Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa VI tại Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ VII (Do đồng chí Nguyễn Minh Triết, Ủy viên Bộ Chính trị Bí thư Thành ủy trình bày, ngày 19 tháng 12 năm 2000)

Kính thưa đ/c Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng,

Kính thưa đ/c Đỗ Mười, đ/c Võ Văn Kiệt, Cố vấn BCH TW Đảng,

Kính thưa đ/c Trần Đức Lương, Ủy viên TVBCT, Chủ tịch nước,

Kính thưa đ/c Phan Văn Khải, Ủy viên TVBCT, Thủ tướng Chính phủ,

Kính thưa đồng chí Võ Chí Công, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước và các đồng chí lão thành cách mạng, các bà mẹ Việt Nam anh hùng và Anh hùng.

Kính thưa các đ/c đại diện lãnh đạo các cơ quan TW, các đ/c TUV các khóa và khách quý của Đại hội.

Thưa các đồng chí đại biểu và toàn thể Đại hội.

Năm năm qua, kể từ Đại hội Đảng bộ lần thứ VI đến nay, Thành phố Hồ Chí Minh đã có những biến đổi quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Là một trung tâm về nhiều mặt của khu vực phía Nam và cả nước, một vị trí quan trọng trong khu vực Đông Nam Á, Thành phố luôn chịu sự tác động sâu sắc bởi bối cảnh chung của trong nước và ngoài nước. Bên cạnh thuận lợi cơ bản từ những thành tựu đạt được, những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, sự mở rộng quan hệ hợp tác và liên kết kinh tế quốc tế…, Thành phố đã gặp nhiều khó khăn - cả chủ quan lẫn khách quan, trong đó có bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chánh ở các nước trong khu vực… Nhưng Đảng bộ và nhân dân thành phố vẫn tiếp tục thể hiện tinh thần yêu nước và cách mạng, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, đã đạt được nhiều mục tiêu quan trọng của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ VI, góp phần cùng cả nước trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng.

Năm năm đầu của thế kỷ XXI, Đảng bộ và nhân dân thành phố phải ra sức phấn đấu, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ thành phố, cải thiện đời sống nhân dân lao động, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

Phần thứ nhất

NHỮNG BIẾN ĐỔI 5 NĂM QUA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ

1/ Kinh tế trên địa bàn thành phố đạt được những thành tựu quan trọng

Tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng trưởng bình quân hàng năm 10,2%, gần 1,5 lần so với mức tăng bình quân cả nước; tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có chất lượng cao; đóng góp vào ngân sách Nhà nước ngày càng tăng. Cơ cấu các khu vực kinh tế và thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; tích lũy của nền kinh tế tiếp tục gia tăng, tạo tiền đề cho bước phát triển đi vào chiều sâu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Dịch vụ - thương mại (khu vực III) tiếp tục chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu GDP, phát triển đa dạng theo hướng hiện đại; công nghiệp – xây dựng (khu vực II) vẫn giữ tốc độ tăng trưởng cao nhất, phù hợp với mục tiêu quy hoạch và tiến trình phát triển thành phố; nông nghiệp (khu vực I) có bước chuyển dịch về cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ở ngoại thành đang phát triển các loại hình kinh tế hộ sản xuất – kinh doanh có hiệu quả.

Kinh tế Nhà nước vẫn giữ vị trí chi phối trong các ngành quan trọng, đóng góp trên 45% cơ cấu GDP; kinh tế hợp tác được tổ chức lại theo Luật Hợp tác xã và xuất hiện mô hình mới phù hợp với thực tế; kinh tế tư nhân đã giải quyết hơn 60% việc làm cho người lao động; khu vực có vốn đầu tư từ nước ngoài vẫn tăng trưởng khá, đóng góp trên 18% cơ cấu GDP, chiếm trên 19% kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn.

Cơ sở hạ tầng kỹ thuật được cải thiện đáng kể. Các chương trình chỉnh trang, mở rộng đô thị, xây dựng các trục, nút giao thông trọng yếu, giải tỏa nhà trên kênh rạch, phát triển các khu công nghiệp gắn với việc tái định cư, xây dựng các khu dân cư mới… đã làm cho bộ mặt thành phố khang trang hơn.

Đã hoàn thành điện khí hoá nông thôn. Hệ thống cấp nước được đầu tư từ nhiều nguồn vốn, đáp ứng yêu cầu tối thiểu cho sản xuất và phần lớn cho sinh hoạt của nhân dân. Mạng lưới bưu chính viễn thông phát triển khá mạnh và tiếp tục hiện đại hoá.

2/ Hoạt động khoa học – công nghệ, giáo dục đào tạo có những bước tiến quan trọng.

Các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ đã góp phần tăng năng suất lao động, thúc đẩy tiến độ hiện đại hoá thành phố và khu vực phía Nam. Hoạt động khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp một số cơ sở khoa học cho các giải pháp về kinh tế, văn hoá, xã hội.

Giáo dục – đào tạo đã tăng về quy mô, có tiến bộ về chất lượng, nhất là các quận mới và ngoại thành. Việc xây dựng mới trường lớp, phát triển các cơ sở dạy nghề được thực hiện theo quy hoạch. Số lượng trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố tăng lên. Trong 5 năm, số sinh viên đang học tăng gấp 2 lần, số sinh viên tốt nghiệp tăng 3,5 lần, việc rèn luyện về đạo đức và nhân cách cho học sinh được chú trọng hơn.

3/ Đời sống về văn hoá xã hội được cải thiện.

Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân thành phố được nâng lên. Thu nhập thực tế của người dân tăng bình quân 5%/năm; tổng sản phẩm nội địa (GDP) bình quân đầu người đạt 1.365 USD; các nhu cầu thiết yếu của nhân dân được cải thiện. Truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, ý thức tự hào về cội nguồn và lòng yêu nước được giữ gìn, phát huy; đạo đức, tình người, lòng hiếu thảo được khơi dậy; ý thức vượt khó, lập thân lập nghiệp và tác phong công nghiệp từng bước hình thành; các hoạt động văn học nghệ thuật về cơ bản giữ đúng hướng, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở phát triển tốt hơn.

Báo chí đã thông tin đa dạng, nhiều chiều, kịp thời phổ biến những chủ trương, chính sách của Đảng, luật pháp Nhà nước và các hoạt động của Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội. Qua báo chí, người dân tiếp xúc với tri thức mới, hiểu sâu hơn về xã hội, bày tỏ được ý kiến và nguyện vọng của mình tham gia giải quyết các vấn đề của đất nước, của địa phương.

Hoạt động thể dục, thể thao có bước phát triển. Thành phố đã đóng góp đáng kể vào thành tích chung của thể thao Việt Nam.

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ. Tuổi thọ trung bình của người dân tăng. Hệ thống y tế cơ sở được tăng cường, 100% phường, xã có bác sĩ. Một số bệnh viện, trung tâm y tế đầu ngành được đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị, cán bộ khoa học - kỹ thuật, đã ứng dụng được nhiều kỹ thuật cao trong chẩn đoán và chữa trị.

Chủ trương xã hội hoá được thực hiện trên nhiều lĩnh vực. Nhân dân đã đóng góp xây dựng các công trình văn hoá, giáo dục, thể dục thể thao; hàng trăm cây số đường hẻm, giao thông nông thôn được xây dựng mới hoặc nâng cấp; các quỹ bảo trợ, quỹ xã hội, quỹ khuyến học đã giúp đỡ cho hàng vạn người gặp khó khăn, nhất là những người có tài năng.

Phong trào toàn xã hội chăm lo đồng bào nghèo mang lại kết quả thiết thực, có ý nghĩa kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội rộng lớn. Đã làm giảm hộ nghèo; trợ cấp người già yếu neo đơn, mất sức lao động; khám, chữa bệnh miễn phí cho hàng trăm ngàn người; đem lại “Nụ cười cho trẻ thơ”, “ánh sáng cho người nghèo bị mù bất hạnh; mái ấm, lớp học tình thương cho trẻ em lang thang đường phố; “xóa đói thông tin” cho đồng bào nghèo ở vùng nông thôn xa đô thị; phụng dưỡng gần 1.300 bà mẹ Việt Nam anh hùng ở thành phố và một số tỉnh bạn; đỡ đầu chăm sóc hàng ngàn thương binh nặng và người thân của liệt sĩ; xây dựng trên 5.000 căn nhà tình thương, sau khi đã hoàn thành xây dựng hơn 10.000 căn nhà tình nghĩa… Những việc làm đó cùng với các hoạt động từ thiện, cứu trợ đồng bào vùng bị thiên tai, hỏa hoạn ở thành phố và các tỉnh bạn, là thành tựu nổi bật về xã hội của Đảng bộ và nhân dân thành phố 5 năm qua, là biểu hiện sinh động bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.

4/ Giữ vững ổn định chính trị.

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là 2 nhiệm vụ chiến lược cực kỳ quan trọng luôn được quán triệt trong toàn Đảng bộ. Thành ủy đã tăng cường chỉ đạo, triển khai các kế hoạch phòng chống các âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Các cấp, các ngành, cán bộ đảng viên có ý thức đề cao cảnh giác, kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hoạt động phá hoại, gây rối, giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được đông đảo nhân dân tham gia nhiệt tình. Qua sơ - tổng kết, đã có những tập thể, cá nhân lập nhiều thành tích, nêu những tấm gương sáng đang được biểu dương, học tập.

Các lực lượng vũ trang nhân dân thành phố thường xuyên luyện tập, sẵn sàng chiến đấu, nâng cao trình độ mọi mặt, có bước tiến bộ mới. Các phương án xây dựng và củng cố quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được triển khai có kết quả.

Nhiệm vụ quốc phòng và công tác quân sự địa phương có nhiều tiến bộ trong phối hợp hành động trên địa bàn và các tỉnh bạn. Công tác tuyển quân hàng năm đều đạt chỉ tiêu trên giao; việc xây dựng lực lượng vũ trang thường trực, quân dự bị động viên và dân quân tự vệ có tiến bộ hơn; chính sách hậu phương quân đội được thực hiện khá tốt.

5/ Hệ thống chính trị được xây dựng và củng cố, có bước trưởng thành trên nhiều mặt.

