Thứ Bảy, ngày 20 tháng 12 năm 2025

Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và vấn đề xây dựng “thế trận lòng dân” trong khu vực phòng thủ trên địa bàn Quân khu 7

Thanh niên quận 6 - Sài Gòn tham gia cùng bộ đội đánh địch trên đường phố Sài Gòn 3/2/1968. Ảnh tư liệu của Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam

(Thanhuytphcm.vn) - Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã làm chấn động Lầu Năm Góc, rung chuyển cả nước Mỹ, khởi đầu một quá trình đi xuống về chiến lược trong chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ, tạo ra bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy này, quân và dân ta ở miền Nam đã đánh bại về cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ" và ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Thắng lợi to lớn của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã cho thấy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Đó là sức mạnh của toàn dân đánh giặc, là sức mạnh chính trị - tinh thần góp phần cùng sức mạnh quân sự; là sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân trên nền tảng sức mạnh của "thế trận lòng dân".

Ngay những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là sau phong trào Đồng khởi năm 1960, vai trò của lực lượng nổi dậy được Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền rất chú trọng. Tháng 10-1967, Trung ương Cục ra Nghị quyết về tổng công kích, tổng khởi nghĩa trên toàn chiến trường B2. Tháng 1-1968, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 của Trung ương Đảng xác định: "Cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang trên các chiến trường chính và sự nổi dậy của nhân dân ở các thành thị lớn là hai mũi tiến công chính kết hợp chặt chẽ với nhau, trợ lực lẫn nhau và thúc đẩy toàn bộ cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa khắp cả ba vùng thành thị, nông thôn đồng bằng và rừng núi. Đặc biệt, cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang và sự nổi dậy của quần chúng nhân dân ở các thành thị lớn là mũi nhọn thọc vào yết hầu của địch, có tầm quan trọng quyết định đối với toàn bộ chiến trường và toàn cuộc chiến tranh"[1]. Tại khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định, ta đã chỉ đạo xây dựng được nhiều lõm căn cứ ở vùng ven và trong nội đô Sài Gòn. Tuy nhiên, trong một thời gian ngắn, để xây dựng lực lượng chính trị tại chỗ đủ khả năng nổi dậy kết hợp với lực lượng vũ trang tiến công địch giành chính quyền là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Nhằm khắc phục khó khăn này, Trung ương Cục, Quân ủy Miền đã thành lập chỉ huy lực lượng nổi dậy bên cạnh chỉ huy tiến công quân sự. Về phương thức xây dựng lực lượng chính trị, cơ sở cách mạng trong vùng địch kiểm soát, Quân ủy Miền chỉ đạo: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động xây dựng các cơ sở cách mạng, hình thành bàn đạp trong thành phố, ở những nơi hiểm yếu, đô thị, tiếp giáp các mục tiêu chiến lược của địch, làm nơi trinh sát nắm địch, nơi cất giấu vũ khí trang bị, điểm trú ém quân, điểm xuất phát của các đơn vị vũ trang tiến công địch; phát triển lực lượng trong các tổ chức quần chúng cách mạng, tuyên truyền giáo dục, xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu và niềm tin vào thắng lợi của cách mạng, động viên tinh thần sẵn sàng "xuống đường" nổi dậy kết hợp với lực lượng vũ trang tiến công địch giành chính quyền về tay nhân dân; chuẩn bị lực lượng, vật chất sẵn sàng phục vụ chiến đấu và tham gia chiến đấu khi có yêu cầu.

