranh chống tiêu cực. Lượng thông tin được cung cấp nhiều hơn, giảm được thông tin một chiều, tạo điều kiện khách quan cho cán bộ đảng viên nhận thức chính trị xã hội trên cơ sở khoa học.

Tuy nhiên, công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa được tiến hành có hệ thống. Cuộc đấu tranh giữa các quan điểm cũ, mới còn phức tạp, xen kẽ trên nhiều mặt, nhưng chậm được phát hiện, sơ kết tổng kết, khẳng định. Sự hiểu biết về các quan điểm đổi mới của đội ngũ cán bộ đảng viên và ngay trong cấp ủy vừa thiếu tính hệ thống, vừa chưa được sâu sắc. Việc giáo dục lập trường giai cấp, lý tưởng Cộng sản có phần bị coi nhẹ. Chất lượng sinh hoạt ở cơ sở Đảng nhiều nơi còn thấp.

- Công tác tổ chức cán bộ bước đầu được chuyển đổi theo các quan điểm mới của Đảng. Đã giảm một bước số lượng phường, ban ngành, các tầng nấc trung gian được giảm mạnh. Loại hình tổ chức cấp phường tương đối phát huy tác dụng. Sự lãnh đạo của tổ chức Đảng ở loại hình sản xuất kinh doanh, hành chính sự nghiệp ở nhiều nơi không phát huy tác dụng. Đảng bộ hiện có 29% cơ sở được công nhận vững mạnh, 62% khá, còn lại là yếu kém.

Đội ngũ cán bộ đã được bố trí lại một bước theo hướng lấy hiệu quả công việc làm thước đo để đánh giá và bố trí cán bộ. Công tác cán bộ trong nhiệm kỳ qua vẫn chưa thoát khỏi tình trạng chấp vá, bị động, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ mà nguyên nhân sâu sa là chưa thật quán triệt quan điểm đánh giá và bố trí cán bộ, chưa cụ thể hoá được tiêu chuẩn cán bộ và thực hiện công tác cán bộ theo quy hoạch trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ của từng đơn vị, chưa phát huy đầy đủ sức mạnh của nhiều nguồn cán bộ. Thực tế, trong hơn 02 năm qua càng khẳng định vấn đề cán bộ vẫn mang tính quyết định đến sự nghiệp chung và nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị. Nếu bố trí đúng cán bộ, xem trọng nhân tài, chắc chắn tình hình sẽ có nhiều mặt tốt hơn.

Qua đợt phân loại đảng viên, Đảng bộ có 50,3% đảng viên được xếp loại tốt, 46% loại khá, 3,6% loại yếu kém. Trong thực tế, kết quả phân loại chưa đúng mức chất lượng đảng viên. Trong loại đảng viên tốt, có thể có nhiều đảng viên chưa xứng đáng ở loại khá và trong loại khá có thể có nhiều đảng viên trung bình. Công tác phát triển đảng viên được quan tâm, có chú ý đến trình độ văn hoá và khả năng hoạt động thực tiễn, đã phát triển được 338 đảng viên, bằng 42% chỉ tiêu Đại hội đại biểu Đảng bộ quận Tân Bình lần thứ IV đề ra, nhưng chỉ có 50% loại tốt. Khuyết điểm phổ biến trong đội ngũ cán bộ đảng viên hiện nay là chưa thật tiêu biểu trong việc tiếp thu và vận dụng thực hiện các quan điểm đổi mới giảm nhiệt tình cách mạng, có phần xem nhẹ việc rèn luyện phẩm chất đạo đức, giảm uy tín đối với quần chúng.

- Công tác kiểm tra Đảng có mức tăng cường, có kết hợp với công tác thanh tra của chính quyền để ngăn chặn phát hiện và xử lý kịp thời những đảng viên vi phạm. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm kỷ luật đảng viên vẫn tăng. Một số việc vi phạm kỷ luật xử lý chậm có phần thiếu nghiêm minh nên không phát huy được tác dụng giáo dục, ngăn chặn. Việc kiểm tra thực hiện các chỉ thị, nghị quyết ít được chú ý nên nhiều chủ trương, nghị quyết không hoặc chậm được thực hiện có hiệu quả.

- Hoạt động của Hội đồng nhân dân quận, phường tuy có đổi mới hơn trước nhưng thực sự vẫn còn nặng về hình thức. Đa số đại biểu xem trọng nhiệm vụ chuyên môn hơn là nhiệm vụ đại biểu của dân. HĐND chưa thể hiện là cơ quan quyền lực thực sự của dân.

UBND các cấp có nhiều tiến bộ trong việc quản lý Nhà nước, tuy nhiên hoạt động vẫn chưa đồng bộ, hiệu lực quản lý còn thấp.

Việc xác định ranh giới giữa tổ chức Đảng, Chính quyền đoàn thể chưa rõ nét cả trong nhận thức và thực tiễn. Sự lãnh đạo của Đảng thường sa vào sự vụ, chưa dành thời gian và công sức để tập trung vào việc ra nghị quyết, bố trí cán bộ và kiểm tra việc thực hiện. Chính quyền chưa thật bám chắc vào pháp luật và pháp chế XHCN để thực thi nhiệm vụ, có phần ỷ lại sự lãnh đạo của Đảng.

- Các đoàn thể và mặt trận từng bước được củng cố. Sự hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể trong thời gian qua đã góp phần tích cực đến thành quả chung. Một số phong trào được quần chúng tham gia tích cực. Đồng bào có đạo, người Hoa vẫn tiếp tục hoà nhập vào cuộc sống. Nhưng nhìn chung, các hoạt động của các tổ chức quần chúng còn yếu kém. Phương thức hoạt động thiếu phong phú, nội dung nghèo nàn, thiếu tính thuyết phục. Đội ngũ cán bộ đoàn thể vừa thiếu lại vừa yếu. Mặt khác, do sự tác động của tình hình kinh tế-xã hội đã làm cho vai trò của các đoàn thể bị giảm sút, quan điểm “dân là gốc” chưa được thể hiện xuyên suốt trong các hoạt động của các cấp ủy Đảng, chính quyền. Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với các tổ chức quần chúng và công tác vận động quần chúng của Đảng chưa được quan tâm đúng mức nên chưa giúp cho các đoàn thể đủ sức vươn lên ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của tình hình.

V. MỘT SỐ NHẬN XÉT CHUNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC

KINH NGHIỆM :

Nhìn một cách tổng quát sau một nhiệm kỳ, Đại hội nhận thấy có những ưu khuyết điểm :

+ Ưu điểm :

- Trong tất cả các lĩnh vực đều có bước phát triển theo xu thế và quan điểm đổi mới.

- Các chỉ tiêu cơ bản hàng năm đều hoàn thành, trong đó có một số chỉ tiêu hoàn thành vượt mức.

Nguyên nhân ưu điểm :

- Đảng bộ hoàn toàn nhất trí với các quan điểm đổi mới và có quyết tâm đưa các quan điểm đổi mới vào cuộc sống.

- Truyền thống đoàn kết trong Đảng bộ giữa đảng bộ với chính quyền và các tầng lớp nhân dân được duy trì và phát triển.

- Qua thực tiễn, Đảng bộ ngày càng trưởng thành, ngày càng có thêm kinh nghiệm thực tiễn.

+ Khuyết điểm :

- Tốc độ phát triển chung chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của một quận có nhiều điều kiện phát triển.

- Hiệu quả sản xuất, kinh doanh đều thấp. Tiêu cực trong Đảng và ngoài xã hội có mức phát triển.

Nguyên nhân khuyết điểm :

- Các điều kiện đảm bảo thực hiện các quan điểm đổi mới chưa được định hình, kể cả trong nhận thức, cơ chế, thực tiễn nên chưa có điều kiện đầy đủ để thực các quan điểm đổi mới. Trong khi đó, yêu cầu nhiệm vụ theo xu thế đổi mới ngày càng cao.