Khối đại đoàn kết toàn dân được giữ vững và phát triển:

Các tầng lớp nhân dân lao động Thành phố không ngừng phát huy truyền thống cách mạng, tính năng động, sáng tạo trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Đồng bào có đạo, đồng bào các dân tộc, các giới hăng hái lao động sản xuất, tương thân tương ái, góp công góp sức xây dựng và bảo vệ Thành phố. Giai cấp công nhân được phát triển về số lượng, có mức nâng cao về chất lượng, tiếp cận được kỹ thuật, công nghệ mới. Nông dân tích cực hưởng ứng các phong trào xây dựng nông thôn mới, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, xây dựng đời sống văn hoá ở xóm ấp. Đội ngũ trí thức không ngừng phát huy vai trò to lớn vào đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội,… góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có bước tiến bộ về nội dung và phương thức hoạt động. Vai trò đoàn kết tập hợp rộng rãi các tổ chức, đồng bào các giới, các dân tộc của Mặt trận được phát huy. Các đoàn thể chính trị tiếp tục phát huy tác dụng trong vận động chính trị, giáo dục truyền thống, chăm lo xây dựng tổ chức, đa dạng hoá nội dung và phương thức hoạt động. Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật, Văn học Nghệ thuật, Hội Công thương… thực hiện được vai trò tập hợp các tầng lớp xã hội… Nhìn chung, các tổ chức quần chúng đã đóng góp rất quan trọng trong các phong trào hành động cách mạng, chăm lo cho người nghèo, thực hiện dân chủ ở cơ sở, tăng cường đoàn kết trong nội bộ nhân dân và giữa Đảng với dân.

Hệ thống chính trị được củng cố, nâng cao năng lực hoạt động

Đảng bộ đã có trên 50% tổ chức cơ sở trong sạch vững mạnh, với nhiều điển hình tốt trong thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị, chuyên môn, vận động quần chúng. Trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân trong nước, trường đại học dân lập… hầu hết đều có tổ chức Công đoàn; một số đã có cơ sở Đảng, Đoàn Thanh niên Cộng sản. Công tác phát triển đảng viên mới được chú trọng thường xuyên. Số đảng viên trẻ, đảng viên là công nhân trực tiếp sản xuất, đảng viên có trình độ học vấn và trình độ khoa học kỹ thuật cao đều tăng.

Hội đồng Nhân dân có tiến bộ trong việc thực hiện vai trò của mình. Ủy ban Nhân dân thành phố có nhiều cố gắng trong cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Các cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban Nhân dân Thành phố giảm từ 58 xuống còn 41; ở cấp quận, huyện từ 21 còn 11. Đã tổ chức các khu hành chính tập trung theo mô hình “một cửa một dấu” ở Ủy ban Nhân dân quận, huyện. Trong cải tiến thủ tục hành chính, đã chú ý rà soát để bãi bỏ văn bản không hợp lý và ban hành công khai các văn bản mới. Đã phân cấp tăng thêm quyền hạn cho quận huyện về xây dựng cơ bản, nhà đất, thu chi ngân sách…

Công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ đạt được kết quả bước đầu. Các cấp ủy, Ban, Ngành đã chú trọng công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ; coi trọng chất lượng chính trị, đạo đức, năng lực thực tiễn của cán bộ khi đưa vào qui hoạch, và đã có được một số kinh nghiệm cụ thể. Cùng với việc quy hoạch cán bộ dự bị trực tiếp, trước mắt, đã chú ý việc quy hoạch tạo nguồn cán bộ cho lâu dài trong công nhân, viên chức trẻ và trong sinh viên học sinh ưu tú.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ đã đáp ứng tốt hơn cho yêu cầu xây dựng Đảng. Hoạt động kiểm tra, thanh tra được tăng cường, đã xử lý nghiêm và kịp thời những cá nhân và tổ chức vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước.

Có những thành tựu nêu trên là do Đảng bộ và nhân dân Thành phố luôn kiên trì thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng; tiếp tục phát huy tính năng động, sáng tạo và tận dụng các lợi thế về tiềm năng kinh tế cùng các nguồn lực xã hội của Thành phố; sự nỗ lực bám sát cơ sở để xử lý những vấn đề mới nảy sinh bằng những giải pháp cụ thể, hợp lòng dân.

Bên cạnh những thành tựu, còn nhiều yếu kém, tồn tại:

1/ Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm lực; cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý còn bộc lộ nhiều yếu kém

Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm dần trong suốt 4 năm 1996 – 1999. Nhiều chỉ tiêu Đại hội VI đề ra không đạt, như: mức tăng GDP bình quân hàng năm và GDP bình quân đầu người, kim ngạch xuất khẩu, về cấp – thoát nước, mở rộng đô thị về hướng Đông Thành phố gắn với giảm mật độ dân số nội thành, về công nghiệp hoá nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới… Nền kinh tế chậm phát triển theo chiều sâu, nên chưa tạo nhiều sản phẩm có hàm lượng trí tuệ, giá trị gia tăng lớn, có sức cạnh tranh cao; các loại dịch vụ phục vụ sản xuất (tài chính, tín dụng, ngân hàng, chuyển giao công nghệ…) chậm phát triển và còn nhiều yếu kém, dẫn đến hạn chế sức thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá của khu vực và cả nước.

Sức cạnh tranh của nền sản xuất còn kém, việc mở rộng thị trường còn gặp nhiều khó khăn, thị phần tiêu thụ sản phẩm thiếu ổn định. Việc gắn kết giữa sản xuất và thương mại vừa thiếu đồng bộ, vừa bị chia cắt, làm hạn chế mở rộng thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại. Thị trường nội địa bị hạn chế bởi sức mua của xã hội không tăng; thị trường xuất khẩu bị sút giảm ở một số khu vực; cơ cấu sản phẩm của công nghiệp thành phố phần lớn cùng loại với sản phẩm của các nước trong khu vực, đã dẫn đến cung vượt quá cầu, giá cả có xu hướng giảm, lợi nhuận giảm, số doanh nghiệp thua lỗ tăng, đầu tư giảm…

Đầu tư đổi mới công nghệ không đạt được mục tiêu đề ra. Thiếu chủ động “đón đầu” để đầu tư vào các ngành công nghệ cao, hỗ trợ các thành phần kinh tế đầu tư những ngành có thị trường và có khả năng cạnh tranh; chưa tận dụng thời cơ để đầu tư đổi mới công nghệ. Chương trình kích cầu của thành phố đạt kết quả thấp.

Tiến độ tổ chức sắp xếp lại và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước còn chậm; hiệu quả kinh doanh thấp, chậm xử lý những doanh nghiệp thua lỗ kéo dài. Kinh tế hợp tác chiếm tỷ trọng quá nhỏ trong cơ cấu kinh tế và còn lúng túng trong phương hướng phát triển. Khu vực tư nhân trong nước phát triển cầm chừng, nhiều doanh nhân còn dè dặt trong đầu tư dài hạn. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm sút dần (1998 – 1999 giảm sút nghiêm trọng), các liên doanh thua lỗ chiếm tỷ trọng lớn. Cơ chế quản lý chưa tạo được môi trường kinh doanh thật sự thuận lợi, chưa khuyến khích các chủ thể kinh doanh tích cực, đồng thời chưa kiểm soát, ngăn chặn có hiệu quả các hành vi tiêu cực, để xảy ra một số vụ án lớn về kinh tế trên địa bàn như Tamexco, Minh Phụng – Epco, Tân Trường Sanh… Nhìn chung, các thành phần kinh tế chưa phát huy đúng mức và chưa gắn kết trong quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh để tạo nên sức mạnh tổng hợp của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.

2/ Hoạt động khoa học – công nghệ và giáo dục – đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển Thành phố

Sự đóng góp của khoa học – công nghệ cho phát triển Thành phố chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có; sự phối hợp với lực lượng nghiên cứu khoa học của Trung ương trên địa bàn thiếu chặt chẽ; nhiều cấp lãnh đạo chưa chú ý vai trò của khoa học – công nghệ… nên không đạt mục tiêu Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VI đề ra. Mức đóng góp của Khoa học xã hội và nhân văn vào các chủ trương lớn của Thành phố còn ít. Hiệu quả triển khai kết quả các đề tài nghiên cứu vào thực tiễn còn thấp. Môi trường đô thị còn bị ô nhiễm nghiêm trọng.

Hoạt động giáo dục – đào tạo còn yếu kém trong việc thực hiện nội dung, chương trình, cải tiến phương pháp dạy và học. Việc dạy nghề, dạy người chưa đáp ứng yêu cầu. Tốc độ tăng dân số cơ học còn cao đã ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục. Chậm khắc phục những bất hợp lý trong cơ cấu giữa giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Việc đào tạo chưa gắn với sử dụng, trình độ kiến thức chưa tương xứng với văn bằng; nạn “bằng giả”, “học giả” còn nhiều.

3/ Chậm khắc phục những yếu kém, khuyết điểm trong hoạt động văn hoá – xã hội; trật tự an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp.

Văn học nghệ thuật chưa phản ánh được công cuộc đổi mới của Thành phố, chưa có những tác phẩm có giá trị lớn về tư tưởng và nghệ thuật. Một số tác phẩm, sản phẩm văn hoá phản ánh cuộc sống còn hời hợt. Hoạt động quảng cáo, in, ấn, xuất bản, vũ trường,… còn nhiều vi phạm luật. Ở một số tờ báo có trường hợp đã đưa tin, viết bài thiếu khách quan, coi nhẹ chức năng giáo dục; một số phóng viên, cộng tác viên, lợi dụng uy thế báo đài để trục lợi. Hoạt động thể thao bộc lộ những yếu kém, nhất là các môn thể thao thành tích cao, truyền thống; hoạt động thể dục chưa thành phong trào rộng mạnh trong toàn dân.

Còn một số khoản thu chi trong giáo dục, y tế chưa phù hợp. Tình trạng nhũng nhiễu người bệnh, ưu tiên cho dịch vụ kinh doanh, cùng với việc dạy thêm tràn lan, đã làm ảnh hưởng đến uy tín của người thầy thuốc, thầy giáo.

Các tệ nạn xã hội, nhất là ma túy, mại dâm phát triển trong thanh thiếu niên, là nỗi lo lớn của nhân dân. Số người sống lang thang xin ăn, nạn mất trật tự trên đường phố, nơi công cộng, nạn cờ bạc, số đề… còn khá phổ biến; tệ mê tín dị đoan phát triển, thậm chí trong cán bộ, đảng viên. Các loại sản phẩm độc hại, phản văn hoá còn xâm nhập nhiều nơi.

Tình trạng phạm pháp vẫn còn ở mức báo động (tham nhũng, buôn lậu, ma túy…). Trong điều tra, khởi tố, bắt tạm giam, thời hạn xét xử, giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhiều trường hợp chưa theo đúng luật; an toàn về pháp lý của công dân chưa bảo đảm.

Tỷ lệ tăng dân số cơ học và thất nghiệp còn cao. Thị trường lao động Thành phố phát triển tự phát, cạnh tranh thiếu định hướng, khó quản lý. Cơ cấu lao động qua đào tạo còn bất hợp lý, đội ngũ trung cấp chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật thiếu và yếu. Tình trạng lão hoá đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật, nhất là trong khu vực Nhà nước đang là vấn đề cấp thiết.

4/ Hệ thống chính trị chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ

Hệ thống tổ chức bộ máy còn nhiều yếu kém, bất hợp lý; hiệu lực, hiệu quả hoạt động thấp.

