Thứ Năm, ngày 28 tháng 3 năm 2024

Nghi quyết Đại hội Đảng bộ huyện Duyên Hải lần thứ II nhiệm kỳ 1980 - 1981

A. VỊ TRÍ, THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN

I. VÍ TRÍ

Duyên Hải là một Huyện ngoại thành, ở phía Đông thành phố, có vị trí rất quan trọng cả về kinh tế và quốc phòng.

1. Về kinh tế:

Nằm trong quy hoạch vành đai thực phẩm của Thành phố, có rừng sát rộng lớn nối liền với biển, hệ thống sông ngòi chằng chịt, với 20km bờ biển Duyên Hải có nhiều tiềm năng to lớn và nhiều thuận lợi cho nghề đánh bắt, nuôi trồng các loại hải sản, trong đó có nhiều loại có giá trị kinh tế rất cao. Cung cấp thực phẩm cho nhân dân Thành phố và một phần cho xuất khẩu. Ngoài ra, Huyện còn có khoảng 13.000ha đất nông nghiệp, có khả năng trồng lúa, cói và một số loại cây công nghiệp như lúa, mía, thơm. Rừng Duyên Hải cũng là một nguồn lợi lớn, chiếm hơn 30.000ha, ngoài việc lấy gỗ, nuôi thú, làm môi trường sinh sản của tôm cá, rừng Duyên Hải còn có thể là nơi du lịch rất lý thú.

2. Về quốc phòng:

Duyên Hải là địa bàn rất quan trọng, các loại tàu thủy muốn vào Cảng thành phố đều phải đi qua Duyên Hải. Duyên Hải là cửa ngõ Đông Nam bảo vệ Thành phố, là tuyến phòng thủ chủ yếu của thành phố, tuyến phòng thủ thứ yếu của Quân khu và nằm trong điểm trọng yếu bảo vệ bờ biển của cả nước.

II. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ THẾ MẠNH CỦA HUYỆN

1. Thủy hải sản:

Được xác định là thế mạnh trong cơ cấu kinh tế của Huyện. Mặc dù ngư dân chỉ chiếm 1/3 dân số trong Huyện với hơn 4.000 lao động (12,6 triệu/4 triệu). Riêng đánh bắt với phương tiện hiện nay, nếu ta chỉ cần đầu tư để duy trì và khôi phục, có phát triển thêm chút ít thì sản lượng cũng đã đạt 50 tấn/ngày, 18.000 tấn/năm. Nếu ta đầu tư, tổ chức đánh bắt tốt thì trong vài năm tới sản lượng đánh bắt hải sản có thể đạt từ 70 – 100 tấn ngày. Sẽ giải quyết cơ bản thực phẩm cho nhân dân thành phố và nâng cao đời sống cho nhân dân trong Huyện. Ngoài ra, Huyện còn có hơn 20.000ha mặt nước, sông rạch, có thể đưa vào nuôi trồng tự nhiên kết hợp với kỹ thuật khoảng 15.000ha, với năng suất 600kg ta cũng đã có mỗi năm 9.000 tấn tôm cá, chưa kể nuôi trồng trong ao, hầm năng suất từ 05 – 10 tấn.

Ngoài ra, dưới biển, trong lòng đất Duyên Hải có nhiều tiềm năng to lớn khác đang được thăm dò và khai thác.

2. Về Nông nghiệp:

Có 13.000 đất trồng trọt, trong đó có 5.000ha trồng lúa, 2.000ha đất trồng cói, 6.000ha đất trồng có khả năng trồng các loại cây công nghiệp như dừa, mía, thơm… Tuy giá trị kinh tế hiện nay của nông nghiệp còn thấp so với ngư nghiệp, nhưng nó có tầm quan trọng rất lớn trong việc bố trí lao động thúc đẩy các ngành khác phát triển. Và đặc biệt ở Duyên Hải còn có những loại đặc sản như: dưa hấu, mãng cầu, mỗi năm thu hoạch cũng vài ngàn tấn rất có giá trị về xuất khẩu. Tương lai 6.000ha đất trồng cây công nghiệp có thể trồng khoảng hơn 3.000ha dừa sẽ mang lại giá trị kinh tế cao. Cho nên trồng lúa coi trọng ngư nghiệp ta cũng không được xem nhẹ vai trò nông nghiệp.

3. Rừng:

Duyên Hải có khoảng 30.000ha rừng sát, ngoài việc cung cấp gỗ, củi, chống xói mòn, giữ phù sa cho đất còn có ý nghĩa, đặc biệt rừng sát gắn liền với thế mạnh ngư nghiệp là nơi sinh sản và môi sinh của các loại tôm cá. Mất rừng là mất thế mạnh của ngư nghiệp và mất đi sự điều hòa khí hậu cho sự sống. Rừng sát còn có ý nghĩa to lớn về quốc phòng là địa hình tốt bảo vệ thành phố. Rừng sát còn là nơi tham quan du lịch rất lý thú, là một trong những nơi ghi lại lịch sử đấu tranh vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân Thành phố, một căn cứ trên mặt nước rất kiên cường trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

4. Nhân dân Huyện Duyên Hải có lòng yêu nước và truyền thống đấu tranh bất khuất và tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng. Đồng bào ở đây có nhiều người có tay nghề giỏi và kinh nghiệm lâu đời trong nghề cá, bước đầu tiếp xúc với kỹ thuật máy móc và đánh bắt. Ở đây, chúng ta còn có thế hệ trẻ đông đảo là những người có bản lĩnh, quen với cuộc sống và nghề nghiệp ở địa phương sẽ là lớp kế thừa và phát huy tốt những thế mạnh của Duyên Hải.

III. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ KHẢ NĂNG KHẮC PHỤC

1. Những mặt yếu:

- Duyên Hải có nhiều tiềm năng, nhưng còn thiếu lao động và chưa có khả năng phát huy hết khả năng lao động, tự bản thân Huyện không có khả năng khai thác hết tiềm năng, phải được thành phố tăng thêm từ 50 đến 70 ngàn lao động với số dân khoảng 200.000 cả mới lẫn cũ.

- Cơ sở vật chất và các công trình phúc lợi công cộng coi như chưa có gì, thiếu hẳn về cơ sở sửa chữa. Đóng mới các loại tàu thuyền, Huyện không đủ sức tiếp thu hết sự chi viện của thành phố trong thời gian qua.

- Khó khăn về nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất, Huyện chưa tìm được nguồn nước ngọt, về mùa mưa thì không đủ phương tiện để chứa, mùa nắng thì thiếu phương tiện vận chuyển nước ngọt từ thành phố về, cố gắng lắm trong thời gian vừa qua Huyện mới giải quyết được một phần nước cho sinh hoạt, nước ngọt không giải quyết được sẽ làm vỡ các kế hoạch sản xuất, bố trí lao động khai thác tiềm năng.

- Cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo, cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn kỹ thuật thiếu, nhất là ở các cơ sở, địa hình chia cắt đi lại khó khăn cũng là trở ngại lớn trong công tác lãnh đạo.

2. Khả năng khắc phục những khó khăn:

Chúng ta hoàn toàn có những khả năng để khắc phục những mặt yếu và khó khăn trên, vì Duyên Hải nằm trong cơ cấu của thành phố, những mặt Huyện yếu thì Thành phố có khả năng chi viện như lao động và cơ sở vật chất, kỹ thuật, cán bộ khoa học và cán bộ chuyên môn và các trường đào tạo cán bộ cho Huyện. Được sự quan tâm chăm sóc của Thành ủy, Ủy ban Nhân dân Thành phố và các sở, ban, ngành, cộng với quyết tâm của toàn Đảng bộ và nhân dân trong Huyện, nhất định chúng ta sẽ xây dựng Duyên Hải trở thành Huyện giàu mạnh ở cửa ngõ Thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu.

B. PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ CHUNG VÀ NHỮNG CÔNG TÁC CỤ THỂ

I. PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ CHUNG

Xác định cơ cấu kinh tế của Huyện là: NGƯ – NÔNG – LÂM NGHIỆP, tập trung sức tiến hành công tác cải tạo và xác lập quan hệ sản xuất XHCN, ra sức phát triển sản xuất, phân bố hợp lý lao động tại chỗ và thành phố đưa xuống. Có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ kỹ thuật nghiệp vụ, cán bộ quản lý kinh tế. Tiếp thu tốt nhất sự chi viện của thành phố, ổn định và cải thiện một bước đời sống nhân dân, phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, giải quyết đủ nước ngọt cho sinh hoạt, từng bước xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu. Luôn luôn cảnh giác sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, giữ gìn trật tự trị an bài trừ tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống mới, con người mới XHCN.

Nhiệm vụ trung tâm trong hai năm 1980 – 1981 của Huyện là: “Tập trung sức tạo một bước chuyển mạnh mẽ về ngư nghiệp, lấy ngư nghiệp làm ngành mũi nhọn để đưa các ngành kinh tế của Huyện đi lên. Chú trọng phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp phuc vụ ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và chăn nuôi. Tăng diện tích trồng trọt và nâng cao sản lượng các loại cây trồng, tạo ra những mặt hàng đặc sản của Duyên Hải góp phần xuất khẩu”. Đồng thời, phát triển chăn nuôi cho cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi, phấn đấu tự túc 2/3 lương thực cho nhân dân trong Huyện. Kiên quyết khắc phục những khó khăn và các mặt còn yếu kém thi đua cùng các quận, huyện nội ngoại thành bước vào thời kỳ xây dựng XHCN và bảo vệ Tổ quốc.

II. NHIỆM VỤ VÀ MỤC TIÊU CỤ THỂ

1. Phát triển sản xuất và tiếp tục cải tạo quan hệ sản xuất:

a) Ngư nghiệp:

Nghề cá ở Huyện Duyên Hải chiếm gần 1/3 dân số, gồm 9.440 nhân khẩu, trong đó có 4.340 lao động chính, 2.200 lao động phụ, còn lại là ăn theo. Có 345 lao động làm thuê và 245 người làm nghề nhỏ, 82 người có kinh nghiệm quản lý và có phương tiện nhưng không trực tiếp đánh bắt hoặc làm nghề khác. Ngoài ra, còn có khoảng hơn 3.000 lao động làm nghề bán ngư (ở các xã nông nghiệp).

