Báo cáo chính trị

BÁO CÁO CHÍNH TRỊ

CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ KHÓA VII

TẠI ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LẦN THỨ VIII
(Do đồng chí Nguyễn Minh Triết - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư

Thành ủy trình bày ngày 06 tháng 12 năm 2005)

---------------------

Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước,

Kính thưa các đồng chí lão thành cách mạng, các bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng các lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động,

Kính thưa các đồng chí khách quý của Đại hội,

Thưa các đồng chí đại biểu và toàn thể Đại hội,

Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VIII diễn ra vào lúc toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân Thành phố đã tổ chức kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Thành phố, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và đón nhận danh hiệu “Thành phố Anh hùng”.

Đại hội nhìn lại một cách khái quát 30 năm phấn đấu và trưởng thành, đặc biệt là 20 năm đổi mới. Nhiệm vụ trọng tâm của Đại hội là kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VII, gắn với thực hiện Nghị quyết 20 của Bộ Chính trị về Thành phố Hồ Chí Minh; quyết định phương hướng nhiệm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ Thành phố, xây dựng Đảng và cả hệ thống chính trị, đề ra những giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn 2006 - 2010.

Phần thứ nhất

NHỮNG BIẾN ĐỔI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ

NHÌN KHÁI QUÁT 30 NĂM QUA

Ba mươi năm qua (1975 - 2005) là thời kỳ lịch sử luôn đan xen những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đối với Thành phố Hồ Chí Minh.

Những nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân Thành phố luôn luôn mới mẻ, trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, đầy gian nan, phức tạp. Mười năm đầu sau giải phóng là một thời kỳ đặc biệt trong quá trình ổn định, khôi phục, xây dựng và bảo vệ Thành phố; phải đối mặt với những thử thách hết sức gay gắt : địch họa, thiên tai dồn dập, kinh tế kiệt quệ, nạn đói đe dọa và rất nhiều vấn đề phức tạp từ hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại... Nhưng với truyền thống anh hùng và bằng ý chí tự lực tự cường, năng động, sáng tạo, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã nỗ lực vượt qua những thử thách, có lúc tưởng chừng như không thể vượt qua được. Điều đó chứng tỏ Đảng bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, đánh giá đúng bản chất cách mạng và sức mạnh to lớn của nhân dân, từ đó có những bước đột phá, tháo gỡ những vướng mắc, đấu tranh và từng bước chiến thắng những trở lực của cơ chế cũ, làm sáng tỏ dần con đường đi và cách làm mới, tư duy mới, góp phần tích cực vào việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng.

Sau khi Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới, Đảng bộ Thành phố đã sớm quán triệt và triển khai thực hiện giành được những thành tựu to lớn.

Thành phố luôn giữ vững ổn định chính trị, kể cả trong những thời điểm tình hình trong nước có nhiều khó khăn và thế giới có những diễn biến phức tạp, đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chung của đất nước. Đó là một trong những thành tựu nổi bật, vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của ổn định và phát triển kinh tế - xã hội suốt 30 năm qua. Thành tựu đó có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển. Thành tựu đó càng khẳng định quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân Thành phố kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng đã đạt được, bảo vệ chính quyền, bảo vệ Đảng, bảo vệ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bảo vệ cuộc sống yên bình của nhân dân. Nó chứng tỏ : Nền tảng của ổn định chính trị là yên dân, là niềm tin vững chắc của nhân dân đối với Đảng và chính quyền... Tuy nhiên, Thành phố vẫn còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội, không thể chủ quan, xem thường.

Kinh tế được khôi phục và không ngừng phát triển, nhất là 20 năm đổi mới. Kinh tế Thành phố đã trải qua những bước thăng trầm, có lúc tình thế chung của cả nước và riêng Thành phố gặp khó khăn nghiêm trọng. Từ khi có đường lối đổi mới của Đảng, sức sáng tạo của nhân dân trong sản xuất - kinh doanh được khơi động mạnh mẽ, các điển hình tiên tiến tiếp tục được nhân rộng, kích thích kinh tế tăng trưởng nhanh, mô hình quản lý mới được hình thành, các thành phần kinh tế có những chuyển biến tích cực. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhiều năm liền tăng 2 con số; các loại thị trường từng bước hình thành và phát triển; hợp tác kinh tế với một số địa phương trong và ngoài nước được mở rộng; đóng góp ngày càng lớn vào quá trình tăng trưởng kinh tế của cả nước (GDP chiếm từ 13% năm 1985 nay tăng lên 20%, thu ngân sách tăng 10 lần). Đến nay, từ một Thành phố tiêu thụ, các tệ nạn xã hội và thất nghiệp tràn lan, cơ sở hạ tầng kỹ thuật chủ yếu phục vụ chiến tranh, đã trở thành một Thành phố sản xuất kinh doanh với lớp người lao động mới, một trung tâm kinh tế lớn của cả nước, cơ sở hạ tầng không ngừng được cải thiện, phục vụ tốt hơn cho phát triển kinh tế và đời sống nhân dân. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm lực, sức cạnh tranh còn hạn chế; chưa tận dụng thời cơ, chủ động đón đầu để đổi mới công nghệ, đầu tư vào các ngành công nghệ cao; quy hoạch còn lúng túng; còn mất cân đối giữa yêu cầu phát triển nhanh, bền vững với hạ tầng kinh tế kỹ thuật và xã hội yếu kém. Đây là bài học sâu sắc về nắm và vận dụng quy luật khách quan, về bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề về văn hóa - xã hội trong quá trình xây dựng và bảo vệ Thành phố.

Đời sống của nhân dân từng bước được ổn định và nâng lên. Trên cơ sở đánh giá đúng bản chất cách mạng, lòng nhân ái của nhân dân, Đảng bộ đã dựa vào dân để phát động các phong trào hành động nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội đặt ra, từ đó giải quyết những bức xúc trong đời sống nhân dân. Thành phố là nơi khởi xướng và thực hiện tốt các phong trào xóa đói giảm nghèo; đền ơn đáp nghĩa; xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương; chương trình bảo trợ bệnh nhân nghèo; đem lại nụ cười cho trẻ thơ; phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng v.v... mang lại kết quả thiết thực, có ý nghĩa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội rộng lớn và có sức lan tỏa, thể hiện sinh động bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa. Chương trình mục tiêu 3 giảm, đặc biệt là giảm người nghiện ma túy đã đem lại kết quả tích cực. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, thể dục thể thao, văn học nghệ thuật, báo chí - xuất bản không ngừng phát triển, đáp ứng ngày càng tốt hơn đời sống tinh thần với nhu cầu đa dạng của các tầng lớp nhân dân. Song, còn nhiều yếu kém trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản chậm được khắc phục; các tệ nạn xã hội đang là nổi lo lớn của Đảng bộ và nhân dân Thành phố.

Hệ thống chính trị được củng cố; năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của chính quyền được nâng lên, dân chủ được mở rộng hơn; sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc không ngừng phát huy. Bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị nói chung và tổ chức đảng nói riêng từng bước được kiện toàn; đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất chính trị, giữ gìn đạo đức, lối sống lành mạnh, có những tấm gương sáng về người đảng viên trong môi trường kinh tế thị trường. Đoàn kết trong nội bộ Đảng và trong nhân dân Thành phố đã trở thành động lực và sức mạnh dẫn đến thành công; đoàn kết trong cấp ủy Đảng, trước hết là trong Thành ủy luôn luôn giữ vững, nhất là khi gặp phải tình thế khó khăn, cùng đồng tâm hiệp lực, cùng chịu trách nhiệm, tìm giải pháp vượt qua. Song, còn có một bộ phận cán bộ, đảng viên dao động về nhận thức chính trị, sa sút về phẩm chất đạo đức khá nghiêm trọng; công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ chưa theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ, nhất là trong thời kỳ mới.

Nhìn lại quá trình xây dựng và phát triển Thành phố 30 năm qua, đặc biệt là 20 năm đổi mới, tuy còn tiềm ẩn những nhân tố bất ổn trong xã hội, có những va vấp, khuyết điểm và yếu kém trong lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện, song thành tựu đạt được là to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu đó đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới của Đảng; đánh dấu sự trưởng thành trong lãnh đạo, quản lý của Đảng bộ và chính quyền Thành phố, sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn trong giai đoạn sau. Thành phố Hồ Chí Minh vì cả nước, cùng cả nước, sẽ phát huy hơn nữa vai trò và trách nhiệm của mình, tiếp tục đóng góp ngày càng tích cực hơn cho sự phát triển chung của cả nước, chủ động giành thắng lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế.

KẾT QUẢ 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ LẦN THỨ VII (2001 - 2005)

1/ Kinh tế trên địa bàn Thành phố đạt tốc độ tăng trưởng cao; các nguồn nội lực được phát huy; cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch đúng hướng; các loại thị trường từng bước phát triển và mở rộng.

Tổng sản phẩm nội địa (GDP) trên địa bàn liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước. Tốc độ tăng trưởng bình quân cơ bản đạt mục tiêu đề ra (11%/năm). Cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế đang chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có lợi thế cạnh tranh (cơ khí, nhựa - cao su, dịch vụ tài chính - ngân hàng - bảo hiểm, khoa học - công nghệ, giáo dục, y tế…).

Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển. Kinh tế nhà nước được sắp xếp lại theo chương trình trọng điểm do Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VII đề ra, hoạt động có hiệu quả hơn. Kinh tế tập thể từng bước được củng cố. Kinh tế tư nhân khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng trưởng khá.

Tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn tăng dần qua từng năm, đạt khoảng 200.000 tỷ đồng (13 tỷ USD) và đạt mức bình quân 35% GDP. Chủ trương xã hội hóa đầu tư được thực hiện có kết quả, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm khoảng 17% tổng đầu tư của xã hội; các hình thức huy động vốn đa dạng; khai thác có hiệu quả các nguồn thu ngân sách khác ngoài thuế và phí. Thị trường vốn trên địa bàn Thành phố phát triển nhanh và lành mạnh.

Xuất khẩu trên địa bàn tăng bình quân 14,5%/năm. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm đạt 41 tỷ USD; thị trường xuất khẩu được mở rộng, nhất là thị trường mới ở Bắc Mỹ, Châu Âu. Tỷ trọng sản phẩm công nghiệp (không kể dầu thô) trong cơ cấu hàng xuất khẩu ngày càng tăng.

Môi trường kinh doanh và đầu tư được cải thiện. Sự năng động, sáng tạo trong đời sống kinh tế Thành phố tiếp tục được phát huy, đóng góp tích cực vào sự phát triển Thành phố và một số địa phương thông qua quan hệ hợp tác. Vị trí vai trò trung tâm kinh tế của Thành phố đối với khu vực và cả nước tiếp tục được khẳng định.