- Năng lực đội ngũ cán bộ có nhiều mặt hạn chế, cả trong cán bộ lãnh đạo và quản lý, nên chưa bắt kịp yêu cầu nhiệm vụ, chưa có những quyết đoán cần thiết để chọn hình thức và bước đi thích hợp đưa quận đi lên một cách vững chắc. Trong khi đó, lại chậm đổi mới cán bộ theo các quan điểm đổi mới để khắc phục dần khuyết điểm trong đội ngũ cán bộ.

- Trong chỉ đạo và quản lý, trong khi thiếu kinh nghiệm thực hiện các quan điểm đổi mới, lại thiếu đeo bám kiểm tra để phát hiện những mâu thuẫn nảy sinh từ thực tiễn, chưa kịp thời khẳng định nhân tố mới để nhân rộng ra.

Từ thực tiễn trong nhiệm kỳ qua, Đại hội rút ra một số bài học kinh nghiệm :

1/ Về tư tưởng, phải làm cho toàn Đảng bộ ngày càng thấm sâu các quan điểm đổi mới để thống nhất nhận thức và hành động và phải không ngừng đấu tranh các quan điểm đổi mới đi vào cuộc sống.

2/ Trong lãnh đạo, cần phải khai thác thế mạnh vốn có và trên cơ sở quán triệt các quan điểm đổi mới, xác định rõ hướng đi và biện pháp thích hợp, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo tiền đề đi lên một cách đúng hướng.

3/ Sự đoàn kết nhất trí phải được xây dựng trên cơ sở đấu tranh tự phê bình, phê bình, thực hiện dân chủ và công khai. Trong lãnh đạo phải biết lắng nghe các ý kiến khác nhau và tôn trọng dư luận.

4/ Phải xem trọng công việc phòng ngừa và đấu tranh chống tiêu cực. Nếu không coi trọng đúng mức, tiêu cực sẽ là lực cản lớn trong quá trình thực hiện các quan điểm đổi mới.

5/ Phải nhanh chóng đổi mới công tác xây dựng Đảng, công tác tổ chức cán bộ và công tác vận động quần chúng. Càng đổi mới lại càng xem trọng công tác xây dựng Đảng, nhất là công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục lý tưởng, lập trường giai cấp. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đổi mới nhanh hay chậm, phụ thuộc vào sự đổi mới nhanh hay chậm của công tác tổ chức cán bộ.Trong tất cả các hoạt động của tổ chức Đảng, chính quyền, và tổ chức quần chúng, phải thấu suốt quan điểm “dân là gốc”, có như thế mới tạo được phong trào quần chúng thực hiện các quan điểm đổi mới.

PHẦN THỨ HAI

PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ V

Trong nhiệm kỳ mới, tình hình chung của đất nước vẫn còn nhiều khó khăn gay gắt, đồng thời có những nhân tố và điều kiện thuận lợi mới do xu thế đổi mới đem lại.

Trong bối cảnh đó, quận có một số thuận lợi và khó khăn. Trong đó điều kiện về địa lý (là quận phi cảng, là cửa ngõ phía tây của thành phố, còn đất để phát triển kinh tế và dân cư...) và những cơ sở vật chất hiện có là cơ sở quan trọng để phát triển. Những bài học kinh nghiệm bước đầu sau hơn hai năm thực hiện các quan điểm đổi mới theo tinh thần nghị quyết Đại hội VI là vốn qúy trong quá trình tiếp tục sự nghiệp đổi mới. Mặt khác, khó khăn gay gắt về vốn, sự chưa thích nghi với xu thế đổi mới; kể cả con người (nhất là cán bộ lãnh đạo và quản lý) và cơ chế, và những phức tạp về an ninh chính trị và trật tự xã hội là những trở lực lớn phải giải quyết trong nhiệm kỳ tới.

Trên cơ sở đánh giá thuận lợi và khó khăn, Đại hội xác định 04 mục tiêu cơ bản của nhiệm kỳ tới là :

1/ Tạo một sự chuyển biến rõ nét về kinh tế trên cơ sở phát huy sức mạnh của nhiều thành phần kinh tế, trong đó tập trung phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất; đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, trong đó, tập trung khôi phục và phát triển ngành dệt; đẩy mạnh sản xuất và tạo nguồn hàng xuất khẩu, khai thác triệt để dịch vụ du lịch để tăng nhanhkim ngạch xuất khẩu; phát triển mạnh dịch vụ địa ốc vừa giải quyết các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, vừa tạo nguồn thu lớn cho ngân sách.

2/ Đổi mới việc thực hiện các chính sách xã hội phù hợp với sự phát triển kinh tế theo hướng đa dạng hoá việc làm và thu nhập, giảm tốc độ tăng dân số, từng bước ổn định tình hình giáo dục và nâng dần chất lượng giáo dục huy động sự tham gia rộng rãi của mọi lực lượng xã hội để bảo vệ sức khoẻ nhân dân và phát triển các hoạt động thể thao quần chúng.

3/ Đề cao cảnh giác, tăng cường công tác an ninh, quốc phòng, tăng cường pháp chế XHCN, củng cố và phát triển phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và trật tự an toàn xã hội, nhất là ở cơ sở.

4/ Đổi mới rõ nét sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực quản lý của chính quyền và quyền làm chủ của nhân dân. Trên cơ sở đó, xây dựng Đảng bộ vững mạnh.

Để thực hiện các mục tiêu trên, Đại hội xác định các nhiệm vụ và những biện pháp lớn trên các lĩnh vực cơ bản sau đây :

I. TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ :

Trên cơ sở các chủ trương, chính sách mới, căn cứ thực tế, năng lực kinh tế trên địa bàn quận và căn cứ hướng quy hoạch tổng thể của thành phố, đại hội định hướng sự phát triển kinh tế trong nhiệm kỳ tới là sản xuất (tiểu thủ công nghiệp-công nghiệp, nông nghiệp), dịch vụ (dịch vụ địa ốc, dịch vụ du lịch, dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống) và xuất nhập khẩu.

Trên cơ sở định hướng đó, Đại hội nhất trí cần tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ :

1/ Đẩy mạnh chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và chương trình sản xuất hàng xuất khẩu :

a) Để thực hiện tốt chương trình sản xuất hàng tiêu dùng, cần cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt là đối với ngành dệt.

Để thực hiện yêu cầu trên, cần tiến hành các biện pháp :

- Nhanh chóng cải tiến máy móc hiện có của ngành dệt, trang bị máy dệt mới, tăng cường năng lực hoàn tất trên quy mô lớn của ngành dệt bằng hệ thống hoàn tất mới với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, cải tiến chất lượng sản phẩm, tăng cường mẫu mã mới, mở rộng liên doanh liênkết trong ngành dệt (kể cả đối với nước ngoài), cải tiến tổ chức quản lý ngành dệt. Việc giải quyết những vấn đề của ngành dệt để khôi phục và cải tiến ngành dệt là việc phải làm lại từ đầu, là nhiệm vụ mục tiêu số 1 của chương trình sản xuất hàng tiêu dùng trong nhiệm kỳ tới. Sau Đại hội, Ban chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ V cần nghiên cứu xây dựng chương trình chuyên đề về ngành dệt nhằm thực hiện mục tiêu khôi phục và từng bước đổi mới ngành dệt.

- Cải tiến tăng cường cơ sở sản xuất và tay nghề kỹ thuật của các ngành chế biến lương thực thực phẩm, cơ kim khí, thủy tinh, cao su, da... Đối với ngành chế biến lương thực thực phẩm, cần phát triển theo hướng tinh chế. Đối với ngành cơ kim khí, cần tập trung sản xuất các mặt hàng chủ lực, có hiệu quả kinh tế cao. Đối với ngành cao su hoá nhựa, cần tăng cường năng lực sản xuất cải tiến theo hướng đa dạng hoá mặt hàng, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Đối với ngành da, tăng cường khả năng sơ chế, tinh chế, đổi mới mặt hàng. Đối với các ngành khác, mục tiêu cải tiến phải nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường, thị hiếu.