Do có sự chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất, kế thừa những thành công của "vành đai diệt Mỹ" và kinh nghiệm trong phong trào Đồng khởi 1960, chỉ sau một thời gian ngắn, trên toàn chiến trường Đông Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ, một đội quân chính trị hùng hậu đã sẵn sàng tham gia cuộc nổi dậy giành chính quyền ở khắp các vùng từ nông thôn đến thành thị. Khí thế nổi dậy ở chiến trường trọng điểm Đông Nam Bộ, đặc biệt là tại Sài Gòn - Gia Định, công tác xây dựng lực lượng chính trị, tuyên truyền vận động quần chúng ủng hộ cách mạng, tham gia nổi dậy phá ách kìm kẹp được các cấp ủy đảng, chỉ huy các phân khu quan tâm ngang với công tác chuẩn bị lực lượng quân sự. Đến trước khi phát lệnh tổng tiến công và nổi dậy, tại chiến trường Đông Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ, ta đã xây dựng được nhiều lõm căn cứ vùng ven. Điển hình là: Hưng Long (Cần Giuộc), Long Cang, Long Định (Cần Đước), Vườn Thơm - Bà Vụ, Vĩnh Lộc, Tân Nhựt (Bình Chánh), Thạnh Lộc, An Phú Đông (Hóc Môn), vùng Bưng 6 xã (Thủ Đức), Phú Xuân (Nhà Bè), Hóc Bà Thức (Biên Hòa), Lê Hồng Phong (Bình Thuận)... Các lõm này vừa là địa điểm tập kết lực lượng, vũ khí, lương thực, vật chất phục vụ cho các trận đánh; đồng thời cũng là địa điểm tập trung các tổ chức quần chúng cách mạng ở vùng ven, sẵn sàng phối hợp với lực lượng vũ trang tiến công vào nội đô. Bằng nhiều ngả đường, với nhiều cách ngụy trang độc đáo, bằng đủ các loại phương tiện và hình thức vận chuyển, quần chúng cách mạng của các tỉnh Long An, Hậu Nghĩa, Kiến Tường, Biên Hòa tổ chức đưa hàng trăm tấn vũ khí, lương thực, vật chất đến các lõm căn cứ chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn - Gia Định.

Cùng thời điểm cuối năm 1967, trong nội đô Sài Gòn, các đơn vị bảo đảm đã xây dựng được 19 lõm chính trị bao gồm 325 gia đình, có 11 cơ sở ém vũ khí và phương tiện di chuyển, 13 cơ sở khác có hầm chứa vũ khí. Tiêu biểu là các lõm ở các ấp Bác Ái, cầu Bông (Gia Định), khu lao động Bàn Cờ (Quận 3), khu Xóm Chùa, Tân Định (Quận 1)... Một số cơ sở có hầm chứa vũ khí phục vụ các trận đánh quan trọng như: hầm 287/70 Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) do Trần Văn Lai (Mai Hồng Quế) xây dựng; hầm 438/58 đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách mạng Tháng Tám) do vợ chồng Lê Tấn Quốc (Bảy rau muống) xây dựng; hầm 65 Nguyễn Bỉnh Khiêm (Quận 1) cách Đài Phát thanh Sài Gòn không đầy 100 mét, do Trần Phú Cương (Năm Mộc) xây dựng... Ngoài ra, còn có rất nhiều cơ sở cách mạng sau khi được tuyên truyền vận động đã tình nguyện đào hầm bí mật cất giấu vũ khí, làm nơi trú ém quân ngay trong gia đình mình, trước sự lục soát, giám sát, kìm kẹp rất gắt gao của kẻ thù. Nhờ sự đùm bọc, cưu mang của các cơ sở trong nội đô, 11 đội biệt động thành và 50 đội biệt động cấp quận vừa thành lập có những địa điểm trú ém quân, cất giấu vũ khí an toàn ngay sát căn cứ địch.