- Công cụ sản xuất có 590 khẩu đáy các loại, trong đó có 542 đáy sông cầu, 103 cào te, 136 ghe lưới các loại, 60 ghe câu, 800 đập các loại. Phương tiện dùng cho sản xuất có 488 ghe máy (3.750 CV) 187 ghe chèo.

- Diện tích nuôi trồng khoảng 3.000ha, trong đó nuôi trong ao hầm là 28ha, đắp đập 2.970ha.

- Lao động làm thuê hiện nay là 350 lao động chính, 245 lao động phụ. Số chủ tương đối lớn có từ 05 người làm thuê trở lên là 22 hộ.

Với phương tiện và lực lượng đánh bắt cũng như thực tế hiện nay, mỗi ngày Huyện đánh bắt khoảng 30 tấn đến 36 tấn.

* Chỉ tiêu đánh bắt năm 1980 – 1981:

Trên cơ sở thực tế của ngành đánh bắt trong Huyện cộng với sự đầu tư, tổ chức và hướng dẫn đánh bắt các loại hải sản. Năm 1980, Huyện phấn đấu đạt chỉ tiêu đánh bắt 18.000 tấn/năm, mỗi ngày 50 tấn, những tháng cuối năm 1980 nâng lên 60 tấn và sang năm 1981 tiếp tục đầu tư và phát triển, nâng sản lượng lên mỗi ngày từ 70 đến 100 tấn. Đây là khả năng thực tế mà chúng ta có thể phấn đấu và đạt được.

Thu mua: Huyện cần tăng cường tổ chức, cải tiến khâu thu mua, cố gắng tăng sản lượng tôm xuất khẩu. Phấn đấu mua khoảng 70% sản lượng đánh bắt, bằng 13.000 tấn năm. Thành phần chất lượng hải sản mua được phải đạt:

- 1.000 tấn tôm xuất khẩu

- 2.500 tấn tôm cá ăn tươi

- 5.000 tấn ruốc

- 4.000 tấn cá làm bột cá

- 200 tấn cá làm mắm chua

Ngoài ra, còn một số hải sản khác như: cua, sò v.v… giá trị thu mua được bằng 11,5 triệu đồng.

Tổ chức màng lưới thu mua quốc doanh xuống tận 7 xã, sử dụng tiểu thương có tay nghề buôn bán cá tăng cường cho các trạm thu mua, giải quyết tốt đời sống để thu hút họ. Phấn đấu thực hiện đúng tinh thần bản quy ước mới, bằng mọi biện pháp tích cực nhất. Có chính sách khen thưởng những người bán đạt và vượt chỉ tiêu, nhất là các loại tôm xuất khẩu, khen thưởng cả những anh chị em mua nhiều sản lượng, quản lý tốt hàng hóa và có tinh thần trách nhiệm cao được bà con ngư dân yêu mến.

Đề nghị trên cho trích một phần ngoại tệ để nhập các loại ngư lưới cụ.

* Về vốn và các loại ngư lưới cụ, vật tư, phụ tùng cho đánh bắt:

- Về vốn đầu tư cho phát triển đánh bắt: 1980: 3 triệu đồng

                                                                              1981: 8 triệu đồng

- Vốn đầu tư cho nuôi trồng: Năm 1980 – 1981: 13 triệu đồng

- Vật tư ngư lưới cụ cho đánh bắt năm 1980:

+ Chỉ lưới nylon các loại:                     6.450kg

+ Giây kẽm:                                        130 tấn

+ Nọc đáy:                                          315 cây

Số vật tư trên để bổ sung 60 miệng đáy mới, dặm vá 200 miếng đáy hụ nặng, 390 miệng đáy hụ nhẹ, phục hồi 68 cào te, 136 ghe lưới, phát triển 60 cào te, 100 ghe lưới, 30 ghe cầu. Đầu tư thêm 50 máy nhỏ từ 20 CV trở xuống. Tăng thêm 500 lao động cho đánh bắt, xin trên cấp 500.000 lít dầu và nhớt theo tỷ lệ %, một số lớn phụ tùng máy móc, các loại dây thừng nylon, phao, chỉ v.v… Ngoài ra, trong năm 1980 phải xây dựng cầu cảng ở Cần Giờ, sân phơi cho 3 xã Long Hòa, Cần Thạnh, Thạnh An… Trang bị cho Huyện một số cơ sở sửa chữa nhỏ, các cơ sở chế biến nhằm đảm bảo khâu hậu cần tại chỗ cho nghề cá.

* Chế biến:

Đề nghị trên đầu tư xây dựng một số cơ sở chế biến mắm ruốc, mắm nêm, nước mắm, xay bột cá, bột sò, chủ yếu là dựa trên cơ sở đã có của tư nhân, tổ chức lại, trang bị thêm. Xây dựng mới nhà máy mắm ruốc, công suất 6.000 tấn/năm, nhà máy xay bột cá công suất 3.000 tấn năm, nhà máy nước mắm 400.000 lít. Chỉ tiêu thành phẩm phải đạt:

Năm 1980:              - Nước mắm                                300.000 lít

                              - Mắm ruốc                                    2.500 tấn

                              - Bột cá                                         1.000 tấn

                              - Mắm nêm                                       200 tấn

                              - Mắm chua                                      100 tấn

* Phương hướng nuôi trồng:

Hiện nay, toàn Huyện đã có 3.000ha diện tích mặt nước đang nuôi trồng, chủ yếu dựa vào điều kiện tự nhiên. Trong năm 1980, phát triển thêm 2.000ha, nâng tổng số diện tích nuôi trồng lên 5.000ha, năng suất 5.000 tấn (1ha/1 tấn), tận dụng hết các đập lớn nhỏ, ao hồ, đầm bãi, ruộng ven sông, ven rừng, phát động phong trào “Ao cá Bác Hồ”, “Ao cá tự túc” thật rộng rãi trong nhân dân, cơ quan, trường học… Mỗi nhà, mỗi cơ quan phấn đấu có một ao cá.

* Công tác lãnh đạo và cải tạo nghề cá:

Trước mắt, cuối năm 1979 phải kiện toàn Ban Thủy sản từ Huyện xuống các xã, ở Huyện một đồng chí Thường vụ làm Trưởng ban, ở xã một đồng chí Cấp ủy, nơi chưa có Ban Chi ủy thì phải có một đồng chí Đảng viên phụ trách. Các Cấp ủy, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể phải quan tâm đúng mức việc phát triển sản xuất, quản lý nguồn hàng và giáo dục tốt ngư dân làm nghĩa vụ đối với Nhà nước, hướng dẫn và tổ chức lại sản xuất, củng cố lại đội tàu quốc doanh của Huyện làm nòng cốt trong việc ra khơi đánh bắt, trong năm 1980 các đội tàu quốc doanh phải được trang bị như sau:

- Đội tàu quốc doanh của Huyện                                     10 chiếc

- Huyện đội                                                                   04 chiếc

- Công an                                                                      02 chiếc

- Đoàn 10                                                                      02 chiếc

- Sở Thủy sản 30 chiếc (loại tàu đánh tôm ở ngư trường Duyên Hải)

Trong vài năm tới đây (1980 -1981), nghề cá quần chúng vẫn giữ vai trò chủ yếu trong tổng sản lượng đánh bắt của Huyện, nhưng lực lượng quốc doanh và tập thể tuy còn ít nhưng giữ vai trò quan trọng, nhất là việc làm nòng cốt và hướng dẫn đánh bắt kết hợp làm nghĩa vụ đối với vùng biển chống xâm nhập và vượt biên của kẻ địch. Đối với nghề cá quần chúng trong năm 1980 -1981, ngoài việc đầu tư giúp ngư dân phát triển sản xuất ta cần phải tổ chức họ thành các tổ đoàn kết đánh bắt, quản lý thị trường, quản lý vật tư, giúp những hộ không có phương tiện và ở nơi khác về có phương tiện đánh bắt, năm 1980 thành lập 2 tổ hợp tác đánh bắt ở Long Hòa, Cần Thạnh 1 và thành lập một tổ hợp tác nuôi trồng ở Long Hòa, từ những hợp tác thí điểm này chúng ta rút kinh nghiệm để nắm. Năm 1980, phấn đấu đưa 50% nông dân vào các tổ đoàn kết đánh bắt. Đối với những nghề như đấp đập, cào te ảnh hưởng đến nguồn tôm cá lâu dài, ta cần có hướng nghiên cứu cách đấp đập và đánh bắt như thế nào cho không ảnh hưởng đến loại tôm cá con bảo vệ nguồn giống. Phải thường xuyên tổ chức học tập và giáo dục ngư dân làm tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, đấu tranh với bọn con buôn, quản lý chặt chẽ thị trường, cố gắng tìm những nguồn hàng và đánh một số nhu yếu phẩm ưu tiên cho ngư dân.

b) Nông nghiệp:

Nông nghiệp chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế của Huyện, các ngành, các cấp phải quán triệt đầy đủ Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ về phát triển nông nghiệp, kịp thời uốn nắn những lệch lạc trong chỉ đạo và thực hiện phấn đấu tự túc 2/3 cho nhân dân trong Huyện vào năm 1980. Đồng thời, với việc mở rộng diện tích phải hết sức chú ý các biện pháp kỹ thuật để thâm canh, chuyên canh, tăng vụ, tăng năng suất cho từng loại cây trồng, ổn định diện tích trồng lúa đi đôi với việc phát triển màu và một số loại cây công nghiệp và cây ăn trái như: dừa, mía, thơm, cói, mãng cầu, dưa hấu… nhất là dưa hấu và cói phải mở ra triển vọng phát triển mạnh mẽ cho tiểu thủ công nghiệp, tận dụng đất đai để cấy trồng hết diện tích, ưu tiên những loại cây đặc sản như: dưa hấu, mãng cầu, kiên quyết dành 15 diện tích canh tác để phục vụ chăn nuôi, phấn đấu đưa chăn nuôi đi lên cho cân đối với sự phát triển của đánh bắt, trồng trọt, trước mắt tăng nhanh đàn heo, vịt, có kế hoạch tăng dần đàn trâu, bò, gà…

