Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh khóa IV - Phần thứ II

PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ CHỦ YẾU TRONG 5 NĂM 1991 – 1995

Nghị quyết Đại hội VII đã chỉ rõ, chúng ta bước vào kế hoạch 5 năm 91 – 95 trong bối cảnh quốc tế có những thay đổi lớn mà thành phố là địa bàn chịu sự tác động rất sâu sắc. Sự biến động ? Liên Xô đã ảnh hưởng rất mạnh đến tình hình chính trị, tư tưởng và kinh tế - xã hội nước ta. Bối cảnh đó đã khuyến khích các thế lực thù địch tăng cường âm mưu gây sức ép nhằm lật đổ ở Việt Nam.

Trong tình hình kinh tế của nước ta chưa ổn định, một số nước mưu toan kéo dài bao vây kinh tế nhằm làm chúng ta kiệt quệ. Từ đó, chúng kích động sự chia rẽ, chống đối trong nội bộ, tạo điều kiện gây biến động chính trị, lấy thành phố làm trọng điểm. Sau Đại hội VII, tình hình diễn biến đặc biệt nghiêm trọng, đòi hỏi một nhận thức thật sáng suốt, tỉnh táo đầy dũng khí và quyết tâm để đủ sức vượt qua chặng đường sắp tới, nhất là 2 năm 1992 – 1993.

Tuy nhiên, chúng ta cũng có những nhân tố mới: quan hệ Việt Nam – Trung Quốc dần dần được khôi phục bình thường, khu vực Đông Nam Á, Thái Bình Dương là địa bàn sôi động, nếu biết vận dụng tốt quan hệ hợp tác và hữu nghị đã có thì sẽ có lợi cho đất nước, mở ra triển vọng tích cực tăng cường giao lưu kinh tế - văn hoá với khu vực, thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa trong nước phát triển, tránh được thế bị động trở thành thị trường tiêu thụ hàng nước ngoài. Bên cạnh đó, những thành tựu và kinh nghiệm trong công cuộc đổi mới những năm qua, cùng với tiềm năng và thế mạnh của thành phố, là những nhân tố cực kỳ quan trọng cho hướng phát triển sắp tới:

  • Thành phố là địa bàn trung tâm khu vực (như NQ.01/BCT đã khẳng định) có vị trí hội tụ nhiều điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa rất quan trọng; riêng về kinh tế, thành phố là đầu mối giao dịch lớn trong nước và cửa ngõ mở quan hệ với nước ngoài. Khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh – Biên Hòa – Vũng Tàu, cùng với vùng kinh tế Nam Bộ, gắn với thị trường trong cả nước, với thị trường Đông Dương, Đông Nam Á… có triển vọng phát triển nhanh.

  • Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp thành phố, tuy còn phải tiếp tục đổi mới công nghệ, nhưng có khả năng góp phần quan trọng thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn, nhất là hàng tiêu dùng và chế biến hàng xuất khẩu, đồng thời dễ thích ứng và chuyển dịch thuận lợi sang cơ chế mới, công nghệ mới. Tiềm năng về vốn trên địa bàn của các thành phần kinh tế khá lớn, kể cả của đồng bào người Việt ở nước ngoài có thân nhân tại thành phố. Thành phố có vùng nông thôn ngoại thành phong phú, đa dạng về sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, có thế mạnh về kinh tế biển, hải cảng, gắn với vùng Nam Bộ có nguồn nguyên liệu dồi dào, thị trường lớn.

  • Nguồn nhân lực thành phố với dân số hơn 4 triệu người, trong đó số lao động chiếm 52%, có tay nghề, năng động, dễ thích nghi với điều kiện mới, có quan hệ nhiều mặt với Việt kiều và thị trường nước ngoài, lực lượng khoa học, kỹ thuật khá đông đảo.

  • Nhân dân thành phố có truyền thống yêu nước, có tinh thần cách mạng quật cường, Đảng bộ thành phố được thử thách trong chiến đấu vũ trang, có thêm kiến thức và kinh nghiệm trong đấu tranh trên trận địa kinh tế gay gắt, phức tạp và đối mặt với kẻ thù thâm độc trong âm mưu diễn biến hòa bình.

Với tiềm năng và thế mạnh như trên, với đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, kết hợp với vận hội mới trong quan hệ quốc tế, thành phố sẽ ra sức phấn đấu để cùng cả nước vượt ra khỏi khủng hoảng hiện nay. Căn cứ vào nhiệm vụ chung của cả nước, thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội VII, căn cứ vào đặc điểm của địa phương, nhiệm vụ mục tiêu tổng quát 5 năm tới của thành phố là:

Giữ vững ổn định chính trị, phát huy cao nhất tiềm năng về con người và nguồn lực của thành phố, tập trung sức chấn chỉnh, ổn định và phát triển sản xuất công – nông nghiệp, thương mại dịch vụ, tạo tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở đổi mới toàn diện, có bước đi vững chắc, phát huy dân chủ, chỉnh đốn Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng, làm tốt vai trò trung tâm của thành phố, tích cực góp phần cùng cả nước phấn đấu thoát dần ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu tổng quát trên đây, cần tập trung vào những giải pháp lớn:

1/ Về kinh tế, tập trung 4 biện pháp:

  • Mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước, huy động mọi nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, nhất là sản xuất công nghiệp hướng về xuất khẩu và đáp ứng được những nhu cầu trong nước với số lượng, chất lượng ngày càng tăng, mẫu mã ngày càng cải tiến.

  • Kiến nghị với Trung ương và trong quyền hạn của thành phố, ban hành ngay những chính sách đòn bẩy, tạo động lực cho người lao động, chính sách về tài chính, thuế, tiền tệ, bổ sung luật cần thiết để triển khai nhanh luật đầu tư đã ban hành, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cơ bản lâu dài theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

  • Cấp bách duy tu bảo dưỡng cầu đường, chống xuống cấp cơ sở hạ tầng, phát triển, hiện đại hoá từng phần, nhất là các ngành năng lượng, giao thông vận tải, bưu điện thông tin, cấp thoát nước.

  • Nghiên cứu ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới, nhanh chóng chuyển đổi thiết bị máy móc theo hướng hiện đại hoá. Đưa khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

Các biện pháp đồng bộ về kinh tế phải nhằm phát huy hết mức vai trò vị trí trung tâm kinh tế khu vực của thành phố, tạo sự chuyển biến rõ nét của nền kinh tế thành phố và khu vực trong vài ba năm trước mắt, tạo tiền đề để đưa thành phố cùng cả nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.

2/ Song song với các biện pháp tích cực làm chuyển biến tình hình kinh tế, kiến nghị và cùng với Trung ương thực hiện giải quyết việc làm, xây dựng cơ chế tiền lương, với mục đích chăm lo cho con người, thực hiện dân chủ và phấn đấu cho công bằng xã hội theo quan điểm của Đảng. Đây là vấn đề phải thể hiện bằng chính sách, chủ trương cụ thể, thiết thực có hiệu quả, tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân có công ăn việc làm, có đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá ngày một tốt hơn. Đó là vấn đề bức bách hàng đầu của các hoạt động sắp tới của Đảng bộ và chính quyền thành phố.

3/ Kiện toàn hệ thống chính trị mà thực chất là phát huy dân chủ; đổi mới mạnh mẽ hoạt động của các đoàn thể quần chúng gắn liền với hệ thống các cơ quan dân cử, làm cho các thành phần xã hội thực sự tham gia vào việc quản lý nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là sức mạnh quan trọng trong công cuộc quản lý quốc gia. Kiến nghị và cùng với Trung ương hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế trên địa bàn thành phố để bảo đảm quản lý đô thị, quản lý kinh tế - xã hội bằng luật pháp; trên cơ sở chăm lo và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, chống tệ quan liêu, hành vi tùy tiện xâm phạm lợi ích của nhân dân. Không ngừng nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng, không ngừng củng cố mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân thành phố.