Cùng với nhiệm vụ xây dựng lõm căn cứ, tạo bàn đạp tiến công, công tác xây dựng lực lượng quần chúng cách mạng phối hợp cùng lực lượng vũ trang phá ách kìm kẹp, giành chính quyền tại miền Đông Nam Bộ đã được Trung ương Cục, Quân ủy Miền rất quan tâm. Để chỉ đạo kịp thời việc phát triển lực lượng và tổ chức hoạt động của lực lượng quần chúng cách mạng, Quân ủy Miền đã phân công cán bộ phụ trách khối khởi nghĩa và nổi dậy từ cấp Miền xuống đến cấp tỉnh. Lực lượng nổi dậy hướng Sài Gòn - Gia Định do đồng chí Võ Văn Kiệt phụ trách chung. Trách nhiệm chỉ đạo các khối thuộc về các quận ủy, huyện ủy, Ban Công vận. Thành Đoàn có nhiệm vụ tập hợp thanh niên nội đô, gồm 3 bộ phận: lực lượng vũ trang Thành Đoàn (đội biệt động) đánh các mục tiêu quan trọng; lực lượng chính trị vũ trang có nhiệm vụ tuyên truyền vũ trang phát động quần chúng nổi dậy; lực lượng chính trị công khai giương cao ngọn cờ hòa bình, trung lập để tập hợp tầng lớp trí thức, nhân sĩ, chức sắc tôn giáo. Ban Phụ vận Thành ủy đã bố trí những cán bộ có kinh nghiệm gây dựng cơ sở nòng cốt, chuẩn bị địa điểm trú ém quân tại chỗ và bảo đảm hành lang cho các đơn vị bộ đội tiến vào nội đô; chuẩn bị cờ, khẩu hiệu, biểu ngữ, truyền đơn cho cuộc nổi dậy. Những lõm chính trị phát triển nhanh trong nhiều khu lao động: Chợ Thiếc, Bàn Cờ, Vườn Chuối, Hòa Hưng, Vườn Lài, Ngã Bảy...

Tại Sài Gòn, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Phụ vận, Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng, những đội quân tóc dài từ làng xóm ven đô đã kéo vào thành phố, thị xã, quận lỵ. Sáng 29 Tết âm lịch, nhiều nữ chiến sĩ trong lực lượng đấu tranh chính trị đóng giả là người đi chợ Tết để vào nội thành rồi ở lại. Lực lượng quần chúng ở các vùng nông thôn đã sẵn sàng. Cùng với phong trào phụ nữ, phong trào của trí thức, học sinh, sinh viên diễn ra rầm rộ. Ngày 22-1-1968, tại Trường tiểu học Hùng Vương, Liên hiệp giáo chức và phụ huynh học sinh Sài Gòn tổ chức buổi lễ "Cây mùa Xuân Mậu Thân", tập hợp hơn 7.000 người tham gia. Tại buổi lễ, học sinh treo bản đồ nước Việt Nam thống nhất, bất chấp quy định của chính quyền Sài Gòn. Ngày 26-1, tại Trường Quốc gia hành chính, Hội đồng đại diện sinh viên phối hợp với Tổng hội sinh viên tổ chức đêm văn nghệ "Mừng Tết Quang Trung", thu hút 12.000 sinh viên tham gia. Hàng vạn người vượt qua sự phong tỏa của cảnh sát, chính quyền, kéo về biểu dương lực lượng trong đêm hội. Xung quanh một sân khấu lớn với ý tưởng thiết kế cuộc hành quân thần tốc của vua Quang Trung, sinh viên hát vang các bài hát truyền thống cách mạng như "Lên đàng", "Thăng Long hành khúc", "Hội nghị Diên Hồng", "Hát cho dân tôi nghe"... Trong buổi lễ, sinh viên biểu thị tinh thần yêu nước và khí thế sôi sục trước ngày tổng tiến công, tạo động lực cho cuộc xuống đường của mọi tầng lớp quần chúng nhân dân toàn thành phố.

Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã nổ ra đồng loạt ở Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, nhưng quyết liệt nhất là ở Sài Gòn - Gia Định và Biên Hòa. Tại Sài Gòn - Gia Định, rạng sáng ngày 31-1 các mục tiêu chiến lược đầu não của địch gồm sân bay Tân Sơn Nhất, Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Đài Phát thanh Sài Gòn, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn... bị các đội biệt động và các đơn vị mũi nhọn của ta tiến công, đánh chiếm. Tại Biên Hòa, lực lượng Sư đoàn 5 và các đơn vị vũ trang tỉnh Biên Hòa đã tiến công vào sân bay Biên Hòa và nhiều mục tiêu quan trọng trong thành phố.