2/ Quản lý và phát triển đô thị có bước chuyển biến tích cực.

Thành phố nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của công tác quy hoạch; xác định tầm nhìn dài hạn trong quy hoạch; gắn nhiệm vụ quy hoạch sát với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố. Công tác quy hoạch có bước tiến bộ : hoàn thành quy hoạch tổng mặt bằng, quy hoạch các ngành văn hóa - xã hội, quy hoạch giao thông Thành phố; quy hoạch khu công nghiệp - khu chế xuất; tiếp tục quy hoạch chi tiết (tỉ lệ 1/2000) ở các quận nội thành cũ và các quận mới, quy hoạch môi trường và quy hoạch kiến trúc Thành phố.

Việc chỉnh trang và xây dựng đô thị mới đạt một số kết quả tích cực. Thành phố khang trang và trật tự hơn; các khu đô thị mới đang hình thành với điều kiện về cơ sở hạ tầng kỹ thuật tương đối hiện đại, xanh, sạch, đẹp, hoàn thành chương trình di dời và tái định cư 10 ngàn hộ dân sống trên và ven kênh rạch.

Quỹ nhà ở tăng nhanh; hình thành nhiều nhà chung cư cao tầng phù hợp với điều kiện sống của đô thị hiện đại.

Các loại dịch vụ đô thị như : cấp điện, cấp nước, viễn thông, giao thông đô thị, xử lý rác… được quan tâm đầu tư phát triển, tổ chức hoạt động có hiệu quả hơn. Đã có nhiều nỗ lực trong việc di dời các xí nghiệp ô nhiễm. Những xí nghiệp không nằm trong danh mục phải di dời đã khắc phục một phần tình trạng ô nhiễm, cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường, sản xuất sạch hơn.

3/ Giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ có tiến bộ.

Đã quy hoạch hệ thống giáo dục phổ thông, dạy nghề, giáo dục thường xuyên đến năm 2010, quy hoạch phát triển hạ tầng các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn. Quy mô đào tạo ở các cấp học (mầm non, phổ thông, cao đẳng, đại học…) tăng dần qua từng năm; giáo dục thường xuyên, giáo dục chuyên nghiệp, dạy nghề có bước phát triển mới. Hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, thực hiện tích cực phổ cập bậc trung học, nâng mặt bằng học vấn của người dân Thành phố, giảm dần khoảng cách giữa ngoại thành và nội thành. Chương trình phát triển nguồn nhân lực đã thực hiện có kết quả bước đầu, trong đó nổi lên chương trình đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ; chương trình bồi dưỡng kiến thức về hội nhập cho cán bộ quản lý Nhà nước và doanh nghiệp; chương trình đào tạo công nhân lành nghề.

Đầu tư của Nhà nước cho giáo dục tăng dần, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục; mở rộng hoạt động các trung tâm học tập cộng đồng, khuyến học, khuyến tài, góp phần tích cực vào việc xã hội hóa giáo dục và xây dựng xã hội học tập.

Khoa học và công nghệ ngày càng có vai trò quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng sức cạnh tranh. Chương trình Công viên phần mềm Quang Trung và Khu công nghệ cao, Khu nông nghiệp kỹ thuật cao đã và đang được triển khai xây dựng. Sự gắn kết giữa khoa học với phát triển kinh tế - xã hội có bước tiến bộ mới, tỉ lệ ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học ngày càng tăng; sự liên kết giữa các doanh nghiệp, cơ quan nghiên cứu và cơ quan quản lý Nhà nước được chú trọng; bước đầu hình thành thị trường công nghệ. Khoa học xã hội và nhân văn bám sát cuộc sống hơn, góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc của xã hội và cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng các chủ trương, giải pháp quản lý, phát triển Thành phố. Vai trò nghiên cứu, tư vấn, phản biện của Liên hiệp các Hội Khoa học - Kỹ thuật được chú trọng.

4/ Hoạt động văn hóa, xã hội ngày càng phong phú.

Đời sống văn hóa của thành phố từng bước được nâng lên. Những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc như lòng nhân ái, nghĩa tình, giúp đỡ người nghèo, năng động, sáng tạo được chú ý phát huy. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được triển khai rộng khắp. Đầu tư cho hoạt động văn học nghệ thuật tăng lên. Công trình Khu tưởng niệm các Vua Hùng trong Công viên lịch sử văn hóa các dân tộc đã hoàn thành những hạng mục chính.

Báo chí, xuất bản có những đóng góp tích cực trong việc thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phản ánh nguyện vọng của nhân dân; góp phần phản biện xã hội, tham gia đấu tranh chống tiêu cực.

Hoạt động thể dục - thể thao, theo hướng xã hội hóa ngày càng tốt hơn; thể dục thể thao quần chúng được duy trì và phát triển; cơ sở vật chất được tăng cường đang kể sau SEA Games 22, sự đầu tư ở cấp quận - huyện được quan tâm hơn.

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được củng cố và phát triển, chăm sóc sức khỏe ban đầu được đẩy mạnh, khống chế có hiệu quả các dịch bệnh nguy hiểm. Y tế chất lượng cao bước đầu phát triển thông qua đầu tư trang thiết bị mới, đào tạo nguồn nhân lực và nâng cấp, mở rộng cơ sở y tế, các trung tâm y tế chuyên sâu và đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ngành y tế.

Công tác dân số, gia đình và trẻ em có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm xuống còn 1,19%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm xuống còn 10,8%; nâng tuổi thọ trung bình của người dân Thành phố trên 72 tuổi.

Các chương trình an sinh và công tác xã hội đạt nhiều kết quả có ý nghĩa quan trọng. Hoàn thành xóa nghèo theo tiêu chí cũ, triển khai thực hiện xóa nghèo theo tiêu chí mới của Thành phố. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, xây nhà tình nghĩa, nhà tình thương, thực hiện chính sách đối với người có công cách mạng, cán bộ về hưu, chăm lo cho bệnh nhân nghèo, người tàn tật… tiếp tục được mở rộng. Việc thực hiện chương trình mục tiêu 3 giảm có bước đột phá, nhất là giảm tệ nạn ma túy và tội phạm, góp phần xây dựng môi trường xã hội lành mạnh. Đã hoàn thành vượt chỉ tiêu về giải quyết việc làm do Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VII đề ra. Đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng cao. Mức sống của các tầng lớp nhân dân được nâng lên, thu hẹp dần khoảng cách giàu nghèo.

5/ Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự xã hội; bước đầu cải cách lĩnh vực tư pháp.

Nhận thức được vị trí quan trọng của địa bàn trọng điểm về quốc phòng - an ninh, Đảng bộ Thành phố đã không ngừng củng cố, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân, đầu tư phương tiện để sẵn sàng chiến đấu; đồng thời tăng cường giáo dục nâng cao ý thức cảnh giác trong toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân trước những âm mưu và thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Đã khám phá nhiều vụ án lớn về hình sự, kinh tế, ma túy; triệt phá nhiều băng nhóm tội phạm có tổ chức. Phong trào toàn dân bảo vệ quốc phòng và an ninh tiếp tục được phát huy, trật tự an toàn xã hội có chuyển biến tiến bộ. Công tác diễn tập phòng thủ khu vực và huấn luyện lực lượng thường trực, dự bị động viên, dân quân tự vệ ngày càng nền nếp, chất lượng sát thực tế hơn. Tuyển quân hàng năm đều đạt chỉ tiêu với chất lượng ngày càng cao. Chính sách hậu phương quân đội được thực hiện khá tốt.

Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được các cơ quan chức năng trên địa bàn phối hợp chặt chẽ, xử lý nhiều điểm “nóng”; giải quyết được nhiều vụ khiếu nại đông người, trong đó có những vụ việc phức tạp, kéo dài.

Cải cách tư pháp đạt được một số kết quả bước đầu trong hoạt động tố tụng và củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ, đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp Thành phố, quận - huyện; hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật từng bước được nâng lên.

6/ Công tác đối ngoại có bước tiến bộ mới.

Công tác đối ngoại được thực hiện chủ động và năng động hơn, gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Thành phố, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của Thành phố đối với trong nước và trên trường quốc tế.

Thành phố đã đón tiếp nhiều đoàn khách quốc tế đến thăm, đồng thời chủ động cử những đoàn đi nước ngoài nhằm giới thiệu hình ảnh Việt Nam và Thành phố, xúc tiến thương mại, đầu tư, du lịch và xuất khẩu.

Hoạt động quan hệ hợp tác hữu nghị cấp địa phương được mở rộng, thiết thực và hiệu quả hơn, bảo đảm nguyên tắc cùng có lợi và đáp ứng các yêu cầu chính trị, an ninh đối ngoại; hoạt động kinh tế đối ngoại của Thành phố có chuyển biến tích cực; đầu tư trực tiếp nước ngoài, tín dụng quốc tế, ngoại thương, du lịch tăng dần qua từng năm. Thành phố đã ký kết hợp tác với nhiều địa phương nước ngoài.

Lĩnh vực đối ngoại nhân dân được tăng cường và mở rộng, góp phần tích cực vào thành tựu chung trong công tác đối ngoại của Thành phố. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài có chuyển biến tiến bộ, người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng hiểu về tình hình đất nước và Thành phố nhiều hơn, chính xác hơn. Kiều bào về thăm quê hương, tham gia đầu tư nhiều hơn.

7/ Hệ thống chính trị được củng cố, kiện toàn.

Quán triệt công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt

Vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng được phát huy, đại đa số đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, giữ gìn được phẩm chất đạo đức, trưởng thành qua thực tiễn. Lòng tin của dân đối với Đảng, chính quyền được củng cố.

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng có những cải tiến bước đầu về nội dung và hình thức, đặc biệt là tổ chức nghiên cứu, học tập Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh; tổ chức nhiều cuộc thi tìm hiểu về Đảng, về tư tưởng Hồ Chí Minh, kiến thức về công tác xây dựng Đảng… Việc nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết của Đảng được gắn với việc tổ chức thực hiện bằng các kế hoạch, chương trình hành động cụ thể.

Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (2) được tiến hành thường xuyên hơn. Thành ủy đã ban hành các chỉ thị, quy định về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; về lập lại trật tự kỷ cương chấp hành pháp luật trong các cơ quan Đảng, Nhà nước; về chế độ trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, đơn vị; về cuộc vận động tu dưỡng đạo đức cách mạng. Qua đó, đã góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh trong cán bộ, đảng viên.