1. Về cải tạo nông nghiệp:

Xúc tiến ngay việc củng cố 15 tập đoàn đã có bằng nhiều hình thức thích hợp, giáo dục quần chúng, soát xét và bồi dưỡng cán bộ quản lý, kiểm tra việc phân công lao động, kế hoạch, quản lý vốn, vật tư, ăn chia… Xử lý những cán bộ quản lý tập đoàn vi phạm tài chính và vật tư, tài sản của tập đoàn, thay thế những cán bộ không đủ khả năng lãnh đạo. Cố gắng đào tạo từ 300 đến 500 cán bộ quản lý tập đoàn và cán bộ HTX chuẩn bị cho năm 1981. Năm 1980, phấn đấu tổ chức từ 60 – 70% nông dân vào tổ đoàn kết sản xuất thực hiện tốt 3 quản (quản lao động, quản năng suất, quản vật tư...). Các Hội viên các đoàn thể cách mạng làm nòng cốt ở những tổ đoàn kết sản xuất. Đây là bước tập dượt để chuẩn bị cho những năm sau đưa các tổ đoàn kết sản xuất lên hình thức làm ăn tập thể cao hơn. Năm 1981, đưa lên đại trà tổ đoàn kết sản xuất và đưa 50% nông dân vào tập đoàn sản xuất và một HTX thí điểm ở Lý Nhơn. Những tập đoàn khá quần chúng phấn khởi, xây dựng thành những tập đoàn điển hình, Huyện có kế hoạch đầu tư để giúp đỡ xây dựng những tập đoàn đó. Giải quyết dứt điểm những trường hợp tranh chấp đất vào năm 1980. công tác cải tạo phải gắn chặt với công tác xây dựng mà công tác xây dựng là chủ yếu. Cải tạo phải đảm bảo phát triển sản xuất, không nóng vội, chủ quan, không buông trôi do dự; Phải tích cực tạo mọi điều kiện cần thiết và vững chắc để phát triển sản xuất theo hướng XHCN, trên cơ sở đó mà tổ chức lại sản xuất, phân bổ lại lao động, chú ý các thành phần kinh tế tập thể để phát huy tác dụng là ngọn cờ hướng dẫn các thành phần kinh tế khác. Việc đưa nông dân vào làm ăn tập thể phải đảm bảo nguyên tắc tự giác, không chạy theo số lượng, hình thức. Thiết thực nhất là tập trung chỉ đạo để tăng thu nhập so với làm ăn cá thể. Xây dựng cho được 3 tập đoàn điển hình về trồng lúa, 2 tập đoàn điển hình về trồng cói, qua đó mà giáo dục động viên nông dân.

* Về tổ chức lại sản xuất: Đến cuối năm 1980, phải hoàn thành cơ bản việc quy hoạch diện tích canh tác, ổn định diện tích một số cây trồng chính. Phân bổ lại lao động cho phù hợp với sự phát triển của trồng trọt. Khai hoang đến đâu, đưa vào sử dụng ngay đến đó.

* Chỉ tiêu diện tích các loại cây trồng năm 1980:

- Phấn đấu đưa diện tích lúa lên 5.000ha (trong đó khai hoang phục hóa 400ha ở vùng Bình, An, Lý).

+ Năng suất 2 tấn/1 ha, tổng sản lượng năm 1980 là: 10 ngàn tấn.

+ Năm 1981 phấn đấu đưa năng suất lên 2,4 tấn/1 ha, tổng sản lượng năm 1981 là: 12 ngàn tấn.

Đạt được chỉ tiêu đó, ta có thể tự túc được 2/3 lương thực cho dân số toàn Huyện hiện nay, phát triển được chăn nuôi và các nghề khác phát triển. Bảo đảm:

+ Lúa: 350ha (300ha/1979)

            . Sản lượng quy ra thóc: 670 tấn, trong đó:           

Khoai lang: 180ha

Bắp vàng: 100ha

Cao lương và hoa màu khác: 60ha

+ Rau: 30ha (ở khu vực Cần Thạnh, Long Hòa)

+ Cói: Từ nay đến năm 1980 phải định hình cho được 2.000 cói, trước mắt năm 1980 – 1981 trồng cho được 4.000ha.

Năm 1980: Trồng 700ha (Huyện 400ha, các nông trường 300ha) hiện nay Huyện đã có 150ha cói trồng rồi. Năm 1980, trồng 250ha khu vực trồng cói ở Tam Thôn Hiệp, Lý Nhơn, An Thới Đông.

+ Cây ăn trái: Tập trung ở hai xã Cần Thạnh, Long Hòa hai loại đặc sản: dưa hấu và mãng cầu.

. Năm 1980: Dưa hấu: 150ha năng suất 15 tấn = 2.275 tấn

. Mãng cầu: 150ha năng suất 10 tấn = 1.500 tấn

Số diện tích dưa hấu phải đi vào chuyên canh, đầu tư về phần vốn, tổ chức hợp đồng, thu mua sản phẩm cung cấp cho tiêu dùng và xuất khẩu. Diện tích mãng cầu hiện nay, Huyện đã có 70ha, năng suất khoảng 700 tấn. Cần chú ý đầu tư để phát triển thêm 80ha vào năm 1980, có chính sách lương thực với những hộ chuyên làm vườn.

Nghiên cứu phát triển vụ hè thu ở Lý Nhơn và Bình Khánh, phấn đấu đưa diện tích hè thu năm 1980 từ 100ha trở lên, năng suất 2,4 tấn.

* Về chăn nuôi: Phát động các gia đình, đoàn thể, cơ quan, bộ đội phát triển cho những năm sau. Trước mắt, tận dụng mọi nguồn thức ăn và giống tại chỗ, nhanh chóng lập cơ sở xay phân cá để đổi lấy thức ăn cho gia súc. Quan hệ với Sở Nông nghiệp Thành phố để giải quyết tình trạng thiếu con giống. Tổ chức ký hợp đồng hai chiều, kiên quyết đưa 15% diện tích trồng trọt và 40% sản lượng cá phân phục vụ chăn nuôi. Các tổ chức chăn nuôi quốc doanh và tập thể phải vươn lên làm nòng cốt cho phong trào chăn nuôi toàn Huyện.

Dự kiến chỉ tiêu: Năm 1980: 5.000 con heo (1 heo/1 ha trồng trọt)

                              Năm 1981: 10.000 con heo (2 heo/1 ha trồng trọt)

Vịt: 20 con/1 ha = 100.000 con, năm 1981 phấn đấu 40 con/1 ha = 200.000

Gà: 100.000 con

Phấn đấu 1 người có 0,5kg thịt/1 tháng

* Về xây dựng cơ sở vật chất cho nông nghiệp:

Trong vài năm qua, nước mặn có chiều hướng đi lên, các xã phải nhanh chóng hoàn thành các bờ bao ngăn mặn, chú ý tu bổ những chỗ xung yếu, hoàn thành công trình Lê San (An Thới Đông), Thạnh Hòa Hiệp (Long Hòa). Cải tạo và nghiên cứu một số hồ chứa nước ngọt nhỏ, các công trình phải thiết thực có tác dụng ngay cho sản xuất và tăng năng suất. Kết hợp với Sở Thủy lợi tiến hành kè 1,5km bờ biển ở mũi thị trấn vào năm 1980.

- Giống: Xây dựng một trại heo giống 100 con nái, một trạm thí nghiệm cây trồng ở An Thới Đông, quan hệ với Sở Nông nghiệp để chọn giống lúa cho hợp với khí hậu, thời tiết, đất, nước ở Duyên Hải, chuẩn bị đủ 500 ha đất gieo mạ, chủ động mạ để cấy hết diện tích trong mọi tình huống.

- Phân bón, thuốc trừ sâu: Phải có biện pháp tích cực giữ lại chất mùn cho đất, không để bị rửa trôi theo thủy triều. Phấn đấu 1ha gieo trồng có 2 tấn phân hữu cơ bằng cách khai thác các loại phân chuồng, phân tôm cá, phân tráp hoặc bọt núi lửa ở biển, phân xanh các loại, cây lá mục. Đoàn Thanh niên phải là nòng cốt trong phong trào làm phân. Trên cơ sở tận dụng các nguồn phân tại chỗ mà giảm các định mức sử dụng các loại hình phân hóa học. Tuy nhiên, để đảm bảo năng suất trong điều kiện của Huyện cần 560 tấn phân đạm, 215 tấn Kali, 230 tấn lân, 100 tấn vôi, 42 tấn thuốc trừ sâu diệt cỏ.

Về vôi có thể tận dụng vỏ tôm, cua, sò, ốc mà chế biến. Lân có thể thay bằng phân tráp ở bờ biển. Đạm có thể thay bằng phân cá, phân chuồng.

* Sức kéo, nhiên liệu:

Phát huy tinh thần tự lực, giải quyết khâu làm đất và có kế hoạch bố trí chặt chẽ máy móc, nhân lực trâu, bò tại chỗ, kể cả máy móc, trâu bò của tự nhiên. (Ủy ban Huyện có chính sách và giá thống nhất cho các xã).

Về nhiên liệu cần: 23.000 lít xăng, 86.500 lít dầu (định mức)

Chú ý xây dựng sân phơi, kho cho tập đoàn, chuồng trại chăn nuôi một cách thích đáng.

* Về lãnh đạo:

Củng cố ban Nông, Lâm nghiệp của Huyện, tăng cường cán bộ xuống cơ sở, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công tác quản lý, ăn chia... Củng cố và tổ chức ngay đội máy cày của Huyện, sửa chữa lại máy móc. Chú ý tập trung chỉ đạo điểm. Tăng cường các biện pháp kỹ thuật, nghiên cứu tìm ra quy luật, thời tiết khí hậu thích hợp nhất với vụ mùa ở Duyên Hải.