- Tạo mối quan hệ hữu cơ giữa sản xuất và phân phối lưu thông trên cơ sở đảmbảo lợi ích và sự sống còn của mỗi bên.

- Vận dụng chính sách thuế để thực hiện miễn, giảm thuế rõ rệt nhằm khuyết khích đầu tư để tạo năng lực sản xuất mới, cải tiến máy móc thiết bị, kể cả sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu...

b) Đối với chương trình sản xuất hàng xuất khẩu, kể cả trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp cần tập trung sản xuất và tạo nguồn hàng xuất khẩu để vừa xuất khẩu ra nước ngoài bằng các hình thức thích hợp; vừa xuất khẩu tại chỗ qua con đường du lịch.

Để đảm bảo yêu cầu đó cần chú ý thực hiện các biện pháp :

- Phát huy tay nghề truyền thống để làm ra các sản phẩm có giá trị, phù hợp với yêu cầu sử dụng của người nước ngoài, tập trung ở các ngành hàng : cao su, da, may mặc, đan len, mây tre lá, mỹ nghệ sừng.

- Tranh thủ hợp tác với nước ngoài để phát huy thế mạnh về mặt bằng, lao động, nguồn nguyên liệu nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị xuất khẩu bằng máy móc thiết bị tiên tiến.

- Qua hoạt động xuất nhập khẩu, nhập khẩu chủ yếu là vật tư nguyên liệu, máy móc phục vụ tái sản xuất hàng xuất khẩu, phục vụ chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và nông nghiệp.

Đẩy mạnh hoạt động kiều hối bằng những biện pháp và hình thức linh hoạt để phát huy đúng mức đặc điểm là quận có hơn 15.000 hộ dân (có thân nhân ở nước ngoài). Tổ chức tốt cửa hàng miễn thuế ở sân bay.

Trên cơ sởsắp xếp lại các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, hình thành một tổ chức mới để tập hợp các đơn vị sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng xuất khẩu ổn định và tiến tới xuất nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài.

Sớm quy hoạch các khu vực sản xuất mới để tiếp nhận đầu tư từ nước ngoài và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất theo chính sách mới.

2/ Phát triển mạnh mẽ dịch vụ, nhất là dịch vụ địa ốc, dịch vụ du lịch là một nhiệm vụ vừa mang tính cấp bách vừa mang tính căn cơ lâu dài.

- Trêncơ sở quy họach, khai thác thế mạnh về đất đai để phát triển mạnh dịch vụ địa ốc.

Ưu tiên giải quyết mặt bằng cho việc mở rộng các cơ sở sản xuất hiện có và phát triển các cơ sở sản xuất mới. Bằng nhiều hình thức đa dạng, với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế để giải quyết nhu cầu về nhà ở của nhân dân. Chính quyền cấp đất cho các đơn vị có chức năng để xây dựng và kinh doanh nhà, cấp đất cho các tập thể để xây dựng nhà cho cán bộ công nhân viên bằng những hình thức thích hợp và cấp đất để nhân dân tự xây dựng nhà ở. Chú ý xây dựng nhiều loại nhà với phương thức linh hoạt để nhân dân lao động là cán bộ công nhân viên nghèo có điều kiện mua nhà để ở, giảm mạnh nhà thuộc diện Nhà nước quản lý hiện đang sử dụng làm hành chính sự nghiệp để chuyển sang sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.

- Hình thành và từng bước mở rộng ngành kinh doanh du lịch với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế để đáp ứng nhu cầu của khách trong và ngoài nước, góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế-xã hội tạo nguồn thu ngày càng nhiều cho ngân sách.

Để thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu trên, cần sớm chuyển và cải tạo các cơ sở vật chất hiện có, bao gồm các khách sạn cũ sử dụng không đúng công năng, các vila có khả năng tiếp khách du lịch sử dụng lãng phí, các phương tiện đi lại... vào kinh doanh du lịch. Trên cơ sở quy hoạch, tiến hành xây dựng mới các cơ sở vật chất hiện đại. Để tạo nguồn vốn và nguồn khách du lịch, cần chú trọng đến liên doanh liên kết với nước ngoài và các đơn vị có điều kiện cùng kinh doanh du lịch trong nước (sân bay Tân Sơn Nhất, Quân khu 7...). Tiến hành cải tạo, khôi phục một số di tích trên địa bàn quận để phục vụ du lịch (Địa đạo Phú Thọ Hoà, trại David, chùa Giác Lâm). Chú ý phòng ngừa những mặt xấu có thể xảy ra khi phát triển ngành du lịch.

Trong năm 1989, tập trung chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đón số lượng khách nước ngoài vào năm 1990- năm du lịch Việt Nam và chậm nhất là trong 6 tháng đầu năm 1989 đưa ngành kinh doanh du lịch vào hoạt động.

- Đẩy mạnh dịch vụ sản xuất, kinh doanh đời sống trở thành một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế. Đối với lĩnh vực thương nghiệp, cần được phát triển theo hướng khai thác các thế mạnh về mặt bằng, lao động, tay nghề, nguồn vốn... để phục vụ tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng. Riêng thương nghiệp XHCN cần tập trung kinh doanh những mặt hàng thiết yếu, quan trọng hoà vào thị trường chung, tiếp cận với cơ sở sản xuất và người tiêu dùng. Chú ý quay nhanh vòng vốn khai thác đến mức cao nhất cơ sở vật chất hiện có và luôn luôn thực hiện tốt văn minh thương nghiệp.

Dịch vụ quốc doanh cần tập trung khai thác các dịch vụ thiết yếu, quan trọng và những dịch vụ mang lại hiệu quả lớn, cả về mặt kinh tế và mặt xã hội. Khuyến khích các thành phần kinh tế cùng kinh doanh ngành dịch vụ sản xuất, kinh doanh và đời sống theo chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Trên cơ sở phát triển mạnh dịch vụ, đến cuối nhiệm kỳ Đại hội lần thứ 5 của Đảng bộ, hình thành được khu dịch vụ lớn của quận, bao gồm khu chợ Tân Bình, khu Đệ nhất khách sạn (cũ), khu Nghĩa Địa Pháp (cũ), khu chợ Phạm Văn Hai, khu công viên Hoàng Văn Thụ và khu vực cơ quan Bộ tư lệnh Quân khu 7.

3/ Làm tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế nông nghiệp và vùng ven :

Nhiệm vụ chung là sử dụng đất nông nghiệp hiện có theo quy hoạch, kế hoạch và có hiệu quả, gắn với việc xây dựng vùng ven theo nhịp độ đô thị hoá, tổ chức tốt các đơn vị kinh tế ngoài địa bàn quận.

Cố gắng xây dựng loại hình sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất, kinh doanh tổng hợp có khả năng tự cân đối, tự phát triển, trên cơ sở đó, củng cố các xí nghiệp, HTX, tập đoàn sản xuất.

Chú ý theo dõi kết quả của việc khoán hộ để kịp thời phát huy mặt tích cực, khắc phục các thiếu sót để từng bước hoàn thiện, phát triển. Đối với các vụ tranh chấp ruộng đất cần phải được xử lý cụ thể, có lý, có tình trên cơ sở thật sự dân chủ, công khai. Tiến hành cấp giấy phép sử dụng ruộng đất.

Khuyến khích và tạo mọi điều kiện giúp đỡ phát triển mạnh kinh tế gia đình, tạo ra nhiều gia đình có thu nhập cao ở vùng ven qua sản xuất. Chăn nuôi và kinh doanh tổng hợp.

Cần tiến hành khảo sát sớm để xác định rõ vùng đất nào là lâm nghiệp có hiệu quả thì tập trung đầu tư, vùng nào là nông nghiệp hiệu quả kém thì quy hoạch cho chuyển sang sản xuất, công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, xây dựng nhà ở và các cơ sở phúc lợi khác.