Công tác củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy được coi trọng. Bộ máy tham mưu cho cấp ủy, đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác Đảng từng bước được đào tạo sắp xếp theo yêu cầu nhiệm vụ. Hoạt động của tổ chức cơ sở đảng có tiến bộ hơn, nhất là phường - xã - thị trấn. Đã chú ý chỉ đạo xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng trong các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân… Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, đảng viên đủ tư cách tăng lên.

Công tác phát triển đảng viên mới có sự chuyển biến. Đã chú trọng phát triển đảng trong các đơn vị, địa bàn chưa có, hoặc có ít đảng viên, trong các tầng lớp nhân dân, công nhân trực tiếp sản xuất, đội ngũ trí thức, học sinh, sinh viên, tiểu thương, đồng bào người dân tộc.

Công tác cán bộ đã tập trung vào việc quy hoạch, đào tạo, luân chuyển, bổ nhiệm, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Hầu hết các địa phương, đơn vị đã thông qua quy hoạch, tỷ lệ cán bộ trẻ, nữ tăng lên, có trình độ chuyên môn và phẩm chất chính trị. Đã chú trọng xây dựng tạo nguồn cán bộ dài hạn : thực hiện chương trình đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ trẻ cho Thành phố; chương trình đưa cán bộ trẻ có trình độ đại học về cơ sở. Thực hiện tốt chính sách luân chuyển cán bộ, chính sách cho cán bộ phường - xã - thị trấn, khu phố, tổ dân phố, tạo được sự chuyển biến bước đầu.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ quan điểm đường lối, chủ trương của Đảng, bảo vệ tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên được tiến hành thường xuyên. Đã hoàn thành việc rà soát lịch sử chính trị đối với cán bộ diện Thành ủy quản lý và cán bộ được quy hoạch.

Công tác kiểm tra, đã tập trung kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, chủ trương, quy định của Trung ương và Thành phố; tăng cường kiểm tra dấu hiệu vi phạm của đảng viên và tổ chức đảng; chú trọng thực hiện phương châm phòng ngừa, ngăn chặn là chính, đồng thời xử lý nghiêm những tổ chức và đảng viên có sai phạm. Xét xử kiên quyết và kịp thời một số vụ án lớn được nhân dân đồng tình ủng hộ.

Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng ngày càng sâu sát, thiết thực hơn; vừa bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, có trọng tâm trọng điểm; vừa tạo sự chủ động của chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể. Chỉ đạo xây dựng và thực hiện quy chế làm việc chặt chẽ, đúng chức năng của mỗi cấp; có phân công cụ thể trách nhiệm tập thể và tăng cường trách nhiệm cá nhân cán bộ lãnh đạo trong việc triển khai thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết. Đã có bước cải tiến lề lối làm việc, nâng cao chất lượng hội nghị, giảm hội họp, tăng cường đi cơ sở.

Hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp có tiến bộ

Vai trò của Hội đồng Nhân dân các cấp ngày càng được phát huy. Chất lượng, nội dung các kỳ họp được cải tiến. Công tác giám sát được chú trọng, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của cử tri nhiều hơn.

Ủy ban Nhân dân các cấp có cố gắng nâng cao năng lực quản lý điều hành, cải tiến lề lối làm việc. Hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được nâng lên. Công tác cải cách hành chính gắn với việc sắp xếp bộ máy, khoán biên chế đạt được một số kết quả, đã tổ chức thí điểm, sơ kết, nhân rộng. Việc phân cấp quản lý giữa Thành phố, quận - huyện và cơ sở được mở rộng; chức năng, nhiệm vụ rõ ràng hơn; nâng thêm quyền hạn, trách nhiệm, chủ động cho từng cấp. Quy chế dân chủ cơ sở được tích cực thực hiện.

Khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, tăng cường

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, các hội quần chúng có nhiều hoạt động phong phú, tập hợp ngày càng rộng rãi đồng bào các giới, khơi dậy lòng yêu nước, truyền thống cách mạng, lòng nhân ái, tính năng động, sáng tạo, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, phát huy dân chủ, xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân.

Công nhân Thành phố phát triển nhanh về số lượng, trình độ chính trị, tay nghề được nâng lên. Nông dân ngoại thành hăng hái áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chăn nuôi, làm ra nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Đội ngũ trí thức đã có nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới, đào tạo cán bộ, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thanh niên với các phong trào học tập, tuổi trẻ sáng tạo, mùa hè xanh, giáo dục truyền thống đã khơi dậy lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, cống hiến xây dựng đất nước. Phụ nữ Thành phố phát huy phong trào học tập, lao động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc, tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Cựu chiến binh tiếp tục phát huy bản chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, cùng với lực lượng cán bộ hưu trí, gia đình chính sách và người cao tuổi tham gia tích cực các phong trào ở cơ sở, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Giới doanh nhân tăng nhanh về số lượng, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế Thành phố. Đồng bào các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài đã có nhiều hoạt động phong phú, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.

BÊN CẠNH NHỮNG THÀNH TỰU, CÒN NHIỀU TỒN TẠI, YẾU KÉM :

1/ Chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế còn chậm; hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh chưa cao.

Sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế chưa đạt yêu cầu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VII đề ra. Các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ là thế mạnh của Thành phố còn chiếm tỷ trọng thấp; tính cạnh tranh của nhiều sản phẩm hàng hóa còn kém so với khu vực và quốc tế. Công nghiệp Thành phố chủ yếu vẫn là gia công, sơ chế, giá trị gia tăng thấp, năng suất lao động tăng chậm. Các ngành dịch vụ cao cấp như tài chánh - ngân hàng; khoa học - công nghệ; viễn thông…, tuy có tốc độ tăng trưởng khá, nhưng tỷ trọng còn nhỏ chưa phản ảnh được thế mạnh của kinh tế Thành phố. Môi trường kinh doanh và đầu tư chưa đủ sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước.

2/ Hạ tầng kỹ thuật và xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và cải thiện dân sinh; quy hoạch và quản lý đô thị còn nhiều yếu kém; ô nhiễm môi trường chậm được khắc phục.

Một số chương trình, công trình trọng điểm về phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ đô thị triển khai chậm, trong đó có chương trình, công trình chỉ mới bắt đầu xây dựng như : công trình Đại lộ Đông Tây, chương trình chống ngập và thoát nước đô thị…

Công tác quy hoạch và quản lý việc xây dựng theo quy hoạch là điểm yếu của Thành phố trong nhiều năm qua, hạ tầng đô thị còn quá tải. Tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái, nhất là ô nhiễm nguồn nước các kênh rạch, sông Sài Gòn, Đồng Nai, Lòng Tàu ngày càng nặng.

Sự triển khai chậm và thiếu đồng bộ các chương trình, công trình trọng điểm và những yếu kém trong công tác quy hoạch, quản lý xây dựng, đã ảnh hưởng lớn đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cải thiện dân sinh và bảo vệ môi trường.

3/ Chất lượng giáo dục - đào tạo còn thấp; tiềm năng khoa học và công nghệ chưa được phát huy đúng mức, hiệu quả còn hạn chế.

Quy hoạch các loại hình đào tạo các cấp chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ; chương trình nội dung, phương pháp dạy và học chậm được đổi mới. Quản lý Nhà nước trong điều kiện xã hội hóa giáo dục còn bất cập. Tình trạng học thêm, dạy thêm tràn lan chậm được khắc phục; bệnh thành tích còn phổ biến. Chất lượng đào tạo còn thấp, thiếu toàn diện, coi nhẹ dạy nghề, dạy làm người; hiệu quả giáo dục chính trị, lý tưởng, đạo đức và lối sống còn thấp; đào tạo nghề còn kém về chất lượng, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao chưa đáp ứng nhu cầu của Thành phố và khu vực.

Sự phát triển khoa học và công nghệ chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đô thị. Đầu tư cho khoa học vừa thấp vừa dàn trải; hiệu quả xã hội của các đề tài nghiên cứu khoa học còn hạn chế; thị trường công nghệ phát triển chậm; cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm đổi mới, chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chưa tạo sức bật cho toàn ngành.

4/ Nhiều vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc, chậm được khắc phục.

Phát triển văn hóa chưa tương xứng với phát triển kinh tế, chưa tác động tích cực đến đời sống xã hội. Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống thực dụng, lai căn, nhất là một bộ phận trong giới trẻ rất đáng lo ngại. Tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc, danh dự người Việt Nam, trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng pháp luật chưa được giáo dục thường xuyên và đúng mức. Các tệ nạn xã hội còn nhiều diễn biến phức tạp; nếp sống văn minh đô thị còn kém.

Chất lượng hoạt động văn hóa còn thấp, có khuynh hướng chạy theo thị hiếu tầm thường; còn ít tác phẩm hay, có giá trị tư tưởng, nghệ thuật cao; đấu tranh phê bình những khuynh hướng tư tưởng lệch lạc còn yếu. Cơ sở vật chất và điều kiện hưởng thụ văn hóa giữa nội thành và ngoại thành còn nhiều chênh lệch.

Công tác lãnh đạo, quản lý nhà nước các hoạt động dịch vụ văn hóa còn bị buông lỏng. Tình trạng chưa bám sát tôn chỉ mục đích, chạy theo lợi ích kinh tế, ít nêu gương người tốt việc tốt, coi nhẹ chức năng định hướng, giáo dục của một bộ phận báo chí, xuất bản chưa được khắc phục có hiệu quả.

Mạng lưới y tế cơ sở, y tế cộng đồng chưa đáp ứng yêu cầu thiết yếu của người dân, nhiều bệnh viện quá tải, chất lượng phục vụ còn thấp, y đức chưa được chú trọng đúng mức, quản lý Nhà nước đối với hoạt động y tế chưa theo kịp sự phát triển của xã hội.

Công tác quy hoạch và bồi dưỡng vận động viên - huấn luyện viên thể dục thể thao còn bất cập, thiếu tính kế thừa; sử dụng cơ sở vật chất kém hiệu quả; thể thao thành tích cao suy giảm nghiêm trọng.

5/ Trật tự an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp.

Các vụ trọng án, buôn lậu, gian lận thương mại, các tệ nạn mại dâm, sử dụng chất ma túy tổng hợp... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Một số loại tội phạm mới, tội phạm sử dụng công nghệ cao đã và đang là những thách thức. Tai nạn giao thông và nguy cơ cháy nổ còn lớn. Việc thụ lý, giải quyết án và công tác thi hành án, nhất là án dân sự còn nhiều tồn đọng; cải cách tư pháp chuyển biến chậm. Việc giải quyết các khiếu kiện về kinh tế, dân sự, hành chính, tư pháp, nhất là các lĩnh vực đất đai, tái định cư, đền bù, giải tỏa còn nhiều hạn chế. Quản lý hoạt động của các cơ quan nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ, các văn phòng đại diện công ty nước ngoài còn sơ hở.