Tổ chức cơ sở Đảng trong một số cơ quan, xí nghiệp, trường học, sự nghiệp chưa thể hiện được vai trò hạt nhân lãnh đạo, hoạt động còn sự vụ, hình thức. Qua những vụ án kinh tế lớn ở thành phố cho thấy, tổ chức cơ sở Đảng ở đó bị vô hiệu hoá, đảng viên bị thoái hoá, biến chất nghiêm trọng. Nhiều nơi trong sinh hoạt chi bộ không quan tâm trao đổi, thảo luận các vấn đề có ý nghĩa chính trị, buông lỏng tự phê bình và phê bình, sa sút tính chiến đấu, tính giáo dục; còn yếu kém trong quản lý đảng viên, xem nhẹ kỷ cương kỷ luật, mất đoàn kết nội bộ. Một bộ phận đảng viên suy thoái đạo đức, phai nhạt lý tưởng, trong đó có một số sống quan cách, cửa quyền, ức hiếp dân. Công tác giáo dục và tự giáo dục về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cách mạng trong đảng viên chưa được chú ý đúng mức. Tổ chức Đảng cấp trên cơ sở của ngành, khối (Thành phố, Trung ương) còn bất hợp lý, hiệu quả lãnh đạo hạn chế. Nhiều nơi nhận thức chưa đúng mức vai trò lãnh đạo của Đảng, xem nhẹ công tác xây dựng Đảng. Ý thức chính trị của một số cán bộ quản lý đứng đầu còn mờ nhạt. Cán bộ chuyên trách công tác Đảng còn thiếu và yếu.

Vai trò của Hội đồng Nhân dân chưa được phát huy đúng mức. Bộ máy hành chính Thành phố còn cồng kềnh, trách nhiệm và quyền hạn quản lý của sở, ngành chưa rõ ràng, chồng chéo, trùng lắp. Chậm tách quản lý hành chính Nhà nước với quản lý kinh doanh. Còn nhiều tổ chức tư vấn, tham mưu (như các ban chỉ đạo, hội đồng…) hoạt động mang tính hình thức; việc phân cấp cho quận, huyện chưa mạnh; trách nhiệm cá nhân chưa được đề cao.

Đội ngũ cán bộ còn hạn chế về trình độ năng lực; phương pháp quản lý, sử dụng và xây dựng đội ngũ chưa tốt; chậm xử lý một số cán bộ thoái hoá biến chất.

Công tác quy hoạch cán bộ chất lượng còn thấp; chưa có cách phát triển đúng và mạnh dạn tiến cử những người có tài, có đức. Việc nhận xét, bố trí, sử dụng cán bộ của cấp ủy trong nhiều trường hợp còn chưa sát đúng; chưa mạnh dạn luân chuyển, điều động cán bộ theo yêu cầu. Chế độ tiền lương hiện hành còn nhiều chỗ bất hợp lý, nhưng Thành phố chưa kiến nghị với Trung ương các giải pháp cụ thể theo khả năng của mình để đãi ngộ nhân tài.

Một bộ phận cán bộ năng lực không đáp ứng nhiệm vụ được giao, nhất là số sa sút lý tưởng, kém phẩm chất đạo đức, vô trách nhiệm, quan liêu hách dịch, tham nhũng…, nhưng cấp ủy chậm phát hiện và thay thế. Một bộ phận cán bộ có chức, có quyền vi phạm pháp luật nghiêm trọng – hàng ngàn cán bộ bị xử lý kỷ luật, trong đó có hàng trăm bị phạt tù, nhiều người bị xử với mức án cao - chứng tỏ công tác quản lý, giáo dục cán bộ còn khuyết điểm nghiêm trọng.

Hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị còn hạn chế.

Phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới. Việc triển khai các Nghị quyết của cấp ủy và kiểm tra việc thực hiện còn nhiều khiếm khuyết; chất lượng sơ kết, tổng kết còn kém. Nhiều vấn đề trọng tâm trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng, chính quyền và đoàn thể của thành phố chưa được tập trung chỉ đạo một cách đồng bộ.

Năng lực và hiệu lực quản lý hành chính Nhà nước còn yếu trên nhiều lĩnh vực; kỷ cương lỏng lẻo, tính pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa nghiêm. Còn nhiều văn bản pháp quy của chính quyền chưa sát thực tế, chồng chéo, hiệu lực điều chỉnh thấp; còn có tình trạng cấp dưới thiếu nghiêm chỉnh chấp hành quyết định của cấp trên. Việc tổ chức phối hợp giữa các ban, ngành, sở cấp Thành phố chưa tốt; mối quan hệ phối hợp giữa các ngành, sở Thành phố với quận, huyện còn có chỗ chưa rõ. Sự phối hợp giữa các cơ quan của Thành phố với cơ quan Trung ương trên địa bàn chưa đặt ra đúng mức. Quan hệ giữa chính quyền với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thiếu gắn bó; các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp chưa phát huy vai trò tư vấn, phản biện, cần nối giữa nhân dân với chính quyền. Quản lý Nhà nước yếu kém trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, kinh tế tư nhân, trật tự đô thị, phòng chống tệ nạn xã hội, vệ sinh môi trường; chưa thực hiện tốt vai trò quản lý Nhà nước trên địa bàn. Việc giáo dục, tuyên truyền pháp luật trong nhân dân chưa tốt; người dân còn nhiều biểu hiện chấp hành pháp luật không nghiêm, nếp sống văn minh đô thị còn kém.

Tình trạng hành chính hoá tổ chức và hoạt động của các đoàn thể chậm khắc phục. Bộ máy chuyên trách của các đoàn thể chính trị còn lớn, hoạt động thiếu chiều sâu; chưa phát huy sức đóng góp của những thành viên không chuyên trách, quần chúng ưu tú tham gia Ban Chấp hành; nội dung hoạt động chưa sát nhu cầu lợi ích thiết thân của hội viên, đoàn viên; số lượng Tổ chức xã hội - nghề nghiệp rất nhiều nhưng chất lượng hoạt động chưa tốt.

Nói chung, hệ thống chính trị chưa tạo thành sức mạnh tổng hợp trong hoạt động thực tiễn; tiềm lực của người dân thành phố chưa được phát huy cao nhất.

Những yếu kém, tồn tại nêu trên là do:

Trong lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành còn thiếu tập trung, sự vận dụng chính sách chung còn thiếu sáng tạo, chưa đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn; một số mục tiêu, chương trình đề ra chưa sát thực tế, nhưng chưa mạnh dạn điều chỉnh. Bộ máy và cán bộ còn bất cập so với yêu cầu.

Một số chính sách chưa thật sự phát huy được nội lực; việc triển khai thực hiện một số chính sách chậm, thiếu nhất quán và đồng bộ, làm mất thời cơ; nhiều giải pháp mang tính chất bị động đối phó.

Nhìn chung 5 năm qua, những thành tựu đạt được tuy không đều trong các lĩnh vực, nhưng có ý nghĩa rất quan trọng, khẳng định chất lượng mới và hướng đi đúng theo đường lối đổi mới của Đảng, tạo thêm tiền đề cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đóng góp tích cực vào thành tựu chung của cả nước. Đó là kết quả nối tiếp của quá trình đổi mới, của tinh thần nỗ lực vươn lên của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố trong việc chấp hành Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội VI Đảng bộ Thành phố, có sự giúp đỡ, hợp tác của các ngành Trung ương và nhiều tỉnh, thành phố bạn. Mặt khác, cũng cần thấy hết những yếu kém, tồn tại. Đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế còn thấp so với tiềm lực; hoạt động khoa học – công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển Thành phố; tệ nạn xã hội, nhất là mại dâm, ma túy còn là vấn đề nhức nhối; hệ thống chính trị, nhất là tổ chức và cán bộ chưa ngang tầm với nhiệm vụ. Những thành tựu, những yếu kém, tồn tại có nguyên nhân khách quan, nhưng cần thẳng thắn nhìn nhận chính là do chủ quan.

Những bài học rút ra từ Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VI vẫn còn giá trị thực tiễn. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội, những gì thành công và chưa thành công đều cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu, ở đây chỉ nêu một số vấn đề nổi lên như sau:

Phải không ngừng phát huy tính năng động, sáng tạo của con người thành phố. Nguyên nhân cơ bản của những chủ trương, chính sách cụ thể ở Thành phố sớm đi vào cuộc sống, thu được thành tựu to lớn là do biết phát huy tính năng động, sáng tạo của con người Thành phố, nếu không thì kết quả sẽ ngược lại. Tính năng động, sáng tạo là truyền thống, là thế mạnh của Thành phố, thích ứng với mặt tích cực của cơ chế thị trường. Nó thúc đẩy con người quan tâm đến chất lượng và hiệu quả công việc, nhạy bén trong hoạt động, sáng tạo trong tư duy; biết thay đổi nếp nghĩ, nếp sống và làm việc theo hướng tích cực; làm cho xã hội dần dần tạo nên lớp người lao động dám nghĩ, biết làm, sớm hình thành tác phong công nghiệp - một đòi hỏi bức bách của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa Thành phố. Đây là nguồn nội lực mạnh của Thành phố, nhưng chúng ta chưa khai thác, phát huy cao nhất chỗ mạnh đó.

Với vị trí vai trò của Thành phố, cần coi trọng sự phối hợp, hợp tác giữa Thành phố với các đơn vị Trung ương trên địa bàn, giữa Thành phố với các tỉnh trong khu vực. Hoàn cảnh lịch sử và địa lý đã cho thành phố Hồ Chí Minh có vị trí trung tâm của khu vực phía Nam và cả nước, nhất là về kinh tế. Do đó, mỗi thành công, thắng lợi hoặc thất bại, sai lầm đều tác động đến khu vực và cả nước. Sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ thường xuyên giữa Thành phố với các đơn vị Trung ương trên địa bàn, giữa Thành phố với các tỉnh trong khu vực là yêu cầu khách quan. Nhưng cho đến nay, nhìn chung sự phối hợp, hợp tác chưa đặt ra một cách đồng bộ, xuyên suốt; Thành phố chưa gắn kết với các tỉnh, trước hết là các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng như với các đơn vị Trung ương đóng trên địa bàn, nên chưa khơi dậy mạnh các nguồn lực vật chất và trí tuệ, để tạo nên sức mạnh cùng phát triển ổn định, bền vững; chưa kiên trì kiến nghị với Trung ương để có cơ chế phối hợp hoặc xác lập sự hợp tác thường xuyên nhằm huy động cao nhất nguồn nội lực cho sự phát triển.