Đối với các cơ sở nông nghiệp ngoài địa bàn quận, cần khai thác triệt để khả năng liên doanh liên kết để giải quyết vấn đề vốn, lao động, quản lý. Quan tâm tạo điều kiện cho các cơ sở kinh tế ngoài địa bàn, nhất là đối với các cơ sở của lực lượng thanh niên xung phong, nông trường Duyên Hải làm ăn có hiệu quả.

Về chăn nuôi, khuyến khích chăn nuôi heo, bò sữa, cá... ở khu vực gia đình. Quận cần có các biện pháp chính sách cụ thể để khuyến khích chăn nuôi.

Để khuyến khích sản xuất nông nghiệp phát triển, Đại hội kiến nghị với Hội đồng nhân dân quận miễn thuế nông nghiệp cho khu vực tập thể, giảm thuế nông nghiệp đối với khu vực tư nhân, cá thể, gia đình và tận thu các nguồn thu để bù đắp khoản miễn thuế đối với khu vực tư nhân, cá thể, gia đình và tận dụng thu các nguồn thu khác để bù đắp khoản miễn thuế đối với nôngnghiệp.

Vùng ven của quận cần được xây dựng theo hướng tập trung phát triển đa dạng, có tính đến nhịp độ từng bước đô thị hoá. Trong kế hoạch kinh tế-xã hội hàng năm, cần xác định rõ chỉ tiêu đầu tư cho vùng ven, từ sản xuất nông nghiệp đến việc xây dựng các cơ sở hạ tầng, giải quyết nhu cầu điện nước, đi lại, học hành, chữa bệnh, giải trí của nhân dân vùng nông nghiệp. Trong kế hoạch, phải nêu rõ nguồn vốn, xác định nhiệm vụ cụ thể từng ngành, đơn vị.

4/ Về giao thông vận tải :

Cần làm cho các cấp ủy, chính quyền và nhân dân có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác này, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc đầu tư quận và phường, Nhà nước và nhân dân cùng làm, giữ gìn, nâng cấp các công trình giao thông, duy tu thường xuyên các đường giao thông trong các khu vực đã được đô thị hoá và tập trung xây dựng một số đường chiến lược cho khu vực các phường nông nghiệp có hướng công nghiệp. Quy hoạch mạng lưới thoát nước. Tổ chức quản lý và xây dựng dứt điểm vỉa hè các trục lộ chính. Các hoạt động trên cố gắng phấn đấu đạt các chỉ tiêu cơ bản sau đây :

+ TTCN-CN :

- Năm 1989 : 3,650tỷ đồng, tăng 12% so với 1998 (trong đó quốc doanh, hợp doanh chiếm 12,3%, sản phẩm xuất khẩu chiếm 10,13%).

- Năm 1990 : 4,1 đến 4,2tỷ đồng, tăng 13-15% so với năm 1989 (trong đó quốc doanh, hợp doanh chiếm 12,4-13%, sản phẩm xuất khẩu chiếm 10,7 đến 11%.

+ Nông nghiệp :

- Năm 1989 : 800 tấn lúa, 10 ngàn tấn rau, tổng đàn heo 16 ngàn con.

- Năm 1990 : như năm 1989.

+ Lưu thông phân phối :

- Năm 1989 : Doanh số bán ra 169 tỷ đồng.

- Năm 1990 : Doanh số bán ra 238 tỷ đồng.

+ Xây dựng nhà ở :

- Năm 1989 : 500 căn nhà.

- Năm 1990 : 700 căn nhà.

+ Tổng thu ngân sách quận :

- Năm 1989 : 8,42 tỷ đồng.

- Năm 1990 : 10,90 tỷ đồng.

+ Kim ngạch xuất khẩu :

- Năm 1989 : 17,5 triệu rúp/USD.

- Năm 1990 : 27 triệu rúp/USD.

Để các ngành kinh tế phát triển nhanh chóng, đồng bộ và các chỉ tiêu trên, sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý hành chánh, kinh tế của chính quyền cần được tiến hành theo các quan điểm và định hướng sau đây :

- Phải có quy hoạch và có tầm nhìn chiến lược về sự phát triển kinh tế của quận. Trên cơ sở đó, đảm bảo sự phát triển ngày càng rộng và đi vào chiều sâu của các ngành kinh tế.

- Phải nhìn nhận vấn đề kinh tế trên quy mô toàn quận và đang chuyển động, với nhiều thành phần kinh tế. Từ đó có các chủ trương chính sách, biện pháp quản lý và phát triển kinh tế trong tất cả các thành phần kinh tế, trước hết là thành phần kinh tế ngoài quốc doanh-một lực lượng chiếm trên dưới 90% lực lượng sản xuất toàn quận. Riêng đối với thành phần kinh tế quốc doanh, phải làm cho các đơn vị kinh tế này thoát khỏi sự điều khiển hành chính, quan liêu. Trên cơ sở đảm bảo chấp hành luật pháp, các đơn vị kinh tế quốc doanh phải được tự chủ trong sản xuất, kinh doanh. Bố trí cán bộ quản lý đủ năng lực, kể cả cán bộ ngoài Đảng để đủ sức xây dựng các cơ sở quốc doanh vững mạnh, tiên tiến, làm ăn có hiệu quả. Giám đốc được chọn từ phó giám đốc trở xuống. Tập trung xây dựng các đơn vị kinh tế quốc doanh đủ sức làm nhiệm vụ đầu đàn trong từng ngành kinh tế để tiến tới đảm đương được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế tập thể phải được củng cố và phát triển với các hình thức và bước đi thích hợp, nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và năng cao hiệu quả kinh tế. Kinh tế tư nhân (cá thể), tiểu chủ, tư bản tư nhân. Cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và cần được khuyến khích phát triển. Mọi người lao động và các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Thực hiện đúng các nội dung trên chính là tiến hành cải tạo XHCN một cách có hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI.

- Tập trung giải quyết vấn đề vốn theo quan điểm là định hướng : huy động mọi nguồn vốn, từ nguồn vốn của nhiều thành phần kinh tế trong nước, đến vốn từ nước ngoài. Cần xác định đúng trị giá vốn Nhà nước qua tài sản cố định hiện có để thực hiện các phương án liên doanh liên kết. Việc đầu tư bằng nguồn vốn từ ngân sách phải tính toán thật kỹ khả năng thu hồi vốn và đảm bảo hiệu quả. Đơn vị nào hoạt động kém hiệu quả thì kiên quyết giải thể.

- Công tác kế hoạch, tài chính-thương nghiệp, quản lý thị trường cần đổi mới nhanh chóng, triệt để theo hướng quy hoạch, định hướng phát triển các thành phần kinh tế, tăng cường quản lý các thành phần kinh tế theo chính sách và luật pháp, thu đủ các nguồn vốn vào ngân sách, chống trốn thuế, làm hàng gian, hàng giả, đầu cơ tích trữ; kiểm soát được hiệu quả thật của sản xuất kinh doanh. Hoạt động của ngân hàng phải thực sự chuyển sang kinh doanh. Kiểm tra và giúp đỡ các HTX tín dụng hoạt động đúng hướng, có hiệu quả để góp phần giải quyết khó khăn về vốn và các yêu cầu đa dạng khác của các thành phần kinh tế.

- Trong hơn 02 năm tới, tình hình cho thấy tỷ trọng nguồn thu từ lĩnh vực thuế, xuất nhập khẩu vẫn chiếm tỷ trọng quan trọng trong cân đối ngân sách. Do đó về quan điểm chỉ đạo và quản lý, phải khai thác triệt để nguồn thu từ lĩnh vực này, để từ đó đầu tư cho sản xuất, dịch vụ để đáp ứng các yêu cầu xã hội khác.

- Trong tất cả các hoạt động kinh tế, phải chú ý phát huy động lực khoa học kỹ thuật và coi trọng đầu tư vào việc ứng dụng khoa học kỹ thuật.