6/ Hệ thống chính trị chưa ngang tầm với nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên chưa tạo được sự chuyển biến cơ bản. Nhiều tổ chức đảng chưa thể hiện rõ vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị. Tính chiến đấu, tự phê bình, phê bình giảm sút, nể nang, ngại đụng chạm, thiếu tự giác. Việc đánh giá, phân loại tổ chức đảng, đảng viên nhiều nơi chưa đúng thực chất.

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa bám sát thực tiễn, phương pháp chưa hấp dẫn; nhận thức của nhiều cán bộ, đảng viên về những vấn đề cơ bản của Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa sâu sắc; một bộ phận lười học tập, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, phai nhạt lý tưởng, kém ý thức tổ chức kỷ luật, giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa xã hội. Công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn còn hạn chế.

Công tác tổ chức và cán bộ chưa ngang tầm, quy hoạch, đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý còn chậm, cán bộ trẻ còn ít. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu, vừa thừa, nhiều cán bộ còn yếu về năng lực, phẩm chất, kinh nghiệm thực tiễn. Công tác đào tạo còn dàn trải, chưa gắn với quy hoạch, chất lượng đào tạo còn hạn chế. Công tác phát triển đảng còn yếu, chất lượng chưa cao, số đảng viên mới trong công nhân, trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo, địa bàn dân cư, đồng bào có đạo, người Hoa... còn ít.

Công tác kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của nhiều tổ chức đảng chưa thường xuyên. Chưa kịp thời phát hiện, ngăn chặn những vi phạm của đảng viên; tình trạng vi phạm kỷ luật với nhiều mức độ khác nhau của cán bộ, đảng viên còn nhiều, trong đó một số cán bộ, đảng viên phải xử lý bằng pháp luật.

Hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực còn yếu kém; phân cấp quản lý giữa Thành phố và quận - huyện còn lúng túng. Cải cách hành chính đạt kết quả còn hạn chế. Tình trạng quan liêu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm, trì trệ còn khá phổ biến trong các cơ quan công quyền.

Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân còn hạn chế. Một số tổ chức đảng và đảng viên, cán bộ công chức chưa làm tốt công tác vận động nhân dân, chưa thật sự gắn bó với dân. Công tác tuyên truyền giáo dục, tập hợp, phát triển các tầng lớp nhân dân vào các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp còn hạn chế, nhất là bộ phận nhân dân có nhiều khó khăn, chậm tiến. Số lượng hội viên, đoàn viên của các đoàn thể đông, nhưng chưa mạnh. Mặt trận và các đoàn thể chưa thể hiện rõ vai trò người đại diện bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của hội viên. Lòng tin của nhân dân với Đảng và chính quyền từng nơi, từng lúc bị suy giảm.

Nhìn chung 5 năm qua, Thành phố có nhiều biến đổi tích cực, toàn diện. Đã cơ bản hoàn thành các nhiệm vụ do Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VII đề ra. Thành tựu đó có ý nghĩa to lớn, đánh dấu bước tiến bộ mới trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và không ngừng nâng cao vị trí, vai trò của Thành phố, góp phần xứng đáng vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là thắng lợi của đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng; sự nỗ lực to lớn và sáng tạo của nhân dân; sự đoàn kết thống nhất trong tập thể lãnh đạo; biết tận dụng các lợi thế về tiềm năng kinh tế và nguồn lực xã hội của Thành phố; sự năng động, quyết tâm, đồng bộ trong tổ chức thực hiện; sự chỉ đạo, giúp đỡ của các cơ quan Trung ương và sự hợp tác với các tỉnh, thành bạn.

Mặt khác, Thành phố còn có những yếu kém, tồn tại và khuyết điểm. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm; quy hoạch và quản lý đô thị, hạ tầng kỹ thuật và xã hội còn bất cập; tiềm năng khoa học chưa được phát huy đúng mức; nhiều bức xúc về văn hóa - xã hội chậm được khắc phục; hệ thống chính trị chưa đủ mạnh... Nguyên nhân chính của những yếu kém, tồn tại trước hết là sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, trực tiếp là Ban Thường vụ Thành ủy chưa bao quát, toàn diện, nhiều lúc thiếu tập trung, kiên quyết. Chính quyền quản lý, điều hành trên một số lĩnh vực còn lỏng lẻo; một bộ phận cán bộ, công chức còn xa dân; thiếu những cơ chế, chính sách tạo động lực để phát huy nội lực.

Những bài học đã tổng kết từ các Đại hội trước vẫn còn nguyên giá trị. Từ hoạt động thực tiễn 5 năm qua, có thể rút ra một số bài học sau đây :

1/ Phát huy tính năng động, sáng tạo của con người Thành phố luôn luôn là bài học quý báu của cả quá trình phấn đấu vượt qua bao thách thức và trưởng thành, đã trở thành truyền thống, thế mạnh của Thành phố. Việc quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của Thành phố trong từng giai đoạn, trong suốt 30 năm xây dựng và bảo vệ Thành phố, xây dựng hệ thống chính trị, cũng như những đóng góp tích cực trong việc tháo gỡ cơ chế cũ không phù hợp, đã chứng minh điều đó. Mặt khác, những hạn chế trong phát triển kinh tế, những yếu kém tồn tại trong nhiều lĩnh vực chậm được khắc phục đều có nguyên nhân do chưa phát huy cao nhất thế mạnh đó.

Đây là bài học luôn mang tính thời sự, vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài, cần phải được tiếp tục khai thác, phát huy mạnh mẽ hơn nữa trong thời kỳ mới.

2/ Trong chỉ đạo tổ chức thực hiện phải thật sâu sát và cụ thể, đồng bộ và kiên quyết. Việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện phải kiên trì, kiên quyết thực hiện cho kỳ được mục tiêu khi đã xác định là đúng đắn, vì lợi ích của toàn xã hội. Đây thực chất là sự thay đổi phong cách làm việc, vừa phải đề cao dân chủ bàn bạc, phát huy trí tuệ của tập thể và nhân dân, vừa phải tăng cường trách nhiệm cá nhân; từng thời điểm phải có sự tập trung cao, dám quyết đoán, dám đưa ra giải pháp táo bạo; biết tổ chức sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các lực lượng, các đơn vị. Đó là bài học được rút ra từ kết quả thực hiện những mục tiêu, chương trình do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VII đề ra, điển hình là việc thực hiện chương trình mục tiêu 3 giảm, xây dựng khu công nghệ cao, chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp... Ngược lại, do không thực hiện được như trên, là nguyên nhân chính làm cản trở sự phát triển, làm chậm tiến độ thực hiện chương trình mục tiêu đã xác định, như chương trình giống cây, giống con chất lượng cao; quy hoạch, sắp xếp lại các dịch vụ văn hóa...

3/ Công tác cán bộ có vị trí đặc biệt quan trọng. Thực tế chỉ ra rằng : khi đánh giá, bố trí đúng cán bộ, thì công việc được trôi chảy hơn; khi quy hoạch đúng đi liền với bồi dưỡng, đào tạo một cách mạnh dạn và đồng bộ, thì sẽ tạo ra một đội ngũ cán bộ có triển vọng đáp ứng yêu cầu cho lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành; khi kiên quyết thay đổi những cán bộ kém năng lực, thiếu trách nhiệm, không hoàn thành nhiệm vụ, xử lý nghiêm những cán bộ mắc sai phạm, đã có tác dụng củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, ngăn chặn những hành vi tiêu cực và nhắc nhở đối với đội ngũ cán bộ. Mặt khác, có những chương trình, công trình, dự án triển khai thực hiện rất chậm chạp, nhiều nhu cầu bức thiết của người dân giải quyết còn trì trệ, thiếu trách nhiệm; tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn và đẩy lùi, lòng tin của nhân dân từng lúc, từng nơi đối với Đảng bị giảm sút v.v… đều bắt nguồn từ công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ.

Phần thứ hai

NHIỆM VỤ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VÀ BẢO VỆ THÀNH PHỐ

TRONG 5 NĂM 2006 - 2010

------------------

Là một trung tâm về nhiều mặt của cả nước, đầu mối giao lưu quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh luôn chịu tác động bởi bối cảnh chung trong nước và quốc tế, cả thời cơ, thuận lợi lẫn khó khăn, thách thức. Năm năm tới, nước ta phải thực hiện đầy đủ cam kết AFTA và gia nhập WTO, cạnh tranh trong kinh tế sẽ diễn ra rất gay gắt.

Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chung trên thế giới và khu vực Đông Nam Á. Xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế đang diễn ra, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng tăng, tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho sự phát triển của đất nước và Thành phố. Tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn các nhân tố gây mất ổn định ở một số nước; những mặt tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế sẽ tác động rất mạnh đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân ta.

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo tiếp tục đẩy mạnh toàn diện; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hoàn thiện hơn; môi trường chính trị - xã hội ổn định; nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới. Nhưng xuất phát điểm về kinh tế còn thấp, càng hội nhập kinh tế quốc tế càng bộc lộ nhược điểm của nền kinh tế nước ta nói chung và Thành phố nói riêng.

Nghị quyết 20 của Bộ Chính trị về Thành phố đã tạo điều kiện thuận lợi cho Thành phố huy động cao nhất tiềm năng nguồn lực phát triển; tính năng động sáng tạo của con người Thành phố, cùng những bài học kinh nghiệm thực tiễn được rút ra sẽ được phát huy, mở ra nhiều triển vọng cho công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ Thành phố. Nhưng Thành phố cũng đang đối mặt với 4 nguy cơ chung của cả nước; đồng thời còn có những thách thức về cơ sở hạ tầng, ô nhiễm môi trường, tăng dân số cơ học và các vấn đề văn hóa, xã hội đặt ra rất gay gắt.

Trong bối cảnh đó, Thành phố phải chủ động hội nhập và tăng tốc phát triển với mục tiêu tổng quát trong 5 năm 2006 - 2010 là : Đổi mới toàn diện và mạnh mẽ hơn nữa; phát huy dân chủ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, động viên mọi nguồn lực, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng văn minh, hiện đại, từng bước trở thành một trung tâm công nghiệp, dịch vụ, khoa học công nghệ của khu vực Đông Nam Á; góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

1/ Về kinh tế :

Trong 5 năm tới, Thành phố phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn giai đoạn 2001 - 2005. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế không chỉ chú trọng đến số lượng, mà đặt trọng tâm vào chất lượng của tăng trưởng và phát triển. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với công bằng và tiến bộ xã hội, cải thiện môi trường sống, bố trí lại dân cư theo quy hoạch và xây dựng đô thị văn minh.