Phải hết sức coi trọng kiểm tra việc thực hiện, nâng cao chất lượng tổng kết và không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo. Nhiều bài học rút ra từ Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VI (cả về thành công và yếu kém, sai lầm) vẫn còn giá trị; Đảng bộ có những chủ trương, chính sách hợp lòng dân, mang lại kết quả có ý nghĩa kinh tế, chính trị - xã hội rộng lớn không chỉ cho bản thân Thành phố, mà còn đóng góp cho sự lãnh đạo chung của Đảng. Nhưng việc chỉ đạo kiểm tra thực hiện chưa thường xuyên, việc sơ kết, tổng kết kinh nghiệm chưa đầy đủ và sâu sắc, do đó, không nhân rộng những nhân tố tích cực, không kịp thời phổ biến những kinh nghiệm thực tiễn; chưa giúp cấp ủy có cơ sở khẳng định sự đúng đắn của chủ trương, chính sách hoặc những sai sót để chấn chỉnh, bổ sung làm cho những Nghị quyết đúng ngày càng đi vào cuộc sống một cách sâu rộng. Mặt khác, chưa chú ý đổi mới phương thức lãnh đạo đối với chính quyền; chưa giải quyết hài hòa giữa lãnh đạo toàn diện và chỉ đạo trọng tâm trọng điểm, dẫn đến tình trạng bề bộn công việc sự vụ, hội họp liên miên, chẳng những hiệu quả không cao, mà còn sinh ra trì trệ.
Phần thứ hai

NHIỆM VỤ XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN VÀ BẢO VỆ THÀNH PHỐ 5 NĂM 2001-2005

Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới, nhất là công nghệ thông tin và sự phát triển của nền kinh tế tri thức… vừa tạo cho nước ta những cơ hội rất thuận lợi, có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế, vừa tạo ra những thách thức to lớn, sự cạnh tranh quyết liệt trên thương trường, đặc biệt với các nước trong khu vực vừa phục hồi sau cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính.

Bên cạnh thuận lợi và thách thức nói trên, Thành phố còn có những khó khăn riêng. Đó là vấn đề lao động nhập cư, nạn thất nghiệp, về bảo đảm cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, về bảo vệ môi trường sinh thái, cùng sự thách thức giữa năng lực của bộ máy và cán bộ với yêu cầu quản lý Nhà nước ngày càng cao, trong điều kiện sự vận động của cơ chế thị trường ngày càng phức tạp, quy mô đô thị ngày càng lớn.

Chúng ta phải thấy hết những thời cơ, thuận lợi cùng những khó khăn thách thức khi bước vào thế kỷ mới để chủ động nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, huy động mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài Thành phố, phát huy cao nhất tính năng động, sáng tạo và ý chí quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân Thành phố, hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ của giai đoạn mới.

ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2010:

Mười năm đầu của thế kỷ XXI là giai đoạn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng của đất nước trên bước đường hoàn thành công nghiệp hoá vào năm 2020. Với vai trò và vị trí của mình, Thành phố phải có những đóng góp tích cực nhất cho đất nước. Đến năm 2010, thành phố Hồ Chí Minh phải là một Thành phố văn minh, hiện đại, với khoảng 7 triệu dân, có trình độ học vấn và văn hoá cao, đạt GDP đầu người 3.000 USD; có hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hệ thống giao thông, mạng lưới thông tin liên lạc và các công trình phúc lợi đô thị đạt trình độ phát triển của các nước trong khu vực.

Thành phố giữ vững vai trò là một trung tâm về nhiều mặt của cả nước, đồng thời sẽ là một trong những trung tâm thương mại, tài chánh của khu vực Đông Nam A1; giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là: động viên mọi nguồn lực, phát huy mạnh mẽ sức sản xuất, tận dụng mọi thời cơ, vượt qua khó khăn thách thức, bảo đảm đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất và bền vững; tạo thế chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; tăng cường cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, bảo vệ môi trường; phát triển mạnh khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin; giải quyết đồng bộ các vấn đề xã hội, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thu hẹp sự cách biệt giữa ngoại thành với nội thành; tiếp tục giữ vững ổn định chính trị và trật tự xã hội, xây dựng nếp sống văn minh đô thị, khắc phục có hiệu quả các tệ nạn xã hội.

1/ Về phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế

Phát triển kinh tế thành phố phải gắn liền với sự bố trí lực lượng sản xuất trên địa bàn kinh tế trọng điểm, các tỉnh Nam Bộ và Tây Nguyên, tạo ra mối liên kết và bổ sung về lợi thế cho cả vùng kinh tế động lực, đồng thời gắn với mục tiêu bố trí lại dân cư, giảm áp lực tăng dân số cơ học ở đô thị; tạo các tiền đề kinh tế cần thiết để xây dựng các khu đô thị mới, phát triển vùng nông thôn ngoại thành theo quy hoạch và giải quyết các vấn đề xã hội.

Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) bình quân hàng năm từ 11% trở lên, trong đó: GDP của các ngành công nghiệp và xây dựng (khu vực II) tăng ít nhất 13%; dịch vụ - thương mại (khu vực III) tăng ít nhất 9,5%; nông – lâm – ngư nghiệp (khu vực I) tăng khoảng 2%; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng các sản phẩm tinh chế, các hàng hoá có hàm lượng kỹ thuật cao, các loại dịch vụ sản xuất trong cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế, các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu. Cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố vào năm 2005, về tỷ trọng vẫn là: dịch vụ - công nghiệp – nông nghiệp. Tiếp tục giữ vững vai trò một trung tâm thương mại - dịch vụ - công nghiệp của khu vực phía Nam và cả nước. Phấn đấu đến năm 2005 đạt mức bình quân GDP đầu người là 2.000 USD; tiếp tục thực hiện tốt nghĩa vụ ngân sách đối với Nhà nước.

Thực hiện phương châm phát triển có trọng tâm trong từng khu vực, có biện pháp và hình thức đầu tư phù hợp với đặc điểm về thế mạnh và vị trí, vai trò của kinh tế thành phố:

Đối với công nghiệp, tập trung đầu tư bằng nhiều nguồn vốn và nhiều hình thức để có tốc độ tăng trưởng nhanh đối với một số ngành công nghệ cao, như công nghiệp điện tử - viễn thông, ứng dụng công nghệ sinh học. Đồng thời tiếp tục khuyến khích đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, mở rộng thị phần xuất khẩu đối với 4 nhóm sản phẩm chủ lực đang còn lợi thế cạnh tranh, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu giá trị (chế biến lương thực, thực phẩm; các sản phẩm hoá chất, cao su, plastic; dệt – da, may; sản phẩm cơ khí và kim loại) để vừa ổn định tốc độ tăng trưởng, vừa giải quyết việc làm cho người lao động; mở rộng quy mô và hiện đại hoá ngành xây dựng, đưa tốc độ tăng trưởng bình quân 14%/năm.

Đối với thương mại - dịch vụ, ưu tiên phát triển các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tư, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, các dịch vụ trong lĩnh vực viễn thông, tin học; tạo bước phát triển mạnh công nghệ phần mềm; phát triển thị trường vốn để từng bước hình thành trung tâm tài chính của khu vực phía Nam và cả nước. Thúc đẩy tốc độ tăng trưởng cao đối với các loại dịch vụ phục vụ sản xuất để tiếp tục tác động tích cực, có hiệu quả quá trình công nghiệp hoá đối với khu vực và cả nước. Đưa ngành du lịch thành phố thực sự là một ngành công nghiệp với sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh với các trung tâm du lịch của các nước trong khu vực. Phát triển mạnh dịch vụ vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng, kho vận và vận tải công cộng đô thị. Củng cố vị trí đầu mối giao thương trong nước và quốc tế; xây dựng các hình thức tổ chức gắn sản xuất với thương mại để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất mở rộng thị trường, ổn định thị phần hàng hoá. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu là nhiệm vụ trọng tâm đối với kinh tế thành phố; giữ vững các thị trường đang có, mở rộng thị trường mới…; chú trọng xuất khẩu tại chỗ thông qua hoạt động du lịch, cung ứng hàng hoá dịch vụ cho các khu chế xuất và các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất hàng xuất khẩu.

Đối với nông – lâm – ngư nghiệp, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp đồng thời với tăng cường đầu tư phát triển, xây dựng nông thôn mới, bố trí lại lao động trong nông nghiệp; chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện giảm diện tích đất nông nghiệp hàng năm, với đặc điểm và thế mạnh của vùng nông thôn ven đô thị lớn, đồng thời phát triển kinh tế hộ gia đình kết hợp trồng trọt, chăn nuôi với khai thác du lịch sinh thái. Tiếp tục phát triển đàn bò sữa, heo, gà nhằm tăng tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong cơ cấu giá trị nông nghiệp và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp; nhanh chóng hình thành trung tâm giống cây – con cho các tỉnh trong khu vực. Hướng phát triển chính và tập trung đối với ngành thủy sản thành phố là khai thác đánh bắt xa bờ, gắn khai thác với chế biến; phát triển nuôi tôm nước mặn và tôm càng xanh nước ngọt. Bảo vệ và tiếp tục phát triển rừng phòng hộ và rừng ngập mặn Cần Giờ; chú trọng đầu tư thủy lợi dọc sông Sài Gòn và hoàn thành các công trình thủy lợi đang xây dựng đưa vào sử dụng.

Vận dụng triệt để các chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng trước pháp luật, xây dựng lòng tin tưởng phấn khởi trong đầu tư sản xuất kinh doanh đối với mọi thành phần kinh tế. Phát triển các hình thức kinh tế hợp tác phù hợp với yêu cầu của người sản xuất và kinh doanh nhỏ, tăng dần tỷ trọng kinh tế hợp tác trong cơ cấu các thành phần kinh tế. Kinh tế Nhà nước bảo đảm giữ vai trò chủ đạo, chú ý phát triển các doanh nghiệp thuộc những ngành và lĩnh vực then chốt, bảo đảm giữ vị trí chi phối trong các ngành quan trọng, sắp xếp các doanh nghiệp hiện có, chỉ giữ lại những cơ sở có quy mô vừa và lớn theo quy hoạch, sắp xếp lại các doanh nghiệp hoạt động công ích phù hợp với hướng đẩy mạnh xã hội hoá các dịch vụ đô thị phục vụ dân sinh; phát triển loại hình kinh tế hỗn hợp, có sự tham gia cổ phần chi phối của Nhà nước ở một số ngành và lĩnh vực. Đối với khu vực tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển ở tất cả các ngành và lĩnh vực mà pháp luật không cấm hoặc hạn chế. Khuyến khích phát triển khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, xem đây là một bộphận trong cơ cấu kinh tế thành phố, có vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và quá trình công nghiệp hoá.