Cuộc tiến công bất ngờ, đồng loạt, dồn dập của ta trên 5 hướng vào Sài Gòn đã làm cho địch bị choáng váng. Tuy nhiên, do lực lượng quá chênh lệch và bị địch phản kích quyết liệt, nên chỉ sau vài giờ làm chủ, lực lượng biệt động của ta không còn giữ được mục tiêu. Các đơn vị tiến công vào sân bay Tân Sơn Nhất, sân bay Biên Hòa và các mục tiêu trong Sài Gòn đều phải trụ lại đánh địch phản kích. Sau thắng lợi ban đầu, các mũi tiến công quân sự bị tổn thất lớn. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu làm cho mũi tiến công chính trị (lực lượng nổi dậy) không bùng nổ. Tuy không có những cuộc nổi dậy xuống đường rầm rộ, nhưng trên tất cả các địa điểm xảy ra chiến sự, Quân giải phóng đều nhận được sự giúp đỡ của nhân dân. Ngay từ sáng 31-1-1968, mặc dù địch phản kích dữ dội nhưng hàng trăm đồng bào trong nội đô Sài Gòn vẫn tìm mọi cách tiếp tế, cứu chữa thương binh và chỉ đường cho các đơn vị thọc sâu của ta tiến công. Vùng ven đô, du kích Củ Chi, Hóc Môn đã tổ chức vũ trang tuyên truyền phá hàng loạt đồn bốt của địch dọc theo các tỉnh lộ 15, 8. Tại Biên Hòa, lực lượng tự vệ vũ trang phối hợp với đặc công của Sư đoàn 5 đánh vào Ty Cảnh sát và một số đồn bốt gây cho địch nhiều thiệt hại. Tại Phan Thiết, Đội biệt động 480 của thị xã tiến công vào khu Camp Esepic, Ty Cảnh sát; các tổ tuyên truyền phát loa kêu gọi nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ địa bàn.

Sau một ngày tiến công kết hợp trụ bám các mục tiêu đánh địch phản kích, đến chiều ngày 31-1-1968, hầu hết các đơn vị mũi nhọn của ta ở Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ phải rút ra khỏi các thành phố, thị xã. Trong thời điểm vô cùng gay go, ác liệt này, chính nhờ có sự giúp đỡ, cưu mang hết sức, hết lòng của quần chúng nhân dân, nên phần nào làm giảm đi những hy sinh, tổn thất cho các đơn vị. Mặc dù trong quá trình chiến đấu, phục vụ chiến đấu và tuyên truyền vận động cách mạng, nhiều gia đình cơ sở và quần chúng cách mạng đã chịu nhiều tổn thất (nhất là trong đợt 2, đợt 3), nhưng đóng góp của quần chúng nhân dân là rất to lớn, gây tiếng vang về chính trị ở trong nước và quốc tế. Chính hãng tin Pháp AFP, ngày 3-2-1968 đã phải thú nhận: "Sai lầm nghiêm trọng nhất của Cục Tình báo Mỹ chắc chắn ở chỗ không tin rằng Việt cộng có thể động viên nhiều người như thế và mở ra những cuộc tiến công phối hợp mạnh mẽ đến mức đó. Từ hai năm nay ở Mỹ người ta luôn khẳng định tinh thần Việt cộng đã lung lay lắm rồi!"[2].