Phấn đấu trong giai đoạn 2006 - 2010 tổng sản phẩm nội địa (GDP) trên địa bàn Thành phố tăng bình quân 12%/năm trở lên, tạo tiền đề cần thiết để phát triển bền vững và giữ tốc độ tăng trưởng ổn định cho những năm tiếp theo. Thông qua các chương trình mục tiêu hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư chuyển dịch sang các ngành công nghiệp hiện đại, kỹ thuật cao, những ngành sản xuất có giá trị gia tăng cao phục vụ xuất khẩu; phát triển các ngành dịch vụ cao cấp, dịch vụ hỗ trợ sản xuất, nhằm tạo sự chuyển biến về chất cơ cấu kinh tế trên địa bàn.

Trong lĩnh vực dịch vụ, phấn đấu đưa giá trị gia tăng có tốc độ tăng trưởng bình quân 12%/năm trở lên. Tập trung phát triển, có tính đột phá 9 nhóm ngành dịch vụ tài chính - tín dụng - ngân hàng - bảo hiểm; thương mại (tập trung các loại dịch vụ phục vụ xuất khẩu); vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng (chú ý các dịch vụ hàng hải quốc tế); bưu chính - viễn thông và công nghệ thông tin - truyền thông; kinh doanh tài sản - bất động sản (phát triển đô thị mới; nhà ở; văn phòng cho thuê…); dịch vụ tư vấn, khoa học - công nghệ (thị trường công nghệ); du lịch (tập trung du lịch quốc tế); y tếgiáo dục - đào tạo chất lượng cao nhằm tạo điều kiện cho khu vực dịch vụ tăng trưởng cao hơn trong giai đoạn sau năm 2010.

Trong lĩnh vực công nghiệp, giữ vững tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng đạt khoảng 12 - 13%/năm. Sau 2010, công nghiệp sẽ có tốc độ tăng trưởng ổn định; cơ cấu kinh tế Thành phố chuyển mạnh sang các ngành dịch vụ, với tỷ trọng tăng dần trong cơ cấu GDP.

Phải vừa củng cố các ngành công nghiệp truyền thống theo hướng tăng tỉ trọng giá trị gia tăng, vừa tập trung hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu công nghiệp sang các sản phẩm và ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, bao gồm : (1) cơ khí chế tạo; (2) điện tử - viễn thông - tin học; (3) công nghiệp hóa chất và dược phẩm; (4) chế biến lương thực thực phẩm giá trị tăng cao.

Phấn đấu tăng tỷ trọng giá trị hàng công nghiệp xuất khẩu trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn Thành phố; tăng giá trị xuất khẩu và tăng giá trị gia tăng trên một lao động.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng bình quân 5%/năm trở lên. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học, hình thành trung tâm cây giống, con giống cho cả khu vực. Bảo tồn rừng sinh thái, tăng tỷ lệ che phủ cây xanh. Phát triển nông nghiệp sinh thái theo quy hoạch gắn với dịch vụ du lịch. Tiếp tục thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng hình thành nền nông nghiệp đô thị năng suất cao, sản xuất tập trung, phát triển bền vững. Duy trì ở mức độ cần thiết các sản phẩm nông nghiệp với quy mô hợp lý để vừa giải quyết việc làm, vừa giữ quỹ đất nông nghiệp dự trữ cho việc phát triển đô thị trong tương lai; đồng thời bám sát thực tiễn để phát hiện và hỗ trợ việc nuôi trồng các sản phẩm khác có hiệu quả kinh tế cao, xuất khẩu được lâu dài như rau sạch, cây kiểng, hoa, cá kiểng...

Xây dựng các cụm công nghiệp nông thôn theo quy hoạch, các chương trình đào tạo nhằm chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa nông nghiệp.

Đầu tư phát triển trên địa bàn Thành phố tiếp tục mở rộng theo hướng xã hội hóa; khai thác có hiệu quả các công cụ và hình thức huy động vốn thông qua thị trường vốn trên địa bàn để đầu tư phát triển. Tổng đầu tư xã hội trên địa bàn tăng khoảng 15%/năm, trong đó nguồn vốn ngân sách chiếm 15%. Nguồn vốn đầu tư của ngân sách chủ yếu tập trung vào các chương trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội, đào tạo nguồn nhân lực cho các dự án về phát triển đô thị và phục vụ cho mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đẩy mạnh việc xã hội hóa đầu tư trên tất cả các lĩnh vực kinh tế và dịch vụ đô thị.

2/ Về quản lý và phát triển đô thị :

Tập trung các nguồn lực để đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu đô thị mới gắn liền với mục tiêu bố trí lại dân cư, kiểm soát quy mô dân số Thành phố khoảng 7,2 triệu người vào năm 2010 và 10 triệu người vào năm 2020, với cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội văn minh, hiện đại; tạo tiền đề mở rộng không gian đô thị Thành phố theo quy mô đã được phê duyệt đến năm 2020.

Bố trí nguồn vốn cần thiết và thu hút lực lượng chuyên gia dưới nhiều hình thức để nâng cao chất lượng và hoàn thành quy hoạch chi tiết (tỷ lệ 1/2000), thực hiện thiết kế đô thị một số khu trung tâm Thành phố. Điều chỉnh bổ sung quy hoạch chung, gắn với quy hoạch vùng đô thị thành phố Hồ Chí Minh trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và gắn kết việc quy hoạch không gian đô thị với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng. Triển khai xây dựng các khu đô thị mới (Thủ Thiêm, Nam Sài Gòn, Tây Bắc Thành phố) và các khu dân cư mới, qua đó tái bố trí dân cư hợp lý. Việc chỉnh trang đô thị cũ phải thực hiện theo nguyên tắc giữ gìn giá trị kiến trúc và cảnh quan hiện có, không để tăng thêm dân cư; bảo đảm các tiêu chuẩn đô thị hiện đại về diện tích đất giao thông, đất ở, mật độ cây xanh, đất cho sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao…

Ưu tiên đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội cho các quận mới, các địa bàn đô thị hóa; gắn quy hoạch và phát triển kinh tế với kiểm soát dân cư ở 12 quận nội thành cũ, đồng thời bố trí các công trình về kinh tế văn hóa ở khu vực đô thị mới, nhằm bố trí lại dân cư trên toàn Thành phố. Quỹ đất trong các khu dân cư mới và các khu vực chỉnh trang ở nội thành cũ cần ưu tiên xây dựng nhà chung cư cao tầng phù hợp với khả năng mua và thuê nhà ở của đại bộ phận dân cư, nhất là người có thu nhập thấp.

Về dịch vụ đô thị, tập trung vào mục tiêu giải quyết giao thông đô thị (cầu, đường, vận tải hàng hóa và hành khách công cộng), cấp nước và chống ngập (mùa mưa và triều cường), hạ tầng viễn thông hiện đại. Gắn việc thực hiện chương trình xử lý rác với việc xã hội hóa dịch vụ vệ sinh môi trường, với sự tham gia của các thành phần kinh tế. Các chương trình, công trình trọng điểm liên quan đến hạ tầng và dịch vụ đô thị do Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VII đề ra phải cơ bản hoàn thành trước năm 2010.

Tập trung xây dựng các khu dân cư mới đã giao đất cho các nhà đầu tư với các công trình hạ tầng kỹ thuật, xã hội đồng bộ; xử lý nghiêm những vi phạm trong quản lý đất đai và xây dựng. Khắc phục có kết quả tình trạng đầu cơ đất trong các dự án nhà ở; xây dựng không phép, trái phép; lấn chiếm kênh rạch. Thiết lập cho được trật tự, kỷ cương trong quy hoạch và quản lý xây dựng theo quy hoạch.

3/ Về giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ :

Tạo bước chuyển căn bản về nâng cao chất lượng toàn diện giáo dục - đào tạo, chú trọng kết hợp dạy chữ, dạy nghề, dạy làm người phù hợp với từng cấp học. Hoàn thiện quy hoạch phát triển theo hướng đa dạng hóa hệ thống các loại hình giáo dục, cân đối phù hợp giữa trường công, trường tư; phát triển đồng bộ hệ phổ thông, giáo dục thường xuyên, dạy nghề. Phát triển mô hình giáo dục mở với những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên của người dân. Đẩy mạnh xã hội hóa gắn chặt với chuẩn hóa, hiện đại hóa; thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển trường học, đặc biệt trường dạy nghề, bảo đảm đến năm 2010 tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề đạt 55%; đẩy mạnh khuyến học, khuyến tài đi đôi với nâng cao vai trò quản lý Nhà nước về giáo dục - đào tạo.

Hoàn thành phổ cập bậc trung học vào năm 2008; phổ cập tin học, ngoại ngữ cho học sinh phổ thông. Quy hoạch xây dựng khu đại học Tây Bắc và Đông Bắc Thành phố, gắn với các khu nghiên cứu triển khai công nghệ, khu công nghiệp. Khuyến khích sự liên kết đào tạo giữa các trường; tăng cường hợp tác quốc tế, tạo điều kiện, mời gọi các trường đại học có uy tín trên thế giới đầu tư, hợp tác mở cơ sở trường học tại Thành phố. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh để nâng cao chất lượng dạy và học. Tập trung khắc phục tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan, bệnh thành tích trong đánh giá kết quả học tập, thi cử.

Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Khoa học xã hội và nhân văn tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản và bức xúc của Thành phố để làm cơ sở cho việc xây dựng các chủ trương phát triển và quản lý xã hội, xây dựng văn hóa và con người Thành phố. Khoa học và công nghệ tập trung các chương trình trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, cơ khí - tự động, vật liệu mới. Nâng cao năng lực làm chủ và ứng dụng công nghệ tiên tiến, đồng thời đẩy mạnh triển khai chương trình thiết kế, chế tạo thiết bị thay thế nhập khẩu với chi phí thấp, phục vụ cho phát triển những ngành nghề chủ lực, có sức cạnh tranh cao. Đưa Khu công nghệ cao, nông nghiệp kỹ thuật cao, Trung tâm công nghệ sinh học vào hoạt động, tạo nên những mũi đột phá thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mở rộng và phát triển thị trường công nghệ; hoàn thiện cơ chế liên kết giữa doanh nghiệp, Nhà nước, nhà khoa học; tăng cường tổ chức chợ thiết bị công nghệ, khuyến khích doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, đổi mới công nghệ... Phát triển dịch vụ khoa học theo hướng liên kết nghiên cứu công nghệ cao theo đơn đặt hàng của các nước; đồng thời có chính sách thu hút nguồn lực khoa học của nước ngoài, nâng cao năng lực khoa học công nghệ Thành phố.

