Trên dưới một lòng
Trong cuộc triển lãm và mít-tinh mừng kỷ niệm 2 năm ngày độc lập (2/9/1945 - 2/9/1947) tại chợ Thiên Hộ (Đồng Tháp Mười), đồng bào và chiến sĩ ta đặc biệt hoan nghênh những bức ảnh của nhà nhiếp ảnh Mai Lộc (Tổ Nhiếp ảnh Khu 8) chụp chiến sĩ ta thắng trận Vàm Nước Trong, trận Giồng Dứa, cùng cảnh Tây đi càn, giết hại nhân dân. Đứng trước khung cảnh ấy, Tư lệnh Quân khu 8 Trần Văn Trà và Chính ủy Nguyễn Văn Vịnh cùng chung một ý tưởng xa hơn: “Nếu những hình ảnh này mà cử động được thì tác dụng của nó sẽ vô cùng to lớn, động viên đồng bào và chiến sĩ ta”. Ngày 15/10/1947, Bộ Tư lệnh Quân khu 8 ra quyết định thành lập Tổ Nhiếp - Điện ảnh Khu 8 (trực thuộc Phòng Chính trị Bộ Tư lệnh khu). Một quyết định táo bạo và lãng mạn vì muốn làm phim nhất thiết phải có tay nghề và phương tiện cần thiết thì ở đây những người làm điện ảnh đầu tiên, nói theo đạo diễn Tô Hoàng, chỉ có “những cái đầu dạt dào ước mơ quyết chí chinh phục một ngành nghệ thuật còn khá non trẻ, nhưng đầy hấp dẫn”.
Cũng theo đạo diễn Tô Hoàng, ở buổi đầu cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp vô cùng gian khó, chiến sĩ Tiểu đoàn 307 anh hùng vẫn trang bị súng trường là chủ yếu, vẫn ngủ nóp, chống những cơn sốt rét bằng viên ký ninh hòa một bát nước uống chung. Vậy mà, các cấp lãnh đạo kháng chiến, từ Bộ Tư lệnh Quân khu 8 đến Ủy ban Hành chính Nam Bộ, rồi Trung ương Cục, đã hết lòng ủng hộ, chi số tiền chắt chiu cho kháng chiến mua sắm máy móc, nguyên vật liệt cần thiết để làm phim, lại tiếp tục đồng ý cấp tiền mua máy mới khi chiếc máy 16 ly phải rất khổ công mới có được đã hỏng ngay lần đầu sử dụng trong một trận pháo kích. “Ngay từ những ngày xa xưa đó, điện ảnh - tưởng như “một trò chơi sang” bó hẹp phạm vi hoạt động chốn thị thành - đã được nâng tầm thành món ăn tinh thần, văn hóa không thể thiếu đối với chiến sĩ, đồng bào; cũng cần thiết, cũng cấp bách như cơm gạo, súng đạn, thuốc men trong cuộc chiến đấu chung. Việc ra đời của Điện ảnh Khu 8 - cơ sở làm phim đầu tiên trong cả nước - không chỉ chứng tỏ tầm nhìn xa trông rộng mà còn là kích cỡ văn hóa của những bộ óc mang tầm chiến lược”, đạo diễn Tô Hoàng khẳng định.
Theo nhà biên kịch Nhất Mai, từ tầm nhìn xa và sự quan tâm của những người lãnh đạo kháng chiến, những “chiến binh điện ảnh” đã được quy tụ về bưng biền Đồng Tháp Mười. Cùng với Mai Lộc, Khương Mễ - những chiến sĩ nòng cốt của Tổ Nhiếp - Điện ảnh Khu 8, những chiến binh từ các chiến trường lân cận như Vũ Sơn, Đoàn Tý, Hồ Tây, Nguyễn Đảnh, An Sơn…, rồi Lý Cương, Lưu Văn Phá được móc nối từ ngoài thành vào đã cùng nhau mày mò, sáng tạo, vừa làm vừa học vừa ứng biến cùng làm nên kỳ tích - làm phim giữa chiến trường. “Cái gì đã làm nên chiến công này? Sức mạnh ở đâu? Không có ở đâu cả. Không có khí tài, khí lực gì ở đây cả, đói gần chết, lạnh gần chết, muỗi cắn gần chết, không có danh hiệu “Nghệ sĩ ưu tú”, “Nghệ sĩ nhân dân” gì ở đây cả. Chỉ có lòng tin với nhau. Dân tin bộ đội, bộ đội tin Tư lệnh. Vì tin, nên họ sẵn sàng xả thân đến mức tận tụy, không thấy đói, không thấy lạnh, không thấy cái chết kề trong gan tấc”, nhà biên kịch Nhất Mai nhận định.