- Ngoài ra, Huyện còn có khoảng 6.000ha có thể trồng các loại cây phục vụ công nghiệp chế biến như dừa, mía, thơm trong đó có khoảng 3.000ha đất có khả năng trồng dừa tốt, đề nghị Thành phố tiến hành thí điểm và cho tiến hành quy hoạch để trồng từng loại cây cho thích hợp.

- Tăng cường cho mỗi xã nông nghiệp một tổ rèn, sản xuất những dụng cụ cầm tay phục vụ cho sản xuất.

c) Lâm nghiệp:

Rừng là một lợi thế trong nền kinh tế của Huyện, rừng cung cấp cho ta: gỗ, củi, mật ong, chất mùn cho đất chống xói lở, lũ lụt, gió bão, cố định phù sa, cải tạo đất, làm môi trường sinh sản cho cá, bảo vệ môi trường sống của con người và đặc biệt là có ý nghĩa to lớn về an ninh quốc phòng và bảo vệ cửa ngõ của Thành phố. Toàn dân phải thấy được lợi ích lâu dài và trước mắt trong việc trồng cây gây rừng và bảo vệ rừng.

* Trồng rừng: Khả năng phát triển rừng đước của ta là 12.000ha, trong hai năm qua Huyện đã trồng được 6.200ha rừng đước, trong hai năm 1980 – 1981 phấn đấu trồng hết diện tích 12.000ha (5.800ha) ngoài ra còn trồng thêm 30.000 cây chắn gió loại phi lao và tràn dọc bờ biển và các con đường ở các xã, đảm bảo tỷ lệ cây giống cao, chú ý trong công tác chọn giống và xin giống ở trên về. Nghiên cứu những vùng đất cao không trồng đước ta trồng những loại cây như: Bần ổi, mắn, già, kiên quyết không để đất trống.

* Bảo vệ rừng: Hiện nay, rừng của Huyện bị phá hoại nghiêm trọng, mỗi ngày có hàng trăm ghe đến lấy củi, chặt phá cả những khu rừng mới trồng. Nếu không bảo vệ được rừng thì sẽ mất đi những thế mạnh của Huyện. Vì vậy, phải nhanh chóng có biện pháp tốt nhất để bảo vệ rừng, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng phá rừng hiện nay.

- Đối với dân làm nghề củi ở Huyện, phải tích cực giúp đỡ chuyển nghề cho họ, tạo cho điều kiện thu nhập cao, đồng thời kiên trì giáo dục cho nhân dân về lợi ích của việc bảo vệ rừng.

- Đối với dân ở các nơi khác, tiếp tục thông báo cho chính quyền địa phương nơi đó để địa phương quản lý và giáo dục. Đồng thời, ta phải tăng cường lực lượng quân đội làm công tác bảo vệ rừng, Ty Lâm nghiệp sẽ chi phí phương tiện, nhiên liệu. Bố trí lại các chốt và tổ chức tuần tra chặt chẽ, quy hoạch lại từng khu rừng, chú trọng những khu vực rừng nguyên thủy và rừng có di tích lịch sử, nơi tham quan du lịch. Biện pháp chủ yếu là giáo dục, nhưng đồng thời cũng nghiêm trị đối với những người ngoan cố không chịu sự giáo dục.

Có chính sách đối với những người làm công tác bảo vệ rừng ở xã, huyện. Kịp thời khen thưởng những người làm tốt công tác trồng và bảo vệ rừng.

d) Nghề muối:

Hiện nay, Huyện ó 100ha ruộng muối, năng suất 35 tấn/1 ha. Nhưng diện tích đất có khả năng làm muối là: 500ha. Năm 1980: Huyện phấn đấu làm 200ha muối tập trung ở Tân An, Long Hòa, Cần Thạnh, Lý Nhơn. Năm 1981, tăng diện tích gấp đôi (400ha). Năng suất trung bình 35 tấn/1 ha. Tổng sản lượng muối năm 1980 là 7.000 tấn. Năm 1981 là 14.000 tấn. Tổ chức các tổ đoàn kết và tập đoàn làm muối, có chính sách đầu tư, lương thực, xăng dầu giúp đỡ bà con làm muối, HTX mua bán của Huyện phải chuẩn bị hợp đồng, tổ chức thu mua điều hòa phân phối cho nhân dân trong Huyện, đồng thời, quan hệ trao đổi hàng hóa với các địa phương Quận – Huyện trên Thành phố, nghiên cứu chính sách chế độ để động viên khuyến khích số bà con làm nghề muối.

2. Thương nghiệp, vật tư, đời sống:

Là những ngành phục vụ đắc lực nhất cho đời sống, sản xuất, xây dựng và sẵn sàng chiến đấu ở địa phương, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hai bữa ăn hàng ngày của quần chúng. Trước mắt, trong tháng 12/1979, phải kiện toàn Ban thương nghiệp vật tư, đời sống. Theo mô hình mới, nhanh chóng đi vào hoạt động, đưa Ban này theo kịp với đà phát triển của Huyện.

Nghiệp vụ của từng ngành phục vụ:

a) Thương nghiệp quốc doanh và HTX mua bán: Phải làm hết chức năng và đúng với quan điểm phục vụ của ngành, kết hợp chặt chẽ giữa chỉ tiêu kinh doanh và phục vụ đời sống, sản xuất, xây dựng, sẵn sàng chiến đấu, mà quan điểm phục vụ là chính, ngay từ tháng 01 năm 1980 tiến hành điều tra, cải tạo thị trường, đề nghị Sở Thương nghiệp bàn giao Công ty cấp 3 cho Huyện, có đủ người hoạt động, củng cố ngay thương nghiệp và HTX mua bán Huyện, đi vào hoạt động đúng chức năng, nắm chắc các nguồn hàng ngư nông, hải sản ở địa phương, quan hệ các ngành thành phố và các địa phương khác trao đổi hàng hóa, nhận đủ hàng tiêu chuẩn của cán bộ, công nhân viên và nhân dân cung cấp đúng thời gian, đủ định lượng, đúng đối tượng. Nhất là các mặt hàng thiết yếu như: vải, đường, sữa, xà bông, bột ngọt và một số hàng hóa ngoài kế hoạch.

- Xây dựng cửa hàng bách hóa tổng hợp ở Huyện với quy mô lớn, tăng các mặt hàng phục vụ hợp với thị hiếu ở địa phương, mở một cửa hàng vật liệu xây dựng bán tole, cây, đinh, bản lề các loại v.v... Một cửa hàng kim khí điện máy, một cửa hàng thực phẩm công nghệ phục vụ đủ đường, sữa cho bệnh viện và trẻ theo chế độ, chạy lo đủ hàng Tết phục vụ cho nhân dân trong huyện.

- HTX Mua bán của Huyện củng cố màng lưới ở dưới các xã, hướng dẫn nghiệp vụ, cung cấp thêm hàng hóa, tăng cường các mặt hàng tự doanh, mở cho được một cửa hàng bách hóa và một cửa hàng thực phẩm ngoài các mặt hàng thương nghiệp quốc doanh cung cấp. Huyện, xã phấn đấu trong quý I/1980 chạy lo mỗi ngày 2,5 tấn rau quả, mỗi người 01 tháng 02 lít nước chấm và khoảng 15 đồng/người, các loại hàng tự doanh khác như: xà bông 0,30kg, đường tán 0,50kg, dầu mỡ 0,20, rượu, thuốc hút... Nhận phân phối từng ngày tiêu tôm, cá mỗi ngày 0,200kg đầu người cho CB-CNV trong Huyện.

- Quý I/1980, Sở Ăn uống thành phố xây dựng một nhà khách tại Huyện khoảng 100 người ở và một nhà ăn tập thể 300 người, khoảng tháng 02/1980 mở quầy giải khát và giải quyết ăn sáng cho CB-CNV với giá vừa phải. Thương nghiệp của Huyện phải đeo bám, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho Sở Ăn uống hoàn thành sớm.

b) Vật tư: Là hậu cần của sản xuất, xây dựng ngành vật tư cùng Ban Kế hoạch và các ngành kinh tế khác, nghiên cứu, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của ngư nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và xây dựng, phải tiếp nhận nhanh chóng quản lý chặt chẽ, phân phối đúng đối tượng và kịp thời. Củng cố lại hệ thống kho tàng, có chế độ kiểm tra thường xuyên, tránh hư hao thất thoát, xử lý và ngăn chặn kịp thời những vụ vi phạm vật tư, tài sản của Nhà nước, quy trách nhiệm cho từng cá nhân phụ trách.

- Tách cửa hàng phụ tùng máy móc và ngư lưới cụ, vật liệu xây dựng ra khỏi xí nghiệp Vật tư Tổng hợp thành hai cửa hàng riêng (Cửa hàng vật tư Xây dựng thuộc của phòng Xây dựng Huyện, cửa hàng Ngư lưới cụ máy móc phụ tùng thuộc Ban Thủy sản Huyện).

c) Lương thực: Là cơ quan quản lý, phân phối điều hòa lương thực trong toàn Huyện cho cân đối hợp lý. Góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế đào tạo đội ngũ cán bộ phát triển. Tiến tới tự túc 2/3 lương thực vào năm 1980. Ngành lương thực phải nhanh chóng nắm chắc lực lượng, phối hợp với các ban, ngành địa phương chuẩn bị tốt công tác ba thu ở các xã nông nghiệp (thu thuế, thu nợ, thu mua nghĩa vụ). Chuẩn bị hệ thống kho tàng chắc chắn, bảo đảm, quản lý lương thực chặt chẽ, bảo đảm thu đủ, thu hết số nợ mua vải năm 1979... tấn. Thu thuế nông nghiệp 1977, 1978, 1979 lên ... đến ..., thu mua nghĩa vụ năm 1979 ... đến ... năm 1981 có hệ thống kho kiên cố ở khu vực Bình Khánh, An Thới Đông, Tam Thôn Hiệp, Long Hòa, Cần Thạnh có sức chứa khoảng 2.500 tấn. Có kho dự trữ từ 500 – 700 tấn trở lên. Tăng cường đủ cán bộ công nhân viên cho ngành lương thực, cải tiến lề lối phục vụ tốt hơn, đảm bảo cho những người nằm bệnh viện không phải ăn độn, các lớp học văn hóa và đào tạo của cán bộ ăn tiêu chuẩn 16kg theo đúng quy định của Nhà nước, ngoài ra, có dự trù cho khách của các ngành đến làm việc. Cấp ủy, ban ngành, chính quyền, đoàn thể trong Huyện nhất là các xã nông nghiệp kết hợp cùng ngành lương thực phấn đấu đạt chỉ tiêu kế hoạch thu mua, tiếp nhận và phân phối lương thực Qua hai năm 1980 ..., 1981.