Đổi mới căn bản cơ chế quản lý nhà nước thuộc thẩm quyền Thành phố, tạo điều kiện cho hoạt động khoa học gắn kết chặt chẽ với sản xuất kinh doanh và đào tạo. Xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư của các khu vực kinh tế, các doanh nghiệp cho khoa học và công nghệ. Có chính sách bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, huy động và khai thác có hiệu quả mọi nguồn trí thức, nhất là từ các viện nghiên cứu, trường đại học trên địa bàn Thành phố, Việt kiều... Phát huy hơn nữa vai trò của Liên hiệp các Hội Khoa học - Kỹ thuật Thành phố trong việc tập hợp lực lượng, nghiên cứu, tư vấn và phản biện.

4/ Về văn hóa - xã hội :

Phát triển văn hóa của Thành phố theo hướng văn minh, hiện đại, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và các giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của nhân dân Thành phố. Tập trung xây dựng môi trường văn hóa đô thị lành mạnh, văn minh, nếp sống thị dân, tôn trọng pháp luật, kỷ cương, tác phong công nghiệp. Tiếp tục nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn dân cư”, hướng cuộc vận động về cơ sở, làm cho văn hóa thấm sâu vào từng người, từng gia đình, từng khu dân cư, từng công sở. Đẩy mạnh vận động, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng và có những giải pháp hữu hiệu để tạo ra bước chuyển căn bản trong việc cưới, tang, lễ hội theo hướng văn minh, tiết kiệm, chống phô trương, lãng phí; tích cực đấu tranh bài trừ mê tín dị đoan. Xây dựng ý thức giữ gìn môi trường và văn minh nơi công cộng.

Đẩy mạnh giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào tự tôn dân tộc, danh dự của người Việt Nam, công dân Thành phố mang tên Bác, duy trì thường xuyên cuộc vận động tu dưỡng đạo đức, lối sống; xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý và trong kinh tế.

Hoàn thiện quy hoạch, huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng thiết chế văn hóa, chú trọng văn hóa ở ngoại thành; tập trung đầu tư cho những cơ sở văn hóa tiêu biểu, có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của Thành phố và các tỉnh phía Nam. Đầu tư có trọng điểm và nâng cao hiệu quả hoạt động văn hóa - nghệ thuật, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm văn hóa có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao. Tăng cường hoạt động giao lưu văn hóa, đồng thời tích cực đấu tranh và ngăn chặn hữu hiệu sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai, độc hại.

Hoàn thiện quy hoạch báo chí, xuất bản. Tăng cường lãnh đạo, quản lý, nhằm không ngừng phát huy và nâng cao vai trò, trách nhiệm xã hội của báo chí. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng toàn diện cho đội ngũ báo chí.

Nâng cao trình độ tổ chức, quản lý để phát triển thể dục - thể thao của Thành phố. Điều chỉnh quy hoạch mạng lưới cơ sở vật chất kỹ thuật; đầu tư xây dựng khu thể thao liên hợp xứng tầm của Thành phố và khu vực. Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động thể dục - thể thao đi đôi với hợp tác quốc tế; mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào thể thao quần chúng; tập trung đầu tư một số môn thể thao thành tích cao mà Thành phố có ưu thế.

Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, y tế cộng đồng. Quy hoạch để xây dựng các bệnh viện ở các cửa ngõ Thành phố, ở các đô thị vệ tinh; nâng cấp và chuyên môn hóa, xã hội hóa các bệnh viện trung tâm; xây dựng trường đại học và mô hình viện - trường cho ngành y tế Thành phố. Thu hút mọi nguồn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển cơ sở dịch vụ y tế hướng đến y tế chất lượng cao; phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng bảo hiểm y tế. Sắp xếp lại và phát triển ngành dược; đầu tư nghiên cứu chế tạo, sản xuất và nâng cao chất lượng thiết bị y tế, đáp ứng nhiều hơn thị trường trong nước, thay thế hàng nhập khẩu, tiến tới xuất khẩu. Tăng cường đầu tư lĩnh vực y tế dự phòng, chủ động phòng ngừa và ngăn chặn dịch bệnh nguy hiểm. Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ y tế, chú trọng giáo dục y đức.

Thực hiện tốt các chính sách dân số, gia đình và trẻ em. Quan tâm chăm sóc, bảo vệ trẻ em về sức khỏe, học tập, vui chơi, giải trí, chú ý đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Đề cao trách nhiệm của gia đình để thật sự là tổ ấm của mỗi thành viên, tế bào lành mạnh của xã hội.

Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội đồng bộ với phát triển kinh tế. Tái bố trí dân cư theo hướng phát triển các đô thị mới hoàn chỉnh ở ngoại thành, thực hiện các biện pháp đồng bộ để hạn chế tăng dân số tự nhiên và cơ học, đến năm 2010 tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn dưới 1,1%. Giải quyết việc làm mới đồng thời với việc giảm tỷ lệ thất nghiệp.

Phát huy thành quả các chương trình xã hội, tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu 3 giảm, có giải pháp giải quyết cơ bản nạn ăn xin, trẻ lang thang.

Phấn đấu đến năm 2010 cơ bản xóa hộ nghèo theo tiêu chí mới của Thành phố; nâng cao mức sống của tầng lớp nghèo thành thị, giảm khoảng cách về mức sống giữa các nhóm dân cư.

5/ Về quốc phòng - an ninh :

Bảo đảm giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 8 - khóa IX và các nghị quyết của Thành ủy về quốc phòng và an ninh. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh đủ sức lãnh đạo công tác xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân.

Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh; bảo đảm giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống. Tiếp tục thực hiện tốt việc phòng chống tội phạm, ma túy, mại dâm. Làm tốt công tác vận động nhân dân và thực hiện đúng chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong tình hình mới; xây dựng nền tảng chính trị vững chắc cho quốc phòng, an ninh.

Xây dựng lực lượng quân đội, công an, biên phòng Thành phố trong sạch, vững mạnh đủ sức ngăn chặn và kịp thời đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn gây mất ổn định chính trị - xã hội, “bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch. Tăng cường hợp tác với các địa phương của một số nước trong khu vực về chống tội phạm.

Tập trung giải quyết các khiếu kiện tồn đọng; tiếp tục đổi mới các chính sách, giải pháp tái định cư, đền bù, giải tỏa đáp ứng lợi ích của người dân, của cộng đồng và yêu cầu phát triển của Thành phố.

Nâng cao chất lượng công tác xét xử, bảo đảm dân chủ, không để án oan, hạn chế tối đa án sai và trách nhiệm bồi thường; giải quyết nhanh các án tồn đọng và công tác thi hành án; đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật; tăng cường kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ, đầu tư trang bị cơ sở vật chất và chăm lo đời sống cho cán bộ công chức các cơ quan tư pháp.

6/ Về công tác đối ngoại :

Coi trọng công tác đối ngoại nhân dân và đối ngoại phục vụ kinh tế để góp phần đẩy mạnh hợp tác phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế của Thành phố và cả nước. Tiếp tục thực hiện tốt các nội dung hợp tác đã ký kết với các địa phương nước bạn, nhất là các nước láng giềng; đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác với một số địa phương các nước khác. Tăng cường hoạt động tuyên truyền đối ngoại, quảng bá hình ảnh Việt Nam và Thành phố như là một điểm đến hấp dẫn đối với du khách và các nhà đầu tư nước ngoài. Có quy chế về mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan ngoại vụ với Liên hiệp các tổ chức hữu nghị và các cơ quan có liên quan trong hoạt động đối ngoại.

7/ Một số chương trình, công trình kinh tế - xã hội mang tính đòn bẩy :

Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định, cần tiếp tục hoàn thành các chương trình, công trình trọng điểm do Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VII đề ra; đồng thời tập trung nguồn lực thực hiện các chương trình, công trình sau đây :

1- Chương trình cải cách hành chính và chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

2- Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

3- Chương trình nhà ở.

4- Công trình xây dựng khu công nghệ cao.

5- Công trình xây dựng khu đô thị mới Thủ Thiêm.

Phần thứ ba

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ,

TĂNG CƯỜNG HIỆU LỰC VÀ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CỦA CHÍNH QUYỀN,

PHÁT HUY SỨC MẠNH KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN
--------------------------

Xây dựng Đảng bộ Thành phố ngày càng trong sạch vững mạnh, không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo chính trị của tổ chức Đảng và tính tiền phong gương mẫu của người đảng viên; tăng cường năng lực tổ chức thực hiện và hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền; phát huy dân chủ và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân; ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

1/ Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ.

Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; gắn lý luận với thực tiễn, nâng cao tính chiến đấu và thuyết phục của công tác tư tưởng, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong mọi hoạt động của cán bộ, đảng viên. Tạo sự thống nhất về nhận thức, ý chí và hành động trong Đảng, nói và làm theo nghị quyết, nói ít làm nhiều; củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tăng cường giáo dục truyền thống cách mạng, lòng tự hào về dân tộc, về Đảng; xây dựng đạo đức, lối sống, trung thực, khiêm tốn, giản dị, nhân ái, nghĩa tình; nâng cao tính tự giác, ý thức kỷ luật, tính chiến đấu của cán bộ, đảng viên. Kiên quyết chống mọi biểu hiện cơ hội, thực dụng, cục bộ, bè phái, mất đoàn kết. Đấu tranh mạnh mẽ những quan điểm sai trái, phai nhạt lý tưởng; bác bỏ những luận điệu phản động, góp phần làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

Nâng chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nhất là trong các doanh nghiệp, cơ quan hành chính sự nghiệp. Tổ chức đảng phường - xã - thị trấn phải sát dân, gần dân, quan tâm giải quyết những bức xúc của dân. Chú trọng nội dung, chất lượng sinh hoạt chi bộ và cấp ủy Đảng; tất cả các cấp ủy phải có quy chế và làm việc theo quy chế; phát huy dân chủ và trí tuệ tập thể đi đôi với trách nhiệm cá nhân. Hướng dẫn cụ thể hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Đổi mới nội dung và phương pháp đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm đúng thực chất hơn; phấn đấu có 75% cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, giảm cơ sở đảng yếu kém còn dưới 1%; kịp thời biểu dương những cơ sở đảng và đảng viên làm tốt; đấu tranh phê bình đối với những cơ sở đảng và đảng viên yếu kém, không hoàn thành nhiệm vụ.

Thực hiện tốt công tác phát triển đảng viên mới, chú trọng về chất lượng. Tập trung phát triển Đảng trong công nhân trực tiếp sản xuất, giáo viên, sinh viên và những nơi còn ít đảng viên như : doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan báo chí, xuất bản, địa bàn dân cư, các giới đồng bào.

Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; phát hiện và có chính sách thu hút sử dụng, bồi dưỡng nhân tài. Thực hiện tốt công tác quản lý, đánh giá cán bộ thông qua kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị và phẩm chất đạo đức, uy tín đối với nhân dân. Rà soát, bố trí lại đội ngũ cán bộ, kịp thời thay thế những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, không đủ năng lực, phẩm chất.

Thực hiện có hiệu quả hơn công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ, đáp ứng nguồn cán bộ trước mắt đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Trong đó, cần tập trung quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng 3 loại cán bộ : cán bộ lãnh đạo chính trị và quản lý nhà nước; cán bộ khoa học công nghệ và văn hóa nghệ thuật; cán bộ quản lý doanh nghiệp. Phấn đấu hầu hết cán bộ do cấp quận - huyện quản lý trở lên có trình độ đại học về chuyên môn, cao cấp lý luận chính trị, biết sử dụng vi tính.

Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ quan điểm đường lối, nguyên tắc tổ chức, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và bảo vệ cán bộ, đảng viên; chống mọi biểu hiện cơ hội chính trị, bè phái gây mất đoàn kết. Có những quy định cụ thể để ngăn ngừa vi phạm của đảng viên.

Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy về việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật Nhà nước. Ủy ban kiểm tra các cấp chủ động kiểm tra ngăn ngừa có hiệu quả những biểu hiện vi phạm của đảng viên và tổ chức đảng. Tập trung kiểm tra các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, như : xây dựng, nhà đất, giao thông, quản lý doanh nghiệp, hải quan, thuế, các cơ quan bảo vệ pháp luật... Xử lý nghiêm, kịp thời những trường hợp vi phạm, đồng thời có chính sách khuyến khích đối với người có khuyết điểm tự giác báo cáo với tổ chức đảng. Xây dựng và thực hiện cơ chế xử lý cán bộ có sai phạm, không hoàn thành nhiệm vụ, như : cách chức, miễn nhiệm, cho từ chức.

Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, trực tiếp của cả hệ thống chính trị, nhằm nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh, củng cố niềm tin của nhân dân. Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong công tác kiểm tra, thanh tra; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các địa phương, đơn vị.

Không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng theo hướng : nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ; đề cao trách nhiệm cá nhân; lãnh đạo toàn diện đi đôi với chỉ đạo trọng tâm, trọng điểm và kiên quyết; tăng cường kiểm tra việc tổ chức thực hiện của các cơ quan Nhà nước; sâu sát cơ sở, phát huy dân chủ và tính chủ động của cơ sở; giảm hội họp, giấy tờ không cần thiết.

2/ Tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của chính quyền.

Phát huy vai trò của Hội đồng Nhân dân các cấp thực sự là đại biểu của dân, thực hiện tốt chức năng giám sát, lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của dân. Kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những việc làm trái chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước.

Kiện toàn và sắp xếp lại bộ máy quản lý Nhà nước theo hướng tinh, gọn, chuẩn hóa các chức danh cán bộ quản lý hành chính Nhà nước phù hợp với xã hội đô thị từ cấp Thành phố đến cơ sở. Kiên quyết thay thế những cán bộ, công chức, người đứng đầu các địa phương, đơn vị không đủ năng lực trình độ, phẩm chất đạo đức; có những lĩnh vực có thể thay đổi nhân sự cả bộ máy. Thực hiện thường xuyên việc giám sát, tổ chức thanh tra công vụ để phát hiện những sai phạm nhũng nhiễu của cán bộ, công chức và các cơ quan công quyền; phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ cương, pháp luật.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, tập trung rà soát các thủ tục, quy trình đầu tư các dự án trong nước, ngoài nước; tạo môi trường thuận lợi cả về cơ chế, chính sách và cơ sở hạ tầng; phát huy các lợi thế của Thành phố để thu hút đầu tư, tăng sức cạnh tranh.

Thống nhất, công khai, minh bạch và đơn giản hóa các thủ tục về nhà đất, xây dựng, thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, giấy phép các loại..., tạo điều kiện thuận lợi cho dân, cho doanh nghiệp. Quy định cụ thể thời gian giải quyết đối với từng loại giấy tờ, từng loại công việc, không để dân đi lại nhiều lần. Mở rộng hoạt động các loại hình dịch vụ công để phục vụ nhân dân tốt hơn.

Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính Nhà nước, nối mạng giữa các cơ quan Nhà nước ở Thành phố, củng cố hoạt động các trang web của Thành phố và các sở - ngành, quận - huyện. Thực hiện việc quản lý, giải đáp, cấp phép qua mạng trên một số lĩnh vực, tiến tới xây dựng chính quyền điện tử ở Thành phố.

Tăng cường quản lý Nhà nước về đô thị : Xây dựng đề án, kiến nghị Trung ương cho làm thí điểm mô hình chính quyền đô thị ở Thành phố. Phân cấp mạnh, rõ ràng hơn nữa giữa Thành phố, quận - huyện, phường - xã trong công tác cấp phép cũng như quản lý sau phép các hoạt động sản suất, kinh doanh, dịch vụ, trật tự đô thị, tránh chồng chéo, không rõ trách nhiệm.

Có những biện pháp quyết liệt hơn nữa trong công tác quản lý quy hoạch, kiến trúc xây dựng, trật tự đô thị, các dịch vụ văn hóa, hướng tới xây dựng một Thành phố văn minh, hiện đại, đồng thời giữ được nét riêng truyền thống văn hóa của Thành phố.

3/ Tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.

Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận và các đoàn thể. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, mở rộng khối đoàn kết toàn dân, khơi dậy và động viên mọi tiềm lực của người dân thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Thành phố; chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; tăng cường giáo dục, vận động giúp đỡ bộ phận nhân dân chậm tiến; đề cao cảnh giác những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực lợi dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân. Khắc phục có hiệu quả tình trạng hoạt động mang tính hình thức của các đoàn thể; tệ quan liêu xa rời dân trong các hoạt động của hệ thống chính trị, nhất là hoạt động của chính quyền.

Đẩy mạnh hoạt động công đoàn và phong trào công nhân, viên chức Thành phố, chăm lo giáo dục nâng cao nhận thức chính trị, trình độ học vấn, tay nghề; phát triển Đảng và quy hoạch, đào tạo cán bộ từ công nhân ưu tú; xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể trong các loại hình doanh nghiệp có đông công nhân. Chăm lo nhà ở cho công nhân, thực hiện tốt chính sách pháp luật về lao động, bảo hộ lao động cho công nhân.

Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Nông dân, giúp nông dân phát triển sản xuất nâng cao thu nhập; quan tâm xây dựng cuộc sống mới ở nông thôn, đầu tư chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động ở khu vực nông thôn phù hợp với quá trình đô thị hóa.

Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, có chính sách chăm lo cho đội ngũ trí thức, thu hút và phát huy mọi tiềm năng, trí tuệ của đội ngũ trí thức trong công cuộc xây dựng và phát triển Thành phố.

Xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh, xứng đáng là đội hậu bị của Đảng. Coi trọng giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng giác ngộ lý tưởng cách mạng cho thanh niên bằng nhiều hình thức phong phú, sôi nổi, thiết thực; đấu tranh chống lối sống thực dụng, văn hóa lai căn trong thanh niên.

Đối với phụ nữ, coi trọng và thực hiện tốt chính sách bình đẳng giới trong xã hội; nâng cao trình độ học vấn, tạo việc làm, thực hiện chính sách cán bộ nữ; chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe phụ nữ ở nông thôn; đấu tranh chống bạo hành đối với phụ nữ.

Chăm lo đời sống cho cựu chiến binh, cán bộ hưu trí, gia đình chính sách, người cao tuổi…, thực hiện nhất quán chính sách đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn. Phát huy vai trò nòng cốt của cựu chiến binh làm chỗ dựa tin cậy của Đảng, chính quyền, nêu gương và góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, lòng yêu quê hương, đất nước cho thế hệ thanh thiếu niên.

Trên cơ sở khẳng định vai trò, vị trí ngày càng quan trọng của doanh nhân, có chính sách ổn định để các doanh nghiệp an tâm đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh; tạo điều kiện thuận lợi để hội nhập và cạnh tranh quốc tế. Phát huy vai trò của Hiệp hội doanh nghiệp trong việc tập hợp, chăm lo bảo vệ quyền lợi của doanh nhân, thực hiện bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.

Đối với đồng bào các dân tộc, thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng. Tạo điều kiện và phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh người Hoa trong phát triển kinh tế; chăm lo giải quyết việc làm, nâng cao trình độ học vấn, điều kiện sinh sống của đồng bào Chăm, Khơme. Phát triển đảng viên, đào tạo cán bộ trí thức trong đồng bào các dân tộc.

Tăng cường vận động chức sắc các tôn giáo và đồng bào có đạo phát huy tinh thần yêu nước, thực hiện nghĩa vụ công dân; sống tốt đời, đẹp đạo. Phát huy hơn nữa vai trò, khả năng của các tổ chức tôn giáo trong các sinh hoạt xã hội, công tác từ thiện nhân đạo.

Đối với kiều bào, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, tạo mọi điều kiện thuận lợi để kiều bào đóng góp xây dựng Thành phố. Động viên kiều bào hướng về quê hương đất nước, đấu tranh chống lại các thế lực thù địch phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sự nghiệp xây dựng đất nước.

Phần thứ tư

NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN

-------------------

Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trong 5 năm tới, cần tập trung mọi nguồn lực, xây dựng những chương trình hành động cụ thể triển khai các giải pháp trọng tâm, mang tính đột phá sau đây :

1/ Tích cực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh có tính cạnh tranh cao nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển các ngành dịch vụ mà Thành phố có lợi thế.

Chủ động phối hợp với các bộ ngành của Trung ương có liên quan xây dựng chương trình phát triển thị trường tài chính Thành phố; tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thành lập các công ty đầu tư, các quỹ đầu tư, công ty tài chính, đa dạng hóa các hình thức chứng khoán, nhằm mở rộng quy mô thị trường vốn trung - dài hạn; áp dụng rộng rãi các loại dịch vụ tài chính, tín dụng, ngân hàng; khai thác có hiệu quả các quỹ bảo hiểm. Củng cố và xây dựng Quỹ Đầu tư Phát triển đô thị thành tổ chức tài chính đầu tư chủ lực của Thành phố phát triển theo hướng tập đoàn tài chính Nhà nước.