4/ Căn cứ vào mục tiêu chiến lược là tạo lại lòng tin trong Đảng và trong nhân dân, công tác chỉnh đốn Đảng phải tập trung chống tệ tham nhũng, bố trí lại cán bộ có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất và đạo đức, có kiến thức và tài năng ở các vị trí chủ chốt; đồng thời tiến hành củng cố cơ sở đảng để có đủ khả năng tổ chức thực hiện được nhiệm vụ chính trị của cơ sở, phát hiện và loại trừ bọn cơ hội, tham nhũng ra khỏi bộ máy Đảng và chính quyền.

MỤC TIÊU VÀ BIỆN PHÁP TRÊN TỪNG LĨNH VỰC

I. VỀ KINH TẾ

Phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên cơ sở mở rộng thị trường trong và ngoài nước; kết hợp các cơ sở trung ương và địa phương trên địa bàn nhằm tận dụng tiềm năng, thế mạnh sẵn có, đảm bảo tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm thấp nhất là 6,3% - 8,5%. Tập trung vào các ngành có điều kiện phát triển mạnh và có hiệu quả cao.

+ Sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, đặc biệt là công nghiệp chế biến nâng cao giá trị nông, lâm, hải sản xuất khẩu, ngành dệt, may, điện tử, nhựa, cao su, mỹ phẩm… Quan tâm phát triển gia công xuất khẩu thu hút nhiều lao động.

+ Một số ngành công nghiệp tư liệu sản xuất, trước hết là cơ khí phục vụ sản xuất nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng, phục vụ vận tải… Hợp tác với nước ngoài vừa lắp ráp vừa sản xuất từng phần thiết bị, máy móc (động cơ, máy kéo, máy xay xát, xe máy, ô tô…), chú trọng các thiết bị máy chuyên dùng, từng bước phát triển ngành cơ khí chính xác.

+ Công nghiệp xây cất, vật liệu xây dựng và trang trí, chú ý mặt hàng cao cấp đáp ứng nhu cầu kiến trúc mới.

+ Xây dựng, mở rộng công nghệ dịch vụ (sửa chữa tàu, hậu cần cho khai thác và chế biến dầu khí, hàng không, bưu điện, viễn thông…).

+ Hiện đại hoá từng phần công nghiệp bao bì chất lượng cao, công nghiệp in, văn phòng phẩm, văn hoá phẩm, công nghiệp dược phẩm.

+ Tập trung nghiên cứu và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sớm triển khai xây dựng các khu công nghiệp tập trung (Tân Thuận, Linh Xuân, Gò Vấp, Cát Lái,…).

Phát triển nông nghiệp ngoại thành theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn với thế mạnh khoa học, kỹ thuật của thành phố, đẩy mạnh công nghệ sinh học, tạo các loại giống cây con có năng suất cao, những sản phẩm có giá trị kinh tế và hiệu quả lớn; cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và một phần sản phẩm, trước hết là thực phẩm tươi sống cho thành phố. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm thấp nhất là 3,5 – 4,5%.

Hình thành các vùng chuyên canh có quy mô phù hợp với điều kiện tự nhiên, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư, nhiều lao động, gắn với thị trường và chế biến xuất khẩu. Phát huy lợi thế về giống, phục hồi và phát triển đàn heo, gà công nghiệp, bò sữa, đưa chăn nuôi thành thế mạnh của ngoại thành và vùng ven đô thị. Mở rộng diện tích nuôi và đánh bắt thủy sản, quan tâm khai thác kinh tế biển. Phát triển, bảo vệ rừng tập trung và trồng cây phân tán, rừng phòng hộ Duyên Hải để bảo vệ sinh thái.

Khai thác thế mạnh công nghiệp, khoa học, kỹ thuật của thành phố để nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị nông sản hàng hoá. Phát triển sự liên kết giữa nội thành với ngoại thành, gắn công nghiệp với nông nghiệp từ khâu chuẩn bị sản xuất, quá trình sản xuất và chế biến. Chú trọng công tác cung ứng vật tư nông nghiệp, phòng trừ dịch bệnh, sửa chữa, bảo trì công cục sản xuất.

Có chính sách phù hợp khuyến khích các hộ nông dân, tư nhân, công ty nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh nông nghiệp. Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trước hết là thủy lợi, đường sá, điện, nước, thông tin liên lạc, trường học, bệnh viện… Quản lý chặt chẽ đất canh tác, triệt để tiết kiệm đất xây dựng cơ bản, cải tạo các cụm dân cư, xây dựng các cụm kinh tế - kỹ thuật, các mô hình khuyến nông, định rõ các vùng sẽ đô thị hoá… theo quy hoạch tổng mặt bằng. Tập trung giải quyết tình trạng tranh chấp ruộng đất và cấp giấy chứng nhậnq uyền sử dụng đất đai để nông dân yên tâm sản xuất. Kiến nghị Trung ương có chính sách tiêu thụ và trợ giá một số sản phẩm nông nghiệp.

Thương mại dịch vụ: xác định và phát triển các yếu tố của thị trường: hàng hoá, dịch vụ, tiền tệ và vốn, sức lao động, khoa học và chuyển giao công nghệ. Tổ chức các trung tâm nghiên cứu, thông tin và dự báo thị trường, nâng cao khả năng tiếp thị của từng cơ sở sản xuất, kinh doanh. Đề ra các biện pháp bảo hộ hàng nội địa, chống hàng nhập lậu, hàng giả, đưa các hoạt động thị trường vào nền nếp, kỷ cương. Phối hợp với các tỉnh tổ chức tốt mối giao lưu nông sản phẩm hàng hoá trong khu vực để tạo thị trường có sức mua lớn ở nông thôn cho sản phẩm công nghiệp thành phố. Mở rộng và từng bước hòa nhập vào các thị trường thế giới, nhất là thị trường châu Á – Thái Bình Dương.

Sắp xếp, củng cố thương nghiệp quốc doanh đủ sức nắm bán buôn một số mặt hàng thiết yếu, có lực lượng hàng hoá dự trữ để góp phần điều tiết thị trường, ổn định giá cả. Phát triển hình thức công ty cổ phần thương nghiệp quốc doanh; củng cố hệ thống hợp tác xã mua bán phù hợp nhu cầu của các khu vực dân cư. Khôi phục và tổ chức tốt các trung tâm bán buôn lớn, các chợ đầu mối.

Nâng cao trình độ tinh chế xuất khẩu, giảm đáng kể xuất khẩu sản phẩm dạng nguyên liệu, mở rộng gia công chế biến xuất khẩu. Nhập khẩu phải nhằm phục vụ sản xuất trong nước phát triển. Tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu trực tiếp quan hệ với thị trường nước ngoài. Sắp xếp hợp lý các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, xây dựng một số công ty chuyên doanh mạnh, có hiệu quả cao. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của xuất khẩu thấp nhất là 16 – 21%. Đến năm 1995, xuất khẩu đạt 910 – 1.120 triệu USD, nhập khẩu 730 – 936 triệu USD.

Trong hợp tác đầu tư phải bỏ các thủ tục quan liêu, nhằm tạo thuận lợi thu hút nguồn vốn nước ngoài. Chuẩn bị tốt các danh mục và dự án để chủ động gọi đầu tư của nước ngoài theo định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Phát triển và tập trung quản lý tốt dịch vụ đối ngoại theo hướng mở rộng du lịch theo đà phát triển các quan hệ quốc tế mới, phát triển dịch vụ sân bay, bến cảng, kiều hối, sửa chữa và cung ứng tàu biển, cung ứng hàng không, liên lạc viễn thông, dịch vụ dầu khí…

Phát triển nhanh các dịch vụ khoa học và chuyển giao công nghệ, vận tải, xuất khẩu lao động và chuyên gia, dịch vụ đầu tư, pháp lý, thông tin kinh tế… phục vụ cho chương trình phát triển sản xuất công – nông nghiệp của thành phố và khu vực.

