Chủ Nhật, ngày 14 tháng 12 năm 2025

Những cống hiến của đồng chí Phạm Hữu Lầu với cách mạng Việt Nam

(Thanhuytphcm.vn) - Đồng chí Phạm Hữu Lầu (bí danh là Tư Lộ) sinh năm 1906, tại làng Hòa An, tổng An Tịnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là Phường 4, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Hòa An là một vùng đất trù phú, giàu truyền thống lịch sử, văn hóa, được xem là “cái nôi” của quê hương cách mạng trong các chặng đường lịch sử. Năm 1919, khi mới 13 tuổi do bố mất, mẹ bệnh, gia đình gặp khó khăn nên Đồng chí phải nghỉ học, đi làm để kiếm sống, nuôi mẹ và các em.

Chân dung đồng chí Phạm Hữu Lầu Chân dung đồng chí Phạm Hữu Lầu
Thời niên thiếu, Đồng chí Phạm Hữu Lầu đã sớm tiếp xúc với các luồng tư tưởng tiến bộ của các bậc lão thành cách mạng lại được truyền thống của gia đình quê hương hun đúc nên Đồng chí đã hiểu rõ nỗi khổ của người dân mất nước, sớm có tư tưởng cách mạng.

Mùa thu năm 1927, với tinh thần nhiệt huyết với cách mạng và bản chất năng nổ, thông minh của mình, Đồng chí Phạm Hữu Lầu đã được kết nạp vào tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Được cử làm chi hội trưởng – tổ chức đầu tiên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Cao Lãnh. Với cương vị là Chi hội trưởng, Đồng chí đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống lại bọn cường quyền bóc lột, nâng cao uy tín của Hội; đã nhanh chóng phát triển lực lượng của Chi hội, đến tháng 6/1929 đã phát triển được hơn 40 hội viên.

Tháng 10/1929, Đồng chí Ung Văn Khiêm kết nạp Đồng chí vào An Nam Cộng sản Đảng. Tháng 11/1929, Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng đầu tiên được thành lập tại ấp Hòa Lợi, làng Hòa An, đồng chí Phạm Hữu Lầu được bầu làm Bí thư chi bộ. Chấp hành sự phân công của Đảng, cuối năm 1929, đồng chí Phạm Hữu Lầu được phân công đi “vô sản hóa”, xây dựng phong trào công nhân ở Đềpô xe lửa Dĩ An. Trong thời gian hoạt động ở cơ sở, cùng sống sinh hoạt và làm việc với công nhân, bằng tài năng và uy tín của mình Phạm Hữu Lầu đã cùng với Nguyễn Đức Thiệu tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản cho anh em. Nhiều công nhân đã được giác ngộ tư tưởng cách mạng, Chi bộ Đảng và tổ chức Công hội đỏ của xí nghiệp được thành lập. Ngày 7/11/1929, tại Khánh Hội (Sài Gòn), dưới sự chủ trì của đồng chí Châu Văn Liêm, Đại hội đại biểu An Nam Cộng sản Đảng bầu ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời (lúc này gọi là Ban Chỉ đạo lâm thời) gồm 5 người, do đồng chí Châu Văn Liêm làm Bí thư. Đồng chí Phạm Hữu Lầu là một trong 5 thành viên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của An Nam Cộng sản Đảng.

Sau Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hồng Công, ngày 8/2/1930 các đại biểu về nước thực hiện kế hoạch hợp nhất các cơ sở đảng ở trong nước. “Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng được thành lập gồm có Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Lam, Nguyễn Văn Hới, Nguyễn Phong Sắc, Hoàng Quốc Việt, Phạm Hữu Lầu, Lưu Lập Đạo, do Trịnh Đình Cửu đứng đầu”. Ngày 24/2/1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời ra Quyết nghị Chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sự kiện đồng chí Phạm Hữu Lầu, người Nam Kỳ duy nhất và là đại diện duy nhất cho tổ chức An Nam Cộng sản Đảng tại cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam chứng tỏ uy tín và tinh thần cách mạng cao cả của đồng chí đối với đất nước. Trong thời gian từ tháng 2/1930 đến tháng 7/1930 giữ cương vị là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng, đồng chí Phạm Hữu Lầu đã có nhiều hoạt động phong phú, nhiều ý kiến chỉ đạo đối với phong trào cách mạng Nam Kỳ và quê hương Sa Đéc.

Chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương tìm mọi cách nhấn chìm phong trào đấu tranh cách mạng. Mục tiêu của chúng là phải tiêu diệt Đảng Cộng sản Việt Nam từ trong trứng nước. Nhưng bằng sự khôn khéo và tài tình, tháng 4/1930 Phạm Hữu Lầu cùng Ban Lâm thời Chấp ủy của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam Kỳ và các chi bộ đảng địa phương đã lãnh đạo nhân dân biểu tình nhân dịp 1/5/1930 ở Cao Lãnh và đã đạt được thắng lợi ngoài dự kiến. Ngày 1/5/1930, hơn 700 nông dân ở các xã Bình Thành, Tân Phú, Tân Thạnh, An Phong biểu tình; ngày 3/5, hơn 4000 nông dân Cao Lãnh tham gia biểu tình. Chính quyền địch phải nhượng bộ, Nguyễn Quang Tường - Quận trưởng Cao Lãnh phải ký vào giấy chấp nhận yêu sách hoãn nộp thuế thân trong hai tháng và thả những người thiếu thuế bị bắt. Tiếp đó Cờrôtême – Thống đốc Nam Kỳ phải ra lệnh đình thuế cho Nam Kỳ trong hai tháng.

Đầu tháng 5/1930, Phạm Hữu Lầu lên đường ra Hà Nội dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương. Hội nghị chưa tiến hành được thì một số ủy viên Trung ương đã bị địch bắt. Biết quá khó khăn và không thể họp an toàn được ở trong nước, đồng chí Phạm Hữu Lầu quay về Sài Gòn và hẹn các đồng chí vào đầu tháng 7/1930 sẽ ra Hà Nội, và tất cả sẽ xuống Hải Phòng rồi ra Hương Cảng (Hồng Công để họp).

Thực hiện kế hoạch tổ chức Hội nghị Trung ương lần thứ nhất, tháng 7-1930, theo triệu tập của Ban Thường vụ Trung ương lâm thời đồng chí Phạm Hữu Lầu (đại diện cho bộ phận Trung ương ở Nam Kỳ) ra Bắc cùng Ban Thường vụ họp hội nghị trù bị bàn các biện pháp mở Hội nghị Trung ương. Đồng chí Phạm Hữu Lầu cùng một số đồng chí lên đường vào ngày 24/7/1930. Mặc dù đã rất khôn khéo và lường trước sự việc, nhưng đồng chí Phạm Hữu Lầu vẫn bị địch bắt. Đây là một tổn thất lớn cho phong trào cách mạng lúc bấy giờ.

Biết Phạm Hữu Lầu là cán bộ chủ chốt của Đảng, mật thám Pháp tìm mọi cách mua chuộc, dụ dỗ, tra tấn nhằm khai thác tổ chức của Đảng. Đồng chí đã kiên quyết chống lại mọi thủ đoạn lừa bịp đe dọa của địch. Bọn địch biết không thể lay chuyển được ý chí gang thép của người cộng sản, chúng đã kết án đồng chí tù chung thân, phát lưu và đày ra Côn Đảo.

Giữa năm 1931, Phạm Hữu Lầu bị đưa ra Nhà tù Côn Đảo. Trong Ban Chấp hành Trung ương khi đó có đồng chí Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc Việt) cùng bị giam ở Banh II với Phạm Hữu Lầu. Đồng chí Phạm Hữu Lầu cùng với các đồng chí Lương Khánh Thiện, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng đã có nhiều đóng góp trong việc lãnh đạo tù nhân đoàn kết các xu hướng chính trị, đấu tranh đòi cải thiện đời sống, đòi thực hiện chế độ tù chính trị, bảo vệ sinh mạng cán bộ và tổ chức học tập văn hóa, lý luận, đào tạo rèn luyện cán bộ.