Các cấp ủy, cán bộ quản lý phải thấu suốt tầm quan trọng của khoa học, kỹ thuật để sử dụng đúng mức, kể cả phương tiện, con người (kể cả người Việt Nam ở nước ngoài) để sớm ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, quản lý. Khuyến khích cán bộ khoa học, kỹ thuật, công nhân lành nghề cần suy nghĩ sáng tạo và tay nghề của mình để tạo nguồn thu nhập cao. Thành lập và đưa vào hoạt động hệ thống tổ chức khoa học kỹ thuật từ quận đến cơ sở giúp cấp ủy, chính quyền chỉ đạo và quản lý.

II. LĨNH VỰC XÃ HỘI :

Tập trung thực hiện tốt các chương trình xã hội : đưa lĩnh vực xã hội ngang tầm lĩnh vực kinh tế nhằm phục vụ và phát huy nhân tố con người.

- Trước hết phải tập trung giải quyết các vấn đề đời sống.

Đối với cán bộ công nhân viên chức khu vực hành chính, áp dụng chế độ khoán qũy lương, khoán chi tiêu hành chính cho từng đơn vị; phần tiết kiệm được do giảm biên chế và giảm chi tiêu cho phép được dùng vào việc cải thiện đời sống của đơn vị.

Đối với khu vực sản xuất kinh doanh, tiền lương phải phụ thuộc vào hiệu quảsản xuất, kinh doanh và năng suất lao động. Có biện pháp điều tiết thu nhập đối với các đối tượng có thu nhập cao cho các lĩnh vực khác.

Đối với người được hưởng chính sách xã hội, ngoài việc thực hiện đầy đủ, kịp thời theo chính sách được Nhà nước bổ sung, cần động viên hợp lý đi đôi với phát huy tình cảm đền ơn, đáp nghĩa để thực hiện trách nhiệm đóng góp và quan tâm giúp đỡ của xã hội. Riêng đối với cán bộ công nhân viên hành chính thuần túy và cán bộ hưu trí, kể từ tháng 7/1989, phấn đấu trợ cấp thêm một mức bằng ngân sách địa phương để tổng thu nhập mỗi người ít nhất đạt 80 kg gạo/tháng. Việc thực hiện mức 80kg gạo/tháng cần được tiến hành theo hướng có xem xét đến hoàn cảnh và hiệu quả công việc của từng người. Quận khoán qũy lương (kể cả các khoản chi tiêu hành chính) cho các cơ quan để thực hiện phân phối theo lao động. Riêng đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh và cơ quan sự nghiệp có thu phải thực hiện rộng rãi phương thức tự trang trải tiền lương theo kết quả cuối cùng với mức phấn đấu bìnhquân 100 kg gạo/tháng.

Thực hiện bảo hộ các nguồn thu nhập hợp pháp, khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng, đồng thời phát hiện xử lý đúng luật pháp những trường hợp làm ăn phi pháp.

Giải quyết việc làm đang là vấn đề gay gắt. Phương hướng cơ bản để tạo thêm việc làm là phải dựa và phát huy khả năng thu hút của tất cả các thành phần kinh tế và đưa đi hợp tác lao động ở nước ngoài. Khuyến khích, giúp đỡ và tạo điều kiện cho người lao động tự tạo và tự tìm việc làm. Ưu tiên giải quyết việc làm đối với số lao động dôi ra do tinh giảm biên chế, bộ đội xuất ngũ và số học sinh mới ra trường. Phấn đấu trong năm 1989, giải quyết cho 6500 người có việc làm và năm 1990, giải quyết 7.000 người có việc làm.

- Điện, nước là nhu cầu bức thiết hàng ngày của nhân dân, cần được quan tâm giải quyết có hiệu quả bằng những hình thức thích hợp, cần có kế hoạch phối hợp với các ngành chức năng cấp trên để đến năm 1990 cần giải quyết cơ bản hệ thống điện ở khu vực hiện chưa đủ hoặc chưa có, nhất là ở vùng nông thôn và khu đông dân.

- Cần làm cho cán bộ nhân viên và nhân dân thấy hết hậu quả nghiêm trọng của việc gia tăng dân số và phải sử dụng các biện pháp kinh tế, hành chánh và giáo dục đi đôi với bảo đảm kinh phí, phương tiện, cán bộ để đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Phấn đấu trong 02 năm 1989-1990 mức độ tăng dân số của quận đều dưới 1,5%.

Các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể từ quận đến cơ sở phải đặt vấn đề sinh đẻ có kế hoạch để giảm dân số là nhiệm vụ có tính chiến lược, là công việc có tính thường xuyên, cấp bách trong chương trình hoạt động của mình.

- Công tác giáo dục trong 2 năm tới nhằm vào trọng tâm vào việc từng bước ổn định hệ thống trường lớp và nâng cao chất lượng giáo dục.

Mục tiêu giáo dục nhằm vào mục tiêu kinh tế-xã hội trước mắt và lâu dài, đồng thời góp phần xây dựng con người mới XHCN.

Ngay từ niên học 1989-1990, cần tập trung làm tốt giáo dục toàn diện ở cấp 1, từng bước phổ cập cấp 1 cho trẻ em trên địa bàn, xoá nạn mù chữ và tái mù chữ cho người lao động (tập trung vào năm quốc tế chống nạn mù chữ 1990), phổ cập cấp 2 cho thanh niên trong các lĩnh vực sản xuất vào cấp 3 cán bộ công nhân viên. Chú trọng việc giáo dục sinh ngữ chẳng những trong nhà trường, mà còn cho cả các đối tượng cán bộ, nhân viên bằng nhiều hình thức thích hợp để vừa chuẩn bị cho lớp kế tục, vừa giải quyết nhu cầu trước mắt để đáp ứng các chủ trương mới về kinh tế đối ngoại.

Đa dạng hoá các loại hình trường lớp. Khuyến khích mở các trường dân lập và tư thục dạy các nghề thủ công, mỹ nghệ, tiếng nước ngoài; cho phép mở trường hệ B và bán công. Mở rộng hoạt động dạy nghề của trung tâm dạy nghề để đáp ứng yêu cầu phát triển của các thành phần kinh tế.

Phương pháp giáo dục cần kết hợp tốt giữa nhà trường, gia đình và tổ chức xã hội để đào tạo học sinh thành con người XHCN. Chú ý thực hiện thường xuyên việc giáo dục đạo đức, giáo dục truyền thống cho học sinh và không ngừng bồi dưỡng lý tưởng, lương tâm và trách nhiệm của thầy, cô giáo.

Công tác quản lý giáo dục cần được đổi mới theo hướng mở rộng quyền chủ động cho trường học và khuyến khích, động viên toàn xã hội chăm lo xây dựng và quản lý giáo dục. Tách trường cấp 1, 2 thành trường cấp 1 và trường cấp 2.

Cố gắng chăm lo có kết quả đời sống và điều kiện giảng dạy của giáo viên, dành tỷ lệ đầu tư ngày càng tăng của ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp đào tạo, đồng thời mở rộng nguồn đầu tư từ các thành phần kinh tế, từ sự đóng góp của nhân dân. Trong kế hoạch kinh tế-xã hội hàng năm, cần ghi rõ tỷ lệ đầu tư cho lĩnh vực giáo dục.

Tập trung giải quyết đối với số giáo viên kém năng lực chuyên môn, kém nhiệt tình và không đảm bảo tiêu chuẩn sức khoẻ.