Đổi mới hoạt động tài chính, ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường. Chỉ đạo tốt công ty tài chính để quản lý và sử dụng vốn, hướng dẫn đầu tư đúng hướng, đạt hiệu quả cao. Nâng cao chất lượng hoạt động của các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, mở rộng từng bước vững chắc các ngân hàng cổ phần và liên doanh theo Pháp lệnh ngân hàng. Tiến hành thí điểm và mở rộng dần thị trường hối đoái, thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Kiến nghị Trung ương đổi mới đồng bộ chính sách thuế, khắc phục tình trạng thu không hợp lý không công bằng, đồng thời có biện pháp hạn chế thất thu. Chỉ đạo áp dụng chế độ kế toán thống nhất theo pháp lệnh đối với các thành phần kinh tế, qua đó, thực hiện có hiệu quả sự kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước. Kiến nghị Trung ương sửa đổi chế độ phân cấp quản lý ngân sách và ổn định tỷ lệ điều tiết ngân sách cho thành phố, để trên cơ sở đó ổn định tỷ lệ điều tiết ngân sách đối với các quận, huyện để chủ động kế hoạch thu, chi. Giải tỏa nhanh các nguồn tài sản của Nhà nước đang bị chiếm dụng hoặc sử dụng không hợp lý. Vận động phong trào tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh và trong tiêu dùng. Dự kiến mức tích lũy từ nội bộ nền kinh tế thời kỳ 1991 – 1995 thấp nhất là 15 – 17% thu nhập quốc dân sử dụng.

Khai thác tốt mọi nguồn vốn đầu tư là vấn đề có ý nghĩa rất lớn. Ngoài vốn ngân sách, cần phải vận dụng hình thức tư bản nhà nước và có cơ chế, chính sách hấp dẫn thu hút vốn nước ngoài, vốn tự có của các đơn vị cơ sở, vốn của nhân dân trong và ngoài thành phố. Tập trung vốn ngân sách cho cơ sở hạ tầng sản xuất và xã hội. Xóa bao cấp về vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, kể cả bao cấp qua tín dụng, đồng thời có quy chế bảo toàn vốn đối với các đơn vị kinh tế quốc doanh và bảo hiểm huy động vốn của nhân dân.

Tập trung khắc phục tình trạng xuống cấp của hệ thống kết cấu hạ tầng, trước mắt là sửa chữa cầu đường, mở rộng và từng bước hiện đại hoá một số công trình trọng điểm. Cải tiến giao thông nội thị, thông thoát những giao lộ, các tuyến xuyên thành phố bằng cách gọi đấu thầu kinh doanh các tuyến đường và đa dạng hóa các hình thức sở hữu phương tiện vận chuyển, kể cả vận chuyển công cộng. Tìm nguồn đầu tư xây dựng đường bắc Nhà Bè, mở rộng cảng Bến Nghé; cải tạo và mở rộng một số cảng sông; củng cố vận tải biển. Quan tâm phát trển kinh doanh địa ốc.

Kiến nghị Trung ương bảo đảm sản lượng điện cho thành phố; khẩn trương cải tạo mạng lưới điện. Xây dựng nhà máy nước mới, cải tạo hệ thống ống nước. Giải quyết nước ngọt cho huyện Duyên Hải, nam Nhà Bè, nam Bình Chánh, các quận ven.

Phát triển và hiện đại hóa bưu điện, mở thêm các nghiệp vụ mới, bảo đảm thông tin trong nước và quốc tế thông suốt; xây dựng công nghiệp thiết bị bưu chính, viễn thông phục vụ cho mạng lưới thành phố và khu vực.

Từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý. Sự phát triển của các ngành kinh tế dựa trên cơ sở vị trí, tiềm năng, thế mạnh của thành phố, gắn liền với cơ cấu kinh tế tương đối hoàn chỉnh của vùng Nam bộ, mà cốt lõi là khu vực kinh tế thành phố Hồ Chí Minh – Biên Hòa – Vũng Tàu, trong đó thành phố giữ vai trò trung tâm công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thương mại dịch vụ, khoa học - kỹ thuật, văn hoá. Cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố chủ yếu là công nghiệp, thương mại - dịch vụ và chuyển dịch theo hướng:

  • Công nghiệp tiến nhanh vào kỹ thuật và công nghệ hiện đại, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất.

  • Thương mại dịch vụ, trước hết là kinh tế đối ngoại được mở rộng, đa dạng hoá và chiếm tỷ trọng ngày càng cao, phù hợp với sự phát triển của một đô thị lớn, trung tâm của vùng.

  • Khôi phục, mở rộng và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đô thị và xã hội.

  • Phát triển nông nghiệp theo hướng thâm canh gắn liền với công nghiệp chế biến, có sản phẩm và tỷ trọng hàng hoá phù hợp với đặc điểm ngoại thành của một trung tâm công nghiệp, khoa học và kỹ thuật.

Về cơ cấu công nghệ, cần sử dụng linh hoạt các loại hình và trình độ công nghệ, từng bước vươn lên trình độ tiên tiến, hiện đại trước hết đối với các lĩnh vực mũi nhọn, như: điện tử, tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới.

Về quy mô, chủ yếu là vừa và nhỏ nhưng có sự phân công và hợp tác đồng bộ để bảo đảm hiệu quả và có nhiều hàng hoá chất lượng cao, mẫu mã đẹp.

Về cơ cấu thành phần kinh tế, phương hướng chung là khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển đồng thời sắp xếp, củng cố kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, thực hiện quản lý theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh theo hướng lấy hiệu quả (tính trên phạm vi toàn xã hội) làm biện pháp chủ yếu. Xác định rõ những ngành và lĩnh vực Nhà nước cần quản lý trực tiếp, các hoạt động cần thiết cho xã hội mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn kinh doanh để tập trung vốn đầu tư.

Nghiên cứu vận dụng các chính sách để xây dựng kinh tế tư bản nhà nước với quy mô và tốc độ phát triển nhanh; phát huy các hình thức hợp tác liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với các thành phần kinh tế khác. Cổ phần hoá một số xí nghiệp quốc doanh theo Luật doanh nghiệp và Luật công ty. Hình thành các tập đoàn sản xuất, kinh doanh lớn do quốc doanh chi phối để tạo sức mạnh mới, phát triển nhanh lực lượng sản xuất.

Tổ chức lại và tạo điều kiện cho kinh tế tập thể phát triển theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, với những hình thức và quy mô thích hợp, làm ăn có hiệu quả thiết thực. Khuyến khích các hình thức hợp tác cung ứng dịch vụ, hợp tác từng phần trong sản xuất nông nghiệp; tổng kết và nhân rộng kinh nghiệm các hợp tác xã sản xuất công, nông nghiệp, hợp tác xã mua bán, tín dụng làm ăn có hiệu quả.

Khuyến khích kinh tế cá thể, tư bản tư nhân phát triển đúng luật pháp. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình phát triển mạnh.

Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: Nâng cao trình độ quản lý nhà nước về kinh tế trên địa bàn theo hướng xây dựng chính quyền thành phố vững mạnh, quản lý bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác nhằm tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế hàng hoá phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức tốt dự báo kinh tế - xã hội, xác định định hướng kế hoạch và những cân đối lớn; có chính sách, biện pháp tổ chức theo dõi, kiểm tra thực hiện định hướng và các cân đối đó để kịp thời bổ sung hoặc sửa đổi phù hợp với tình hình thực tế.