Ưu tiên đầu tư các dự án hạ tầng kỹ thuật gắn với việc xây dựng các khu công nghiệp, khu dân cư, phát triển đô thị mới và tái bố trí dân cư, các công trình giao thông, cấp – thoát nước bức xúc; các dự án thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Huy động nhiều nguồn vốn, dưới nhiều hình thức đầu tư để phát triển hạ tầng kỹ thuật, bảo đảm sự cân đối giữa phát triển hạ tầng kỹ thuật với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Giữ mức đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước đạt mức trên 15% tổng đầu tư của toàn xã hội trên địa bàn Thành phố, bảo đảm tỷ lệ tổng đầu tư hàng năm trên địa bàn so với GDP đạt mức 35% - 40%, nâng tỷ trọng đầu tư cho phát triển công nghiệp trong cơ cấu đầu tư đạt khoảng 45%, nâng mức đầu tư cho khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo trong tổng vốn đầu tư trên địa bàn. Rà soát lại việc quy hoạch các khu công nghiệp vừa qua cả số lượng lẫn quy mô, tiến hành điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch chi tiết để bảo đảm số lượng, quy mô các khu công nghiệp phù hợp với tốc độ phát triển của các nhóm ngành công nghiệp trên địa bàn, gắn phát triển các khu công nghiệp đồng bộ với việc phát triển các khu dân cư, các công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để sớm định hình các khu đô thị mới, tạo điều kiện cho việc bố trí lại dân cư đô thị và phát triển khu vực ngoại thành.

2/ Về khoa học – công nghệ, môi trường và giáo dục – đào tạo

Mục tiêu phát triển khoa học – công nghệ phải nhằm tạo sự tăng trưởng nhanh về năng suất, chất lượng và hiệu quả, hình thành những ngành kinh tế chủ lực có hàm lượng trí tuệ cao và phát triển bền vững, bảo đảm tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; phát triển các nguồn lực, hạ tầng cơ sở khoa học và công nghệ, hình thành cơ chế quản lý phù hợp, bảo đảm khả năng phát triển khoa học – công nghệ tương xứng với phát triển kinh tế - xã hội và vị trí của thành phố. Triển khai tốt Chỉ thị 58 của Bộ Chính trị về phát triển công nghệ thông tin.

Phát triển công nghiệp công nghệ phần mềm; tập trung ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại vào các ngành có điều kiện tăng nhanh tỷ trọng hàng nội địa trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Sử dụng hợp lý ngân sách của thành phố và khả năng tài chính của các doanh nghiệp để đổi mới nhanh công nghệ và sản phẩm theo yêu cầu: chi phí đầu vào thấp, chất lượng đầu ra cao, liên kết tiếp thị xuất khẩu và cạnh tranh quốc tế.

Khoa học xã hội và nhân văn tập trung nghiên cứu các đề tài góp phần xây dựng các định hướng chiến lược, các chủ trương về kế hoạch, quy hoạch thành phố; góp phần nâng cao dân trí, xây dựng nhân cách và mối quan hệ giữa người và người trong xã hội. Có chính sách tuyển dụng số tốt nghiệp đại học khoa học xã hội và nhân văn vào làm việc ở các cơ quan thích hợp.

Tạo điều kiện để Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật thật sự là nơi quy tụ những người làm công tác khoa học, được tư vấn, phản biện, giám định các chương trình, dự án lớn của Thành phố. Phát huy vai trò của các viện và trường đại học đóng trên địa bàn. Quan tâm xây dựng lực lượng các nhà khoa học đầu đàn trên từng lĩnh vực. Khuyến khích phong trào sáng tạo khoa học - kỹ thuật của quần chúng.

Xây dựng và thực hiện chiến lược quản lý môi trường tổng thể; tập trung thực hiện các giải pháp nhằm giảm ô nhiễm trên các kênh rạch, cải tạo môi trường sống. Phấn đấu di dời và bố trí lại 10.000 nhà trên và ven kênh rạch.

Nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo toàn diện, hình thành lớp thanh niên có lý tưởng và bản lĩnh, có tri thức hiện đại và khả năng lao động sáng tạo. Coi trọng chất lượng đào tạo và hiệu quả sử dụng. Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, hoàn thành phổ cập trung học cơ sở vào năm 2002, tiến tới phổ cập trung học vào năm 2010. Củng cố hệ thống giáo dục thường xuyên. Tăng cường việc dạy và học ngoại ngữ, đưa tin học vào các trường phổ thông. Nâng mặt bằng học vấn của người dân thành phố (10 tuổi trở lên) từ lớp 7,56 vào năm 1999 lên khoảng lớp 9 vào năm 2010.

Triển khai tốt chủ trương xã hội hoá giáo dục. Mở rộng loại hình trường ngoài công lập ở khu vực đô thị. Hoàn thành công tác quy hoạch trường lớp, xây nhiều trường mới. Củng cố và phát triển mạng lưới các cơ sở dạy nghề, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trên địa bàn. Xây dựng Trường Cao đẳng Sư phạm thành Trường Đại học Sư phạm Thành phố đào tạo giáo viên tiểu học, trung học cơ sở có trình độ đại học.

Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho giáo viên, nhất là giáo viên ở ngoại thành. Củng cố kỷ cương, nề nếp học đường, thực hiện tốt cuộc vận động “kỷ cương – tình thương – trách nhiệm”. Kiên quyết ngăn chặn và xử lý nạn văn bằng, chứng chỉ bất hợp pháp.

3/ Về văn hoá – xã hội

Xây dựng môi trường, đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh, tiên tiến và giàu bản sắc dân tộc; xây dựng con người thành phố với những chuẩn mực của con người mới về tư tưởng, chính trị, về trình độ học vấn, về đạo đức, lối sống và thể lực.

Đầu tư thích đáng, có trọng điểm nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả các hoạt động văn học nghệ thuật, trước hết là các lĩnh vực sân khấu, ca múa nhạc, điện ảnh, xuất bản, thông tin. Đẩy mạnh công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá, tổ chức nghiên cứu sâu những đặc trưng văn hoá truyền thống Thành phố. Giới thiệu rộng rãi trong và ngoài nước các di sản và sản phẩm văn hoá Thành phố gắn với hoạt động du lịch. Tăng cường hoạt động giao lưu văn hoá, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới đi đôi với bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, chống sự xâm nhập các sản phẩm phản văn hoá đồi trụy, phản động và những khuynh hướng xa lạ, không phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc. Chú trọng nâng cao mức hưởng thụ văn hoá tinh thần ở các vùng xa trung tâm Thành phố và bà con lao động nghèo.

Tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Đến năm 2005 xây dựng 60% hộ đạt chuẩn gia đình văn hoá, 40% khu phố, ấp đạt chuẩn văn hoá. Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, nếp sống văn minh trong giao tiếp ứng xử, trong việc cưới, việc tang, lễ hội và các sinh hoạt xã hội. Thực hiện Đề án quy hoạch phát triển cơ sở vật chất ngành Văn hoá – Thông tin đến năm 2010, gắn với nâng cấp các thiết chế văn hoá, trước hết là hiện đại hoá ngành in, điện ảnh, băng từ. Bảo đảm tỷ trọng chi ngân sách cho văn hoá tương ứng nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Có chính sách tạo nguồn thu cho các đơn vị sự nghiệp, tài trợ cho các công trình, tác phẩm có tư tưởng và giá trị nghệ thuật cao.

Hoàn thiện cơ chế tổ chức các Hội chuyên ngành văn học - nghệ thuật thực sự là những tổ chức chính trị - xã hội và nghề nghiệp, thực thi có hiệu quả đường lối văn hoá – văn nghệ của Đảng. Quan tâm xây dựng đội ngũ sáng tác và lý luận phê bình, tạo thêm những nhân tố nòng cốt cho sự nghiệp văn hoá của Thành phố; tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ tiếp cận thực tế cuộc sống, có điều kiện trao đổi học tập kinh nghiệm trong và ngoài nước, gắn sự nghiệp sáng tác với nhiệm vụ chính trị - xã hội.

Phê phán, uốn nắn, xử lý kịp thời các hiện tượng lệch lạc, tiêu cực trong hoạt động văn hoá – thông tin. Có biện pháp kiên quyết ngăn chặn sự xâm nhập văn hoá ngoại lai ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội và an ninh quốc gia.

Đổi mới, phát triển sự nghiệp báo chí - xuất bản vừa giữ vững định hướng chính trị tư tưởng, vừa tăng sức hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu đa dạng, ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân; cổ vũ nhân tố tích cực, phát huy nội lực. Quy hoạch tổng thể hệ thống báo chí - xuất bản phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Thành phố. Hiện đại hóa và nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật của báo chí - xuất bản, trước hết là tăng thời lượng và chất lượng phát hình, phát thanh của Đài Truyền hình, Đài Phát thanh, tăng thêm đầu báo hàng ngày theo quy hoạch.

Về lao động - việc làm: Trong 5 năm tới, phấn đấu giải quyết việc làm cho 190.000 người/năm. Đến năm 2005, giảm tỷ lệ thất nghiệp còn khoảng 6%; số người được đào tạo chuyên môn, ngành nghề đạt 40%, trong đó 20% có tay nghề bậc 3/7 và tương đương. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện “Chương trình xoá đói giảm nghèo”.

Trên cơ sở duy trì, phát triển phong trào thể dục thể thao quần chúng, cần nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho thanh, thiếu niên, học sinh; tiếp tục thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TU của Ban Thường vụ Thành ủy khoá VI về thể dục thể thao; tập trung đầu tư một số bộ môn trọng điểm, đóng góp lực lượng cho đội tuyển quốc gia tại các cuộc thi đấu quốc tế, đặc biệt là SEA GAMES 2003 tổ chức tại Việt Nam.

Phát triển y tế theo hướng chuẩn hoá về tổ chức và quy trình hoạt động, nâng cao chất lượng, hiệu quả phục vụ, bảo đảm thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe. Củng cố mạng lưới y tế cơ sở. Mở rộng việc thực hiện chủ trương xã hội hoá các hoạt động y tế và hoàn thiện bảo hiểm y tế.

Phát triển mạng lưới nhân viên sức khỏe cộng đồng, mở rộng dịch vụ chăm sóc y tế tại nhà. Tăng cường chăm sóc sức khỏe ban đầu. Khống chế không để xảy ra dịch lớn trên địa bàn Thành phố. Giảm số mắc bệnh và tử vong do các bệnh dịch nguy hiểm (sốt rét, tả, thương hàn, sốt xuất huyết, viêm não…). Thanh toán bệnh bại liệt, uốn ván sơ sinh và bệnh phong. Ngăn chặn tốc độ phát triển của bệnh lao, HIV/AIDS. Giảm tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên còn 1,15% vào năm 2005.

Phát triển các chuyên khoa sâu, các trung tâm y tế kỹ thuật cao, ứng dụng thành tựu y học của thế giới, khuyến khích phát triển y học cổ truyền, giải quyết cơ bản tình trạng quá tải hiện nay ở các bệnh viện, nâng chất lượng khám chữa bệnh. Tập trung sắp xếp lại ngành dược, đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật nâng cao chất lượng dược phẩm, đạt tiêu chuẩn GMP của khu vực. Phát triển các cơ sở sản xuất, sửa chữa, bảo trì thiết bị y tế.

Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 55-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường lãnh đạo công tác bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em. Giáo dục và nâng cao y đức của người thầy thuốc.

