Đồng chí Trần Văn Giàu, từ người trí thức yêu nước đến nhà cách mạng kiên cường
Sinh ra trong một gia đình khá giả có truyền thống yêu nước tại xã An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Long An, sau khi học xong tiểu học, đồng chí Trần Văn Giàu được gia đình cho lên Sài Gòn theo học Trường Trung học Chasseloup-Laubat, nay là Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, rồi sau đó sang Pháp với ước mơ mang về hai bằng Tiến sĩ. Thế nhưng, trong những ngày du học trên đất Pháp, bước ngoặc lớn nhất của cuộc đời đã đến với đồng chí, chàng thanh niên Trần Văn Giàu đã gặp gỡ những người cộng sản Pháp, được đọc tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, rồi đứng vào hàng ngũ những người cộng sản Pháp. Năm 1930, đồng chí tham gia biểu tình trước Dinh Tổng thống Pháp, đòi hủy bỏ bản án tử hình đối với thủ lĩnh Quốc dân Đảng Nguyễn Thái Học cùng các chiến sĩ tham gia cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Do đó, đồng chí bị Chính phủ Pháp trục xuất về Việt Nam, kết thúc ước mơ lấy hai bằng tiến sĩ và mở ra cuộc đời của một nhà cách mạng kiên cường.
Sau khi về nước, đồng chí lập gia đình và gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, tham gia hoạt động tại Sài Gòn - Chợ Lớn. Đầu năm 1931, đồng chí bí mật sang Pháp lần thứ 2, rồi từ Pháp sang Liên Xô, học Trường Đại học Phương Đông. Tốt nghiệp xuất sắc Đại học Phương Đông, năm 1933, đồng chí về nước và hòa mình vào dòng chảy cách mạng của nước nhà. Tình hình cách mạng nước nhà trong giai đoạn này hết sức khó khăn, do thực dân Pháp thực hiện “khủng bố trắng” sau cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, tổ chức Đảng bị vỡ, Trung ương không còn, đồng chí cùng với một số đảng viên còn lại gầy dựng Xứ ủy Nam Kỳ. Tháng 4 năm 1935, đồng chí bị bắt, 7 năm tù đày của đồng chí bắt đầu từ Khám Lớn Sài Gòn, sau đó là địa ngục trần gian Côn Đảo và cuối cùng là “căng” an trí Tà Lài. Sau thất bại của Khởi nghĩa Nam Kỳ, đồng chí Trần Văn Giàu và Đảng ủy “căng” Tà Lài quyết định tổ chức vượt ngục trở về khôi phục lại phong trào cách mạng, mở ra giai đoạn hoạt động đặc biệt sôi động của nhà cách mạng kiên cường Trần Văn Giàu.
Từ năm 1943 đến năm 1945, đồng chí Trần Văn Giàu cùng với các đồng chí của mình đã hoạt động như con thoi, từ Đông Nam Bộ, xuống Tây Nam Bộ, từ Rạch Giá - Hà Tiên lên Sài Gòn - Gia Định, các đồng chí đi đến đâu, tổ chức mọc lên đến đấy. Tháng 10 năm 1943, tại hội nghị Chợ Gạo, Xứ ủy Nam Kỳ được tái lập và đồng chí Trần Văn Giàu được bầu làm Bí thư Xứ ủy. Từ sau Khởi nghĩa Nam Kỳ, đây là cơ quan lãnh đạo đầu tiên của Đảng bộ Nam Kỳ được thành lập. Từ đó, bản lĩnh, trí tuệ, phong cách nhà lãnh đạo tài năng Trần Văn Giàu đã được thể hiện rõ rệt, sinh động, để lại những dấu ấn sâu sắc, những chiến công lẫy lừng ở Nam Bộ.
Những tháng đầu năm 1945, trong điều kiện xa Trung ương, nhưng với nhãn quan chính trị nhạy bén của mình, Bí thư Xứ ủy Nam kỳ Trần Văn Giàu nhận thấy thời cơ của một cuộc tổng khởi nghĩa đã đến gần, đồng chí đã cùng Xứ ủy gấp rút xây dựng lực lượng, chuẩn bị đón thời cơ tới. Trong đó, nổi bật nhất là “tương kế tựu kế” xây dựng thành công lực lượng Thành niên Tiền Phong và sau đó là đưa hoạt động của Tổng Công đoàn Nam Bộ ra công khai với tên gọi Thành niên Tiền phong Ban xí nghiệp, đấy chính là những lực lượng nòng cốt của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 tại Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và các tỉnh Nam Bộ.