Sớm hình thành các công ty, xí nghiệp, các hiệp hội, tập đoàn sản xuất kinh doanh theo ngành hoặc nhóm sản phẩm có mạng lưới trên cả nước hoặc trong từng khu vực, có sự hợp tác, liên kết kinh tế với nước ngoài. Xác định các quy định cần thiết cho việc chuyển hình thức sở hữu, cho thuê hoặc giải thể các đơn vị kinh tế quốc doanh làm ăn thua lỗ kéo dài (có tính đến việc giải quyết các hậu quả về mặt xã hội); giảm các thủ tục rườm rà gây phiền hà trở ngại cho việc đầu tư và phát triển của các thành phần kinh tế nhưng phải xác định đầy đủ các điều kiện cần có và chặt chẽ trong kiểm tra; kiên quyết xử lý những hiện tượng tiêu cực.

Thực hiện các mục tiêu và biện pháp trên, đến năm 1995, tổng sản phẩm xã hội thành phố tăng 33,8% so với năm 1990 (tốc độ tăng trưởng bình quân thấp nhất là 6%); thu nhập quốc dân tăng 37% (tốc độ tăng trưởng bình quân thấp nhất là 6,5%); đưa thu nhập bình quân đầu người (tính theo GDP) năm 1995 bằng 1,5 – 1,6 lần năm 1990. Nếu điều kiện quốc tế thuận lợi, sẽ phấn đấu đạt mức tăng trưởng cao hơn.

II- CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

Việc làm và đời sống: Từ nay đến 1995, mỗi năm phấn đấu giải quyết việc làm cho trên dưới 100 ngàn lao động. Những biện pháp chủ yếu để thu hút lao động là: Có chính sách khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh; mở rộng gia công sản xuất hàng hoá cho nước ngoài; xây dựng các khu công nghiệp ngoại thành và mở rộng đầu tư của nước ngoài vào thành phố; xúc tiến xuất khẩu lao động; mở rộng các dạng hoạt động dịch vụ và phong trào thanh niên xung phong… Nâng cao chất lượng các trường hợp dạy nghề, tạo điều kiện để người lao động tự tạo việc làm; hoàn thiện các trung tâm cung ứng lao động…

Trong các ngành sản xuất, kinh doanh, thực hiện đúng chủ trương trả lương theo năng suất và hiệu quả cuối cùng; phấn đấu phụ cấp lương theo tỷ lệ trượt giá thực tế, trước hết đối với lao động nặng, độc hại; bằng các biện pháp phù hợp, cố gắng tăng thu nhập cho giáo viên, nhân viên y tế, lực lượng vũ trang, diện chính sách và cán bộ hưu trí; từng bước thu hẹp dần số hộ nghèo bằng việc tạo điều kiện vật chất để mở mang sản xuất, làm dịch vụ; mở rộng và quản lý tốt các hoạt động từ thiện để giúp đỡ những người tàn tật, cô đơn, trẻ mồ côi. Vừa nghiên cứu để tiến hành làm thử, vừa kiến nghị với Trung ương sớm cải cách chế độ tiền lương.

Xây dựng các khu gia cư mới, từ nay đến 1995 mỗi năm xây dựng ít nhất 11.000 căn hộ, phấn đấu giải tỏa 1/3 nhà lụp xụp và cải tạo môi trường sống ở các khu vực này (điện nước, đường sá, cống rãnh, chống dột…), sửa chữa các chung cư, cư xá; tạo điều kiện cho nhân dân giải quyết chỗ ở, thực hiện đúng chủ trương hoá giá nhà của Nhà nước; tiếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng nhà tình nghĩa. Bằng những biện pháp tích cực, từng bước đẩy lùi các tệ nạn xã hội như mãi dâm, ma túy, cướp giật, mê tín, dị đoan, người sống vỉa hè, cùi hủi, góp phần làm lành mạnh hoá xã hội.

Y tế: Vận dụng có hiệu quả nội dung Nghị quyết Đại hội VII: “Phát triển các hoạt động y tế bằng khả năng của Nhà nước và của nhân dân theo hướng dự phòng là chính, kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc".

Thực hiện tốt yêu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu, coi trọng y tế cộng đồng; kịp thời phòng, chống các bệnh hiểm nghèo lây lan (sốt xuất huyết, lao, sốt rét, giang mai, sida); xử lý tốt môi sinh như phân, nước, rác, chất thải công nghiệp, vệ sinh thực phẩm. Kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền để nâng cao chất lượng chữa trị; quản lý tốt các cơ sở y tế tư nhân, mua bán thuốc chữa bệnh, nghiêm trị bọn sản xuất và mua bán thuốc giả. Tăng cường cơ sở vật chất cho hoạt động y tế ngoại thành. Quản lý chặt chẽ việc thu viện phí; có chính sách giảm hoặc miễn viện phí cho người nghèo và đối tượng chính sách; thực hiện Luật bảo hiểm y tế. Thực hiện tốt việc bảo vệ bà mẹ và trẻ em và kế hoạch hóa gia đình; khắc phục về cơ bản tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em; đến năm 1995 tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên còn 1,3% (dự kiến đến năm 2000 còn 1,1%). Phối hợp tốt các hoạt động của ngành y tế, Hội Chữ thập đỏ, tổ chức từ thiện… trong việc chăm sóc sức khỏe nhân dân. Mở rộng quan hệ với các tổ chức y tế, từ thiện và cá nhân nước ngoài để góp phần tăng thêm cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng điều trị. Phối hợp với Bộ Y tế sắp xếp và quản lý tốt các xí nghiệp dược phẩm, dược liệu, sản xuất dụng cụ y tế và các tổ chức xuất nhập khẩu thuốc chữa bệnh trên địa bàn thành phố.

Thể dục thể thao: Đẩy mạnh phong trào rèn luyện tập thể trong các tầng lớp nhân dân; nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong trường học; phát hiện và có chính sách bồi dưỡng năng khiếu thể dục thể thao, nâng cao thành tích thi đấu. Tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động thể dục thể thao.

III- VỀ VĂN HOÁ – VĂN NGHỆ - BÁO CHÍ - XUẤT BẢN

Các hoạt động văn hoá – văn nghệ cố gắng đáp ứng nhu cầu về đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân ngày càng đa dạng, phong phú, trước hết là trong thanh thiếu niên. Gắn chặt việc bảo vệ và phát triển văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc với cuộc đấu tranh bài trừ các loại văn hoá – văn nghệ đồi trụy, lai căng, phản động từ nhiều nguồn. Có cơ chế bảo đảm và khuyến khích sáng tác văn học - nghệ thuật theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VII: đổi mới, dân chủ, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động đấu tranh chống tiêu cực, bảo thủ, tham nhũng, đồng thời phê phán nghiêm khắc những hoạt động lợi dụng chủ trương chống tiêu cực để phủ nhận thành quả cách mạng, bôi đen quá khứ, đả kích cán bộ, đảng viên trung kiên, gieo rắc những quan điểm chính trị trái với đường lối, chủ trương của Đảng. Phấn đấu đạt tỷ lệ hợp lý giữa sáng tác và biểu diễn các loại đề tài về truyền thống dân tộc, cách mạng và kháng chiến, về công cuộc đổi mới và đề tài nước ngoài nhằm "hoàn thiện con người, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cao đẹp” của con người Việt Nam. Đẩy mạnh phong trào văn hoá quần chúng; phát động phong trào toàn dân tham gia xây dựng gia đình văn hoá mới, nêu cao vai trò của gia đình trong việc hình thành và phát huy truyền thống văn hoá, đạo đức tốt đẹp của dân tộc, xây dựng lối sống, nếp sống có văn hoá. Kiện toàn các tổ chức làm công tác văn hoá – văn nghệ, trước hết là Sở Văn hoá – thông tin và các đơn vị trực thuộc. Nghiên cứu hình thức, biện pháp tổ chức, cổ vũ phong trào toàn dân bảo vệ và phát triển văn hoá dân tộc. Có chính sách đầu tư, lập quỹ văn hoá, hỗ trợ tài chính cho Hội liên hiệp văn học - nghệ thuật và các Hội chuyên ngành văn học - nghệ thuật.

