Đại biểu tham quan triển lãm chuyên đề “Nhà báo Nguyễn Ái Quốc và 100 năm Báo Người cùng khổ”. (Ảnh: Võ Quốc Thanh)(Thanhuytphcm.vn) - Sinh thời, những năm hoạt động ở hải ngoại, các bậc tiền bối như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu và Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc - Lý Thụy, thường viết thư cho nhau. Nhờ vậy mà ngày nay chúng ta biết được tình cảm của họ.
Đoạn trích sau đây là thư ngày 14/2/1925 của Phan Bội Châu gửi Lý Thụy:
“Người cháu rất kính yêu của bác.
Nhớ lại 20 năm trước đây, khi đến nhà cháu uống rượu gò án ngâm thơ, anh em cháu đều chưa thành niên, lúc đó Phan Bội Châu này đâu có ngờ rằng sau này cháu sẽ trở thành một tiểu anh hùng như thế. Bây giờ đem so kẻ già này với cháu thì bác thấy rất xấu hổ. Việc thừa kế nay đã có người, người đi sau giỏi hơn kẻ đi trước. Cháu học vấn rộng rãi và từng đi nhiều nơi, hơn cả bác cả chục cả trăm lần…” (Dẫn theo lời Mai Văn Bộ “Con đường vạn dặm của Hồ Chí Minh” NXB Trẻ-1999-tr 385).
Thời điểm ấy Nguyễn Ái Quốc - Lý Thụy đã 35 tuổi, bước vào trung niên có 14 năm kiếm sống và hoạt động ở nước ngoài. Lời nhận xét ở trên thừa nhận một thực tế: Hậu sinh khả úy (Đáng nể kẻ sinh sau).
Nhưng chớ lầm, người cháu ấy của chí sỹ họ Phan - và sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh - đâu phải là thánh nhân. Thực tế thì người thanh niên ở xứ thuộc địa của Pháp ở Viễn Đông đã trải qua bao thăng trầm. Không có phép màu nào cả. Bôn ba xứ người, bao việc kiếm sống, phút bỡ ngỡ của nhận thức và những hoạt động Hội Đoàn dân thuộc địa và Cộng sản Quốc tế đã làm nên một con người từng trải, yêu nước và bản lĩnh.
Ngược lại thời gian, bài báo này sẽ tìm hiểu trong hoàn cảnh đó Nguyễn Ái Quốc đã trở thành nhà báo như thế nào. Công việc này chắc khi mới rời nước làm chân phụ bếp trên tàu viễn dương, hay lao công cào tuyết, đốt lò than, làm bánh, vẽ truyền thần, sửa ảnh… đối với Văn Ba - Tất Thành chủ yếu là kiếm sống để có điều kiện mở rộng tầm nhìn mà thôi.
Gần 4 năm ở Anh, Tất Thành đã khá thành thạo ngôn ngữ xứ sương mù. Cuối 1917 sang Paris, việc học tiếng Pháp lại càng cấp bách. Dường như ở Nguyễn (cách gọi thân mật của mọi người) ấp ủ một chí hướng quyết liệt, lớn lao hơn. Sáu năm ở Pháp, Người đã đủ ngôn từ để tranh luận trực diện hoặc trao đổi bằng thư với các nhân vật, chức sắc cao cấp trong bộ máy cai trị của Pháp về những vấn đề của thuộc địa. Người sớm nhận ra Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, Hội Người Việt Nam yêu nước mà mình là nòng cốt cần có một cơ quan ngôn luận thì cuộc đấu tranh mới được nhiều người biết đến và phát triển.
Thế là ngày 1/4/1922, Báo Người Cùng khổ (Le Paria) ra đời ngay tại Thủ đô nước Pháp. Một tờ báo đến nay đã tròn 100 năm sinh. Tuổi thọ không dài, chỉ 4 năm với 38 số báo (1922 - 1926) nhưng có thể xem như một chiến công hiển hách.