Sau khi bắt liên lạc được với Trung ương, quán triệt các chỉ đạo của Trung ương về chỉ đạo chiến lược, đồng chí Trần Văn Giàu đã cùng Xứ ủy Nam Kỳ chuẩn bị mọi điều kiện cho một cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Nam Bộ. Từ các hội thề của lực lượng Thanh niên Tiền Phong, đến việc đưa Mặt trận Việt minh ra công khai đã tạo nên một làn sóng cách mạng mạnh mẽ tại Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và các tỉnh Nam Bộ.
Nhật đầu hàng Đồng minh, thời cơ khởi nghĩa đã tới, với vai trò là người lãnh đạo cao nhất của Xứ ủy Nam Kỳ, đồng chí đã cho triệu tập Hội nghị Xứ ủy tại Chợ Đệm để đưa ra quyết định khởi nghĩa. Thời cơ đã đến, lực lượng cách mạng đã được khôi phục hùng hậu, thế nhưng quyết định Tổng khởi nghĩa là một quyết định cực kỳ quan trọng, nó liên quan đến vận mệnh của cách mạng và sinh mạng của hàng trăm, hàng nghìn người. Chính vì thế, phải trải qua 3 lần Hội nghị Xứ ủy tại Chợ Đệm, sau khi nghe tin Hà Nội khởi nghĩa thành công và thành công của khởi nghĩa thí điểm tại Tân An thì lệnh Tổng khởi nghĩa tại Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và các tỉnh Nam bộ mới được Xứ ủy Nam Kỳ ban hành.
Rạng sáng ngày 25 tháng 8 năm 1945, Tổng khởi nghĩa đã nổ ra tại Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, đây là cuộc tổng khởi nghĩa đi đến thành công mà ít đổ máu nhất trong các thành phố lớn của cả nước. Chính quyền về tay nhân dân, đồng chí Trần Văn Giàu được cử làm Chủ tịch Ủy ban Hành chánh lâm thời. Sau đó, trong cuộc mít-tinh với hơn một triệu người tham dự tại Sài Gòn để nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, do trục trặc về kỹ thuật, sóng truyền thanh đã không thể truyền được lời của Bác đến đồng bào Nam Bộ, đồng chí Trần Văn Giàu đã thay mặt chính quyền cách mạng ứng khẩu bài diễn văn hiệu triệu đồng bào Nam Bộ ra sức giữ vững nền độc lập nước nhà.
Độc lập, tự do chưa tròn một tháng, đồng bào Nam Bộ lại đứng trước âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp. Hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng lúc này đặt Xứ ủy Nam Kỳ trước một quyết định không kém phần khó khăn, đánh ngay hay chờ chỉ đạo của Trung ương. Biển lửa trước mặt, Trung ương thì ở xa, không thể để mất lòng tin của Nhân dân vào cách mạng; giặc đến nhà, Đảng phải lãnh đạo Nhân dân đánh giặc và quyết định lịch sử mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Nam Bộ đã được đồng chí Trần Văn Giàu và Xứ ủy Nam Kỳ đưa ra tại Hội nghị Cây Mai ngày 22 tháng 9 năm 1945.
Đêm 22 rạng ngày 23 tháng 9 năm 1945, lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ đứng lên kháng chiến theo lời thề “độc lập hay là chết” được ban hành. Trận chiến đầu tiên bảo vệ lá cờ độc lập đã diễn ra tại cột cờ Thủ Ngữ, máu của đồng bào Nam Bộ đã đổ để giữ vững “Nam Bộ Thành Đồng”, mở đầu cho cuộc “đi trước về sau”. “Đó là một quyết định táo bạo, sáng suốt, chính xác và kịp thời”[1]. Quyết định lịch sử đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đánh giá cao “lòng cương quyết dũng cảm của của nhân dân Nam Bộ chống lại quân đội xâm lăng của Pháp,… làm cho đồng bào toàn quốc cảm phục,…Đồng bào phải cương quyết, phải giữ vững tin tưởng ở tương lai và lập tức thi hành triệt để những lời thề quả quyết trong ngày Độc lập”.
Với chiến thuật “trong đánh, ngoài vây”, đồng bào chiến sĩ ta đã cầm chân giặc suốt một tháng ở Sài Gòn, làm thất bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch. Cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, giành chính quyền về tay nhân dân ở Nam bộ cũng như sự kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam vào “Mùa thu rồi ngày hăm ba” năm 1945 là kết quả của sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là công lao của toàn Đảng, toàn dân ta, trực tiếp là của nhân dân Nam bộ anh hùng, trong đó có vai trò cực kỳ quan trọng của đồng chí Trần Văn Giàu, người lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp.