Xuất phát từ tình hình và nhiệm vụ chính trị hiện nay và sắp tới của thành phố, báo chí cần mở rộng, đa dạng hoá thông tin và thông tin có định hướng nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhận thức đúng đắn kết hợp đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của quần chúng; khắc phục khuynh hướng thương mại trong báo chí; xây dựng quy chế hoạt động, định rõ quyền hạn, trách nhiệm và các mối quan hệ giữa các cơ quan hữu quan phù hợp với Luật báo chí; lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo và bố trí đúng cán bộ làm báo, trước hết là Tổng biên tập, coi trọng bồi dưỡng quan điểm chính trị và nâng cao trình độ nghề nghiệp cho cán bộ làm báo. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần giải quyết tốt những vấn đề về chế độ, chính sách đối với người làm báo; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và phương tiện hành nghề cho báo chí. Tạo điều kiện thuận lợi để Hội Nhà báo phát huy vai trò và chức năng của Hội trong sự nghiệp báo chí.

IV- GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO, KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Quán triệt quan điểm Đại hội VII coi khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, trong 5 năm tới tập trung sức nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo cả về văn hoá, chuyên môn, nghề nghiệp, chính trị - đạo đức và thể chất. Đẩy mạnh xoá mù chữ, trước hết trong thanh, thiếu niên; thực hiện Luật phổ cập giáo dục tiểu học. Mở rộng các trường lớp bồi dưỡng năng khiếu và thực nghiệm; góp phần tổng kết cải cách giáo dục. Củng cố toàn diện các trường lớp nhà trẻ, mẫu giáo, phổ thông, chú ý ngoại thành. Quản lý chặt chẽ các trường bán công, dân lập, bảo đảm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục. Triển khai việc quản lý giáo dục theo hệ thống ngành dọc, có sự phối hợp với cấp ủy và chính quyền trên địa bàn. Xây dựng cơ chế bảo đảm môi trường giáo dục thông qua liên kết giữa nhà trường, gia đình và xã hội trên địa bàn dân cư. Sắp xếp hợp lý và quản lý tốt các trường dạy nghề phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế, bảo đảm chất lượng; cùng các ngành trung ương sắp xếp và tăng cường quản lý các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trên địa bàn; tham gia tổ chức tốt đời sống, học tập và công tác chính trị tư tưởng trong sinh viên, học sinh. Phấn đấu từng bước tăng mức đầu tư cho giáo dục, có biện pháp huy động mọi lực lượng trong nước, ngoài nước hỗ trợ sự nghiệp giáo dục – đào tạo. Quản lý tốt việc thu, miễn giảm học phí và các loại đóng góp khác trong trường học. Mở rộng quỹ bảo trợ "vì nhân tài đất nước". Ủy ban Nhân dân thành phố có biện pháp tăng mức thu nhập cho giáo viên. Coi trọng và đào tạo lại giáo viên, có chính sách ưu đãi về học bổng và phân công công tác khi ra trường để thu hút học sinh giỏi, có đạo đức tốt vào các trường sư phạm.

Khoa học và công nghệ. Nghiên cứu ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới là nhiệm vụ chủ yếu của hoạt động khoa học - kỹ thuật trong thời gian tới. Tiếp tục điều tra, nghiên cứu tổng hợp về tự nhiên, tài nguyên, môi trường, cơ cấu tổ chức sản xuất và tình trạng kỹ thuật… làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và khoa học – công nghệ. Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ về cơ khí, điện tử, tin học, công nghệ sinh học và vật liệu mới… nhằm bảo đảm yêu cầu phát triển sản xuất, tiết kiệm năng lượng, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm; coi trọng nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật phục vụ nông nghiệp. Có cơ chế phối hợp tốt giữa các viện nghiên cứu, các trường đại học trên địa bàn với cơ sở sản xuất để đưa nhanh việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất; có chế độ tiền lương và thưởng xứng đáng, tạo động lực cho hoạt động sáng tạo tổ chức tốt các hoạt động thông tin khoa học kỹ thuật, công tác tiêu chuẩn đo lường và quản lý chất lượng sản phẩm, giữ vững uy tín mặt hàng cả trong và ngoài nước.

Các ngành khoa học xã hội nghiên cứu các vấn đề lịch sử, văn hoá, xã hội, quản lý đô thị của thành phố, nhất là tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quan điểm cơ bản trong Nghị quyết Đại hội VII gắn với thực tiễn thành phố, chú trọng khoa học quản lý, nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định các chính sách kinh tế, văn hoá, xã hội và đổi mới cơ chế quản lý hệ thống hành chính ở thành phố, quản lý kinh tế - xã hội phù hợp với quan điểm Đại hội VII, góp phần phát huy tốt nhất nhân tố con người.

Đoàn kết, tập hợp và phát huy năng lực trí tuệ của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội hoạt động trên địa bàn thành phố, trong nước và trí thức Việt kiều. Sử dụng hợp lý và có hiệu quả kinh phí dành cho hoạt động khoa học. Phát huy vai trò và sử dụng tốt kết quả hoạt động của Hội đồng khoa học - kỹ thuật, Hội đồng khoa học xã hội thành phố.

V- AN NINH VÀ QUỐC PHÒNG

Nhiệm vụ công tác an ninh và quốc phòng của thành phố trong thời gian tới là: chống âm mưu "diễn biến hòa bình" nhằm lật đổ chế độ, bảo đảm ổn định chính trị, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, tích cực phòng ngừa và chủ động tấn công các loại tội phạm. Xây dựng ý thức thường xuyên cảnh giác trong cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố, giữ gìn an ninh nội bộ, bí mật quốc gia, bảo vệ chế độ.

Trong đấu tranh với địch và bọn tội phạm phải theo dõi nắm bắt kịp thời âm mưu thủ đoạn mới của chúng, lấy chủ động ngăn chặn làm chính, nhưng phải tấn công kiên quyết, không khoan nhượng. Tăng cường công tác an ninh kinh tế, đấu tranh bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản công dân. Tất cả các ngành, đơn vị, đặc biệt là các đơn vị có quan hệ với nước ngoài, cần gắn chặt kế hoạch kinh tế - xã hội với kế hoạch an ninh. Các cấp ủy đảng định kỳ kiểm tra công tác an ninh quốc phòng ở đia phương, đơn vị mình. Thành phố có quy chế và nội dung cụ thể kiểm tra việc thực hiện công tác an ninh, phòng gian bảo mật tại các cơ quan, các đơn vị sản xuất kinh doanh. Phát động sâu rộng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng cơ quan xí nghiệp an toàn, phường, xã vững mạnh. Tăng cường biện pháp phòng ngừa, nhất là giải quyết các điểm nóng, các nhân tố dễ gây bùng nổ về chính trị. Tập trung làm chuyển biến các địa bàn trọng điểm. Phối hợp chặt chẽ giữa thành phố và các tỉnh trong đấu tranh chống hoạt động phá hoại của địch và các loại tội phạm.

Xây dựng lực lượng công an theo hướng chính quy, hiện đại, có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất cách mạng, có năng lực chuyên môn giỏi. Rút kinh nghiệm đấu tranh với địch để nâng cao trình độ nghiệp vụ, rèn luyện những lực lượng chính trị và chuyên môn sâu đáp ứng mọi yêu cầu về an ninh. Chăm sóc đời sống tinh thần và vật chất cho công an. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo đảm cho công an đủ sức hoạt động có hiệu quả. Củng cố và tăng cường lực lượng công an phường, xã nhất là các khu vực trọng điểm.