Lãnh đạo TPHCM tặng quà tri ân những nghệ sĩ - chiến sĩ năm xưa tại Lễ kỷ niệm “70 năm Điện ảnh Cách mạng Bưng biền - Nam Bộ”.Chiếu phim giữa đồng bưng
“Trầy trật lắm mới mua được máy quay thì lại bị pháo kích rớt xuống sông. Tổ in tráng vừa hoàn chỉnh việc thiết kế thủ công thì bị Pháp nhảy dù lấy đi hết phim nhựa, máy móc, thuốc men, dụng cụ. Lại phải làm lại từ đầu”, nhà biên kịch Dương Cẩm Thúy chia sẻ về những ngày đầu gian khó của Điện ảnh Bưng biền. Nào đâu chỉ có thế, muốn làm phim phải có nước ngọt, mà Đồng Tháp Mười chỉ có nước nhiễm phèn; phải có nước đá để làm lạnh phòng tối ngâm tráng phim, mà nước đá chỉ có ở lộ lớn, phải vượt qua nhiều đồn bót giặc rồi nhờ dân đi mua; để đảm bảo an toàn, buồng in tráng phim phải đặt trên… xuồng để dễ di chuyển tránh các trận càn và tiện mua nước đá…
Có những công đoạn nếu điều kiện bình thường chỉ làm trong một vài giờ thì ở giữa bưng biền phải mất tới mấy tuần lễ. Thế mới thấy công sức và sự quyết tâm mà những người làm điện ảnh Khu 8 rồi Khu 9, Khu 7 đã bỏ ra trong mỗi thước phim. Với một cơ ngơi như vậy mà hàng loạt tác phẩm có giá trị lịch sử như: “Trận Mộc Hóa”, “Trận Laban”, “Chiến dịch Trà Vinh - Cầu Kè”, “Chiến dịch Sóc Trăng”, “Hết đời đế quốc”, “Một năm philatop ở Việt Nam”… đã lần lượt ra đời. Trong đó, “Trận Mộc Hóa” là bộ phim tài liệu đầu tiên của Tổ Nhiếp - Điện ảnh Khu 8. Đêm 24/12/1948 đánh dấu cột mốc không thể quên của Điện ảnh Bưng biền - Nam Bộ khi “Trận Mộc Hóa” được chiếu chào mừng Hội nghị Quân - Dân - Chính - Đảng Nam Bộ và lần đầu tiên chiến sĩ, đồng bào ta được biết đến “nghệ thuật thứ 7”. Câu lạc bộ Quân nhân được cất bằng tràm, tre, đứng bên bờ kênh Dương Văn Dương, nơi tổ chức hội nghị, trở thành rạp chiếu bóng đầu tiên của quân dân Đồng Tháp Mười. Đồng bào từ cách mấy chục cây số cũng náo nức chèo ghe, xuồng đi xem phim, bịt kín cả một khúc sông. Bà con chen chúc nhau, thậm chí… xé vách hội trường vào coi phim và Câu lạc bộ Quân nhân được trang hoàng lộng lẫy cho hội nghị hôm trước chỉ còn trơ lại… cái nóc và hàng cột tràm!
Theo hình dung của đạo diễn Tô Hoàng, khung cảnh những buổi chiếu phim của Điện ảnh Khu 8 thuở đó thật đẹp, thơ mộng và lung linh: “Mỗi buổi tối chiếu phim là một ngày hội. Người ta đi bộ, chèo ghe thuyền cả 4, 5 tiếng đồng hồ để xem phim. Phim được chiếu cho bộ đội xem ngay trước giờ xuất kích đánh đồn. Phim được chiếu ngay tại làng xóm vừa bị máy bay địch oanh tạc…”.