- Công tác văn hoá-văn nghệ trong 02 năm tới cần tiếp tục góp phần xây dựng nền văn hoá mới, con người mới XHCN, xây dựng rộng rãi phong trào văn hoá văn nghệ quần chúng; tăng cường giáo dục thẩm mỹ và giáo dục truyền thống nhằm đáp ứng và nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân; phấn đấu đáp ứng ngày càng nhiều nhu cầu thông tin của nhân dân; chú ý sử dụng và phát huy các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, tổ chức kinh doanh dịch vụ văn hoá tổng hợp để giảm bớt chi tiêu ngân sách trong lĩnh vực này; cho phép các hội, hộ tư nhân khai thác phục vụ trong một số lĩnh vực văn hoá mà nhà nước chưa có khả năng đầu tư chịu sự quản lý của Nhà nước hình thành các khu vực văn hoá trung tâm và Nhà văn hoá cụm phường.

Trong hoạt động văn hoá, phải chống khuynh hướng chạy theo doanh thu, thường xuyên kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm khắc đối với các trường hợp vi phạm các quy định về văn hoá (lưu hành văn hoá phẩm đồi trụy, lai căng, phản động...).

- Công tác thể dục thể thao cần phát triển theo hướng tổ chức phong trào thể dục thể thao quần chúng, chuyển nhanh việc quản lý, chăm sóc, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cán bộ môn thể thao cho các bộ môn thể thao cho các hội theo nguyên tắc tự quản; ngăn chặn tình trạng xuống cấp các cơ sở vật chất hiện có.

- Tăng cường bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em theo hướng phát huy sức mạnh của toàn xã hội. Trong năm trẻ em 1989 cần tập trung tạo nguồn và xây dựng các hình thức bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hiệu quả nhất, tạo điều kiện để đẩy mạnh sự nghiệp này vào các năm sau. Chú ý giáo dục trẻ em chưa ngoan và chăm sóc tốt trẻ em suy dinh dưỡng, Đại hội chọn việc phát động các ngành các giới trong quận tập trung xây dựng và trang bị hoàn chỉnh cơ sở vật chất ban đầu cho Trung tâm sinh hoạt thanh thiếu niên là công trình thiết thực chào mừng năm trẻ em 1989.

- Thường xuyên quan tâm chăm sóc các gia đình thuộc diện chính sách, nhất là đối với gia đình thương binh liệt sĩ và gia đình hưu trí gặp khó khăn. Cho dù có khó khăn đến đâu về ngân sách và tiền mặt, quận phải giải quyết đúng kỳ và đầy đủ các khoản trợ cấp của các đối tượng chính sách. Chú ý trợ cấp thường xuyên đột xuất cho các gia đình chính sách và gia đình nghèo khó neo đơn. Thường xuyên giải quyết các vấn đề về tệ nạn xã hội bằng các biện pháp tổng hợp.

- Trong hơn hai năm tới cần phải chuyển hướng mạnh mẽ công tác bảo vệ sức khoẻ sang các hoạt động dự phòng, phát huy tiềm năng của y học cổ truyền dân tộc và xã hội hoá rộng rãi công tác này. Cần tiến hành các biện pháp nhằm tăng cường chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Củng cố toàn diện hệ thống y tế, trong đó, tập trung hoàn thành và nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm sức khoẻ và mạng lưới y tế ở cơ sở. Kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại, nâng cao chất lượng của các cơ sở y tế Nhà nước đi đôi với việc mở rộng các hình thức dịch vụ sức khoẻ của tập thể và tư nhân. Thực hiện chế độ thu một phần viện phí và qua hoạt động kinh doanh, ngành y tế tiến tới tự lực một phần kinh phí.

III. VỀ CÔNG TÁC NỘI CHÍNH :

Phương hướng chung là đề cao cảnh giác, tăng cường các biện pháp phòng ngừa tội phạm, tích cực xây dựng nếp sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; góp phần thực hiện dân chủ XHCN; giữgìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống và lao động của nhân dân, bảo vệ tài sản XHCN và của nhân dân; tăng cường khả năng phòng thủ, củng cố nền quốc phòng toàn dân.

Để thực hiện phương hướng đó, cần tiến hành các biện pháp lớn sau đây :

- Phải kịp thời tổ chức học tập, phổ biến pháp luật và pháp chế XHCN.

Bằng nhiều hình thức thích hợp, phải tổ chức học tập và phổ biến pháp luật và pháp chế XHCN rộng rãi trong tất cả các tổ chức Đảng, Nhà nước và nhân dân, trước hết là trong các ngành nội chính. Mức độ am hiểu pháp luật phải là một trong những tiêu chuẩn của cán bộ chiến sĩ ngành nội chính. Từng cấp, từng cơ quan, từng đơn vị cần cụ thể hoá chủ trương mở rộng dân chủ và công khai thành quy chế, quy định, đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân, công nhân viên chức.

- Thực sự đổi mới tư duy, phong cách, tổ chức cán bộ ở các ngành bảo vệ và thi hành pháp luật để có những hành động cụ thể giữ gìn trật tự kỷ cương, pháp luật, góp phần thúc đẩy, phục vụ đổi mới, không làm ngăn trở đổi mới. Các cơ quan nội chính cần thấu suốt quan điểm, chính sách mới của Đảng về kinh tế-xã hội để chuyển hướng hoạt động cho phù hợp và gắn bó với nhau trong các hoạt động thanh tra, điều tra, kiểm soát, xét xử. Chấm dứt tình trạng bắt và giam người không đúng pháp luật. Chống tư tưởng vì e dè, ngán ngại vi phạm pháp luật và thiếu kiên quyết đấu tranh với các loại tội phạm. Tất cả các ngành, các cấp đến cán bộ, nhân viên và nhân dân đều có trách nhiệm thực hiện nghiêm pháp lệnh giải quyết đơn từ khiếu tố của nhân dân một cách nhanh chóng, đúng pháp luật. Tất cả các hành vi vi phạm pháp luật đều phải được chuyển qua cơ quan điều tra để xem xét theo pháp luật.

- Quan tâm xây dựng và quản lý lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ, từng bước củng cố và hoàn chỉnh kế hoạch động viên thời chiến; kết hợp quốc phòng với an ninh và kinh tế; từng bước nâng dần kế hoạch tác chiến, huấn luyện, diễn tập hàng năm theo phương án phòng thủ địa phương. Củng cố và tăng cường vai trò của Ban cán sự quận và cơ quan quân sự phường; tăng cường lãnh đạo tư tưởng và tổ chức, tinh gọn biên chế, đào tạo nguồn kế tiếp của sĩ quan, làm tốt công tác tuyển quân cả về số lượng và chất lượng và thực hiện đầy đủ chính sách hậu phương quân đội trên cơ sở phát huy sức mạnh toàn dân.

- Củng cố và phát triển phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, trên cơ sở phát huy tính tự giác của quần chúng. Thật sự dựa vào quần chúng, thấu suốt quan điểm “dân là gốc’ để đấu tranh chống vi phạm, tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn cơ sở. Cần tiến hành liên tục các biện pháp để chuyển hoá các địa bàn công viên Hoàng Văn Thụ, đường Cộng Hoà, chợ Tân Bình.

- Chú trọng xây dựng tổ chức và mạng lưới, nhất là mạng lưới cảnh sát khu vực, an ninh nhân dân, thanh tra nhân dân, tổ hoà giải và phát huy các mặt tích cực của cơ chế tổ chức phường, nhất là đối với tổ chức tổ dân phố.

- Thường xuyên xây dựng lực lượng và chăm lo đời sống cả về vật chất, tinh thần, phương tiện làm việc của các ngành nội chính để đủ sức làm nhiệm vụ theo các quan điểm mới nhất, bảo đảm thi hành đúng Bộ Luật tố tụng hình sự.