3. Ngân hàng, tài chính giá cả, bưu điện:

a) Ngân hàng: Tăng cường công tác tín dụng, quản lý chặt chẽ chế độ tiền tệ, động viên mỗi cán bộ, công nhân viên và nhân dân tham gia tích cực gởi tiết kiệm. Giải quyết nhanh chóng, đúng chính sách, đúng thủ tục cho vay, gởi tiền, rút tiền, chi tiền mặt, giám sát chặt chẽ phát huy hiệu quả kinh tế trong việc cho vay, chú trọng đầu tư các ngành kinh tế của Huyện, nhất là các ngành mũi nhọn như các ngành mũi nhọn như các ngành thuộc nghề cá, tôm, nông nghiệp cấy lúa trộn cói và các loại cây ăn trái và chăn nuôi heo, vịt, diện tập thể và gia đình, thiết thực góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.

- Năm 1980, mở thêm một chi nhánh ở Bình Khánh mở rộng màng lưới tín dụng và quỹ tiết kiệm xuống từng xã.

Có kế hoạch và biện pháp thu hết nợ khu vực tập đoàn và tư nhân, từ trước đến nay, kiểm tra thật sát với chủ vay để uốn nắn đúng hướng vào sản xuất, chăn nuôi... trong Quý I/1980 phải giải quyết cho xong những vụ nợ quá hạn từ trước đến nay.

b) Tài chính, thuế, giá cả: Tận dụng hết các nguồn thu trong Huyện, thực hiện đúng chính sách thuế, giá cả, kiểm tra, giám sát các cơ sở kinh doanh và sản xuất, giáo dục, động viên nhân dân làm tốt nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, đồng thời kiên quyết thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các thứ thuế và nợ của từng năm không để kéo dài.

- Phục vụ tốt vốn đầu tư cho các công trình xây dựng sản xuất, kinh doanh và khu vực hành chính, đảm bảo chỉ tiêu thu chi năm 1980 – 1981, kiểm tra chặt chẽ, quản lý phân phối nhanh chóng các  tài sản của Huyện như: ghe tàu, máy móc v.v… Dám đầu tư cho sản xuất, đào tạo cán bộ vận dụng chính sách đòn bẫy kinh tế vào các ngành.

c) Bưu điện: Phải đảm bảo liên lạc thông suốt trong mọi tình huống, theo đúng phương châm bí mật, nhanh chóng, kịp thời, chính xác, đối với các chỉ thị, công văn tài liệu, báo cáo giữa thành phố và huyện, củng cố mạng lưới liên lạc vô tuyến giữa Huyện và các xã đưa công tác kiểm tra, bảo quản đường dây vào nề nếp chế độ, chấn chỉnh tác phong làm việc, nâng cao chất lượng công tác.

- Phấn đấu tiếp nhận, phát hành nhanh nhất các điện tín, thư từ, sách báo, bưu phẩm, bưu kiện... đến các cơ quan và nhân dân, tránh thất thoát, chậm trễ, có kế hoạch bảo vệ máy móc, điện đài, tài liệu mật và các phương tiện làm việc khác.

Có kế hoạch nhanh chóng tiến hành xây dựng cơ sở làm việc của bưu điện Huyện trong năm 1980.

4. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải:

a) Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp:

- Tiếp nhận nhà máy nước đá, năm 1980 mở rộng từ 250 cây/ ngày lên 400 – 500 cây/ ngày, năm 1981 mở rộng 600 – 700 cây/ ngày, mở rộng nhà máy điện nâng công suất lên 1.500 KW/giờ cho trạm sữa chữa hoạt động đầu năm 1980 trong tiểu tu các loại máy móc, tàu thuyền, xây dựng 5 trạm sửa chữa nhỏ và sản xuất công cụ cầm tay cho các xã và các nông trường ở Bình Khánh, Tam Thôn Hiệp, An Thới Đông, Long Hòa, Thạnh An, Trạm cơ khí của Huyện năm 1980 – 1981 nghiên cứu làm máy chẻ cói và một số phụ tùng đơn giản.

- Xây dựng hệ thống nhà máy xay mắm ruốc, công suất 6.000 tấn/năm, một nhà máy làm nước mắm 100.000 lít – 400.000 lít/năm, một nhà máy xay bột cá 300 tấn/năm. Ngoài ra, còn chú ý phát triển nghề dệt cói để tiêu thụ cói, tăng thu nhập cho nhân dân. Tháng 01/1980 phải xây dựng hai tổ mắm ruốc ở Long Hòa và Cần Thạnh.

Trước mắt phải đảm bảo cho nhà máy nước đá, nhà máy điện, trạm cơ khí hoạt động liên tục có năng suất phải lên kế hoạch đào tạo cán bộ và kèm cặp anh em thợ. Trong 03 – 06 tháng phải có công nhân thay thế, một đến hai năm có cán bộ kỹ thuật giỏi. Xây dựng chỗ ăn, ở làm việc cho từng xí nghiệp, giải quyết tốt đời sống cho công nhân an tâm công tác tốt.

b) Giao thông vận tải:

* Đường thủy:

- Năm 1980, giải quyết ghe tàu đi lại từ Huyện về thành phố một ngày một đổi tàu chạy (hai chiếc chạy lên và hai chiếc chạy xuống) để phục vụ cán bộ nhân dân đi lại tốt hơn.

- Giải quyết phương tiện đi lại giữa Huyện và các xã.

- Giải quyết phương tiện đi lại giữa các xã với nhau dễ dàng, thuận lợi và hợp lý.

- Giải quyết giữa Huyện sang Vũng Tàu, mỗi ngày 04 chuyến đi về (sáng 2 và chiều 2)

- Đảm bảo phương tiện để vận chuyển nước ngọt từ Nhà Bè về các xã và các nông trường (Sở Công trình Công cộng chịu trách nhiệm đưa nước ngọt về đầu đường ống Phú Xuân – Nhà Bè).

- Sở Giao thông Vận tải: Tặng cho Huyện 04 chiếc tàu xi măng lưới thép (trọng tải 10 tấn/1 chiếc), tăng 400 tấn/ chuyến năm 1980 tăng gấp đôi (800 tấn).

- Cuối năm 1979 tăng một xà lan chở nước ngọt – 250m3 và một tàu kéo, giải quyết 2 xe citel chở nước từ bến về các cơ quan và các xã Long Hòa, Cần Thạnh.

* Đường bộ:

Năm 1980 tăng thêm 05 xe lam sửa chữa tốt số hiện có  (15 chiếc để đảm bảo phục vụ trên tuyến đường bộ.

Sửa chữa 13km đường bộ từ Cần Thạnh đi Long Hòa vào đầu năm 1980, sửa chữa hệ thống đường trong thị trấn Cần Giờ, trong Quý I hoàn thành.

Ngoài ra, còn nạo vét bến đò Cần Giờ, đảm bảo 2m nước lúc thấp nhất để tàu thuyền ra bờ dễ dàng, không phải chờ con nước, xây dựng một cơ sở sửa chữa thủy, bộ. Đồng thời, tiến hành cải tạo giao thông, tổ chức thành từng tổ trên tuyến đường, quản lý chặt chẽ đảm bảo an ninh và kiểm soát kinh tế.

c) Quy hoạch – kiến thiết xây dựng:

* Quy hoạch: Phải nhanh chóng điều tra, nghiên cứu, nắm chắc các số liệu khoa học để phục vụ tốt việc quy hoạch các vùng kinh tế… Vùng ngư nghiệp đánh bắt nuôi trồng – vùng nông nghiệp lúa 2 vụ, 1 vụ, cói, màu, cây đặc sản. Vùng lâm nghiệp 2 vùng nguyên thủy, du lịch, rừng đước, rừng thiên nhiên v.v… khu vực cây công nghiệp: vùng dứa, mía, thơm, vùng khai thác và khu vực xây dựng hành chính, thị trấn, xí nghiệp nhà máy v.v… trong năm 1980 hoàn thành cơ bản việc quy hoạch để phục vụ cho các kế hoạch kinh tế trước mắt và lâu dài. Tổ quy hoạch của Huyện cần tranh thủ sự giúp đỡ của Viện Quy hoạch thành phố nhằm nắm chắc lao động, tài nguyên, đầu tư tổ húc sản xuất.

* Xây dựng kiến thiết: Ngành kiến thiết xây dựng của Huyện phải khẩn trương củng cố tổ chức. Trong quý I năm 1980, thành lập 2 đội phi công, mỗi đội 50 người, trong đó có một số có tay nghề khá và giỏi. Hoàn thành các công trình trong năm 1979 còn dở dang, nhanh chóng lập kế hoạch, phi công dứt điểm từng công trình phục vụ ngư, nông, lâm, công nghiệp, giao thông vận tải, các cơ quan hành chính, y tế, giáo dục v.v… nhu cầu Cảng, sân phơi, trại giống, bến xe, bệnh viện Huyện, bệnh xá xã, 50 phòng học, nghĩa trang liệt sĩ, hội trường của Huyện, trụ sở văn phòng Huyện ủy và một số cơ quan hành chính khác, chú ý mỗi công trình xây dựng điểm có bể chứa nước dùng trong 6 tháng mùa mưa, làm chỗ chứa cho 6 tháng mùa khô.