Trên lĩnh vực phòng chống tệ nạn xã hội, tập trung ngăn chặn và đẩy lùi một bước quan trọng tệ nạn mại dâm, ma túy. Sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp tuyên truyền, giáo dục, kiểm tra, truy quét các ổ nhóm, đường dây mua bán, sử dụng ma túy, mua bán và chứa chấp mại dâm, xét xử nghiêm minh các vụ vi phạm; tổ chức các hình thức chữa trị, cai nghiện và bắt buộc cai nghiện tập trung gắn với giáo dục, dạy nghề và tái hòa nhập cộng đồng cho các đối tượng nghiện ma túy; bài trừ mê tín dị đoan… Mở rộng phong trào xây dựng khu phố, ấp văn hoá không có tệ nạn xã hội. Quan tâm công tác quản lý địa bàn, quản lý đối tượng để phát hiện, xử lý kịp thời những vi phạm. Tuyên truyền, đề cao trách nhiệm của mọi người, mọi gia đình và tổ chức xã hội trong việc phòng chống tệ nạn xã hội. Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong tuyên truyền, giáo dục, phòng chống ma túy trong thanh thiếu niên, học sinh và sinh viên.

4/ Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội

Giáo dục cho toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân Thành phố nhận thức và thực hiện tốt 2 nhiệm vụ chiến lược – xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; quán triệt sâu sắc về mối quan hệ hữu cơ giữa ổn định chính trị với phát triển kinh tế.

Phải trên cơ sở xây dựng, củng cố các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng “thế trận lòng dân” - bảo đảm yên tâm, mà giữ vững ổn định chính trị, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Đề cao cảnh giác, chủ động phòng ngừa và làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, gây mất ổn định chính trị, đe dọa an ninh kinh tế, khoa học – công nghệ, tư tưởng – văn hoá, đối ngoại; ngăn chặn và đẩy lùi các loại tội phạm nguy hiểm và các tệ nạn xã hội; lập lại trật tự kỷ cương trong việc chấp hành pháp luật, thiết lập trật tự đô thị.

Xây dựng Quân đội Nhân dân đủ sức đáp ứng trong điều kiện mới, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu ngày càng cao. Xây dựng Công an Nhân dân xứng đáng là lực lượng vũ trang xung kích trên mặt trận bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên từng địa bàn dân cư. Tăng cường mối quan hệ phối hợp hành động với các tỉnh bạn trong sự nghiệp củng cố quốc phòng và an ninh.

Từ những nhiệm vụ nêu trên, cần tập trung triển khai, tổ chức thực hiện có hiệu quả 12 chương trình (và công trình) trọng điểm sau đây:

1 – Chương trình công viên phần mềm Quang Trung và Khu Công nghệ cao.

2 – Chương trình phát triển nguồn nhân lực.

3 – Chương trình củng cố, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước.

4 – Chương trình nước sạch cho sinh hoạt của người dân.

5 – Chương trình xử lý rác.

6 – Chương trình chống kẹt xe nội thị.

7 – Chương trình chống ngập nước nội thị trong mùa mưa.

8 – Chương trình giống cây, giống con chất lượng cao.

9 – Chương trình di dời và tái định cư 10 ngàn hộ dân sống trên và ven kênh rạch.

10 – Chương trình thực hiện mục tiêu 3 giảm: ma túy, mại dâm và tội phạm.

11 – Công trình Đại lộ Đông Tây và đường hầm Thủ Thiêm.

12 – Công trình Khu tưởng niệm các Vua Hùng trong Công viên lịch sử văn hoá các dân tộc.

Phần thứ ba

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NHIỆM VỤ CỦA THÀNH PHỐ

Tiếp tục tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao tính chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng bộ máy chính quyền trong sạch vững mạnh, nâng cao trình độ tổ chức và chỉ đạo thực hiện Nghị quyết của Đảng và chấp hành pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân… tạo thành sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thành phố.

1/ Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên; coi trọng công tác cán bộ và đổi mới phương thức lãnh đạo.

Về chính trị, tư tưởng: Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên để tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng bộ về lý tưởng, quan điểm, đường lối và các nguyên tắc của Đảng, về định hướng, mục tiêu phát triển thành phố. Hết sức coi trọng giáo dục thực tiễn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, xây dựng nhân cách cán bộ đảng viên sống trong sạch, nêu cao tinh thần trách nhiệm tận tâm với công việc, thái độ kiên quyết chống tham nhũng, quan liêu. Phát động phong trào đảng viên nêu gương trong học tập, công tác và lối sống có văn hoá; mỗi đảng viên phải tự giác học tập Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng. Thực hiện nghiêm túc quy định của Trung ương về những điều đảng viên không được làm.

Sắp xếp lại và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống tổ chức Đảng, xác định rõ chức năng nhiệm vụ để tăng hiệu quả hoạt động; xây dựng phát triển tổ chức cơ sở Đảng và các đoàn thể chính trị trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần, các trường ngoài công lập, hợp tác xã; gắn việc xây dựng cơ sở Đảng với quá trình thực hiện dân chủ hoá cơ sở. Cải tiến sinh hoạt Chi bộ nhằm thực hiện được vai trò hạt nhân lãnh đạo, nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, đưa tự phê bình và phê bình thành nề nếp trong sinh hoạt Đảng. Từng địa phương, đơn vị công tác, chiến đấu, học tập cần xây dựng cho được mẫu hình người đảng viên gương mẫu, thể hiện tính tiên phong, tiếp cận tri thức mới, sống giản dị, trung thực, tận tụy với công việc và quan hệ mật thiết với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm. Tất cả tổ chức cơ sở Đảng đều phải có chương trình công tác xã hội để tiếp cận, thực hiện tốt mối quan hệ gắn bó giữa đảng viên với quần chúng nhân dân nơi cư trú, và phải báo cáo kết quả việc làm đó hàng quý trong sinh hoạt Đảng. Phải coi trọng chất lượng kết nạp đảng viên mới, nhất là phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực; không ngừng kiểm tra và đổi mới quy trình phát hiện, bồi dưỡng, xem xét để kết nạp được những quần chúng thật sự ưu tú vào Đảng; gắn phát triển Đảng với yêu cầu nhiệm vụ chính trị, quy hoạch cán bộ dài hạn và xây dựng cơ sở Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh. Phấn đấu đạt 70% cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh một cách thực chất.

Đổi mới công tác cán bộ của Đảng nhằm mục tiêu bao trùm là: xây dựng được đội ngũ cán bộ trung thành và trung thực, biết phát huy truyền thống cách mạng cao cả, giàu tri thức, liêm chính, năng động sáng tạo, hết lòng hết sức cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Thành phố, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng phương pháp phát hiện, quản lý, đánh giá cán bộ một cách khoa học, thống nhất trong toàn Đảng bộ nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch, đào tạo, giao nhiệm vụ phù hợp với từng cán bộ. Có chánh sách thu hút cán bộ giỏi, trọng dụng nhân tài; đầu tư và khuyến khích cán bộ học tập, kể cả học ở nước ngoài theo định hướng và quy hoạch. Coi trọng quy hoạch cán bộ lãnh đạo và quản lý ở cấp cơ sở, quận, huyện và tương đương; tiếp tục quy hoạch tạo nguồn dài hạn, từng bước phát triển đồng bộ và có hệ thống đội ngũ cán bộ từ cơ sở lên thành phố phù hợp với yêu cầu lãnh đạo, quản lý và cơ cấu lao động. Thực hiện luân chuyển cán bộ quản lý, lãnh đạo giữa các địa phương, giữa các ngành; bổ nhiệm cán bộ có thời hạn, đề cao trách nhiệm cá nhân; khắc phục tính nể nang, cục bộ, lập lại kỷ cương kỷ luật đi đôi với thực hiện dân chủ trong công tác cán bộ.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Phân định rõ giữa lãnh đạo với quản lý và điều hành trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân; đẩy mạnh phân cấp, thực hiện sắp xếp bộ máy, tinh giản biên chế, kiện toàn cơ quan tham mưu của cấp ủy. Thường xuyên kiểm tra đảng viên và tổ chức Đảng trong việc chấp hành Nghị quyết và Điều lệ Đảng. Từng cấp bộ Đảng phải nắm vững nội dung yêu cầu và phương thức lãnh đạo trong tình hình mới; xây dựng và thực hiện tốt quy chế lãnh đạo ở từng cấp, đặc biệt là cấp cơ sở phải làm tốt nhiệm vụ lãnh đạo thực hiện chủ trương, biện pháp và kế hoạch công tác, lãnh đạo việc quản lý tài chánh và cán bộ. Phải đề cao trách nhiệm quản lý và điều hành của đảng viên là người đứng đầu cơ quan, đơn vị trên cơ sở chấp hành pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết, Điều lệ Đảng. Đổi mới cách ra Nghị quyết và tổ chức triển khai Nghị quyết; tạo thế chủ động cho cấp dưới; nâng cao chất lượng sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết của cấp ủy, kịp thời tháo gỡ vướng mắc, phát huy và nhân rộng những nhân tố tích cực.

2/ Nâng cao vai trò của HĐND, xây dựng hệ thống chính quyền Thành phố có đủ năng lực quản lý; đẩy mạnh cải cách hành chính, chống tham nhũng, quan liêu.

Bảo đảm cho Hội đồng Nhân dân các cấp thực hiện đầy đủ nhất chức trách của mình. Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách hành chính trên cả 3 mặt: thể chế, tổ chức bộ máy và cán bộ; đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ hành chính trong sạch, tận tụy phục vụ nhân dân. Tiếp tục tách chức năng quản lý sản xuất kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý của các sở, ngành, để các sở, ngành chỉ thực hiện chức năng quản lý hành chính. Các sở, ngành cấp thành phố và cấp quận, huyện chỉ làm quản lý hành chính Nhà nước, không làm chủ quản các doanh nghiệp Nhà nước. Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong Đảng và trong nhân dân để bảo đảm quyền làm chủ, quyền bình đẳng của mọi người và tính nghiêm minh của pháp luật. Củng cố, kiện toàn các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Thanh tra Nhà nước Thành phố trong sạch vững mạnh; nâng cao trình độ chính trị, rèn luyện đạo đức, trau dồi nghề nghiệp của cán bộ, viên chức.

Chú trọng củng cố, xây dựng mối quan hệ giữa cơ quan Nhà nước với dân, nâng cao chất lượng tiếp dân, kịp thời giải quyết có trách nhiệm đối với khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, xử lý kịp thời cán bộ quan liêu cửa quyền, nhũng nhiễu, phiền hà dân. Có những quy định cụ thể để các đoàn thể xã hội và người dân tham gia ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp.

3/ Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị.

Tiếp tục mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, khơi dậy và động viên mọi tiềm lực của người dân Thành phố gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng; khắc phục có hiệu quả tình trạng hành chính hóa tổ chức và hoạt động của các đoàn thể.