IV. ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NÂNG CAO NĂNG

LỰC QUẢN LÝ CỦA CHÍNH QUYỀN VÀ QUYỀN LÀM

CHỦ CỦA NHÂN DÂN :

1/ Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng :

Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết Đại hội VI và kết luận của Bộ chính trị về một số vấn đề về công tác tư tưởng, trong nhiệm kỳ tới, công tác tư tưởng phải đáp ứng các yêu cầu lớn sau đây :

- Phải đặt biệt quan tâm việc giáo dục, thông tin về tình hình đất nước, về sự nghiệp đổi mới, làm cho mọi người hiểu rõ những việc làm được và chưa làm được, biết rõ nguyên nhân, những giải pháp để tháo gỡ khó khăn, tạo ra niềm tin, củng cố sự thống nhất và hành động, thúc đẩy công cuộc đổi mới, khắc phục tâm trạng bi quan, giảm sút lòng tin, mất cảnh giác. Chú trọng thông tin hai chiều, thông tin những nhân tố tích cực và đúc kết kinh nghiệm để cổ vũ phong trào noi gương người tốt, việc tốt và sáng tạo ra những kinh nghiệm mới, thúc đẩy cuộc vận động lớn theo nghị quyết của Bộ chính trị.

- Làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân tiếp tục nhận thức sâu sắc những quan điểm đổi mới thể hiện trong Nghị quyết Đại hội VI và các nghị quyết tiếp theo của Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị.

- Tiếp tục thực hiện và mở rộng hơn nữa tính dân chủ, tính công khai trong sinh hoạt Đảng, các cơ quan chính quyền các đoàn thể và các diễn đàn rộng rãi.

- Thường xuyên giáo dục về lập trường giai cấp, về lý tưởng cộng sản, nhiệt tình cách mạng, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, nhận thức đúng đắn về nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng, trong quản lý Nhà nước và quản lý kinh tế-xã hội, nêu cao tính trung thực trong công tác và lối sống, tinh thần dũng cảm đấu tranh chống tiêu cực, đấu tranh khắc phục tâm lý chống bi quan, giao động, thái độ trung bình chủ nghĩa, chủ nghĩa cơ hội dưới nhiều hình thức, đấu tranh chống quan liêu, bảo thủ và các biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, tự do vô tổ chức, kỷ luật.

Để thực hiện các yêu cầu trên, cần tiến hành thực hiện các biện pháp chính :

- Trong năm 1989, tổ chức cho tất cả cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý, cán bộ trung cao cấp đã về hưu nghiên cứu quán triệt có hệ thống các quan điểm chính sách kinh tế-xã hội của Đảng và Nhà nước, trong đó, tập trung cho việc nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 6.

- Tất cả đảng viên phải xem trọng việc học tập, rèn luyện tư tưởng vì nếu không học tập, rèn luyện tư tưởng dễ trở thành lực cản, sức ỳ và có thể trở thành lực lượng chống lại đổi mới. Những cán bộ đảng viên (trừ một số thuộc diện đào tạo ở các trường Trung ương và Thành phố) nếu chưa học chương trình lý luận Mác-Lênin cao cấp, trung cấp và sơ cấp, thì đến năm 1990 phải tham gia học tập các loại chương trình này với nội dung đã được sửa đổi theo quan điểm của Đại hội VI. Việc quán triệt các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, nhất là các quan điểm, chủ trương, chính sách đổi mới được xác định là một trong những tiêu chuẩn của đảng viên.

- Tiến hành bồi dưỡng để nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế-xã hội, xây dựng Đảng cho các cấp ủy mới được bầu qua Đại hội, đặc biệt là đối với cấp ủy phường.

- Tổ chức tốt hoạt động của Trung tâm giáo dục chính trị và xây dựng đội ngũ báo cáo viên có chất lượng ở các cơ sở Đảng. Định kỳ một qúy một lần, tổ chức họp mặt cán bộ trung cao cấp hưu trí để thông tin các quan điểm, chính sách mới và tình hình chung trong quận và nghe cán bộ hưu trí đóng góp xây dựng công việc chung.

- Không ngừng cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và cấp ủy để qua đó góp phần làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng.

2/ Về công tác tổ chức cán bộ :

- Đẩy mạnh các biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, trọng tâm là đối với cơ sở phường và sản xuất kinh doanh. Phấn đấu đến hết nhiệm kỳ V, xây dựng được 45-50% cơ sở Đảng vững mạnh.

- Vấn đề cán bộ đã thật sự trở thành vấn đề mang tính quyết định sự nhanh hay chậm, thành công hay không thành công trong tất cả các lĩnh vực. Với tình hình hiện nay đã thiếu những cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới cao hơn, sự đòi hỏi về cán bộ trở thành bức thiết hơn.

Trong nhiệm kỳ tới, cần tập trung giải quyết vấn đề cán bộ theo hướng sau đây :

Để đảm bảo đạt được sự chuyển biến quan trọng về công tác cán bộ nhằm đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ do Đại hội đề ra.

+ Thống nhất quan điểm về phẩm chất và năng lực cán bộ, về tiêu chuẩn đánh giá cán bộ trong công cuộc đổi mới. Trên cơ sở đó, lựa chọn, sử dụng và phát huy những cán bộ có tinh thần đổi mới, có năng lực lãnh đạo, quản lý kinh tế-xã hội, có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, có khả năng đoàn kết quy tụ cán bộ.

+ Từng bước định rõ tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh lãnh đạo và quản lý, nhằm cụ thể hoá tiêu chuẩn chung nhất : lấy hiệu quả công việc được giao làm thước đo phẩm chất và năng lực cán bộ. Trên cơ sở đó mà phát huy tất cả các nguồn cán bộ, trọng nhân tài, kể cả nhân tài ngoài Đảng, chống khuynh phân biệt cán bộ cũ, mới, tại chỗ hay không tại chỗ để đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp cán bộ một cách hợp lý.

+ Xúc tiến nghiêm túc việc xây dựng quy hoạch cán bộ trên cơ sở yêu cầu công việc và tài năng của cán bộ. Phải thực hiện cho được phương hướng trẻ hoá đội ngũ cán bộ, bảo đảm tính liên tục và tính kế thừa, trong đó, chú ý thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ nữ. Chống tư tưởng nể nang, hữu khuynh, thiếu tin tưởng vào cán bộ trẻ và cán bộ nữ. Phải coi việc đào tạo cán bộ có tư duy mới và có năng lực hoạt động thực tiễn là công việc rất quan trọng và cấp thiết. Tất cả cán bộ lãnh đạo và quản lý từ cơ sở phải chuẩn bị từ 2-3 cán bộ dự bị và phải giao dần công việc của mình cho cán bộ dự bị có khả năng nhất để khi cần thiết có thể giao nhiệm vụ được ngay.

+ Việc sắp xếp, bố trí, đề bạt cán bộ phải theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện dân chủ hoá, công khai hoá. Kết hợp việc nhận xét đánh giá cán bộ của tổ chức Đảng, của thủ trưởng với việc lấy ý kiến của quần chúng, bỏ phiếu tín nhiệm. Thực hiện chế độ miễn nhiệm đối với người không hoàn thành nhiệm vụ mà không chờ hết nhiệm kỳ, trong đó, chú ý đổi mới nhân sự Ban Thường vụ Quận ủy, UBND quận, Bí thư, Chủ tịch và các Phó chủ tịch, UBND phường và các đơn vị kinh tế trọng điểm do đã giao quyền rộng rãi trong giám đốc nên trong lãnh đạo, phải hết sức quan tâm xây dựng đội ngũ giám đốc vừa biết kinh doanh giỏi, vừa có phẩm chất chính trị tốt.

+ Xây dựng và thực hiện quy chế quản lý cán bộ theo hướng dân chủ, trực tiếp. Cấp nào trực tiếp giao việc, nắm cán bộ thì cấp đó trực tiếp quản lý cán bộ. Việc đánh giá cán bộ,thihành kỷ luật cán bộ cần trao đổi ý kiến đối với đương sự, lắng nghe ý kiến trình bày của đương sự trước khi quyết định.