Năm 1936, trước sự đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân ta, Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp đã phải quyết định ân xá cho một số lớn tù chính trị trong đó có đồng chí Phạm Hữu Lầu. Ra tù, trở về đất liền Phạm Hữu Lầu lại bắt liên lạc với Đảng, được phân công làm Ban Cán sự Đảng của báo Dân chúng “Le Peuple” ở Sài Gòn. Lợi dụng thế hợp pháp, đồng chí đã vận động nhân dân đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ. Ngày 28/11/1937, Phạm Hữu Lầu lên diễn thuyết trước hơn ba nghìn người trong cuộc mít tinh do nhóm Dân chúng tổ chức tại rạp hát Thành Xương. Thực dân Pháp coi Phạm Hữu Lầu là “phần tử nguy hiểm”, lại có uy tín lớn trong dân chúng nên đã ra lệnh trục xuất khỏi Sài Gòn và đưa về quản thúc tại Cao Lãnh. Về Cao Lãnh quê hương, Phạm Hữu Lầu đã nhanh chóng liên lạc với cơ sở cách mạng địa phương, tổ chức những cuộc đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, vận động lấy chữ ký ủng hộ phong trào “Đông Dương đại hội”, tổ chức các hội quần chúng, phát triển đảng viên. Chẳng những đồng chí xây dựng phong trào ở Cao Lãnh, mà còn mở rộng phong trào sang các tỉnh khác. Đồng chí vẫn duy trì sinh hoạt trong nhóm Dân chúng và thường xuyên lên Sài Gòn gửi bài cho báo. Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, bọn phản động thuộc địa Đông Dương tước đoạt tất cả các quyền lợi của nhân dân đã đạt được trong phong trào đấu tranh dân sinh, dân chủ 1936 - 1939. Tất cả các đảng viên hoạt động công khai đều bị lùng bắt. Ngày 29/9/1939, sau khi biết tin phần lớn các đồng chí trong nhóm Dân chúng bị bắt, đồng chí Phạm Hữu Lầu đến tỉnh Rạch Giá liên lạc với các đồng chí cũ để xây dựng phong trào. Trong lúc đang dạy trẻ em trong xóm ấp để che mắt địch thì bị thực dân Pháp bắt và đưa về Sài Gòn. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 27/7/1940 đồng chí bị kết án 5 năm tù giam, 10 năm lưu đày biệt xứ. Ngày 27/11/1940, Phạm Hữu Lầu lại bị thực dân Pháp đày ra Côn Đảo lần thứ hai, cùng chuyến đó có Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn An Ninh, Dương Bạch Mai, Võ Công Tồn, Lê Duẩn, Vũ Đình Hiếu… tất cả đều bị cầm cố ở Banh III. Đây là thời kỳ địch khủng bố rất ác liệt tại nhà tù Côn Đảo. Đồng chí vẫn vững vàng ý chí đấu tranh của người cộng sản, hăng say học tập và hoạt động giúp đỡ anh em trong tù khi bị đánh đập dã man, đau ốm. Đặc biệt đã có đóng góp tích cực cùng bác Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng tổ chức tốt công tác cứu tế tù nhân, bảo vệ mạng sống cho nhiều tù chính trị. Ở Banh III có một số tù nhân người Khơme do đã tham gia phong trào chống Pháp của sư sãi Phnompênh (Campuchia).

Các đồng chí đã dạy anh em tiếng Việt và nhờ họ dạy tiếng Khơme cho mình tạo nên mối đoàn kết cách mạng giữa hai nước cùng chống lại kẻ thù chung là thực dân Pháp.

Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám diễn ra thành công. Ngày 23/9/1945, một phái đoàn của Ủy ban Hành chính Nam Bộ đã đưa một đoàn tàu ra Côn Đảo đón hơn 2000 người con trung hiếu trở về đất liền trong đó có đồng chí Phạm Hữu Lầu.