Trong cuộc Tổng tiến tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, "thế trận lòng dân" đã được tổ chức rộng khắp, có hiệu quả. Mặc dù thời điểm đó ở Sài Gòn, do nhiều nguyên nhân mà "chúng ta sử dụng chủ lực chỉ có một phần, còn phần lớn là đặc công và biệt động, không có nổi dậy khởi nghĩa của quần chúng"[3]. Nhưng sự tham gia giúp đỡ đông đảo, hăng hái của nhân dân đối với lực lượng biệt động, bộ đội trước, trong và sau chiến đấu... tự nó đã phản ánh sâu sắc sự chính nghĩa của cuộc kháng chiến và khát vọng về độc lập, tự do, thống nhất đất nước của quần chúng nhân dân. Ở đây, "thế trận lòng dân" không chỉ là chỗ dựa cho các đơn vị vũ trang của ta tiến công địch, mà còn trực tiếp gây cho đối phương những khó khăn to lớn ngay tại trung tâm đầu não của chúng, làm cho địch hoang mang, dao động, lúng túng...

Hiện tại và tương lai, để đối phó thắng lợi với chiến tranh xâm lược kiểu mới (nếu xảy ra), giải pháp cơ bản của chúng ta vẫn là "Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc"[4]. Trong đó, việc chăm lo, củng cố "thế trận lòng dân" làm nền tảng để xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc là yêu cầu cấp thiết và là nội dung cốt lõi.

Quá trình hội nhập đang mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng chứa đựng những thách thức khó lường. Tất cả đang đặt ra những yêu cầu mới, cả về nhận thức và hành động, trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Địa bàn Quân khu 7, trong đó có Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những mục tiêu trọng điểm của âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, nơi đang tiềm ẩn không ít những nhân tố mất ổn định cả bên trong và bên ngoài. Đây là địa bàn đặc biệt nhạy cảm về chính trị. Mọi diễn biến xảy ra dù lớn hay nhỏ đều có tác động nhanh chóng ra phạm vi cả nước và trên thế giới.

Nhận thức rất rõ vấn đề đó, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu phối hợp với cấp ủy, chính quyền các cấp tăng cường xây dựng "thế trận lòng dân" - một trong những nhân tố quan trọng của thế trận quốc phòng toàn dân, xây dựng khối đoàn kết thống nhất, củng cố và giữ vững niềm tin, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. "Thế trận lòng dân" là sự phản ánh kết quả xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của cả hệ thống chính trị trong việc chăm lo công tác quốc phòng - quân sự địa phương, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững mạnh trên địa bàn, gắn xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần với các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương. Trên cơ sở đó, thực hiện tốt công tác chính sách xã hội, chính sách hậu phương quân đội và công tác dân vận trong lực lượng vũ trang các cấp.

Thực hiện lời dạy của Bác Hồ "dân vận khéo thì việc gì cũng thành công"[5], các đơn vị trong Quân khu đã đẩy mạnh phong trào thi đua giúp dân; hàng vạn lượt cán bộ, chiến sĩ về các xã vùng sâu, vùng xa, các xã còn gặp nhiều khó khăn để giúp địa phương xây dựng các công trình giao thông nông thôn, sửa chữa trường học, bệnh xá, nạo vét kênh mương, giúp đỡ các gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn; đồng thời tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia xóa đói, giảm nghèo, khắc phục hậu quả thiên tai. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, vì người nghèo, quyên góp ủng hộ đồng bào vùng bị thiên tai, lũ lụt, xây nhà tình thương đã phát triển sâu rộng.

Trong khó khăn, phức tạp, lực lượng vũ trang Quân khu luôn là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của cấp ủy, chính quyền và nhân dân trên địa bàn; mỗi việc làm của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu trong công tác vận động quần chúng không chỉ thể hiện những giá trị cao đẹp về tinh thần tương thân, tương ái mà còn góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc, xây dựng tình quân dân "cá nước", làm sáng thêm hình ảnh "Bộ đội cụ Hồ" trong lòng nhân dân.

Từ thực tiễn hoạt động của lực lượng vũ trang Quân khu, để xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề trọng yếu sau:

Thứ nhất, nhận thức đúng vị trí, vai trò của "thế trận lòng dân"; đồng thời, có các chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân, chăm lo nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân.