Đối với công nhân, tăng cường chỉ đạo thực hiện chương trình xây dựng giai cấp công nhân của Thành ủy, bồi dưỡng chính trị và nâng cao tay nghề, kỹ năng lao động, trình độ học vấn, ổn định việc làm, nâng cao đời sống cho công nhân, phát triển đảng viên và đào tạo, quy hoạch từ công nhân ưu tú, cung cấp cán bộ cho Đảng và Nhà nước.

Đối với nôn dân, chú động xóa đói giảm nghèo, tiêu thụ nông sản phẩm, giải quyết việc làm, xóa mù chữ, trang bị kiến thức khoa học kỹ thuật. Tạo điều kiện để nông dân phát triển ngành nghề, tạo ra sản phẩm hàng hoá chất lượng cao, khuyến khích làm ăn hợp tác, tích cực xây dựng nông thôn mới.

Đối với trí thức, tạo điều kiện để tiếp cận thông tin, tiếp cận các thành tựu mới về khoa học và văn hóa thế giới. Có chính sách trọng dụng các chuyên gia giỏi, cán bộ khoa học, văn nghệ sĩ hứng thú trong sáng tạo và cống hiến.

Đối với thanh niên, không ngừng chăm lo bồi dưỡng và tạo mọi điều kiện cho thanh niên phấn đấu trở thành một thế hệ mới có lý tưởng cao đẹp, có tri thức, tay nghề, khả năng lao động và có ý thức trách nhiệm công dân.

Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng nam nữ, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ nữ, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe phụ nữ và trẻ con, nhất là sức khỏe đối với lao động nữ.

Đối với Cựu chiến binh, những người kháng chiến cũ, cán bộ hưu trí, tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt chính trị, làm tốt công tác vận động quần chúng, nêu cao phẩm chất cao cả của “anh Bộ đội Cụ Hồ” để giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng cho thế hệ trẻ, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh.

Đối với giới công thương gia, khuyến khích các nhà doanh nghiệp kinh doanh và cạnh tranh theo pháp luật, cải tiến công nghệ, trang thiết bị, giải quyết việc làm cho người lao động. Tạo sự liên kết giữa các doanh nghiệp, giữa công nghiệp với nông nghiệp để góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Đối với đồng bào các dân tộc, thực hiện tốt chính sách bình đẳng các dân tộc, đoàn kết tương trợ, cùng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của từng dân tộc. Nâng cao trình độ dân trí, xóa mù chữ, phổ cập tiểu học, trung học và tạo điều kiện giúp đỡ, hướng dẫn, quản lý việc dạy tiếng dân tộc. Chăm lo đời sống vật chất tinh thần; quan tâm công tác xóa đói giảm nghèo trong đồng bào dân tộc, nhất là đồng bào Chăm, Khơ Me. Tạo điều kiện thuận lợi để phát huy mọi tiềm năng kinh tế trong người Hoa về vốn, lao động, tay nghề, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh và quan hệ với thân nhân ở nước ngoài. Chú ý phát triển lực lượng chính trị và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc; đào tạo bồi dưỡng, phát huy cán bộ người dân tộc.

Đối với đồng bào các tôn giáo, động viên giáo dân các tôn giáo phát huy truyền thống yêu nước, hăng hái tham gia công cuộc đổi mới, làm tốt việc đạo, làm tròn nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tiếp tục thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng tôn giáo. Đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân. Những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi nhà, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ được bảo đảm. Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy. Phê phán và loại bỏ hoạt động mê tín dị đoan.

Đồng bào Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Cần nắm tâm tư nguyện vọng, tiềm năng của kiều bào; vận động xây dựng tổ chức kiều bào yêu nước. Kịp thời thông tin về tình hình đất nước, chính sách có liên quan đến kiều bào, quan tâm tuyên truyền đối với thân nhân của kiều bào ở trong nước, số đồng bào đã hồi hương. Hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, dạy tiếng Việt cho thế hệ trẻ. Tập hợp rộng rãi kiều bào dưới nhiều hình thức, phát huy thế mạnh của người Việt Nam ở nước ngoài về khoa học kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và đầu tư phát triển kinh tế.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Để thực hiện tốt “Đại đoàn kết toàn dân”, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động cho phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của đoàn viên, hội viên; thiết lập mối quan hệ phối hợp có nề nếp giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể với chính quyền các cấp, các ngành; khắc phục tình trạng “hành chính hoá” quan liêu, xa dân; thực hiện tốt hơn vai trò cầu nối giữa chính quyền với nhân dân. Hướng mạnh về cơ sở để phát triển và tổ chức lực lượng; phát huy chức năng bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của nhân dân, có trách nhiệm giải thích để người dân hiểu rõ trách nhiệm của mình với đất nước, lợi ích của dân với lợi ích chung; tổ chức các phong trào hành động cách mạng của nhân dân để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị - kinh tế - văn hóa xã hội – an ninh quốc phòng; phát huy vai trò của đoàn thể trong việc bảo vệ quyền lợi của hội viên, đoàn viên giám sát chính quyền, tham gia xây dựng Đảng.

Tiếp tục xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức ở Thành phố ngày càng vững chắc. Hết sức chăm lo xây dựng đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí MInh làm tốt hơn nữa chức năng giáo dục, đội hậu bị tin cậy của Đảng; tạo điều kiện tốt nhất để đoàn viên thanh niên xung kích trên các mặt trận xây dựng và bảo vệ Thành phố.

Phần thứ tư

NHỮNG GIẢI PHÁP LỚN

1/ Nhóm giải pháp về kinh tế - xã hội

Có các biện pháp đồng bộ và hiệu quả để huy động vốn đầu tư của toàn xã hội đáp ứng mục tiêu và yêu cầu tăng trưởng kinh tế. Trước hết, cần nắm vững các quy định hiện hành về chính sách khuyến khích đầu tư của Trung ương, chủ động đề xuất và thực hiện việc hỗ trợ cho nhà đầu tư, đặc biệt chú ý điều chỉnh giá thuê đất, giao quyền sử dụng đất, hỗ trợ lãi suất bằng nguồn vốn ngân sách cho các dự án đầu tư đổi mới công nghệ, di dời xí nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu, phát triển các ngành công nghệ cao… Thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc cấp phép và triển khai dự án đầu tư; chủ động phối hợp với cơ quan chức năng Trung ương phát triển thị trường vốn, tạo ra các công cụ tài chính đa dạng để thu hút vốn trung và dài hạn; tập trung hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc mọi thành phần kinh tế; có biện pháp kinh tế, tài chính, hành chánh thuộc thẩm quyền của Thành phố đối với việc đầu tư vào khu vực nông thôn và đầu tư vào các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; có chính sách hỗ trợ thiết thực đối với loại hình kinh tế hợp tác.

Triển khai đồng bộ các biện pháp và định chế hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường. Bố trí ngân sách cần thiết để tài trợ cho công tác nghiên cứu thị trường, tổ chức xuất khẩu, hướng dẫn đầu tư; lập cơ chế quản lý “một cửa” trong việc trao đổi hai chiều giữa các xí nghiệp trong khu chế xuất và các cơ sở sản xuất, kinh doanh nội địa; xúc tiến việc xây dựng trung tâm thương mại quốc tế; tổ chức lại đầu mối xúc tiến đầu tư và mậu dịch đáp ứng yêu cầu hỗ trợ đầu tư và xuất khẩu trong tình hình mới; nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành nghề trong việc làm cầu nối giữa Nhà nước với doanh nghiệp, tham gia giải quyết các quan hệ lợi ích giữa các doanh nghiệp cùng ngành cùng nghề; tổ chức các cơ quan đại diện thương mại cho các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố ở nước ngoài, trước hết ở một số thị trường quan trọng; tổ chức lại hệ thống thương nghiệp nội địa, khuyến khích đầu tư phát triển loại hình siêu thị ở các khu dân cư, phát triển hình thức thương mại - điện tử.

Lành mạnh hoá hoạt động và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước thuộc địa phương quản lý; chủ động phối hợp với các ngành Trung ương để tiếp tục tổ chức lại các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn; củng cố các Tổng Công ty Nhà nước thuộc địa phương quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản để thực sự là tổ chức kinh tế mạnh của Nhà nước; tiếp tục đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời nghiên cứu xây dựng một số doanh nghiệp Nhà nước mới trong các ngành kinh tế trọng yếu, phát triển loại hình kinh tế hỗn hợp có sự tham gia vốn của Nhà nước; củng cố các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích, nâng cao chất lượng các dịch vụ công cộng; tăng cường thanh tra, xử lý nghiêm và kịp thời các sai phạm trong hoạt động tài chính của các doanh nghiệp; cùng với Trung ương tiếp tục củng cố các ngân hàng thương mại trên địa bàn nhằm lành mạnh hoá tình hình hoạt động tài chính; nghiên cứu xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ để ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm pháp luật đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn Thành phố.

Nâng cao chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế trên địa bàn. Cần tập trung vào việc quy hoạch, kế hoạch, đề ra các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; tích cực hướng dẫn, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển; chủ động kết hợp với các cơ quan Trung ương, các doanh nghiệp thuộc Trung ương quản lý trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế trên địa bàn Thành phố; mở rộng phạm vi phân cấp quản lý Nhà nước về kinh tế cho các sở, ngành, quận, huyện gắn liền với việc sắp xếp lại và nâng cao tính hiệu quả của bộ máy quản lý hành chính Nhà nước về kinh tế, nâng cao quyền hạn và trách nhiệm cho các cấp, các ngành, giảm đầu mối trung gian, tăng cường tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của tổ chức và cá nhân. Làm thí điểm việc ký hợp đồng với giám đốc doanh nghiệp Nhà nước; xây dựng chế độ trách nhiệm và quyền lợi của người đại diện cho vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp. Thu ngân sách trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, bồi dưỡng nguồn thu, bảo đảm cho ngân sách Thành phố và hoàn thành nghĩa vụ đối với ngân sách Trung ương; thực hiện minh bạch, công khai trong phân bố và sử dụng ngân sách.

Phát động phong trào tiết kiệm rộng, mạnh trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Thành phố.