Nhà quay phim Hồ Tây (giữa) và những nghệ sĩ của Điện ảnh Bưng biền - Nam Bộ năm xưa chia sẻ cảm nghĩ tại Lễ kỷ niệm “70 năm Điện ảnh Cách mạng Bưng biền - Nam Bộ”.Xây nền cho điện ảnh cách mạng Việt Nam
Đạo diễn Hồ Tây, một trong những “người còn lại” hiếm hoi của Điện ảnh Khu 8, cho biết tháng 6/1950, 2 nhà quay phim của Điện ảnh Khu 9 là Nguyễn Thế Đoàn, Lê Minh Hiền đã lội bộ từ Đồng Tháp Mười ra Việt Bắc để quay những thước phim vô giá về Đại hội Đảng lần II. Nhà quay phim - NSND Nguyễn Thế Đoàn đã có 2 tháng sống bên Bác Hồ để thực hiện những thước phim lịch sử đầu tiên về Bác ở chiến khu Việt Bắc. Sau đó, ông sang Trung Quốc in tráng và hoàn thành phim. Đến đầu năm 1953 mang về Nam chiếu cho đồng bào xem.
Năm 1951, các nhà làm phim của Điện ảnh Khu 8 là Mai Lộc, Nguyễn Phụ Cấn, Võ Thành Tắc, Nguyễn Công Son được điều ra Trung ương để xây dựng ngành điện ảnh. Từ Tây Bắc, đạo diễn Mai Lộc đã thực hiện phim tài liệu “Chiến thắng Tây Bắc” (1952), cũng đưa sang Trung Quốc in tráng, lồng nhạc và tiếng động. Đây là bộ phim tài liệu hoàn chỉnh đầu tiên của Việt Nam đã được chiếu ở Trung Quốc và một số nước Xã hội Chủ nghĩa.
Năm 1954, nhiều chiến sĩ của Điện ảnh Bưng biền - Nam Bộ tập kết ra Bắc tiếp tục bổ sung lực lượng và góp phần đào tạo, chuẩn bị đội ngũ cán bộ chuyên môn cho ngành điện ảnh. Năm 1955, khi tổ chức điện ảnh hai miền Đồi cọ và Bưng biền được hợp nhất tại Hà Nội, cùng nhau chung sức xây dựng Xưởng phim Việt Nam - xưởng phim chính quy đầu tiên của nước ta, anh em điện ảnh Nam Bộ khá đông, tham gia hầu hết các bộ phận, in tráng, dựng phim… Đó là: Khương Mễ, Mai Lộc, Vũ Sơn, Nguyễn Đảnh, Lý Cương, Hồ Tây, Cao Thành Nhơn, Nguyệt Hải, An Sơn, Nguyễn Thế Đoàn, Lê Minh Hiền, Nguyễn Phụ Cẩn, Nguyễn Chính…, những nhà làm phim tiền phong tiếp tục có nhiều đóng góp trong kháng chiến chống Mỹ và xây dựng nền điện ảnh Việt Nam sau này.
Ngày 15/10, Hội Điện ảnh TPHCM đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm “70 năm Điện ảnh Cách mạng Bưng biền - Nam Bộ (15/10/1947 - 15/10/2017”, qua đó cùng ôn lại truyền thống, khẳng định niềm tự hào về một nền điện ảnh ra đời từ trong khói lửa chiến tranh. Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM Thân Thị Thư khẳng định, kỳ tích điện ảnh Bưng biền - Nam Bộ là tấm gương về tinh thần trách nhiệm và lòng dũng cảm, là bài học quý giá về lòng yêu nghề, đức tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám hy sinh cống hiến ở một thời mà mỗi văn nghệ sĩ là chiến sĩ cách mạng kiên cường. Những thước phim, những hình ảnh được lưu giữ đến hôm nay là: “tài sản vô giá, là những trang sử vàng viết bằng hình ảnh một thời kỳ, giai đoạn lịch sử vô cùng hào hùng và tự hào của dân tộc ta, để gìn giữ và truyền lại cho thế hệ mai sau”.