Thứ Ba, ngày 16 tháng 12 năm 2025

Về vai trò lãnh đạo của Đảng ghi trong Hiến pháp

Trong hai Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 không có điều khoản ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Đến bản Hiến pháp năm 1980 ở Điều 4 mới ghi:

“Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác – Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Các tổ chức đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”. 

Đến Hiến pháp năm 1992, giữ Điều 4 nhưng có sửa lại: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Đối với quy định ở Điều 4 trong hai bản Hiến pháp năm 1980 và năm 1992 như nêu trên, một số người có ý kiến cho rằng, vai trò lãnh đạo của Đảng được xác định là từ Đảng có chủ trương đúng, ý Đảng hợp lòng dân, có cán bộ đảng viên đi trước nêu gương, không cần phải có Hiến pháp xác định. Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, không có điều khoản quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng, nhưng Đảng vẫn lãnh đạo được. Từ đó, họ đề nghị, tới đây, khi sửa đổi Hiến pháp nên xóa bỏ Điều 4.

Ai có ý kiến này, có thể là do chưa hiểu đúng Điều 4 của Hiến pháp.

Ôn lại lịch sử, chúng ta biết rằng trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền trước cuộc cách mạng tháng 8-1945 và trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, các chính quyền của địch đều chĩa mũi nhọn vào việc chống phá Đảng, đặc biệt chính quyền Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, đã đưa máy chém đi các nơi ở miền Nam để bắt được “Việt cộng” là chém, không cần xét xử. Đảng và nhân dân ta phải đối phó trong thế thủ, thế bị động. Phải sau 50 năm kể từ ngày thành lập Đảng đến lúc có Hiến pháp năm 1980 với Điều 4, Đảng mới có thế hoạt động hợp pháp do Quốc hội được nhân dân ta bầu ra xác định. Đó là thắng lợi rất to lớn của nhân dân ta.

Sau khi đã giành được chính quyền trong cả nước, nhiệm vụ giữ vững độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội được thực hiện theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý toàn xã hội bằng pháp luật, với người làm chủ là nhân dân.

Nhà nước quản lý toàn xã hội mà trong xã hội có tổ chức đảng, có hoạt động của Đảng, nên Nhà nước cũng có trách nhiệm phải quản lý. Quốc hội do nhân dân bầu ra là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân, Quốc hội ban hành Hiến pháp là luật gốc. Điều 4 trong Hiến pháp là chỗ dựa pháp lý cho Nhà nước quản lý tổ chức đảng và hoạt động của Đảng.

Nội dung quy định trong Điều 4 của Hiến pháp không chỉ là xác định vai trò lãnh đạo của Đảng mà còn quy định điều kiện Đảng phải có để giữ được vai trò lãnh đạo. Đảng phải là đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Mọi tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nếu Đảng không tự xây dựng mình theo những điều kiện đó thì Đảng không có tư cách là Đảng lãnh đạo.

Với nội dung như trong điều 4 của Hiến pháp, Nhà nước ta mới có cơ sở pháp lý để trừng trị những kẻ có hành vi chống phá Đảng, qua chống phá Đảng để chống phá cách mạng, để lật đổ chính quyền cách mạng. Đồng thời, với nội dung trong điều 4 của Hiến pháp, nhân dân ta thông qua tổ chức Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất do mình bầu ra mới có cơ sở pháp lý để giám sát việc xây dựng Đảng, buộc Đảng phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, không cho phép Đảng lãnh đạo trở thành Đảng trị với những đặc quyền đặc lợi.

Tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh chống lại những người có hành vi phá hoại Đảng, xuyên tạc, chia rẽ Đảng với nhân dân và để xây dựng Đảng, để bảo vệ và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng là rất cần thiết nhưng không phải lúc nào cũng làm được.

Hiến pháp 1946 không thể xác định được vai trò lãnh đạo của Đảng ta vì từ ngày 11-11-1945, Đảng ta đã ra tuyên bố tự giải tán, để đối phó với chính phủ Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch đưa 20 vạn quân mang danh là lực lượng quân Đồng Minh vào Việt Nam để tước vũ khí quân phát xít Nhật, nhưng chính là để tiêu diệt Đảng Cộng sản Việt Nam, chống phá cách mạng Việt Nam.

Hiến pháp 1959 cũng không thể có điều khoản về vai trò lãnh đạo của Đảng vì vào năm 1959, là lúc chính quyền Diệm theo Mỹ đang thống trị miền Nam, đang thi hành chính sách “diệt cộng, tố cộng” rất quyết liệt, những người dân tham gia phong trào yêu nước ở miền Nam đều bị chúng cho là “Việt cộng” bị bắt giam, tra khảo rất dã man.

Tuy trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 không có điều khoản như Điều 4 của Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992, nhưng Đảng vẫn lãnh đạo được, đó không phải là điều khó hiểu. Điều 4 của Hiến pháp không phải là “giấy phép” cho Đảng giữ vai trò lãnh đạo. “Giấy phép” cho Đảng giữ vai trò lãnh đạo là từ lòng tin yêu của nhân dân.

Suy nghĩ về Điều 4 được nêu trong 2 Hiến pháp năm 1980 và 1992 thấy rất hay, có ý nghĩa rất quan trọng nhưng đến nay đã hơn 30 năm mà vẫn chưa có luật cụ thể để thực hiện, phải chăng đó là thiếu sót lớn.

Đề nghị sắp tới, trong bản Hiến pháp sửa đổi, vẫn phải giữ Điều 4, có gì thấy cần bổ sung thì bổ sung thêm. Sau khi Quốc hội ban hành Hiến pháp mới được sửa đổi, cần sớm có luật cụ thể để thực hiện Điều 4 của Hiến pháp.

Luật đó cần chỉ rõ, trong trường hợp Đảng có dấu hiệu không trung thành với quyền lợi của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, tổ chức của Đảng ở cấp Trung ương và địa phương hoạt động không tuân theo Hiến pháp và pháp luật thì Quốc hội phải xử lý kỷ luật ra sao, với những hình thức nào và bằng cách nào. Đề nghị trong Hiến pháp sửa đổi tới đây nên có quy định thành lập Ủy ban Thanh tra của Quốc hội và có Tòa án bảo vệ Hiến pháp để xét xử những cá nhân, những tổ chức của Đảng ở Trung ương, ở địa phương có hành vi, có hoạt động vi phạm Hiến pháp.

TRẦN TRỌNG TÂN

tin khác

Thông báo