Nhiệm vụ quốc phòng của thành phố là: gắn liền nhiệm vụ chống bạo loạn lật đổ, bảo vệ chế độ với nhiệm vụ chống chiến tranh xâm lược bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân chất lượng ngày càng cao. Xây dựng các khu vực phòng thủ của thành phố ngày càng vững chắc trong thế trận chiến tranh nhân dân. Tăng cường công tác giáo dục quốc phòng cho nhân dân, trước hết cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên các cấp. Bảo đảm phương án sẵn sàng chiến đấu cao. Gắn kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với quy hoạch phòng thủ bảo vệ thành phố. Xây dựng lực lượng thường trực với quân số hợp lý theo hướng chính quy, từng bước hiện đại, tinh nhuệ. Chú ý xây dựng lực lượng bộ đội biên phòng đủ sức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ bờ biển và vùng biển Duyên Hải. Củng cố lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ, chăm sóc đời sống tinh thần, vật chất cho bộ đội, thực hiệntốt hơn nữa chính sách hậu phương quân đội.

Có nghị quyết riêng của Ban Chấp hành về công tác an ninh và quốc phòng trong tình hình mới.

VI- ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ NƯỚC

Đổi mới hoạt động của Nhà nước nhằm tiếp tục hoàn chỉnh thiết chế dân chủ và công bằng xã hội, đủ trình độ và năng lực quản lý đô thị toàn diện. Mọi hoạt động điều hành của Nhà nước phải chủ yếu bằng pháp luật, với một đội ngũ cán bộ có phẩm chất, có năng lực chuyên môn sâu, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Có quy chế bảo đảm các khâu: điều hành, kiểm tra, giám sát các hoạt động xã hội cũng như hoạt động của bản thân bộ máy nhà nước.

Để đạt yêu cầu trên, cần thực hiện đầy đủ vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp. Đổi mới nhân sự Hội đồng nhân dân các cấp theo hướng tăng cường số lượng đại biểu đại diện cho các đoàn thể, Mặt trận, các tầng lớp quần chúng.

Sớm ban hành quy chế phân định rõ quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị cơ sở theo hướng Ủy ban Nhân dân các cấp và các cơ quan chức năng điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, các biện pháp hành chính, kinh tế, giáo dục và sử dụng các chính sách đòn bẩy nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng kế hoạch của Nhà nước. Nghiên cứu hình thức tổ chức để thực hiện vai trò chủ sở hữu, phát huy hiệu quả sử dụng tài sản, vốn liếng của Nhà nước. Giao việc điều hành sản xuất, kinh doanh cho các Hội đồng quản trị, các giám đốc cơ sở kinh tế, nhằm xác định rõ trách nhiệm trong quản lý, sử dụng tài sản, vốn được giao. Phấn đấu đến cuối năm 1992 hoàn tất việc tách hai chức năng quản lý ở tất cả các sở, ban, ngành.

Xây dựng đề án đổi mới cơ chế quản lý nhà nước trên địa bàn thành phố làm cơ sở để tiếp tục tổ chức lại bộ máy, phân bổ cán bộ, biên chế của các sở, ban, ngành, quận, huyện; đồng thời xác định lại chức năng nhiệm vụ, trách nhiệm của từng bộ phận, từng cơ quan, từng chức danh trong các cơ quan và các mối quan hệ trong hoạt động quản lý căn cứ vào đặc điểm và hướng phát triển của thành phố sắp tới.

Đào tạo, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ hành chính, tiến hành định biên theo nhiệm vụ của từng đơn vị trong bộ máy đổi mới.

Tiếp tục cải tiến thủ tục hành chính ở Ủy ban Nhân dân các cấp và các ngành, sở, phòng, ban có quan hệ trực tiếp với dân, xây dựng quy chế làm việc khoa học, quy trình ra quyết định, chế độ trách nhiệm của từng cơ quan, từng cán bộ trong khi thi hành nhiệm vụ.

Nghiên cứu xác định vị trí, chức năng cấp quận, huyện theo hướng bảo đảm hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội, phát huy tiềm năng địa phương, trên cơ sở đó tiếp tục sắp xếp, củng cố bộ máy quận, huyện, phường, xã. Trước mắt ổn định chức năng, nhiệm vụ cấp quận, huyện là cấp có kế hoạch và ngân sách.

Tiếp tục kiện toàn các cơ quan tòa án, kiểm sát, thanh tra theo hướng tăng cường cán bộ, quan tâm công tác chính trị tư tưởng, bồi dưỡng nghiệp vụ, trang bị phương tiện khoa học - kỹ thuật và có quy chế làm việc giữa cấp ủy và các ngành nội chính. Trong khi chờ Quốc hội hoàn chỉnh các bộ luật, Hội đồng nhân dân, Ủy ban Nhân dân cần xây dựng và ban hành các quy chế, các văn bản pháp quy về quyền và nghĩa vụ của người dân ở địa phương, về các hoạt động ở địa bàn thành phố, thể hiện quyền dân chủ, quyền tự do công dân và công bằng xã hội, phù hợp với Hiến pháp và các đạo luật đã ban hành.

VII- ĐỔI MỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG

Mục tiêu công tác vận động quần chúng trong 5 năm tới là: trên cơ sở tăng cường khối liên minh công nhân – nông dân – trí thức, không ngừng mở rộng khối đoàn kết dân tộc, động viên các tầng lớp đồng bào thành phố, các tôn giáo và dân tộc ra sức giữ vững ổn định chính trị, xây dựng thành phố giàu mạnh, phát động phong trào quần chúng thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng và Đại hội V Đảng bộ thành phố.

Để thực hiện mục tiêu đó, cần làm tốt những công tác lớn sau đây:

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Mặt trận và vận động quần chúng.

Các cấp ủy đảng tiếp tục quán triệt Nghị quyết 8 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI), nắm sát tình hình quần chúng để đề ra nghị quyết về công tác vận động quần chúng của đảng bộ; có chương trình kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết; định kỳ làm việc với Ủy ban Mặt trận và Ban Chấp hành các đoàn thể; bố trí đảng viên có năng lực, nhiệt tình và uy tín tham gia hoạt động đoàn thể. Cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành phải thường xuyên tiếp xúc, lắng nghe và đối thoại với quần chúng… để hiểu được tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, từ đó có chủ trương công tác phù hợp.

Kiện toàn ban Dân vận Thành ủy, nâng cao chất lượng hoạt động của các Đảng đoàn trong Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội.

Các tổ chức đảng cơ sở phải lấy công tác vận động quần chúng và chăm lo lợi ích của quần chúng làm nội dung cơ bản trong hoạt động của mình. Phân công cấp ủy viên và đảng viên làm công tác quần chúng; nghe đảng viên phản ảnh tình hình quần chúng và hoạt động của các đoàn thể để có chủ trương sát hợp nhằm giải quyết những vấn đề do quần chúng và các đoàn thể đặt ra.

Tổ chức đảng ở phường, xã, quận, huyện cần huy động các đồng chí cách mạng lão thành, cán bộ hưu trí, cựu chiến binh… tham gia công tác vận động quần chúng, nhất là công tác giáo dục thanh, thiếu niên.