Đồng chí Trần Văn Giàu, từ nhà cách mạng kiên cường đến người thầy mẫu mực, nhà khoa học uyên thâm
Đồng chí Trần Văn Giàu trải qua nhiều thời kỳ làm nhà giáo. Sau khi bị trục xuất từ Pháp về, đồng chí dạy học tại trường Trung học Huỳnh Công Phát ở Sài Gòn. Từ năm 1935 đến năm 1941, suốt gần 7 năm trong nhà tù đế quốc, lúc ở Khám Lớn (Sài Gòn), khi ở Côn Đảo và trong “căng” Tà Lài, đồng chí đã lấy sàn xi-măng nhà tù làm bảng, lấy gạch vụn làm phấn, chuyên cần giảng bài, tuyên truyền về chủ nghĩa Mác-Lênin, về Đảng Cộng sản và trở thành “giáo sư đỏ”. Vượt qua sự rình rập, đòn roi khủng bố của mật thám, vị "giáo sư đỏ" ngày ấy đã hăm hở tham gia giảng dạy cho các lớp huấn luyện của Đảng ở trong tù, góp phần trang bị cho nhiều lớp cán bộ, đảng viên những tri thức lý luận và kỹ năng tuyên truyền, tổ chức quan trọng nhất. Sau khi vượt ngục, đồng chí tổ chức lớp học ở Sài Gòn và các tỉnh Nam bộ gồm nhiều đối tượng khác nhau như công nhân, cán bộ công đoàn, trí thức… Sau khi được điều động ra chiến khu Việt Bắc, năm 1949, đồng chí Trần Văn Giàu được giao nhiệm vụ Tổng Giám đốc Nha Thông tin - Tuyên truyền. Hai năm sau, đồng chí được giao trọng trách đặt nền móng cho ngành giáo dục đại học của đất nước, đào tạo các chuyên gia khoa học cao cấp về khoa học xã hội và nhân văn, chuẩn bị cho sự nghiệp xây dựng đất nước khi kháng chiến thắng lợi.
Từ năm 1951 đến năm 1954, Giáo sư Trần Văn Giàu vừa đảm nhiệm chức vụ giám đốc, vừa trực tiếp giảng dạy ở Trường Dự bị Đại học trong vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, từ năm 1954 đến năm 1960, đồng chí Trần Văn Giàu là một trong những giáo sư đầu tiên của nền đại học Việt Nam mới, góp phần hình thành, phát triển Trường Đại học Sư phạm và Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Từ đây hoạt động học thuật trở thành lĩnh vực hoạt động chính mà đồng chí dành trọn vẹn thời gian, niềm đam mê, trí tuệ và nhiệt huyết để cống hiến hết mình.
Là một trong những người đặt nền móng đầu tiên cho triết học và lịch sử Việt Nam, trong những tháng ngày đầu tiên ấy, cơ sở của trường đại học còn rất nghèo nàn: thầy thiếu tài liệu để dạy, trò thiếu sách để học. Trong bối cảnh đó, những công trình khoa học đầu tiên mà Giáo sư Trần Văn Giàu biên soạn như: "Triết học phổ thông", "Chống xâm lăng" (3 tập, 1956-1957), "Lịch sử Việt Nam" (viết chung, 1957), "Lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam" (1957), có giá trị như những cẩm nang cho các thế hệ thầy và trò các ngành khoa học xã hội - nhân văn.
Như vậy, từ một nhà cách mạng kiên cường, đồng chí Trần Văn Giàu đã trở thành một nhà giáo và trên cương vị mới này đồng chí đã có những cống hiến hết sức xuất sắc, là một người thầy mẫu mực, một nhà nghiên cứu xuất chúng. Đồng chí đã cùng các trí thức lớn đương thời đào tạo một thế hệ thanh niên, nhiều người trong số đó đã trở thành các nhà quản lý, các nhà khoa học đầu đàn, các chuyên gia lớn về khoa học, giáo dục của đất nước và được giới học thuật trong khu vực cũng như thế giới đánh giá cao. Từ năm 1960 đến năm 1975, Giáo sư Trần Văn Giàu chuyển về công tác tại Viện Sử học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, chuyên tâm dồn sức cho công việc nghiên cứu. Đây là thời kỳ Giáo sư Trần Văn Giàu công bố những công trình đồ sộ nhất trong cuộc đời hoạt động học thuật nhiều thành tựu của mình - những tác phẩm được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cao quý ngay từ đợt I, trong đó nổi bật là các bộ sách như: "Lịch sử cận đại Việt Nam" (chủ biên, gồm 4 tập, 1960 - 1963) "Lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam" (3 tập, 1962 - 1963), "Miền Nam giữ vững thành đồng" (5 tập, 1964 - 1965) và "Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám" (3 tập, 1973 - 1993).