Đảm bảo năm 1980, Sở Xây dựng đưa xuống Huyện 400 bể tròn chứa nước 1 chiếc/10m3 – 25 xà lan chứa nước 1 chiếc 25m3 cho các nông trường và một số xã – bảo đảm có đủ phương tiện chứa nước 6 tháng mùa mưa dự trữ cho mùa khô 1980: 0,2m3/1 người, năm 1981: 0,5m3/1 người.

Ban Xây dựng phải cử cán bộ đeo bám các cơ quan chủ quản để việc xây dựng được nhanh chóng.

5. Thông tin văn hóa, y tế, giáo dục, nhà trẻ:

a) Thông tin văn hóa: Phải đẩy mạnh hoạt động để góp phần tích cực vào việc xây dựng cuộc sống mới, con người mới XHCN trong năm 1980 và trước mắt phải tăng cường cán bộ đảm bảo đủ khung cho Ban Thông tin Văn hóa.

Quý I/1980, xây dựng một Hội trường khoảng 1.000 – 2.000 chỗ ngồi. Mỗi xã xây dựng một Nhà Văn hóa, lắp 2 sân khấu ngoài trời ở Long Hòa, Cần Thạnh, đảm bảo ở một số nơi công cộng có trung bình mỗi cụm dân cư có một tờ báo Sài Gòn Giải phóng hoặc báo Nhân dân, tận dụng các phương tiện có trong dân như radio, truyền hình để làm công tác tuyên truyền. Năm 1980, xây dựng một Đài Phát thanh sóng cực gắn ở Huyện và củng cố hệ thống loa ở 7 xã, thành lập một Đội phân công tổng hợp của Huyện, đẩy mạnh phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng, thành lập thêm một Đội phim, đảm bảo mỗi người xem được một tối phim/1 tháng, Huyện cố gắng ra một Tờ tin.

Cung cấp nghe đài cho nhân dân, thành lập một cửa hàng sửa chữa radio, truyền hình cho nhân dân.

Gởi cán bộ lên Sở Thông tin Văn hóa Thành phố đào tạo thêm về nghiệp vụ để về làm việc.

b) Về Y tế: Phải được quan tâm nhiều hơn nữa để chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trong Huyện được tốt hơn. Đầu năm 1980, tiến hành xây dựng và sớm hoàn thành bệnh viện Huyện 50 giường, xây dựng thêm 02 phòng khám khu vực ở An Thới Đông và Tam Thôn Hiệp. Củng cố 7 Trạm xá và Nhà hộ sinh ở các xã. Bảo đảm đủ thuốc cho bệnh nhân trong Huyện khi cần thuốc. Nhận đủ tiêu chuẩn thuốc 2đ/1 người 1 tháng cho cán bộ công nhân viên những loại thuốc thích hợp với các loại bệnh thường gặp do thời tiết, khí hậu của Huyên Hải. Nếu tiêu chuẩn thuốc của CB-CNV không hết thì tăng cường cho diện nhân dân.

Tích cực cử người đi bồi dưỡng hoặc đào tạo ngắn hạn, dài hạn đồng thời tích cực xin Sở Y tế chi viện để đảm bảo có đủ Bác sĩ, Y sĩ, Y tá, Dược sĩ, Duợc tá cho bệnh viện Huyện và Trạm xá xã.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động sâu rộng trong nhân dân phong trào vệ sinh phòng bệnh, xây dựng các công trình cầu tiêu hợp vệ sinh, hợp điều kiện hoàn cảnh của Duyên Hải. Lấy Cần Thạnh làm xã điểm về phong trào nếp sống văn hóa mới và phong trào vệ sinh phòng bệnh. Đảm bảo mỗi năm khám bệnh 2t các ổ vi trùng dịch.

c) Về giáo dục, nhà trẻ: Hiện nay, trình độ văn hóa của Huyện nói chung rất thấp kém, phong trào giáo dục đã có nhiều cố gắng, nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu. Phải làm cho toàn Đảng bộ và nhân dân thấy rõ tầm quan trọng của công tác giáo dục, từ đó có ý thức trách nhiệm và sự chăm sóc đúng mức và thích đáng từ việc xây dựng trường lớp, vận động con em đi học, đến chăm lo đời sống của thầy, cô giáo để anh chị em an tâm công tác.

Phải bằng mọi cách đưa 7.000 cháu trong tuổi đi học được cắp sách đến trường, phải đảm bảo cho các cháu được học hết cấp 3, học lên Đại học. Duyên Hải phải có Bác sĩ, Kỹ sư, thầy giáo của mình, đảm bảo đủ trường lớp cho các cháu.

Thành phố đảm bảo cung cấp đủ vật tư xây dựng 50 phòng học, trong đó ½ bán kiên cố, ½ bằng vật liệt thường như cây lá miễn là đủ phòng cho các em học. Sở Giáo dục đảm bảo đủ thầy cô giáo, nhất là giáo viên cấp 2, 3. Nghiên cứu xây dựng trường cấp 2 – 3 nội trú (đối với những em ở xa) ở Bình Khánh và Cần Thạnh.

Đẩy mạnh phong trào bổ túc văn hóa nhất là cán bộ trẻ, thanh niên. Xây dựng nhanh chóng trường bổ túc văn hóa tập trung cho cán bộ. Trong quý I/1980, phát động một phong trào bổ túc rộng rãi trong quần chúng, nhất là thanh niên, xóa nạn mù chữ cho 500 người (trong số 1.000 người mù chữ), mở các trường cấp 1, 2, 3, bổ túc văn hóa cho cán bộ công nhân viên và nhân  dân trong Huyện.

Năm 1980: Xây hai nhà trẻ ở Cần Thạnh, Lý Nhơn xây dựng và củng cố 25 lớp Mẫu giáo, bồi dưỡng đủ số các cô nuôi dạy trẻ. Có kế hoạch cho nhà trẻ cả năm 1981, tăng gấp đôi số  lượng các lớp Nhà trẻ và Mẫu giáo. Có chính sách đối với các cô Mẫu giáo và cô nuôi Dạy trẻ.

6. Xây dựng đoàn thể:

Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nhằm huy động toàn dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Huyện ủy. Phấn đấu hoàn thành những mục tiêu năm 1980 – 1981 nhiệm vụ hết sức nặng nề nhưng vô cùng vẻ vang. Điều hết sức cần thiết phải xây dựng các đoàn vững mạnh về chính trị và tổ chức.

 a) Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh:

Phải vươn lên mạnh mẽ, nhanh chóng củng cố và phát triển tổ chức của mình cả số lượng và chất lượng, đủ sức hoàn thành và xuất sắc nhiệm vụ xung kích của mình trên mặt lao động, sản xuất học tập, công tác và phục vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, trước hết Đoàn phải thu hút được đông đảo lực lượng thanh niên trong Huyện hướng vào những phong trào thi đua trên các mặt: Ngư nghiệp, Nông nghiệp, Lâm nghiệp v.v… từ đó mà xây dựng nhân tố mới phát triển Đoàn và giới thiệu Đoàn viên ưu tú cho Đảng.

Năm 1980, phải thu hút cho được 80% thanh niên vào các tổ chức, phấn đấu đạt 90% cơ sở Đoàn mạnh, không có cơ sở Đoàn yếu kém. Trong hai năm 1980 – 1981, mỗi Đoàn viên phải được phân công thanh niên ở khu vực mình làm công tác giáo dục, chính trị tư tưởng, hướng dẫn thực hiện, phát huy quyền làm chủ tập thể thực hiện nếp sống văn hóa mới vui khỏe, lành mạnh, củng cố các Ban Chấp hành từ Huyện xuống xã, mỗi xã phải có Ban Chấp hành mạnh, ở các Chi đoàn vùng nông nghiệp phải có ½ Đoàn viên vào các tập đoàn sản xuất, làm nòng cốt sản xuất, phần lý ở các tập đoàn, ở vùng ngư nghiệp phải phát triển Đoàn viên và đưa Đoàn viên đến các tổ đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và các ngành khác.

Đối với công tác thiếu niên nhi đồng, Đoàn Thanh niên cần quan tâm hơn nữa, giáo dục, động viên đưa các em vào tổ chức, đoàn thể, hướng dẫn các em những hoạt động vui vẻ và bổ ích, giáo dục các em lễ phép và giữ vệ sinh, làm cho các em biết sống có văn hóa, chăm học, chăm làm, đoàn kết thương yêu mọi người, Cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể các cấp hết sức quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện cho các em đến tuổi đi học được đến trường, chăm sóc các em về vật chất và tinh thần, phấn đấu năm 1980 đưa 70% các em vào sinh hoạt ở tổ chức Đội. Năm 1981 đạt 90%, mỗi Đội có chương trình thi đua, hoạt động như kế hoạch nhỏ, giúp đỡ nhau học tập, phấn đấu trở thành cháu ngoan Bác Hồ v.v… kịp thời biểu dương, khen thưởng các em.

b) Hội Liên hiệp Phụ nữ: Trong mấy năm qua, Hội đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng và củng cố tổ chức của mình, nhưng so với yêu cầu chung thì tổ chức phụ nữ còn nhiều mặt yếu kém, cần phải nhanh chóng khắc phục. Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay Hội phải tăng cường giáo dục các tầng lớp chị em về vai trò trách nhiệm của người phụ nữ mới đối với Tổ quốc, xã hội, gia đình về xây dựng và cải tạo XHCN. Phấn đấu năm 1980, tập hợp 80% chị em vào Hội. Năm 1981, 100%, tổ chức thành các Hội, Mẹ chiến sĩ, tổ hòa giải, góp phần vào việc điều hòa phân phối và cải thiện đời sống cho chị em, bảo đảm cho chị em được tham gia học tập và hoạt động xã hội, thực hiện nam nữ bình đẳng, vận động chị em đăng ký “Gia đình văn hóa mới”, giáo dục động viên chồng, con, em làm tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước. Các Chi bộ xã cần xác định vai trò phụ nữ trong xây dựng và cải tạo XHCN trong giai đoạn mới, đặt trách nhiệm mình lãnh đạo hướng dẫn Hội Phụ nữ hoạt động đúng chức năng. Phát triển Hội viên trong tập đoàn sản xuất lúa, cói, các ngành sản xuất, phân phối khác, làm nòng cốt trong phong trào sản xuất các Ban Chấp hành, Ban Cán sự bám sát Hội viên, sát cơ sở, đấu tranh cho quyền lợi phụ nữ, giúp chị em biết cách tuyên truyền vận động trong quần chúng. Đoàn kết tương trợ, giúp đỡ những chị em gặp khó khăn trong đời sống và công tác.