Phát huy vai trò của chính quyền các cấp trong công tác vận động quần chúng:

  • Một mặt, Mặt trận và các đoàn thể tham gia tích cực hoạt động của Hội đồng Nhân dân các cấp thông qua đại biểu của mình trong cơ quan dân cử; mặt khác, Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân phải chủ động phối hợp với Ủy ban Mặt trận và Ban Chấp hành các đoàn thể xây dựng quy chế về vai trò và trách nhiệm của Mặt trận, các đoàn thể và quần chúng tham gia công việc quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

  • Ủy ban Nhân dân các cấp cần có sự phối hợp, tham khảo ý kiến của các đoàn thể và Mặt trận trước khi ban hành những chủ trương công tác có liên quan đến việc làm ăn và đời sống của quần chúng. Ủy ban Nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố cần tổ chức tốt cho nhân dân tham gia xây dựng Hiến pháp, các dự luật quan trọng và những chủ trương, chính sách có quan hệ đến lợi ích của quần chúng.

Tổ chức chu đáo công tác tiếp dân, kịp thời giải quyết các khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Những ý kiến của cử tri phản ánh cho đại biểu Hội đồng Nhân dân phải được nghiên cứu, xem xét giải quyết và trả lời đầy đủ, đúng thời gian luật định.

Bổ sung các quy chế về thái độ và trách nhiệm của nhân viên nhà nước trong quan hệ làm việc với dân, đồng thời kiểm tra chặt chẽ, nghiêm túc việc chấp hành quy chế. Kiên quyết xử lý những cán bộ, nhân viên nhà nước ăn hối lộ, quan liêu, hách dịch, ức hiếp dân. Trong hai năm 1992-1993 phải đưa chế độ hành chính nhà nước vào nền nếp, làm chuyển biến rõ nét phong cách làm việc ở hầu hết các cơ quan chính quyền, từ Ủy ban Nhân dân các cấp đến các ngành chức năng.

Ủy ban Nhân dân các cấp vừa có trách nhiệm hỗ trợ tài chính và phương tiện làm việc cho Mặt trận và các đoàn thể; vừa tạo điều kiện thuận lợi để đoàn thể tổ chức sản xuất, kinh doanh theo đúng luật pháp nhằm bổ sung nguồn kinh phí hoạt động.

Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể và tổ chức xã hội.

Căn cứ vào Nghị quyết của Đảng và tình hình thực tế của từng đoàn thể và quyền lợi, nguyện vọng chính đáng của quần chúng hội viên, Ủy ban Mặt trận và Ban Chấp hành các đoàn thể xây dựng chương trình hành động thiết thực, tổ chức và phát động phong trào quần chúng hành động cách mạng thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế xã hội, bảo vệ văn hoá dân tộc, đẩy mạnh công tác xã hội, đáp ứng những yêu cầu bức xúc của nhân dân lao động về việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội.

Thông qua phong trào hành động cách mạng của quần chúng và những hoạt động đáp ứng lợi ích thiết thân của quần chúng mà giáo dục đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, nâng cao tính tự giác và tính tích cực xã hội cho quần chúng. Thông qua giáo dục truyền thống cách mạng, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc, ý chí độc lập tự chủ, tinh thần tự lực, tự cường; các đoàn thể cần coi trọng giáo dục ý thức trách nhiệm về nghĩa vụ công dân cho đoàn viên, hội viên.

Các đoàn thể có kế hoạch củng cố tổ chức cơ sở, hướng dẫn sinh hoạt đoàn thể có nội dung thiết thực, bổ ích, làm cơ sở gắn bó hội viên, đoàn viên với tổ chức. Mặt khác, cần sáng tạo nhiều hình thức tập hợp quần chúng gắn với nhu cầu, sở thích, nghề nghiệp và sự phát triển của các thành phần kinh tế, theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự trang trải kinh phí hoạt động. Xây dựng nòng cốt, làm hạt nhân cho hoạt động của các tổ chức đó. Mặt trận và các đoàn thể có kế hoạch tăng cường công tác vận động tôn giáo và người Hoa phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới.

Trên cơ sở thu thập ý kiến của quần chúng, Ủy ban Mặt trận và Ban Chấp hành các đoàn thể có trách nhiệm xem xét giới thiệu những người có đủ tiêu chuẩn, tiêu biểu cho lợi ích chính đáng của quần chúng ứng cử vào các cơ quan dân cử. Từ việc tập hợp ý kiến, nguyện vọng của quần chúng, các đoàn thể cần đề xuất với Đảng những chủ trương công tác và kiến nghị với Nhà nước sửa đổi, bổ sung những chính sách đã có, hoặc ban hành những chính sách mới đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của quần chúng. Các đoàn thể có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện các đạo luật và chính sách có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của đoàn viên, hội viên.

Cần đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể theo hướng gắn với quần chúng, sâu sát cơ sở. Trong thời gian tới, cần lấy việc xây dựng, củng cố các tổ chức quần chúng cơ sở, giải quyết những vấn đề bức xúc do cơ sở và đoàn viên, hội viên đặt ra làm nội dung hoạt động chủ yếu của đoàn thể các cấp.

Bộ máy của Ủy ban Mặt trận và các đoàn thể các cấp phải gọn nhẹ, có hiệu lực. Phải có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn thể cả về năng lực, phẩm chất và được tín nhiệm của đoàn viên, hội viên; cấp ủy đảng, chính quyền và bản thân đoàn thể có biện pháp chăm lo đời sống cho cán bộ đoàn thể.

VIII- CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG

Để thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VII; khắc phục các mặt yếu kém, nâng cao năng lực và sức chiến đấu, khôi phục uy tín của Đảng.

Phương hướng cơ bản trong công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ thành phố trong thời gian tới là: nhanh chóng tự đổi mới và tự chỉnh đốn nhằm xây dựng Đảng bộ vững vàng về chính trị; có đủ trí tuệ và năng lực lãnh đạo; có phẩm chất và đạo đức trong sáng; có liên hệ mật thiết với quần chúng; đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ và đoàn kết các tầng lớp nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VII; làm cho Đảng bộ thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của thành phố.

Trên cơ sở phương hướng cơ bản đó, trong 5 năm tới, Đảng bộ cần tập trung thực hiện 5 nhiệm vụ cụ thể sau đây:

1/ Kiên quyết làm trong sạch Đảng về chính trị và phẩm chất, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên.

Trên cơ sở học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ nhận thức lý luận Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt Nghị quyết Đại hội VII của Đảng mà phê phán, khắc phục những nhận thức mơ hồ, lệch lạc về quan điểm chính trị, sự dao động về mục tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa; kiên quyết đấu tranh vạch trần bản chất phản động của bọn cơ hội, phê phán những quan điểm và hành động trái với đường lối, chính sách của Đảng, nhằm bảo đảm sự nhất trí cao về chính trị, thực hiện đúng đắn đường lối chính sách của Đảng.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 11, tăng cường các hoạt động kiểm tra, thanh tra nhằm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới bài trừ những hiện tượng tiêu cực, trước hết là tệ tham nhũng của cán bộ, đảng viên, tập trung vào một số đối tượng và trọng điểm. Cần phát hiện và đưa ngay ra khỏi Đảng những phần tử tham ô, hối lộ, ăn cắp của công gây hậu quả nghiêm trọng. Cuộc đấu tranh này không chỉ có ý nghĩa về mặt giáo dục nâng cao phẩm chất, đạo đức, mà còn có ý nghĩa chính trị nhằm khôi phục, củng cố lòng tin của đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng đối với Đảng.

Các cấp bộ Đảng, nhất là các tổ chức cơ sở đảng, phối hợp với cơ quan quản lý cán bộ, có kế hoạch và biện pháp tăng cường giáo dục, quản lý, phân công công tác thích hợp, kiểm tra công tác đối với mọi đảng viên, nhất là các đảng viên là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý. Mỗi đảng viên, dù ở cương vị nào, cũng phải chịu sự quản lý của chi bộ, tổ chức cơ sở đảng và cấp ủy quản lý cán bộ.