Với khoảng 160 công trình nghiên cứu và rất nhiều tác phẩm trong các lĩnh vực chính trị - văn - sử - triết học, với hàng vạn trang viết đã in và chưa in, Giáo sư Trần Văn Giàu là người có số lượng tác phẩm, công trình nghiên cứu nhiều nhất của nước ta hiện nay. Sách do Giáo sư Trần Văn Giàu viết, luôn đầy ắp tư liệu, được khai thác từ nhiều nguồn, nhiều phía nhằm đảm bảo tính khách quan. Giáo sư Trần Văn Giàu là người rất cẩn trọng trong sưu tầm và sử dụng sử liệu. Tư liệu đồng chí đã dùng thường phải có chú dẫn rõ ràng. Phần nào chưa rõ, hay còn nghi ngờ, đồng chí đều nêu rõ để người đọc thận trọng, tự kiểm chứng. Tự thân cách làm việc khoa học, chân thành đó của nhà khoa học lớn Trần Văn Giàu đã tạo ra một sức hút mãnh liệt đối với các nhà nghiên cứu và cả những người quan tâm đến sử học ở trong nước và nước ngoài.
Điều độc đáo là công trình của đồng chí Trần Văn Giàu dù đầy ắp tư liệu nhưng người đọc không cảm giác nhàm chán, mà ngược lại, họ bị cuốn hút mạnh mẽ do cách đồng chí biện giải rất hùng hồn, mạch lạc. Không giống với hầu hết các tác giả trước đó, đồng chí Trần Văn Giàu trình bày lịch sử như là “sự nghiệp của quần chúng nhân dân”, trong đó diện mạo, hình hài, tâm tư, nguyện vọng, hoạt động của quần chúng đã được tái hiện sinh động và cụ thể. Cách viết sử này của đồng chí Trần Văn Giàu có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức luận và cách tiếp cận của nhiều học giả trong nước và quốc tế.
Các công trình khoa học của đồng chí Trần Văn Giàu đã để lại một dấu ấn riêng, những phát hiện mới và các quan điểm rất thuyết phục, thể hiện sự thống nhất giữa tính chiến đấu và tính khoa học. Đồng chí nghiên cứu nhiều lĩnh vực khoa học xã hội, nhưng nhiều nhất vẫn là các lĩnh vực: văn, sử, triết học. Trong đó, sự độc đáo riêng có của đồng chí chính là sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa văn và triết - như Giáo sư Vũ Khiêu, người bạn thân thiết của Giáo sư Trần Văn Giàu đã nhận xét: “Các tác phẩm về sử học của Giáo sư Trần Văn Giàu đều có sức hấp dẫn của văn và chiều sâu của triết. Ở Giáo sư, trong văn có triết và trong triết có văn. Cả hai đều được lý giải vững vàng, gắn liền với sự chứng minh của Sử học”[3].
Đồng chí Trần Văn Giàu, một cuộc đời thanh bạch, một nhân cách sáng ngời
Có thể nói, dù ở đâu, cương vị, hoàn cảnh nào đồng chí Trần Văn Giàu luôn nêu một tấm gương sáng về sự hy sinh, phấn đấu trọn đời cho lý tưởng của Đảng; một lòng, một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Là nhà cách mạng, đồng chí Trần Văn Giàu đã góp phần rất to lớn vào công cuộc vận động quần chúng, xây dựng tổ chức Đảng và là người đã trực tiếp lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Sài Gòn và Nam Bộ, chỉ huy quân dân miền Nam anh dũng chống lại cuộc chiến tranh tái chiếm thuộc địa của thực dân Pháp. Là nhà giáo, đồng chí đã góp công xây dựng nền giáo dục đại học Việt Nam mới. Đồng chí đã đào tạo nhiều học trò xuất sắc cho nền Sử học Việt Nam. Là nhà khoa học, thông qua hàng chục công trình khảo cứu xuất sắc, đồng chí tự khẳng định tầm vóc của một trong những sử gia vĩ đại của nền Sử học Việt Nam. Trong đồng chí Trần Văn Giàu có sự hoà quyện nhuần nhuyễn của một trí thức yêu nước, nhà cách mạng kiên cường, nhà giáo dục mẫu mực và học giả uyên thâm và hơn hết, đó là một nhân cách sáng ngời, một tâm hồn rộng mở, luôn vì nước vì dân, thủy chung trọn vẹn với gia đình và quê hương yêu dấu.