Có chính sách khuyến khích về sử dụng mặt bằng, bảo đảm lợi ích thỏa đáng cho các doanh nghiệp chuyển chức năng từ sản xuất công nghiệp trong khu vực nội thành, sang kinh doanh các ngành dịch vụ phù hợp với quy hoạch. Khuyến khích các doanh nghiệp cảng trong diện phải di dời, chuyển nhanh chức năng sử dụng mặt bằng từ dịch vụ cảng sang các lĩnh vực thương mại - dịch vụ khác phù hợp với quy hoạch, nhằm thúc đẩy nhanh tiến độ di dời hệ thống cảng.

Gắn với quá trình di dời hệ thống cảng, cần có chính sách và cơ chế thu hút nguồn vốn và nhà đầu tư, để đầu tư mở rộng quy mô và chức năng của khu công nghiệp Hiệp Phước; gắn khu công nghiệp - chế xuất - bảo thuế với các dịch vụ cảng, vận tải biển, kho bãi, hậu cần, thương mại quốc tế, nhằm xây dựng Hiệp Phước thành một đô thị cảng, tạo bước đột phá để phát triển Thành phố hướng ra biển. Tiếp tục mở rộng việc thí điểm cho nhà đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng đô thị mới, xây dựng nhà ở, các công trình phục vụ kinh tế, văn hóa.

Xây dựng kế hoạch đầu tư toàn diện, lộ trình đầu tư cụ thể, chính sách ưu đãi và cơ chế quản lý đầu tư phù hợp, nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư xây dựng khu đô thị mới Thủ Thiêm với tiến độ nhanh, đón đầu thời điểm hoàn thành các công trình kết nối hạ tầng qua sông Sài Gòn (Đại lộ Đông - Tây; cầu Thủ Thiêm, Phú Mỹ). Cùng với nội dung quy hoạch chi tiết, sử dụng các công cụ kinh tế, tài chính để gắn kết việc xây dựng khu đô thị mới Thủ Thiêm, khu đô thị Tây Bắc; khu đô thị cảng Hiệp Phước với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tái bố trí dân cư.

2/ Đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ đối với mọi loại hình doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, giành thắng lợi trong hội nhập.

Tập trung xây dựng, mở rộng khu công nghiệp phần mềm, khu công nghệ cao, đồng thời phát triển một số khu công nghiệp chuyên ngành như khu công nghiệp cơ khí chế tạo, khu công nghiệp hóa chất, các cụm công nghiệp chuyên ngành cho các ngành dệt may, da giày, chế biến thủy hải sản... với các điều kiện thuận lợi về mặt bằng, giá thuê đất, các dịch vụ phục vụ sản xuất. Chủ động mời gọi và tạo điều kiện thuận lợi nhất thu hút các nhà đầu tư có năng lực đầu tư vào 4 nhóm ngành công nghiệp đã xác định. Khuyến khích các doanh nghiệp làm chủ khâu thiết kế sản phẩm, chủ động mở rộng hệ thống tiêu thụ và đổi mới, hiện đại hóa công nghệ, hình thành những ngành sản xuất có giá trị gia tăng cao.

Đầu tư nguồn lực tương xứng để mở rộng quy mô và chất lượng các chương trình hỗ trợ đầu tư và xúc tiến thương mại đối với mọi thành phần kinh tế trên địa bàn. Thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp dưới nhiều hình thức, trong đó cần tập trung vào việc cung cấp thông tin kinh tế và huấn luyện đào tạo, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các tổ chức kinh tế hợp tác. Xây dựng một Trung tâm thông tin kinh tế của Thành phố đủ năng lực cung cấp thông tin phục vụ cho nhiệm vụ quản lý nhà nước và nhu cầu của các doanh nghiệp.

Tiếp tục củng cố sắp xếp các tổng công ty nhà nước thuộc Thành phố quản lý, hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con. Cổ phần hóa tất cả các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) không thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn. Sắp xếp lại các DNNN công ích phù hợp với Luật Doanh nghiệp Nhà nước (mới); thực hiện phương thức Nhà nước thuê hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ công ích thay cho mô hình DNNN công ích. Khuyến khích phát triển Công ty Cổ phần Nhà nước, Công ty Cổ phần có vốn chi phối của Nhà nước trở thành loại hình kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng chương trình cụ thể, bao gồm các chính sách hỗ trợ về mặt bằng, giá thuê đất, bảo lãnh tín dụng, cung cấp thông tin, đào tạo nguồn nhân lực... nhằm thúc đẩy phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, nâng cao vai trò của khu vực kinh tế tập thể.

3/ Tập trung các nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng ở các khu đô thị mới, giới hạn việc chỉnh trang mở rộng đường, hạn chế mật độ xây dựng, tầng cao khu đô thị cũ.

Tập trung nguồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng như : kết nối giao thông và cơ sở hạ tầng đô thị nhằm thu hút dân cư, giảm áp lực dân số khu vực nội thành. Việc chỉnh trang khu đô thị cũ sẽ xác định ở giới hạn cần thiết; thực hiện sự kiểm soát dân số bằng các biện pháp kinh tế và tiện ích đô thị. Ban hành quy chế quản lý xây dựng các khu đô thị, dân cư mới phù hợp với Luật Đất đai, Luật Xây dựng và chính sách phát triển nhà ở của Thành phố; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về quy hoạch và quản lý xây dựng theo quy hoạch; kiểm soát giá đất đô thị, lành mạnh hóa thị trường bất động sản.

Tập trung vốn và trí tuệ để hoàn thành quy hoạch không gian và kiến trúc đô thị dài hạn; hoàn thành quy hoạch chi tiết làm cơ sở cho việc quản lý xây dựng theo quy hoạch; không để tự phát xây dựng trái với quy hoạch. Ưu tiên nguồn vốn ngân sách và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào các khu đô thị mới.

4/ Xã hội hóa đầu tư các lĩnh vực dịch vụ công và dịch vụ hạ tầng kinh tế.

Xây dựng quy chế xã hội hóa đầu tư trong các ngành y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao và các dịch vụ kết cấu hạ tầng xã hội khác, với chế độ ưu đãi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế; xây dựng mô hình bệnh viện cổ phần với sự tham gia rộng rãi của xã hội. Đẩy mạnh hình thức khoán hoặc nhà nước thuê dịch vụ từ mọi thành phần kinh tế đối với lĩnh vực cung cấp dịch vụ hạ tầng đô thị (công viên cây xanh, cấp thoát nước, duy tu bảo dưỡng cầu đường và các dịch vụ công cộng khác), vừa tạo cơ hội kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế, vừa nâng hiệu quả sử dụng ngân sách. Có chính sách ưu đãi, hỗ trợ để thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào các lĩnh vực giáo dục - đào tạo; y tế; thể dục thể thao; các công trình văn hóa.

5/ Tập trung xây dựng môi trường văn hóa đô thị lành mạnh, văn minh.

Sử dụng các biện pháp tổng hợp với nhiều hình thức sinh động để giáo dục, thực hiện nếp sống thị dân; xây dựng ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường, hành vi ứng xử, giao tiếp văn minh nơi công cộng, trong cơ quan đơn vị. Tạo lập môi trường văn hóa lành mạnh từ gia đình, thôn ấp, khu phố, phường - xã. Đầu tư thích đáng để có nhiều sản phẩm văn hóa có giá trị tư tưởng, nghệ thuật cao, có nội dung giáo dục truyền thống yêu nước, tự hào và tự tôn dân tộc.

Khảo sát và quy hoạch, sắp xếp lại, tăng cường quản lý các cơ sở dịch vụ văn hóa, nhất là một số ngành nghề dễ phát sinh các tệ nạn xã hội. Có biện pháp xóa tệ nạn ăn xin, trẻ lang thang đường phố, tình trạng lấn chiếm lòng, lề đường. Phát huy vai trò của hệ thống thông tin đại chúng, trung tâm thông tin công tác tư tưởng và các cơ sở tuyên truyền giáo dục trong việc định hướng đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, lệch lạc; kiên quyết khắc phục những sai phạm trong lưu hành các sản phẩm văn hóa có nội dung xấu, các chương trình truyền hình, biểu diễn kém chất lượng, lai căn...

6/ Khai thác và phát triển nguồn nhân lực.

Đổi mới căn bản mô hình giáo dục đào tạo hiện nay theo hướng chuyển sang mô hình giáo dục mở; xây dựng xã hội học tập với hệ thống học tập cho mọi đối tượng, thực hiện liên thông giữa các bậc học gắn với phát triển nghề nghiệp của người dân, tạo ra nền tảng và điều kiện phát triển nguồn nhân lực.

Có chính sách thu hút, sử dụng nhân tài và đội ngũ trí thức khoa học trên địa bàn Thành phố và cả nước, nhất là trí thức đầu đàn trong những ngành nghề mũi nhọn và những lĩnh vực quan trọng; thu hút các nhà khoa học và quản lý nước ngoài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào. Mạnh dạn thuê chuyên gia giỏi về các lĩnh vực và có chính sách thỏa đáng về tiền lương, điều kiện và chế độ cư trú, làm việc... phù hợp với sự cống hiến của họ.

Tiến hành các chương trình đào tạo lao động lành nghề, có trình độ cao, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển của Thành phố và khu vực, vừa tạo nguồn xuất khẩu lao động. Đào tạo tại các trường dạy nghề, trường chuyên nghiệp, đại học và tại doanh nghiệp, trong đó hệ thống trường dạy nghề đóng vai trò quan trọng nhất. Tăng cường đầu tư và đẩy mạnh xã hội hóa công tác dạy nghề; mở rộng và nâng cấp các cơ sở dạy nghề, xây dựng các trung tâm đào tạo dạy nghề trình độ cao, gắn với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố.

Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, lực lượng doanh nhân có tinh thần yêu nước, có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm kinh doanh thành thạo; không ngừng đổi mới và sáng tạo, mạnh dạn vận dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ, của khoa học tổ chức và quản lý tiên tiến.

Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý Nhà nước có phẩm chất chính trị, có tâm đức trong sáng, có trách nhiệm trước dân, có năng lực, trí tuệ và nhiệt tình cách mạng cao. Có chính sách thỏa đáng để không ngừng nâng cao trình độ, năng lực tổ chức thực hiện và tăng thu nhập cho cán bộ.

*

* *

Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VIII ý thức sâu sắc trách nhiệm đối với nhân dân Thành phố, với khu vực và cả nước. Với truyền thống cách mạng, đoàn kết, năng động, sáng tạo, Đảng bộ Thành phố quyết tâm khắc phục những yếu kém, khuyết điểm; xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân, phát huy dân chủ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, mục tiêu Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VIII đề ra, mãi mãi xứng đáng Thành phố mang tên Bác Hồ vĩ đại - Thành phố Anh hùng.

Thông báo