Trở về đất liền vào lúc phong trào cách mạng sôi động và khó khăn nhất. Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền cách mạng mới được thành lập đã phải đương đầu với biết bao khó khăn, thử thách nghiêm trọng, đất nước bị các thế lực phản động, đế quốc bao vây và tiến công tứ phía. Tháng 10/1945, Phạm Hữu Lầu được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Sa Đéc (Đồng Tháp). Trong điều kiện công cuộc kháng chiến đầy khó khăn gian khổ nhưng với tuổi trẻ đã kinh qua bao gian khổ lao tù, đầy nhiệt huyết cách mạng, Phạm Hữu Lầu luôn nhận và hoàn thành các nhiệm vụ cách mạng giao phó. Từ tháng 10/1945 đến tháng 10/1954, đồng chí đã kinh qua các chức vụ chính: Bí thư Tỉnh ủy Sa Đéc; Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chính tỉnh Sa Đéc; Khu ủy viên, Phó Bí thư Khu ủy Khu 8 phụ trách Ban kiểm tra Khu 8, Bí thư Tỉnh ủy Mỹ Tho, Ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ kiêm Giám đốc Sở Công an Nam Bộ và phụ trách Sở Thương binh – Xã hội.

Sau Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết. Để phù hợp với tình hình mới, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chuyển hướng công tác xây dựng Đảng ở miền Nam. Tháng 10/1954, Hội nghị thành lập Xứ ủy Nam Bộ bầu đồng chí Phạm Hữu Lầu làm Phó Bí thư Xứ ủy. Từ năm 1954 đến cuối năm 1956, Trụ sở Xứ ủy đóng tại Sài Gòn và đồng chí Lầu đã đến sống, hoạt động ở Sài Gòn. Cuối năm 1956, Xứ ủy dời Trụ sở về PhnomPênh (Campuchia). Sau Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ lần thứ hai họp ở PhnomPênh, đồng chí Lê Duẩn ra miền Bắc nhận nhiệm vụ mới, đồng chí Phạm Hữu Lầu làm quyền Xứ ủy, Bí thư Xứ ủy. Giữa lúc công cuộc cách mạng của nhân dân miền Nam đang ở thời điểm gay go quyết liệt nhất, vì bệnh nặng đồng chí Phạm Hữu Lầu đã mất ngày 16/12/1959 tại Campuchia.

Với vai trò là cán bộ chủ chốt của Xứ ủy Nam Bộ, nhất là sau khi đồng chí Lê Duẩn - Bí thư Xứ ủy ra Bắc, đồng chí Phạm Hữu Lầu đã cùng tập thể Xứ ủy chèo lái phong trào cách mạng miền Nam đấu tranh giữ gìn lực lượng trong hoàn cảnh gian khổ bởi chính sách “tố cộng, diệt cộng” của địch. Thời gian đồng chí đảm trách nhiệm vụ đứng đầu Xứ ủy cũng là những năm tháng phong trào cách mạng miền Nam bị địch dìm trong máu. Trong hoàn cảnh đường hướng và phương châm đấu tranh của phong trào cách mạng miền Nam còn nhiều bất cập, đồng chí đã cùng tập thể Xứ ủy phát huy tinh thần chủ động, thực hiện linh hoạt sự chỉ đạo của Trung ương, từng bước đưa cuộc đấu tranh từ chính trị đơn thuần sang đấu tranh chính trị có võ trang tự vệ, xây dựng lực lượng vũ trang gắn với đấu tranh võ trang có mức độ.

Phạm Hữu Lầu đã mất ở tuổi 53 là thời kỳ đồng chí đang cống hiến cho công cuộc cách mạng ở mức cao nhất. Đây cũng là một tổn thất lớn cho Đảng và dân tộc. Đồng chí đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; đã hăng hái tham gia đấu tranh cách mạng trong thời kỳ khó khăn và gian khổ nhất. Hai lần bị thực dân Pháp bắt tra tấn và giam cầm ở những nhà tù khét tiếng nhất nhưng đồng chí không nhụt ý chí đấu tranh. Mỗi lần được ra tù, Phạm Hữu Lầu lại lao vào công cuộc đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng. Do hoạt động của đồng chí Phạm Hữu Lầu trong thời kỳ khó khăn và bí mật, nên tư liệu ghi lại chưa được nhiều. Nhưng với những gì đã hiểu được và ghi lại được về đồng chí Phạm Hữu Lầu cũng đủ hiện lên cho ta tấm gương của người đảng viên cộng sản ưu tú, gương mẫu về đức tính khiêm tốn và tình thương yêu đồng bào, đồng chí, tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng, lấy phụng sự Tổ quốc và nhân dân làm lý tưởng sống.

Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng

Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM


Ý kiến bạn đọc

refresh
 

Tổng lượt bình luận

Tin khác

Thông báo