+ Tích cực bồi dưỡng, tạo nguồn phát triển đảng viên mới gắn với yêu cầu nhiệm vụ chính trị để kết nạp ngày càng nhiều đảng viên mới có chất lượng. Củng cố và nâng cao chất lượng đảng viên phát huy tất cả các mặt tích cực của đội ngũ đảng viên. Quan tâm thường xuyên đến số đảng viên hưu trí và tạo cho đảng viên hưu trí có điều kiện để giúp các đồng chí đương chức thực hiện công việc của mình. Đảng viên phải thể hiện rõ tính tiên phong trong việc biến các quan điểm đổi mới của Đảng thành hiện thực ở từng cơ quan, đơn vị, ở nhiệm vụ công tác được giao, đặc biệt là trong việc đề cao tính tự giác học tập để nâng cao kiến thức và năng lực công tác, trong việc đấu tranh bảo vệ các quan điểm đổi mới, gương mẫu trong lối sống và phải đi đầu trong đấu tranh chống tiêu cực.

3/ Về công tác kiểm tra :

Để bảo đảm các nghị quyết của Đảng được chấp hành nghiêm chỉnh, giữ gìn đoàn kết nội bộ, bảo vệ cán bộ, đảng viên, các cấp ủy cần tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện đối với các quyết định của mình và việc thực hiện các quan điểm đó của cấp ủy cơ sở và đảng viên, tăng cường kiểm tra việc thực hiện cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao hiệu lực của bộ máy Đảng và Nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội, việc chấp hành nề nếp sinh hoạt Đảng và chấp hành Điều lệ Đảng. Đẩy mạnh công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tiêu cực. Kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ tiêu cực.

Ủy ban kiểm tra Quận ủy và cơ sở cần có những cán bộ có phẩm chất tốt, có năng lực, nhất là năng lực nhận thức các vấn đề theo quan điểm đổi mới của Đảng để giúp cấp ủy thực hiện tốt chức năng kiểm tra.

Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 của BCH Trung ương (khoá VI) đã đề cập khá toàn diện và cụ thể về công tác xây dựng Đảng. Toàn Đảng bộ phải tập trung thực hiện có kết quả cao nhất các nội dung đó để phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ V, Đảng bộ quận Tân Bình đạt danh hiệu vững mạnh.

4/ Về công tác chính quyền :

Cần tập trung xây dựng bộ máy chính quyền có thực quyền, có năng lực cụ thể hoá và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, có năng lực quản lý các hoạt động của xã hội bằng pháp luật.

- Đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của HĐND theo Luật sửa đổi bổ sung Luật bầu cử HĐND và UBND các cấp sẽ được Quốc hội ban hành bảo đảm cho HĐND quận, phường thật sự là cơ quan quyền lực của nhân dân.

Cần lãnh đạo cuộc bầu cử HĐND quận, phường khoá VI đúng luật.

- Thực hiện đúng chức năng, quyền hạn của UBND quận, phường. Trong lĩnh vực kinh tế, phải phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế với hoạt động quản lý sản xuất kinh doanh.

Đổi mới tổ chức và cách làm việc của UBND quận, phường, thực hiện đúng chức trách, quyền hạn của UBND là cơ quan chấp hành của HĐND, đồng thời phát huy trách nhiệm, quyền hạn của HĐND, đồng thời phát huy trách nhiệm, quyền hạn của Chủ tịch UBND là người đứng đầu và điều hành các hoạt động của UBND. Trong nhận thức cũng như trong cách làm việc, phải thể hiện UBND không phải là một cấp và làm thay công việc của UBND. Định lại mối quan hệ giữa UBND và HĐND theo tinh thần mới. Đề cao trách nhiệm và quyền hạn cá nhân của các thành viên UBND.

Tiếp tục củng cố các cơ quan trực thuộc UBND theo hướng gọn nhẹ, đảm bảo thực hiện đúng chức năng giúp UBND quản lý về mặt Nhà nước ngành mình phụ trách.

5/ Về công tác vận động quần chúng :

Bằng công tác giáo dục, tổ chức và vận động quần chúng sâu rộng, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội phải xứng đáng là người đại diện cho quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân, hỗ trợ đắc lực và là hậu thuẫn cho các hoạt động của các Đảng bộ và công tác quản lý của chính quyền, tích cực tham gia xây dựng Đảng và chính quyền, góp phần xây dựng dân chủ XHCN.

Với chức năng vận động và tổ chức quần chúng, các đoàn thể và các hiệp hội về nghề nghiệp, hữu nghị, nhân đạo, bảo trợ xã hội... phải đổi mới phương thức hoạt động để quy tụ được quần chúng, hội viên... nội dung và hình thức vận động phải gắn chặt với nguyện vọng, lợi ích và điều kiện sinh hoạt của hội viên. Tổ chức bộ máy của đoàn thể và các hiệp hội phải rất gọn, không cần có nhiều cán bộ chuyên trách. Bỏ những hình thức tổ chức và hoạt động làm cho đoàn thể trở nên “hành chính hoá”, xa quần chúng, không quy tụ được hội viên. Các đoàn thể phải phấn đấu tại ra nguồn thu nhập trong phạm vi cho phép để giảm dần kinh phí do chính quyền cấp. Trong thời gian đầu, chính quyền cần hỗ trợ các điều kiện cần thiết (mặt bằng, vốn, miễn giảm thuế...) để giúp cho các đoàn thể có điều kiện từng bước tự lực kinh phí.

Các cấp ủy Đảng cần tôn trọng tính độc lập về tổ chức của các đoàn thể quần chúng, tạo điều kiện để mỗi đoàn thể phát huy tính chủ động và sáng tạo trong hoạt động của mình và tự mình phải đổi mới phương thức lãnh đạo các đoàn thể quần chúng. Quan tâm xây dựng và phát triển tổ chức công đoàn rộng rãi trong các thành phần kinh tế, nhất là trong 20.000 lao động thủ công. Tiếp tục làm tốt công tác vận động đồng bào có đạo, người Hoa, làm cho bà con ngày càng gắn bó với cuộc sống và chế độ XHCN. Quan tâm giáo dục lý tưởng cho thếhệ trẻ. Lãnh đạo củng cố tổ chức Đoàn TNCS để nổi rõ vai trò là tổ chức chính trị của thanh niên, hướng hoạt động của Đoàn làm nòng cốt hướng dẫn các tầng lớp thanh niên tham gia vào các hoạt động rộng rãi.

PHẦN BA :

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Để nghị quyết sớm đi vào cuộc, Đại hội nhấn mạnh một số vấn đề về tổ chức thực hiện :

Một, do đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc và toàn diện, là một quá trình đấu tranh nên phải thường xuyên, kiên quyết làm cho các quan điểm đổi mới thấm nhuần trong Đảng bộ và quần chúng, phải đấu tranh để các quan điểm đó được thực hiện và vừa làm, vừa rút kinh nghiệm.

Hai, phải xây dựng quy hoạch kinh tế-xã hội đến năm 1995 và định hướng phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000.

Ba, phải ngày càng phân biệt rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ chức quần chúng, để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của chính quyền và quyền dân chủ của nhân dân, nhằm tạo thế đồng bộ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới xây dựng Đảng bộ sớm vươn lên ngang tầm nhiệm vụ chính trị.

Bốn, phải thật sự và kiên quyết đổi mới trong công tác cán bộ theo các quan điểm đổi mới của Đảng. Không ngừng đấu tranh để quan điểm đó được thực hiện là việc làm mang ý nghĩa cách mạng, có tầm vóc quyết định đến sự phát triển của Đảng bộ và nhân dân, chẳng những trong hơn hai năm tới, mà còn có ý nghĩa lâu dài về sau.

Trên cơ sở nghị quyết của Đại hội, Ban chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ V có trách nhiệm xây dựng các nghị quyết chuyên đề, có chương trình, kế hoạch triển khai cụ thể để đảm bảo thực hiện cho được phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu được Đại hội thông qua.

Đại hội kêu gọi toàn Đảng bộ và nhân dân quận Tân Bình quyết tâm biến các quan điểm đổi mới và nghị quyết này thành hiện thực, đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Tân Bình tiến lên một bước mới, tạo đà cho bước phát triển hơn ở các năm sau./.

Thông báo