Mỗi đảng viên phải tự giác xây dựng chương trình học tập, rèn luyện tự phê bình (có sự kiểm tra của chi bộ và cấp ủy quản lý cán bộ), thật sự lắng nghe ý kiến quần chúng, nhằm không ngừng nâng cao kiến thức, năng lực, bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, phát huy ưu điểm, khắc phục có hiệu quả mặt thiếu sót, yếu kém, qua đó nâng cao năng lực lãnh đạo chính trị của đảng viên.

2/ Các cấp, các ngành tiếp tục thực hiện quy hoạch cán bộ và có kế hoạch đào tạo lại, đào tạo mới cán bộ, nhằm xây dựng một lớp cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tri thức và năng lực hành động, gắn bó với quần chúng, có tâm huyết và dũng khí bảo vệ sự nghiệp cách mạng.

Nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trước tình hình thế giới diễn biến phức tạp, trước âm mưu thâm độc của kẻ thù, nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế theo cơ chế thị trường với các mặt tích cực và tiêu cực đan xen nhau, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, cả cán bộ chính trị, cán bộ quản lý kinh doanh, cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định. Đội ngũ này không những phải đủ tỉnh táo cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt của các loại kẻ thù, mà còn đủ nhạy bén để phân biệt đúng sai, thật - giả, chân chính hay xảo trá… trong quan hệ giao dịch, làm ăn.

Sự nghiệp đổi mới, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, đòi hỏi người cán bộ phải có năng lực, trí tuệ, có tri thức chuyên sâu công việc mình đảm nhiệm. Bằng những biện pháp và hình thức đa dạng, các cơ quan tổ chức đảng và chính quyền, các trường lớp đào tạo, bồi dưỡng phải bảo đảm cung cấp cho các tổ chức đảng, đoàn thể, nhất là các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế, văn hoá, sự nghiệp… những cán bộ có đủ chuẩn chất và chuyên môn cần thiết.

Một đòi hỏi quan trọng trong tình hình hiện nay là người cán bộ phải có tâm huyết, hết lòng hết sức phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, gắn bó với quần chúng, được quần chúng tin cậy; loại trừ khỏi đội ngũ cách mạng những kẻ tham ô, trục lợi, thu vén cá nhân, phung phí của công, ức hiếp quần chúng, trù dập người dưới quyền, làm ô dù cho kẻ xu nịnh và người thân quen.

Cùng với quy hoạch cán bộ, các ngành các cấp phải có kế hoạch rà soát bố trí lại cán bộ, điều chỉnh những cán bộ phân công không hợp lý, kiên quyết thay thế những cán bộ không đủ năng lực và phẩm chất, không đảm đương được nhiệm vụ được giao.

Từ nay đến năm 1995, các cơ quan làm công tác tổ chức, các trường lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ của Đảng, chính quyền, đoàn thể và các ngành… cần bảo đảm đại bộ phận cán bộ, trước hết là cán bộ chủ chốt, có được ba yêu cầu cơ bản trên đây để bố trí trong các cơ quan, đơn vị trọng yếu của các ngành, các cấp thành phố.

3/ Tập trung sức củng cố tổ chức cơ sở đảng.

Một trong những thiếu sót, nhược điểm lớn của công tác xây dựng Đảng thời gian qua của Đảng bộ thành phố là chưa tập trung sức củng cố tổ chức cơ sở đảng nên đến nay còn nhiều tổ chức cơ sở đảng không đủ sức bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, chưa trở thành cầu nối giữa Đảng với quần chúng. Để khắc phục nhược điểm đó, từ nay đến 1995 tập trung củng cố cơ sở đảng gắn với việc triển khai bước 2 Nghị quyết 11, theo các nội dung sau:

  • Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình cơ sở đảng, xây dựng nội dung sinh hoạt đảng phù hợp với từng loại hình đó.

  • Quy định rõ mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của tổ chức đảng với chức năng quản lý của cơ quan chính quyền và của người thủ trưởng.

  • Có biện pháp bồi dưỡng nâng cao chất lượng đảng viên theo yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.

  • Xác định nội dung và phương thức vận động quần chúng của chi bộ cơ sở, phân công đảng viên làm công tác vận động quần chúng; có quy chế kiểm tra, quản lý hoạt động của đảng viên.

  • Bồi dưỡng công tác đảng cho cấp ủy cơ sở, trước hết là bí thư, đủ sức lãnh đạo đảng bộ cơ sở làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo chính trị của mình.

Đến hết năm 1993, củng cố được ít nhất một nửa cơ sở đảng theo các yêu cầu nêu trên.

4/ Hoàn thiện từng bước công tác tổ chức; tăng cường công tác kiểm tra của Đảng.

Các ban tổ chức của cấp ủy đảng và cơ quan tổ chức chính quyền các cấp cần phối hợp nghiên cứu hoàn thiện cơ cấu bộ máy tổ chức đảng, chính quyền đoàn thể, các ngành và đơn vị kinh tế, văn hoá và xã hội… từ thành phố đến cơ sở theo hướng có hiệu lực, hợp lý, tinh gọn. Từ phương hướng chung đó, trong hệ thống đảng cần tiến hành kiện toàn, củng cố và sắp xếp các ban đảng, các trường đảng, trung tâm giáo dục chính trị và các trường quản lý của thành phố; sắp xếp và kiện toàn các đảng bộ cấp trên cơ sở, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động và mối quan hệ giữa tổ chức đảng – chính quyền – đoàn thể cùng cấp; nghiên cứu tổ chức các đảng bộ và chi bộ ở phường xã theo đúng Điều lệ Đảng phù hợp với đặc điểm từng nơi.

Công tác kiểm tra:

Các cấp ủy đảng và chi bộ phải tổ chức tốt công tác kiểm tra việc thực hiện các quyết định; đẩy mạnh kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, việc giữ gìn phẩm chất của đảng viên; kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra của Đảng với thanh tra của Nhà nước và các cơ quan pháp luật xử lý kịp thời và nghiêm minh các vụ vi phạm kỷ luật của cán bộ, đảng viên. Cần tăng cường năng lực hoạt động của Ủy ban kiểm tra các cấp tương xứng với nhiệm vụ và quyền hạn do Điều lệ Đảng qui định.

5/ Đảng có trách nhiệm chăm lo Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

Đoàn cần tập trung giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa; tư tưởng, đạo đức Bác Hồ cho đoàn viên và thanh niên; làm nòng cốt trong các tổ chức thanh niên rộng rãi, trước hết là Hội Liên hiệp thanh niên, nêu gương trong việc giáo dục truyền thống yêu nước, khắc phục khó khăn, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới; đưa Nghị quyết 25 của Bộ Chính trị về công tác thanh niên vào cuộc sống. Tập trung củng cố cơ sở đoàn, nâng cao chất lượng đoàn viên thanh niên, nhất là trong công nhân, nông dân, học sinh, sinh viên, đồng thời tăng cường việc tập hợp các tầng lớp thanh niên; quan tâm củng cố và đổi mới hoạt động của Đội Thiếu niên tiền phong.

*

Đại hội đại biểu lần thứ V Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh khẳng định sự trung thành của toàn Đảng bộ đối với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với đường lối đổi mới của Đảng, quyết tâm động viên toàn Đảng bộ và nhân dân thành phố thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, những phương hướng nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1991 – 1995 do Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng thông qua. Với trách nhiệm của thành phố trung tâm, với truyền thống và kinh nghiệm trưởng thành trong đấu tranh cách mạng, nhất định thành phố sẽ vượt qua mọi khó khăn thử thách, cùng cả nước phấn đấu ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay, đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục giành những thắng lợi to lớn.

BAN CHẤP HÀNH ÐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÔ CHÍ MINH


Thông báo