c) Liên hiệp Công đoàn: Trước mắt, phải thành lập Liên hiệp Công đoàn Huyện vào đầu năm 1980, có đủ đội ngũ cán bộ (lấy từ cơ sở và xin Thành phố chi viện) thành lập và củng cố các Công đoàn cơ sở ở những đơn vị có công nhân viên chức, đi vào hoạt động, đẩy mạnh phong trào thi đua, khắc phục khó khăn, thực hành tiết kiệm, chăm lo đời sống, tinh thần vật chất cho cán bộ công nhân viên chức năm 1980, phát triển 100% cán bộ công nhân viên vào tổ chức Đoàn, Công đoàn phải nhanh chóng và hoạt động có nề nếp đúng chức năng nhiệm vụ, phấn đấu có phong trào Công đoàn vững mạnh.

d) Hội Nông dân tập thể: Nông hội là một tổ chức rộng rãi của quần chúng nông dân, nông dân ở Huyện Duyên Hải chiếm 2/3 dân số. Muốn động viên giáo dục và nâng cao giác ngộ cho lực lượng quần chúng nông dân thì phải kiện toàn tổ chức Nông hội từ Huyện xuống các cơ sở, phối hợp với các tổ chức cách mạng khác, đẩy các phong trào ở nông thôn tiến lên mạnh mẽ. Nông hội phải giáo dục, vận động nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể bằng tổ đoàn kết sản xuất, tập đoàn sản xuất HTX.

Động viên bà con thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước, năm 1980 đưa 50% số nông dân vào tổ chức đoàn kết. Năm 1980 đưa số đoàn kết sản xuất lên tập đoàn sản xuất và đưa 50% còn lại lên đoàn kết sản xuất. Làm tốt công tác 3 quản (quản sản lượng, quản vật tư, quản lao động). Năm 1980, đưa 30% nông dân vào Hội, năm 1981 đưa 70% vào Hội hoạt động có chất lượng.

Các Ban Chấp hành Nông hội và Ban Cán sự ấp và Hội viên Nông hội đều phải làm nòng cốt hướng dẫn trong các tổ đoàn kết sản xuất, tập đoàn sản xuất và HTX, làm chủ sản xuất, phân phối.

7. Công tác Nội chính:

Hoàn toàn chiụ sự lãnh đạo của Đảng, là công cụ đáng tin cậy của Đảng, chính quyền địa phương.

a) Công tác an ninh: Lực lượng Công an của Huyện, xã và Công an khu vực, phải được tăng cường củng cố tổ chức tốt mạng luới an ninh nhân dân, kết hợp với các ban, ngành, đoàn thể phát động sâu rộng trong quần chúng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, nâng cao cảnh giác đập tan mọi luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc và chiến tranh tâm lý của địch, phát hiện những phần tử xấu, trộm cướp và chống đối cách mạng, giữ gìn trật tự xã hội, bài trừ nạn cờ bạc, đề, kết hợp cải tạo thị trường v.v… kịp thời ngăn chặn và dập tắt những vụ việc nghiêm trọng, có kế hoạch, phương án chống xâm nhập và vượt biên trái phép.

Củng cố các Đội hình sự, kinh tế, chấp pháp, chính trị nội bộ, trại giam… làm tham mưu đắc lực cho Cấp ủy về mọi mặt, nắm chắc dân và từng đối tượng, bảo vệ an toàn các cơ quan Đảng, chính quyền, kho tàng và những vùng trọng yếu. Quản lý chặt chẽ công tác trị an ở từng xóm, ấp, bảo đảm an ninh cho các loại tàu, thuyền, tích cực tham gia trực tiếp vào công tác cải tạo XHCN.

Tăng cường giáo dục rèn luyện đội ngũ cán bộ, chiến sĩ an ninh có phẩm chất, đạo đức và năng lực, đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ, quản lý chặt chẽ đơn vị, ngăn chặn biểu hiện suy thoái, chủ động đối phó những tình huống có thể xảy ra.

b) Quân sự địa phương: Phải quán triệt trong cán bộ chiến sĩ thông suốt 2 nhiệm vụ hiện nay của Quân đội là bảo vệ Tổ quốc và xây dựng kinh tế. Ra sức phát huy bản chất tốt đẹp của quân đội, nâng cao sức mạnh chiến đấu. Chăm lo xây dựng lực lượng quân sự vững về chính trị, mạnh về tổ chức, giỏi về chiến thuật, chăm lo đời sống anh em về ăn, ở, thuốc uống, xây dựng tình thương yêu đồng đội trong bộ đội, dân quân, tự vệ. Nâng cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu của các thứ quân. Vận động thanh niên làm tốt nghĩa vụ quân sự, đảm bảo chỉ tiêu trên giao. Xin lại ½ quân số bổ sung cho Huyện, xây dựng các phương án tác chiến trên sông biển, trên bộ, trên rừng, tham gia công tác bảo vệ rừng, đầu năm 1980 thành lập một Đại đội bảo vệ rừng, một đồng chí Huyện Đội phó phụ trách công tác này.

Mỗi xã 1 Tiểu đội du kích mạnh, được trang bị đầy đủ, có trợ cấp và tiêu chuẩn như Công an xã, ăn, ở tập trung, tổ chức huấn luyện sát với thực tế ở địa phương.

Đẩy mạnh công tác tăng gia tự túc, xây dựng đội tàu cá 6 chiếc, phấn đấu năm 1980 đạt 300 tấn cá trở lên. Kết hợp chặt chẽ với việc tuần tra, đánh địch trên sông biển.

Cùng các ban, ngành liên quan giải quyết tốt công tác hậu phương quân đội. Trong năm 1980, quy tụ hết số liệt sĩ về nghĩa trang của Huyện. Trước mắt, quý I/1981 thu gom hết số thanh niên đào bỏ ngũ. Xây dựng hoàn chỉnh tuyến phóng thủ quân sự ở bờ biển Long Hòa, Cần Thạnh trong năm 1980, hỗ trợ kè đá bờ biển.

c) Công tác kiểm soát, Tòa án, Thanh niên: Phải nhanh chóng củng cồ của từng ngành, xin trên thêm cán bộ ngành dọc tìm người đào tạo, giải quyết những khó khăn đời sống, công tác phương tiện làm việc cho các cơ quan này để đủ sức hoàn thành chức năng của mình, thi hành tốt nhất pháp luật của Nhà nước.

 Giáo dục cán bộ, Đảng viên, quần chúng tự giác chấp hành pháp luật, ngăn ngừa và xử lý kịp thời những vụ vi phạm pháp luật, xem xét kỹ lưỡng, giải quyết thích đáng những tố giác, kiến nghị, khiếu nại của nhân dân, kiểm tra, giám sát và đưa mọi hoạt động của chính quyền, xã hội vào khuôn khổ pháp luật. Phấn đấu không để kéo dài những vụ việc, tập trung giải quyết dứt điểm những vụ nghiêm trọng, kết hợp tốt giữa các cơ quan trong khối nội chính và dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của các Cấp ủy. Các Cấp ủy, ban, ngành, Ủy ban tạo mọi điều kiện cho các cơ quan kiểm soát, tòa án, thanh tra hoạt động tốt.

8. Công tác xây dựng Đảng:

Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Do đó, phải hết sức quan tâm công tác củng cố và xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức, phải kết hợp chặt chẽ giữa củng cố, xây dựng và phát triển Đảng. Đồng thời, nâng cao phẩm chất đạo đức năng lực lãnh đạo, tổ chức, quản lý và tổ chức thực hiện của cán bộ Đảng viên, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

a) Công tác chính trị, tư tưởng: Có kế hoạch triển khai Nghị quyết của Đảng bộ ra ngoài Đảng viên, Đoàn viên, quần chúng. Làm cho mọi người thông suốt và thống nhất cao đối với phương hướng, nhiệm vụ và chỉ tiêu trong hai năm tới, thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng tinh thần cách mạng cho Đảng viên, quần chúng nâng cao tinh thần tự giác, đồng thời quy định trách nhiệm khắc phục khó khăn, phát huy sáng tạo và quyền làm chủ tập thể, thực hiện thắng lợi, nhiệm vụ của Đại hội Đảng bộ đã vạch ra.

Tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kịp thời đập tan mọi thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc của địch, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn đẩy lùi mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, khắc phục khó khăn, tác phong trí tuệ, dao động tư tưởng hưởng lạc, thoái hóa cục bộ, công thần và mọi biểu hiện trái với bản chất của người cộng sản, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất cao trong Đảng và giữ gìn uy tín thanh danh của Đảng. Tiếp tục làm tốt Chỉ thị 20-20 và Chỉ thị đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực.

b) Công tác tổ chức: Kiện toàn các cơ sở Đảng và phân công các Cấp ủy phụ trách từng mặt công tác, xin thành phố chi viện 06 đồng chí Huyện ủy viên cán bộ khoa học kỹ thuật và chuyên môn theo cơ cấu của Huyện. Phải tương đối mạnh, đủ sức tiến hành công việc, đủ sức củng cố và xây dựng cơ sở, tiếp thu phát huy tác dụng sự chi viện người và cơ sở vật chất của thành phố, phải có sự đoàn kết nhất trí giữa các nguồn cán bộ, tiêu biểu là trong Ban Chấp hành Đảng bộ, thực hiện chế độ đi cơ sở Huyện ủy viên ở 7 xã, ngành 3 tuần trong tháng xuống ấp, tập đoàn sản xuất gặp dân. Một tuần làm việc hành chính, các Huyện ủy viên ở ban, ngành 2 tuần xuống trực tiếp làm việc với cơ sở ngành sản xuất của mình và gặp quần chúng, các đồng chí Thường vụ Huyện ủy mỗi đồng chí có 1 tuần đi xuống các cơ sở sản xuất và gặp quần chúng. Đi cơ sở phải có mục đích, có yêu cầu và có mục tiêu phấn đấu để kịp thời chỉ đạo.

