Ngày ấy, tôi nghĩ đó là điều tất nhiên, ai ai cũng trung thực từ tấm lòng, con tim, tỏ bày nỗi đau khôn xiết của mình trước “tổn thất vô cùng lớn lao; đau thương thật là vô hạn” của dân tộc ta, Đảng ta. 45 năm đã qua, trải nghiệm qua lịch sử, nghiên cứu văn hóa, nhất là từ khi có Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, một ý tưởng nảy sinh làm tôi suy nghĩ mãi, dường như giữa Di chúc của Bác với những nội dung trong văn kiện vừa được nêu có cái gì đó “gần gũi” nhau, có sự tương đồng, tương thích. Di chúc của Bác là một văn kiện lịch sử vô giá, ở đó, Người đã rất tâm huyết, chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng đầy trách nhiệm và trí tuệ, nêu rõ những việc phải làm, những điều phải lo, từ việc to đến việc cụ thể, từ việc chung đến việc riêng…, từ đó toát lên lòng yêu nước, thương dân vô hạn và chân dung của một vị lãnh tụ vĩ đại của một dân tộc văn hiến. Nội dung Di chúc của Bác đã kết tinh cả tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân hiếm có, suốt đời “hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương V (khóa 8) nêu rõ: Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước kiên cường, bất khuất, đầy gian khổ hy sinh… Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương đã nêu “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chí Minh, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”. Rõ ràng, Bác Hồ là tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc Việt Nam, cho ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam hàng ngàn năm lịch sử, nên có thể suy nghĩ “Văn hóa Hồ Chí Minh” vừa là tượng trưng, kết tinh của văn hóa Việt Nam vừa làm rạng rỡ hơn, sâu sắc hơn cho văn hóa dân tộc ta. Trong nhiều bài viết, lời nói của nhiều người trong và ngoài nước, trong tâm thức của những người có đầu óc tín ngưỡng thường suy tôn Cụ Hồ là một vị thánh; trong cuộc sống, ở nhiều nơi trên đất nước ta, ngay cả ở những vùng tạm chiếm trước 1975 ở miền Nam, đã có nhiều đền thờ Cụ Hồ. Những sự kiện này đều thuộc hoặc liên quan đến văn hóa. Rồi đến năm 2000, UNESCO đã công nhận Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” và “Danh nhân văn hóa kiệt xuất”. Lúc này thì tôi càng hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn tình cảm của mọi người đối với Bác, trong đó có sự tiếp cận từ khía cạnh văn hóa; bởi văn hóa, cụ thể hơn là văn hóa dân tộc, là những yếu tố mà mỗi người coi là của mình, gắn với đạo đức, lối sống, truyền thống và được tiếp nhận một cách tự giác, hồn nhiên, hứng khởi. Di chúc của Bác là một sản phẩm văn hóa lịch sử, là sản phẩm của một “danh nhân văn hóa kiệt xuất”, ở đó thể hiện những nội dung cơ bản của “văn hóa Hồ Chí Minh”, vừa là tinh hoa, vừa là một bộ phận văn hóa Việt Nam.
Hiện nay, TP.HCM cùng cả nước đang triển khai học tập, thực hiện Nghị quyết Trung ương IX (khóa 11) về xây dựng phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Kiểm điểm 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương V (khóa 8) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta đã chỉ ra “chưa thành công trong việc xây dựng con người, xây dựng hệ thống giá trị mới của văn hóa Việt Nam, nhất là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống. Do vậy cần đặt lên hàng đầu việc bồi dưỡng tư tưởng, đạo đức, lối sống, lấy việc xây dựng con người làm trung tâm, chăm lo xây dựng con người một cách toàn diện, thiết thực. Từ đó Đảng ta đã nêu lên 6 nhiệm vụ quan trọng, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện”.
Cách đây 45 năm, trước lúc Bác đi xa, Bác đã căn dặn: “đầu tiên là công việc đối với con người”. Con người trong Di chúc của Bác là “toàn dân, toàn Đảng, toàn thể bộ đội, các cháu thanh niên và nhi đồng, là từng giới đồng bào, từng tầng lớp nhân dân, nhân tố luôn đặt ở vị trí trước tiên, vị trí trung tâm, thể hiện nhất quán tư tưởng, đạo đức, văn hóa Hồ Chí Minh – trọng dân, tin dân, thương yêu dân.