Trong 30 năm kháng chiến (1945-1975), kế thừa và phát triển tinh hoa truyền thống dân tộc, Đảng ta đã lãnh đạo phát huy cao độ sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, của cả dân tộc, làm nên thắng lợi vĩ đại, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Lúc đó, từ Trung ương đến cơ sở, từ lãnh tụ đến nhân dân, từ cán bộ, đảng viên đến quần chúng, từ quân đến dân... hầu như không ai gợn chút quyền lợi riêng tư; mỗi lời nói, mỗi hành động của các thành viên trong hệ thống chính trị, trong Đảng, của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang là lời hiệu triệu, là niềm tin tuyệt đối đối với nhân dân. Một sức mạnh to lớn được hình thành, người dân sẵn sàng hy sinh tài sản, quyền lợi, người thân và kể cả quyền thiêng liêng nhất của con người là sự sống... để cùng nhau đạt được mục tiêu là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trong hòa bình, Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Việc chuyển từ chiến tranh sang hòa bình đã làm bùng nổ các nhu cầu về đời sống, từ đó làm nảy sinh và đặt ra các yêu cầu mới về quản lý kinh tế - xã hội. Do vậy, việc huy động sức dân trong giai đoạn hiện nay phải bằng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước, mà chủ trương, chính sách, đường lối đó phải tác động có lợi, phải "hợp lòng dân". Chính việc đem lại những quyền lợi, "hợp lòng dân" sẽ là cơ sở cho niềm tin vào Đảng. Muốn làm được điều đó phải bắt đầu xây dựng cơ sở ngay trong thời bình, bằng chính hiệu quả kinh tế, lợi ích xã hội của công cuộc đổi mới. Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân. Hay nói cách khác, niềm tin của nhân dân ta đối với Đảng, chính quyền hiện nay chính là kết quả - hiệu quả của công cuộc đổi mới. Kết quả - hiệu quả của các chủ trương kinh tế - xã hội ở mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, mỗi địa phương sẽ tác động đến tất cả các tầng lớp nhân dân.

Thứ hai, nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng, quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. 

Trong quá trình đổi mới, tất yếu xuất hiện "sự ngổn ngang, phức tạp", đòi hỏi sự chỉ đạo quyết liệt, thấu đáo của Đảng và Nhà nước. Việc xây dựng "Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân" được Đảng, Nhà nước đang quyết tâm thực hiện nhằm tập trung vào việc tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc đó. Phải xác lập các cơ chế cho từng lĩnh vực, từng ngành, từng khu vực kinh tế... và làm sao cho mỗi bước tiến về kinh tế là mỗi bước phát triển về xã hội. Phải kiến tạo nền kinh tế nhân văn, mà ở đó không người dân nào bị bỏ lại phía sau. Đây là quá trình cọ xát rất lớn giữa các tầng lớp nhân dân với Đảng, Nhà nước nói chung, với các thành phần kinh tế, các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau nói riêng, thậm chí trong đó có cả những nhóm lợi ích tiêu cực. Sự cọ xát đó sẽ tạo ra sự phản ứng lại của nhân dân, mà sự phản ứng lại đó là tín hiệu, là yêu cầu để Nhà nước, để hệ thống chính trị của mình phải liên tục đổi mới, cải cách cho phù hợp với lòng dân, phù hợp với nhu cầu của nhân dân. Đảng, chính quyền phải tiếp thu ý kiến của nhân dân, dân nói đúng phải nghe, chỗ nào chưa phù hợp phải chỉ cho dân thấy, có như vậy mới tạo được sự đồng thuận trong nhân dân... Hiện nay, chúng ta đang thực hiện tương đối hiệu quả vấn đề này, hệ thống chính trị tiếp dân, Quốc hội lắng nghe nhân dân, quân đội làm tốt công tác dân vận.