Nâng cao chất lượng lãnh đạo của các Chi bộ, nhất là các Chi bộ xã phấn đấu đưa Chi bộ yếu lên Chi bộ trung bình, khá, từ Chi bộ khá lên Chi bộ mạnh (Chi bộ mạnh là Chi bộ lãnh đạo sản xuất tốt, giải quyết đời sống quần chúng tốt, đoàn kết nội bộ, quan hệ mật thiết với quần chúng, thuyết phục, lãnh đạo được các ban, ngành, thực hiện đúng chế độ sinh hoạt Đảng, phát triển Đảng viên mới. Phấn đấu đến năm 1980 không có Chi bộ yếu kém, những xã Chi bộ đông Đảng viên thành lập mỗi ấp 1 tổ Đảng, những xã ít Đảng viên như các xã An Thới Đông, Tam Thôn Hiệp, Thạnh An phải có Ban Chi ủy. Các cơ quan có từ 15 người trở lên phấn đấu để thành lập Chi bộ riêng. Đảng viên phải bám sát quần chúng, vận động quần chúng thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Huyện Đảng bộ lần thứ hai. Các cấp, các ngành trong Huyện ít nhất là các đồng chí trong Ban Chấp hành thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn và kịp thời có những biện pháp tốt nhất để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Đảng bộ trong hai năm tới 1980 – 1981.

9. Tổ chức thực hiện: Rất quan trọng, các Cấp ủy, chính quyền. đoàn thể phải làm tốt công tác tổ chức thực hiện nghiên cứu có kế hoạch, biện pháp tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội. Với đặc điểm Duyên Hải cần tập trung kiện toàn tổ chức, lề lối làm việc trong 5 khối của Đảng bộ. Đảm bảo từng bước hoạt động đồng bộ toàn diện.

a) Ở xã: Sau khi đại biểu đi dự Đại hội về báo cáo gây men thắng lợi của Đại hội, sau đó tiếp tục đưa Đảng viên, Đoàn viên học tập Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng bộ, triển khai phát động học tập ra quần chúng. Đồng chí Bí thư Chi bộ hay Chi ủy họp lại soát xét toàn bộ Đảng viên trong Chi bộ về năng lực, đạo đức, phẩm chất, xét nhiệm vụ chính trị xã mình mà định ra cơ cấu kinh tế gì? Ngư lâm hay ngư nông? … mà sắp xếp bố trí Đảng viên phụ trách ngành, ban thích hợp với năng lực từng Đảng viên xây dựng Nghị quyết Chi bộ năm 1980 có hướng cho năm 1981. (Dựa Nghị quyết Huyện ủy với tình hình lao động, ruộng rẫy, rừng, các nghề cá, tôm mà đề ra các chỉ tiêu).

Ban Tổ chức Huyện ủy, tổ chức chính quyền xuống tiếp sức với các xã với 2 nội dung: Kiện toàn tổ chức và lề lối làm việc, nhất là đối với đồng chí Bí thư Chi bộ. Chủ tịch xã, Xã Đội trưởng, Công an xã, các tập đoàn lúa, cá, cói và công tác đoàn thể.

b) Ở khu vực kinh doanh, sự nghiệp: Căn cứ Nghị quyết Đại hội, với tình hình cán bộ, phương tiện, nhiệm vụ của ban, ngành mà sắp xếp lại đơn vị, xí nghiệp, cửa hàng, trạm trại, bệnh viện v.v… Kiểm tra nắm chắc các loại cán bộ Đảng, Đoàn, chuyên môn nghiệp vụ, bố trí lại bộ máy, từ đồng chí thủ trưởng đến công nhân viên thích hợp khả  năng đạo đức, năng lực làm việc và cần bồi dưỡng chính trị hay nghiệp vụ, cần có kế hoạch cụ thể trong Nghị quyết của đơn vị mình, bắt đầu thực hiện.

c) Ở Huyện: Thông báo thắng lợi Đại hội xuống cơ sở ra ngoài quần chúng (phần tổ chức lưu hành trong nội bộ Chi bộ)

Họp Ban Chấp hành bầu Ban Thường vụ Huyện ủy, có phân công về chính quyền. Sau đó, hoàn thành biên bản Nghị quyết Đại hội và báo cáo kiểm điểm, có kế hoạch triển khai Nghị quyết Đại hội ra ngoài Đảng viên, quần chúng. Đảng viên họp 5 ngày, Đoàn viên và cán bộ ngoài Đảng học 3 ngày ở hai khu vực: Ngư nghiệp và nông nghiệp. Sau đó, các đồng chí Bí thư, Chi bộ, Thủ trưởng các ban, ngành vạch ra đề cương dự thảo Nghị quyết của đơn vị mình, thông qua ý kiến tập thể Đảng viên thành Nghị quyết chính thức của đơn vị.

Ban Tổ chức Huyện ủy cần lập đề nghị xin số cán bộ ở Thành phố bổ sung vào Cấp ủy cho đủ cơ cấu của Huyện, tăng cường sức mạnh lãnh đạo.

Thường vụ cần nghiên cứu cán bộ của khối xã phụ trách 5 chức danh chủ chốt ở từng xã: Bí thư, Chủ tịch, dân Mặt trận, Công an xã đội và thanh niên, phụ nữ, nông hội các tập đoàn sản xuất. Các ngành dọc đưa cán bộ xuống giúp đỡ từng ngành ở dưới xã.

Thường vụ và Huyện ủy viên phụ trách khối soát xét số cán bộ Đảng viên, Đoàn viên cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật, năng lực đạo đức, sắp xếp phân công để tập huấn nghiệp vụ, chức năng, lề lối làm việc từng ngành của khối, đảm bảo đi vào hoạt động tốt. Các đồng chí thủ trưởng căn cứ vào Nghị quyết mà lãnh đạo, kiểm tra phát hiện kịp thời nhân tố mới phát huy nhân điển hình, uốn nắn những thiếu sót.

Phát động thi đua các xã, các ban, ngành toàn Huyện quy định thời gian từng tháng, từng quý đạt vượt cao nhất chỉ tiêu của tháng, quý và năm.

Ban Tổ chức Huyện ủy, Ban Tổ chức chính quyền nhanh chóng quy hoạch, đào tạo cán bộ của 5 khối, trước mắt đưa đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật ngành ngư nghiệp, điện, cơ khí sửa chữa và hợp tác hóa nông nghiệp. Củng cố tổ chức Huyện tinh gọn, bảo đảm làm việc 8 giờ có chất lượng.

Mỗi ngành, ban theo Nghị quyết, bám trên tranh thủ chi viện theo đầu tư của Nghị quyết, sát dưới bảo đảm phát huy cán bộ và cơ sở vật chất, Thành phố chi viện hiệu quả kinh tế nhất.

c) Tăng cường công tác xây dựng Đảng ở 7 xã và cơ sở sản xuất:

Cần giáo dục rèn luyện Đảng viên làm tốt nội dung 5 nhiệm vụ Điều lệ Đảng. Chi bộ hoạt động có Nghị quyết, sinh hoạt có chất lượng, quản lý cán bộ Đảng viên về công tác tư tưởng, phẩm chất, mạnh dạn phát triển Đảng viên đủ tiêu chuẩn hoặc đưa Đoàn viên, Đảng viên vào các khu vực đoàn kết sản xuất, tập đoàn sản xuất, lúa, cói và cơ sở đánh bắt nuôi trồng tôm cá, các xí nghiệp chế biến, cơ khí sửa chữa, điện máy, đông lạnh, cửa hàng các loại và lực lượng Công an, bộ đội, du kích, tự vệ.

Mở Hội nghị chuyên đề bàn về kế hoạch phát triển Đảng viên, Đoàn viên, mở lớp tập huấn đối tượng Đảng viên, Đoàn viên và cán bộ có trình độ khoa học kỹ thuật hiểu về Đảng. Biết cách thức phát triển Đảng viên mới.

Ban Tổ chức Huyện ủy, Ban Tổ chức Chính quyền có quy hoạch đào tạo cán bộ 5 khối (Đảng, đoàn thể, chính quyền, kinh tế, nội chính/2 năm, có chỉ tiêu từng quý, tháng, phân bố chỉ tiêu thích hợp đạt vượt yêu cầu trong quý I năm 1980 phải hoàn chỉnh toàn Huyện về quy hoạch cán bộ.

Ổn định đi vào nề nếp hoạt động chất lượng các Chi bộ, Ban Thường vụ Huyện ủy 1 tháng họp thường lệ 3 lần (10 ngày 1 lần), Ban Chấp hành 1 tháng 1 lần, ngày sinh hoạt Chi bộ thống nhất trong toàn Đảng bộ vào ngày … hàng tháng, các đồng chí từ Thường vụ Huyện ủy đến Đảng viên phải được bố trí học văn hóa tổ chức (do Ban Giáo dục tổ chức), bố trí các đồng chí có trình độ khoa học kỹ thuật làm báo cáo viên báo cáo định kỳ do Ban Chấp hành Huyện ủy và chính quyền sắp xếp thời gian, nội dung thích hợp nhất.

Các đồng chí Huyện ủy viên bám Nghị quyết Huyện ủy, Nghị quyết ngành, ban, đơn vị mình kiểm tra đôn đốc thực hiện, bảo đảm hoàn thành các chỉ tiêu.

Thường vụ Huyện ủy có kế hoạch theo dõi, kiểm tra, chỉ đạo thực hiện từng mặt cụ thể, bám chặt trọng tâm, trọng điểm, quyết tâm hoàn thành cao nhất các chỉ tiêu của Nghị quyết Đại hội Huyện Đảng bộ lần thứ II./.

TM. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ

            BÍ THƯ

Thông báo