Công việc đầu tiên đối với con người, trước hết là “đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…) phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, mở lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với liệt sĩ, mỗi địa phương cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi nhớ sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với gia đình thương binh, liệt sĩ thì phải giúp đỡ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét. Những lời căn dặn này chan chứa tình người, tấm lòng nhân ái cao cả, thấm đượm truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Và rộng hơn, Bác quan tâm đặc biệt đến lực lượng đông nhất của nước ta, lực lượng cung cấp cho Tổ quốc hàng triệu người con ưu tú rời quê hương, cầm súng ra chiến trường để thực hiện nhiệm vụ cao cả, đánh giặc ngoại xâm, giành độc lập dân tộc, đó là “đồng bào nông dân luôn trung thành với Đảng, và chính phủ, ra sức góp của, góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ”, nên sau ngày thắng lợi, miễn thuế nông nghiệp một năm… Bác rất quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng cho thế hệ trẻ, các giới đồng bào, từ thanh niên, lực lượng võ trang, thanh niên xung phong, đến phụ nữ, mong sao để ai cũng được chăm lo, đào tạo nghề, vừa “hồng” vừa “chuyên” để thực sự là đội quân chủ lực, những cán bộ tài năng phục vụ cho công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với tình thương dân, thương người, Bác còn quan tâm tới những nạn nhân của chế độ xã hội cũ như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu… thì Nhà nước phải vừa dùng giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên những người lao động lương thiện… Đúng là một vĩ nhân, một “danh nhân văn hóa kiệt xuất”, có tình thương con người cao độ, có trái tim mênh mông, “ôm cả non sông, mọi kiếp người”. Ngay cả người nước ngoài cũng nhận định Chủ tịch Hồ Chí Minh là “một con người đi thức tỉnh các tâm hồn”, “một con người nhân hậu, đối xử với ai cũng rất tốt”, “một người mà cả cuộc đời mình để lại ân tình sâu nặng trong nhân dân”. “Cụ Hồ là một người xây dựng lương tri, xây dựng khi nó thiếu, tái tạo khi nó mất; Cụ thức tỉnh kẻ đê mê, ân cần đỡ dậy người trượt ngã, biến vạn ức người dân bình thường thành anh hùng vô danh và hữu danh trong lao động, trên chiến trường, trong ngục tối, trước máy chém…”. Sinh thời cũng như lúc sắp đi xa, Bác đã luôn quan tâm đến mọi người, “nhớ” đến tất cả các giới đồng bào, các thế hệ, các tầng lớp nhân dân, chỉ “mỗi quên mình”, và “không có gì phải hối hận” mà chỉ tiếc “không phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”, dù đã cống hiến cả cuộc đời cho mục tiêu duy nhất là phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Và có lẽ vì vậy, khi Bác ra đi về cõi vĩnh hằng, đã có hơn 22.000 bức điện và thư của 121 nước trên thế giới gởi đến chia buồn tiễn đưa Người. Cho đến lúc Người được Cơ quan Văn hóa Khoa học Giáo dục của Liên Hiệp Quốc tôn vinh Người là “Danh nhân văn hóa kiệt xuất”, trên thế giới đã có 50 di tích, nhà lưu niệm và đặt tượng tôn vinh Người. Trong nước, theo tín ngưỡng của dân tộc, đã có nhiều nơi khắp cả nước, nhân dân ta lập đền thờ, “phong Thánh” Cụ Hồ. Điều đó chỉ có thể lý giải được một cách đầy đủ, trọn vẹn, chính xác dưới góc nhìn Văn hóa học, Nhân học, Nhân văn.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương IX (khóa 11) của Đảng ta đề ra “Chăm lo xây dựng người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, lối sống và nhân cách…”. Thiết tưởng, muốn thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ này, việc “tích cực học tập, nỗ lực làm theo” tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, thấm thấu những lời dạy ân tình trong Di chúc của Bác là điều có ý nghĩa cơ bản. Bởi Di chúc của Bác vô cùng giản dị, cụ thể mà thiêng liêng, thấm đẫm tính nhân văn cao cả. Chỉ 10 trang viết nhưng Bác đã không quên một ai và không quên một việc gì. Đó là tác phẩm bất hủ, tổng kết thực tiễn lịch sử, định hướng phát triển trong tương lai và là lời căn dặn ân tình, mong mỏi thiết tha của một vị Cha già trước lúc đi xa…