Với đồng chí Trần Văn Giàu, chữ “đức” luôn ngời sáng, chói lọi trong sự nghiệp cũng như trong đời sống riêng tư. Nhiều người trân trọng gọi đồng chí là “Chu Văn An thời nay”, điều đó không phải là không có cơ sở. Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí là tấm gương sáng ngời về ý chí, nghị lực của người chiến sĩ cộng sản; sự mẫu mực về nhân cách, phương pháp, tác phong giảng dạy của người thầy; về quá trình lao động tận tụy, nhiệt huyết, tư duy sáng tạo của một nhà khoa học, để các thế hệ đi sau học tập, rèn luyện. Trong đời thường, đồng chí chọn cho mình một lối sống thanh bạch, giản dị, chân thành và cởi mở với đồng chí, đồng bào, vừa nguyên tắc nhưng lại rất linh hoạt, vừa nghiêm khắc đồng thời cũng rất khoan dung, được mọi người yêu mến và kính trọng.
Sau ngày miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Giáo sư Trần Văn Giàu về sống ở Thành phố Hồ Chí Minh - mảnh đất gắn bó với thời tuổi trẻ đấu tranh sôi nổi, bản lĩnh, sáng tạo của đồng chí. Mặc dù tuổi cao, sức khoẻ ngày càng giảm sút nhưng đồng chí vẫn tiếp tục miệt mài nghiên cứu, hoàn thiện những công trình đã ấp ủ từ trước đó và công bố những công trình mới. Học trò nhiều thế hệ, từ những người từng được đồng chí kèm cặp, nay đã trở thành những nhà khoa học nổi tiếng đến những sinh viên mới chập chững bước vào con đường học thuật đều tìm đến xin gặp đồng chí để được chỉ dẫn cho nhiều điều bổ ích.
Đồng chí Trần Văn Giàu là một trong những người sớm nhận thấy việc học tập, rèn luyện theo tấm gương đạo đức, phong cách, tư tưởng Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết và đã tự bản thân rèn luyện, học tập không ngừng. Năm 1995, khi sức khỏe đã giảm sút nhiều, Giáo sư cho biết đồng chí có ý định viết một cuốn sách về “Đạo đức học, Đạo đức Hồ Chí Minh, Đạo đức Việt Nam”. Giáo sư Trần Văn Giàu khẳng định: “Nếu mà mình không nghiên cứu tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh cho sâu sắc và ứng dụng cho thật sắc sảo, cho trung thành thì khó đạt đến thắng lợi lắm, nhất là trong thực tế hiện nay. Cho nên ta đã đi từ Hồ Chí Minh thì ta phải tiếp tục trở lại và đi sâu hơn nữa vào tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, không có cái nào khác”[4]. Những nhận định, trăn trở đó của Giáo sư Trần Văn Giàu đã và đang được Đảng ta thực hiện trong nhiều năm qua với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị.
Cả cuộc đời đồng chí Trần Văn Giàu luôn vì nước, vì dân. Đến với cách mạng khi còn rất trẻ với biết bao cống hiến, hy sinh; đến khi về già, vợ chồng Bác Sáu Giàu quyết định bán căn nhà trên đường Phạm Ngọc Thạch và mua một căn nhà nhỏ ở quận 11, số tiền còn lại đồng chí thành lập một giải thưởng mang tên mình. Đó là một trong những tâm nguyện của Giáo sư mà những người được giao phó đã nỗ lực hoàn thành trong thời gian qua.
Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh luôn trân trọng ghi nhớ, tri ân công lao vô cùng to lớn của Giáo sư, Nhà giáo nhân dân, Anh hùng Lao động Trần Văn Giàu. Tấm gương sáng ngời của đồng chí về lòng yêu nước, sự dấn thân cho Tổ quốc, sự cống hiến không mệt mỏi và hiệu quả trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, giáo dục đào tạo, đặc biệt là nhân cách, đạo đức thật xứng đáng để các thế hệ hôm nay và mai sau soi rọi, học tập; cùng nhau xây dựng, bảo vệ đất nước ngày càng giàu đẹp; xây dựng, bảo vệ, phát triển thành phố Hồ Chí Minh có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ X (nhiệm kỳ 2016-2020) đã đề ra.
Tất Thành Cang
Ủy viên Trung ương Đảng,
Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TPHCM
----------------------------------------------------------------
[1] Điếu văn do đồng chí Lê Thanh Hải, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Trưởng ban Lễ tang cấp Nhà nước đọc tại Lễ truy điệu Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân, Anh hùng Lao động Trần Văn Giàu.
[3] Trần Văn Giàu tuyển tập. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2000