Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI đã quyết định nhiều vấn đề trọng đại của đất nước, trong đó có việc đổi tên nước thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (Ảnh: tư liệu)(Stxdd.thanhuytphcm.vn) - 45 năm trước, ngày 2/7/1976, Quốc hội khóa VI (nhiệm kỳ 1976 - 1981) nước Việt Nam thống nhất đã quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam. 45 năm qua, cái tên CHXHCN Việt Nam đã vang lên ở nhiều diễn đàn quan trọng của quốc tế. Sau 45 năm mang quốc hiệu mới này, dân tộc chúng ta đã có những bước tiến dài trên con đường xây dựng một đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
1. Để có một giang sơn gấm vóc hôm nay, để hàng ngày chúng ta được gọi hai tiếng Việt Nam thiêng liêng, để tên nước CHXHCN Việt Nam vang lên và được trân trọng trên các diễn đàn lớn của thế giới như hôm nay là cả một quá trình phấn đấu, chiến đấu, lao động, xây đắp ngàn đời của ông cha.
“Hồng Bàng là Tổ nước ta/ Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang” (Hồ Chí Minh - Lịch sử nước ta). Năm 2.879 TCN, họ Hồng Bàng dựng nước, nước Việt có tên gọi là Văn Lang. Năm 228 TCN, An Dương Vương đổi tên nước ta thành nước Âu Lạc. Sau đó, nhà Hán thiết lập nền đô hộ trên đất nước ta từ năm 111 TCN và dân tộc ta mất nước 1.117 năm (111 TCN - 938).
Trong suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc ấy, lớp lớp cha ông chúng ta đã không chịu khuất phục, luôn vùng lên đấu tranh để giành độc lập, lớp trước ngã xuống, lớp sau đứng lên. Đã có lúc chúng ta đã giành được độc lập. Hai nữ anh hùng dân tộc Trưng Trắc và Trưng Nhị đã làm cho kẻ thù kinh hồn, bạt vía “Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa” (Ngân Giang, Trưng Nữ Vương). Đất nước giành được độc lập năm 40 – 43, Trưng Vương, dù đã lên ngôi nhưng chưa kịp đặt quốc hiệu. Năm 544, người anh hùng dân tộc Lý Bí đã lãnh đạo nhân dân chống giặc Lương thành công, lập nên nhà nước Vạn Xuân với mong muốn đất nước sẽ trường tồn mãi mãi.
Dấu mốc vĩ đại trong lịch sử Việt Nam là năm 938, Ngô Quyền đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, kết thúc thời kỳ Bắc thuộc. Triều đại kế vị sau đó với hoàng đế Đinh Tiên Hoàng đã đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Quốc hiệu này tiếp tục tồn tại dưới thời tiền Lê. Năm 1010, Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đổi tên Đại La thành Thăng Long. Lý Thánh Tông (trị vì 1054 - 1072), một vị vua tài năng, khi lên ngôi vào năm 1054 đã đổi tên nước là Đại Việt. Quốc hiệu Đại Việt được dùng lâu nhất trong lịch sử nước ta với gần 800 năm, trải suốt các triều Trần và Hậu Lê.
Trong khoảng thời gian ấy, có một giai đoạn ngắn từ 1400 - 1407, nhà Hồ đã đặt quốc hiệu là Đại Ngu (sự yên vui lớn).
Năm 1804, dưới thời vua Gia Long, quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Năm 1838, vua Minh Mạng đặt quốc hiệu mới là Đại Nam với ý nghĩa “nước Nam rộng lớn, hùng mạnh”.
Thực ra, lịch sử sau này cho thấy cái tên Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm trong nhiều tác phẩm của các nhà văn hóa lớn như Hồ Tông Thốc (Việt Nam thế chí), Nguyễn Trãi (Dư địa chí), Nguyễn Bỉnh Khiêm (trong câu “Việt Nam khởi tổ xây nền”)…
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đại Nam sau đó bị chia thành 3 kỳ và cả nước nằm dưới sự đô hộ của thực dân Pháp.
2. Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời và tên nước này đã được Quốc hội khóa I chính thức quyết nghị thông qua. Quốc hiệu này tồn tại từ 1954 - 1976.
Quang cảnh khóa họp thứ 73 Đại hội đồng Liên hợp quốc bỏ phiếu chọn Việt Nam và 4 quốc gia khác vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, ngày 7/6/2019. (Ảnh: TTXVN)Trong 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc, đã có nhiều mưu đồ thâm độc nhằm chia rẽ và chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam. Ở miền Nam, thực dân Pháp đã dựng lên chế độ “Nam Kỳ quốc” và “Quốc gia Việt Nam”. Sau khi lật đổ Quốc trưởng Bảo Đại của Quốc gia Việt Nam, chế độ “Việt Nam Cộng hòa” ra đời.
Năm 1960, các lực lượng yêu nước và kháng chiến đã thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (từ năm 1969). Ngày 30/4/1975, đất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất
Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI đã quy định quốc kỳ là cờ đỏ sao vàng, quốc huy có dòng chữ “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, quốc ca là bài Tiến quân ca; đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định là thành phố Hồ Chí Minh; quy định thủ đô của nước Việt Nam là Hà Nội.
3. Sau khi mang Quốc hiệu mới là CHXHCN Việt Nam đến nay, sau 45 năm, thế và lực của đất nước đã ngày càng lớn mạnh. Từ một đất nước bị bao vây, cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước thành viên Liên hợp quốc.
Đến nay, Việt Nam đã tiến những bước dài trên con đường hội nhập quốc tế, đã 2 lần được bầu là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Trong 35 đổi mới đất nước, kinh tế Việt Nam đã tăng 18 lần, GDP đầu người tăng 8,3 lần, dự trữ ngoại hối so với năm 1997 tăng 47,6 lần, lên gần 100 tỷ USD. Tỷ lệ người nghèo từ trên 80% dân số thì nay chỉ còn dưới 3% và Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế uy tín đánh giá là hình mẫu trong xóa đói giảm nghèo. Năm 2020, Việt Nam đã chính thức vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 ở Đông Nam Á, đứng thứ 37 thế giới và được đánh giá là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất trên thế giới…
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, Việt Nam sẽ trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Để đi tới tương lai phồn vinh dân tộc ấy là cả một quãng đường dài và không hề bằng phẳng. Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, con đường ấy lại càng nhiều chông gai, thử thách. Thế nhưng, với truyền thống yêu nước, với bề dày và chiều sâu văn hóa, đất nước chúng ta, dân tộc chúng ta sẽ vững vàng để đi tới.