Đối với các vấn đề về văn hoá – xã hội, cần có những biện pháp để xã hội hoá ngày càng rộng mạnh và có hiệu quả đối với các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế. Nâng cao trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể trong việc phòng chống các tệ nạn xã hội. Thực hiện tốt vai trò quản lý của Nhà nước và sự giám sát của nhân dân, trách nhiệm của các cơ quan chức năng và gia đình trong việc giáo dục, kiểm tra, giải quyết ngăn chặn kịp thời các tệ nạn xã hội. Tập trung củng cố xây dựng đời sống văn hoá trên địa bàn dân cư. Đẩy mạnh phong trào thi đua ở cơ sở. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở…

Tiếp tục nghiên cứu để kiến nghị với Trung ương mở rộng cơ chế quản lý cho Thành phố trên các mặt hành chính, tài chính, đầu tư…, nâng cao tính chủ động của địa phương trong việc huy động vốn; quản lý và sử dụng ngân sách; chủ động phối hợp với các bộ, ngành giải quyết những tồn tại về vấn đề quản lý Nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ trên địa bàn; phối hợp với các địa phương trong khu vực, nhất là các tỉnh thuộc địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam để xây dựng các chương trình hợp tác trong phát triển cơ sở hạ tầng, công nghiệp, thương mại, du lịch, khoa học công nghệ, thông tin kinh tế, các công trình phúc lợi xã hội chung… nhằm khai thác được nhiều lợi thế của mỗi nơi và tạo sự phát triển bền vững cho cả khu vực, đóng góp có hiệu quả hơn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.

Các giải pháp trên cần được xây dựng thành các đề án, dự án cụ thể gắn liền với mục tiêu của 12 chương trình (và công trình) trọng điểm và các chương trình kinh tế - xã hội khác như phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, xuất khẩu, du lịch, công nghiệp, phát triển nông nghiệp và nông thôn v.v…

2/ Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực.

Tập trung phát huy cao nhất tính năng động sáng tạo của con người Thành phố cho sự phát triển thông qua những giải pháp sau đây:

Huy động tiềm năng khoa học kỹ thuật cao và lao động chất xám của đội ngũ cán bộ khoa học chuyên gia, trí thức trên địa bàn. Phải có quy chế đổi mới chính sách và phương pháp sử dụng cán bộ khoa học kỹ thuật, chuyên gia giỏi.

Liên kết các trường đại học – cao đẳng trên địa bàn để chủ động đào tạo nguồn nhân lực cho thành phố, tập trung vào hai mục tiêu trước mắt là đào tạo nhóm các ngành nghề mới, lĩnh vực mới cho sự phát triển 5 – 10 năm tới như: công nghệ sinh học, công nghiệp công nghệ phần mềm, điện tử - viễn thông, cơ khí chế tạo, sản xuất vật liệu mới; đồng thời thực hiện chương trình đào tạo 300 tiến sĩ, thạc sĩ trẻ của Thành phố với chất lượng cao.

Thúc đẩy, tạo điều kiện nâng cao trình độ tay nghề, nắm vững kỹ thuật cho đội ngũ công nhân, lao động Thành phố như: miễn, giảm thuế, cho thuê, cấp đất để xây trường; động viên các nguồn tài chính trong xã hội và xác định tỷ lệ ngân sách thỏa đáng về đầu tư xây dựng trường lớp, trang thiết bị dạy nghề; tạo điều kiện để các trường nâng cấp, mở rộng đào tạo, phát triển quan hệ quốc tế, phát triển dạy nghề bên cạnh xí nghiệp với nguồn đầu tư tài chính của doanh nghiệp; đưa công nhân kỹ thuật và giáo viên dạy nghề đi học tập nắm công nghệ mới ở nước ngoài thông qua liên doanh và hợp tác; đẩy mạnh thông tin việc làm. Dành một khoản ngân sách thỏa đáng cho việc hỗ trợ đào tạo nghề dưới hình thức đào tạo miễn phí hoặc cho vay ưu đãi để học nghề tùy theo đối tượng.

Phát huy sức đóng góp của kiều bào nước ngoài. Xây dựng các chính sách, tạo điều kiện thuận lợi vê thủ tục hành chính, pháp lý liên quan đến đi lại, nhà ở, đầu tư kỹ thuật, vốn, tay nghề cho việc phát triển kinh tế - xã hội – văn hoá giáo dục Thành phố; khuyến khích đầu tư vốn mở cơ sở sản xuất, nhất là sản xuất hàng xuất khẩu, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Tạo mối quan hệ tin cậy lẫn nhau giữa chính quyền với chủ đầu tư, sự gắn bó giữa kiều bào nước ngoài với thân nhân và nhân dân trong nước. Phát huy, khai thác thế mạnh của người Hoa ở thành phố trong việc thu hút đầu tư từ người Hoa ở nước ngoài.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác cán bộ: Từng bước nâng cao chất lượng tuyển dụng cán bộ, thực hiện tốt chương trình tạo nguồn cán bộ dài hạn theo quy hoạch trong lực lượng trẻ của công nhân, lực lượng vũ trang, xã viên hợp tác xã, viên chức trẻ, sinh viên học sinh ưu tú có tâm huyết cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thực hiện kế hoạch trung hạn phát hiện, quy hoạch đào tạo cán bộ trẻ ưu tú cấp cơ sở có thành tích xuất sắc, giác ngộ lý tưởng cách mạng, gắn với xây dựng cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, cơ sở đoàn thể chính trị xuất sắc, cơ sở các đơn vị anh hùng trong lực lượng vũ trang, các hợp tác xã làm ăn giỏi và cơ sở các cơ quan hành chính Nhà nước, sự nghiệp có thành tích cao trong nhiều năm.

Tăng đầu tư cho trường đào tạo cán bộ Thành phố, đổi mới nội dung và phương pháp nâng cao chất lượng dạy và học. Xây dựng chương trình huấn luyện phù hợp với yêu cầu học tập của công chức, tăng thời lượng đào tạo thực hành cho cán bộ; thực hiện đào tạo lý luận hệ chính quy tập trung dài hạn, ngắn hạn cho cán bộ trẻ (không nhất thiết là đảng viên hoặc cán bộ đương chức).

Thực hiện các biện pháp sàng lọc, nâng chất đội ngũ thông qua kiểm tra, đánh giá xếp loại công chức, viên chức hàng năm; kiên quyết áp dụng biện pháp hành chính – kinh tế để thay thế số cán bộ yếu kém không có khả năng vươn lên. Thực hiện nghiêm việc sát hạch trình độ và căn cứ tiêu chuẩn khi nâng ngạch, bậc, chuyển ngạch. Khuyến khích cơ quan, đơn vị có điều kiện quan tâm bồi dưỡng lao động có kỹ thuật cao và nghề nghiệp chuyên sâu, người lao động giỏi.

Tạo ra sự liên thông giữa địa bàn và lĩnh vực, giữa các ngành, các cấp, tập trung thựchiện cho được 3 giải pháp: Luân chuyển cán bộ, bổ nhiệm cán bộ có thời hạn và hình thành quy chế điều phối, luân chuyển cán bộ toàn Thành phố.

Củng cố nâng cao chất lượng của cán bộ và cơ quan tham mưu về công tác cán bộ, sự phối hợp và trách nhiệm của cấp ủy các cấp, các ngành trong công tác cán bộ của Đảng. Trong 5 năm tới nhắm vào 2 mục tiêu tối ưu hoá bố trí, sử dụng và phát triển tạo nguồn dài hạn, trung hạn trong quy hoạch, nâng dần chất lượng đội ngũ ở cơ sở.

3/ Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền:

Đổi mới phương thức lãnh đạo đối với chính quyền, theo hướng: phát huy đầy đủ hiệu lực quản lý và điều hành của chính quyền; cấp ủy Đảng thực hiện việc lãnh đạo và kiểm tra cán bộ, đảng viên hoạt động trong các cơ quan chính quyền, không can thiệp các công việc thuộc chức năng của chính quyền, tạo điều kiện để chính quyền chủ động trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước và chịu trách nhiệm trước cấp ủy Đảng.

Cấp ủy định kỳ làm việc với Đảng đoàn, lãnh đạo Hội đồng Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, nhằm: phát huy tính chủ động, sáng tạo của đoàn thể, Mặt trận; trách nhiệm bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân và giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, duy trì và phát triển các phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Đặc biệt chăm lo xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh để không ngừng phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của Đoàn và tạo nguồn bổ sung chủ yếu cho phát triển Đảng.

Đổi mới và kiện toàn các Ban và cơ quan tham mưu của cấp ủy đủ sức thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng Ban và mối quan hệ phối hợp giữa các Ban; tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu của mỗi Ban và trách nhiệm phối hợp giữa các Ban với nhau trong việc nắm thông tin, kiểm tra thực hiện Nghị quyết, tham mưu đề xuất những chủ trương, giải pháp, chánh sách sát hợp, khả thi… Có chính sách sử dụng tốt số cán bộ hưu trí còn sức khỏe và khả năng làm tham mưu cho cấp ủy.

Đổi mới cách ra Nghị quyết và tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết. Nâng cao chất lượng các cuộc họp của cấp ủy; giảm tối đa việc tham dự của cán bộ lãnh đạo vào các cuộc họp, hội nghị, hội thảo, để giành nhiều thời giờ chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, sơ kết, tổng kết, nhân điển hình tiên tiến, giải quyết công việc, đi sát cơ sở và nghiên cứu tự học.

Thực hiện phong cách làm việc theo quy chế, theo chương trình; từng bước hiện đại hoá các công cụ, phương tiện phục vụ nắm thông tin và triển khai các quyết định của cấp ủy.

Tiếp tục sắp xếp bộ máy và thực hiện cải cách thủ tục hành chính, nhất là thủ tục cấp phép về nhà - đất; rà soát kỷ để loại bỏ các văn bản pháp quy đã lỗi thời, gây phiền hà cho dân; hoàn thiện và tiếp tục thực hiện mô hình một cửa một dấu; nâng cao hiệu lực thi hành của các văn bản pháp quy.

Tăng cường phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động, thẩm quyền và trách nhiệm của quận, huyện; kiện toàn bộ máy và cán bộ chính quyền các cấp có đủ phẩm chất và năng lực chuyên môn nghiệp vụ, có trách nhiệm với dân, với công cụ để quản lý, giải quyết đúng thẩm quyền những vấn đề do cuộc sống đặt ra.

Xác định trách nhiệm của tập thể và trách nhiệm cá nhân, nhất là chế độ chịu trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu.

Tăng cường kỷ cương trong thi hành luật pháp, quản lý đô thị. Chú ý giáo dục, bồi dưỡng ý thức chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật, tăng cường chức năng kiểm tra và thực hiện thưởng phạt nghiêm minh; xây dựng và bảo đảm thực hiện nếp sống văn minh, trật tự đô thị; thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục – kinh tế - hành chánh để mọi người có ý thức chấp hành luật pháp, sống và làm việc theo pháp luật.

*

**

Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VII ý thức sâu sắc trách nhiệm nặng nề của mình đối với khu vực và cả nước bước sang đầu thế kỷ và thiên niên kỷ mới, với nhiều thời cơ thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn thách thức. Với truyền thống đoàn kết và cách mạng, Đảng bộ Thành phố quyết ra sức khắc phục những yếu kém, xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt với công nhân lao động, với quần chúng nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, động viên toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân Thành phố phát huy tính năng động sáng tạo, tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, mục tiêu Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VII đề ra, mãi mãi xứng đáng là Thành phố mang tên Bác.


Tin khác

Thông báo