Để thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương phải có chủ trương và tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức, đoàn thể trong sạch vững mạnh; nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tệ quan liêu, nhũng nhiễu nhân dân. Muốn vậy, phải phát huy tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở trong mọi hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, nhất là trong lĩnh vực quản lý kinh tế, tài chính, công khai, minh bạch các quy hoạch, các định mức giá, các thủ tục, thời hạn giải quyết, thi hành các quyết định quy hoạch đô thị, khu - cụm công nghiệp, giải tỏa - đền bù đất đai, các dự án phát triển nông thôn...; bởi đây đang là những vấn đề "nóng" gây bức xúc trong các tầng lớp nhân dân.

Thứ ba, nâng cao chất lượng công tác giáo dục quốc phòng - an ninh, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân.

Để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải tiến hành tốt công tác giáo dục quốc phòng cho nhân dân. Giáo dục quốc phòng không chỉ là nâng cao ý thức quốc phòng, kiến thức quân sự đơn thuần mà còn là giáo dục để nâng cao giác ngộ chính trị, nâng cao lòng yêu nước, yêu chế độ, kiên trì mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nêu cao ý thức cảnh giác cách mạng, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

Làm tốt công tác giáo dục quốc phòng không những bảo đảm chất lượng nhiệm vụ củng cố quốc phòng - an ninh mà còn tác động tích cực đến nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, tạo động lực thúc đẩy kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn phát triển mạnh mẽ và bền vững; khơi dậy trong mỗi người dân Việt Nam lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm, niềm tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, làm cho nhân dân sẵn sàng đóng góp công sức, nhân lực, vật lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ tư, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; chăm lo quyền làm chủ của nhân dân, tạo mọi điều kiện để "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".

Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực cho công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Các cấp ủy đảng, chính quyền phải thường xuyên duy trì thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở một cách toàn diện trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh...; công khai các hoạt động của cơ quan, tổ chức, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương, để dân được bàn bạc, phản biện, giám sát, kiểm tra, tạo ra bầu không khí thực sự dân chủ, phấn khởi, tích cực của quần chúng nhân dân, tạo niềm tin vững chắc trong nhân dân đối với các chủ trương của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương.

Quân khu 7 là một trong những địa bàn trọng điểm - nơi mà các thế lực thù địch tập trung, thực hiện ráo riết và tinh vi những thủ đoạn "đánh vào lòng người", nhằm hủy hoại cơ sở chính trị - xã hội, gây mất ổn định, làm cho dân "xa" Đảng. Với vai trò là lực lượng nòng cốt trong xây dựng khu vực phòng thủ, bằng những hoạt động thiết thực, lực lượng vũ trang Quân khu luôn tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, tăng cường thế trận lòng dân; chủ động giúp nhân dân phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện gắn với xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh cũng chính là yếu tố quan trọng để lực lượng vũ trang làm tốt công tác dân vận, tạo dựng lòng tin và sự yêu mến của nhân dân; thực hiện quân với dân một ý chí. Xây dựng hạt nhân trong "thế trận lòng dân", mỗi cán bộ, chiến sĩ, đảng viên trong lực lượng vũ trang Quân khu phải được giáo dục tốt, rèn luyện tốt, phải là một chiến sĩ dân vận, kể cả khi tại ngũ và khi trở về hòa nhập với các tầng lớp nhân dân địa phương, hòa nhập vào guồng máy lao động, hòa nhập vào hệ thống chính trị. Trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, người lính miền Đông Nam Bộ cũng luôn sẵn sàng hy sinh xương máu của mình vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, vì Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trung tướng, ThS. Phạm Văn Dỹ

Chính ủy Quân khu 7

-----------------------------

[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.29, tr.51.

[2]. Báo Nhân Dân điện tử: "Sự kiện Tết Mậu Thân như những gì đã diễn ra", đăng ngày 30-1-2008, http://nhandan.com.vn/chinhtri/tin-tuc-su-kien/item/8052102-.html.

[3]. Lê Đức Thọ: "Mấy vấn đề về Tết Mậu Thân", Tạp chí Lịch sử quân sự, số tháng 2-1988.

[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.148.

[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.234.


Ý kiến bạn đọc

refresh
 

Tổng lượt bình luận

Tin khác

Thông báo