Sao vậy? Vì rằng: Trụ sở đi mượn, kinh phí eo hẹp, tòa soạn kiêm nhiệm, phát hành chủ yếu biếu tặng. Công tác phóng viên còn non trẻ. Bù lại là nhiệt tình, nội dung đúng tôn chỉ mục đích. Các công việc gần như Nguyễn Ái Quốc “ôm cả”: Chủ nhiệm, chủ bút, phóng viên, trình bày, họa sỹ, phát hành…. Còn phải đối phó với kiểm duyệt, mật thám.
Thực tình, mấy năm trước đó Tất Thành đã trù liệu. Người chú tâm trau dồi tiếng Pháp, học viết văn và viết báo. Đó là sự khổ luyện và kiên trì. Phan Văn Trường (1875 - 1933) là người gần gũi giúp về văn phạm, tuy có khác chút ít về chính kiến chính trị. Ngay cả Phan Chu Trinh cũng chưa thật tin tưởng các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc.
Khai mạc triển lãm chuyên đề “Nhà báo Nguyễn Ái Quốc và 100 năm Báo Người cùng khổ” diễn ra sáng 17/6/2022 tại TPHCM, kỷ niệm 100 năm báo Le Paria (Người cùng khổ) xuất bản số đầu (01.4.1922 – 01.4.2022). (Ảnh: Võ Quốc Thanh)Mở rộng quan hệ, Nguyễn tìm cách làm quen với một số nhà báo tiến bộ Pháp như Gatxtong Mongmutxo, biên tập viên tạp chí “Đời sống thợ thuyền”, Giăng Longhe - cháu ngoại Các Mác ở báo “Dân chúng” để được chỉ bảo về nghề báo, nghề in. Đích thân chủ báo “Đời sống thợ thuyền” đã bày cách viết báo cho Nguyễn: “Ông Nguyễn nói mình còn kém tiếng Pháp. Điều đó không ngại. Có thế nào anh viết thế đó. Tôi sẽ sửa bài cho anh trước khi đưa in. Không cần viết dài, 5-6 dòng cũng được.”
Ngày 2/8/1919, báo “Nhân đạo” đăng bài viết đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc nhan đề “Vấn đề bản xứ” mà không phiền nhờ đến ông Phan Văn Trường nữa. Thật là một ngày đáng nhớ.
Mười năm ở Anh và Pháp (1913 - 1923), Nguyễn đã thông thạo. Bỏ lại sau lưng những giọt mồ hôi, những bữa cơm đạm bạc, những giờ cặm cụi trên giá vẽ truyền thần… Nguyễn tranh thủ nạp kiến thức, ra vào thư viện, các bảo tàng, rảo bước đến các vùng ngoại ô nghèo khổ, tham gia các cuộc hội thảo, mít tinh, giao kết bạn bè, viết văn làm báo - cho đến khi trở thành chàng thanh niên, tiểu anh hùng - một nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp dưới con mắt của chí sỹ họ Phan.
Rời Pháp cuối 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô, nơi đặt trụ sở của Quốc tế Cộng sản. Nhiều công việc đón chờ Nguyễn. Nhưng không lúc nào Nguyễn quên nghề báo. Nó là lợi khí của công tác tuyên truyền cách mạng. “Việt Nam hồn” (1923), “Người cùng khổ” (1922), “Thanh niên” (1925), “Việt Nam Độc lập” (1941)… cho đến cuối đời, hàng nghìn bài báo, các tờ báo đã được Người thai nghén, chăm chút, công bố dưới nhiều bút danh.
Nặng tình với thuở ban đầu, năm 1946, khi với tư cách là thượng khách của nước Pháp, Người đã dành thời gian đến thăm mộ của ông Khánh Ký (1874 - 1946), nhiếp ảnh gia đầu tiên của Việt Nam mở hiệu ảnh ở Paris vào năm 1917, người đã truyền nghề nhiếp ảnh cho Hồ Chí Minh. Nhờ đó, vị lãnh tụ tương lai của dân tộc ta mới có thêm nguồn thu để trang trải cuộc sống.