(Báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, do đồng chí Phan Minh Tánh, Phó Bí thư Thành ủy, trình bày tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ III - đợt 2 ngày 7-11-1983)
PHẦN I
TÌNH HÌNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ VÀ NHỮNG ƯU KHUYẾT ĐIỂM
TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG
Hơn 8 năm qua, kể từ ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhất là từ Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ hai (tháng 10-1980) đến nay, qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, được sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn kính mến, Đảng bộ và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã trưởng thành nhanh chóng, đạt nhiều thành tựu quan trọng.
Đảng bộ Thành phố sinh ra và lớn lên trong phong trào cách mạng của quần chúng, đã trải qua nhiều chặng đường chiến đấu gian khổ, thử thách gay go quyết liệt suốt thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, luôn luôn gắn bó với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Từ ngày giải phóng đến nay, chuyển sang thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, ở một thành phố rất sôi động và phức tạp, phải triển khai nhanh và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của xã hội, Đảng bộ đã phát huy truyền thống và duy trì được phong trào hành động cách mạng của quần chúng, phấn đấu không ngừng, luôn giữ được tính năng động, nhạy bén, sát cơ sở và có ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp cách mạng của Thành phố và trong cả nước.
Từ 102 Chi bộ ở nội ngoại thành với 4.175 đảng viên trước ngày giải phóng, đến nay Đảng bộ Thành phố có 1.806 cơ sở Đảng với 46.907 đảng viên được bố trí ở khắp các lĩnh vực; đội ngũ cán bộ phát triển khá đông, gồm cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, với nhiều nguồn hợp lại.
Nhân dân lao động Thành phố nhất là giai cấp công nhân có tinh thần yêu nước nồng nàn, có truyền thống cách mạng kiên cường, lại rất năng động và giàu sáng tạo, một lòng một dạ tin yêu Đảng, kể cả những lúc khó khăn nhất.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng bộ Thành phố bộc lộ những mặt mạnh, mặt yếu sau đây:
1- Mặt mạnh:
Nói chung cán bộ đảng viên một lòng vững tin vào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ, đoàn kết nhất trí, có quyết tâm cao trong việc chấp hành đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, có ý thức đi sát thực tế ở cơ sở, phát hiện vấn đề mới trong quá trình vận dụng thực hiện nhiệm vụ trong tình hình có nhiều khó khăn phức tạp của một Thành phố mới giải phóng đang ở bước đầu của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Đại đa số đồng chí đã giữ vững nhiệt tình cách mạng và phát huy tinh thần cách mạng tiến công, có ý thức trách nhiệm đối với Đảng, đối với quần chúng lao động; phát huy được tính năng động, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm; xây dựng và duy trì nhiều phong trào quần chúng để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ nòng cốt, đào tạo cán bộ, phát triển Đảng, hướng các đoàn thể quần chúng dần dần chuyển hoạt động vào lĩnh vực kinh tế, xã hội, luôn luôn quan tâm chăm lo đời sống công nhân và nhân dân lao động; có ý thức cảnh giác đối với kẻ thù trong việc bảo đảm an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội.
- Các nguồn cán bộ, đảng viên gồm nhiều lứa tuổi, thế hệ, biết hỗ trợ bổ sung cho nhau, đoàn kết gắn bó với nhau, có một bước trưởng thành và tích lũy một số kinh nghiệm thành công cũng như vấp váp trong quản lý kinh tế, xã hội.
Đa số cán bộ, đảng viên giữ vững được phẩm chất đạo đức cách mạng, phấn đấu không ngừng để vượt qua khó khăn trong cuộc sống và trong lao động, chiến đấu, công tác để làm tròn nhiệm vụ ở một môi trường có nhiều tác động của lối sống cũ và kẻ thù luôn luôn tìm cách phá hoại, làm hư hỏng cán bộ.
2. Mặt yếu:
Giác ngộ về cách mạng xã hội chủ nghĩa chưa cao, lập trường quan điểm giai cấp công nhân chưa thật kiên định, nhận thức chưa sâu sắc về nội dung của thời kỳ quá độ, về chặng đường trước mắt, về tính gay go phức tạp trong cuộc đấu tranh giai cấp giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa cũng như chưa gắn chặt cuộc đấu tranh ấy với cuộc đấu tranh chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù; còn mơ hồ và chưa cảnh giác đúng mức, nhất là trên lĩnh vực đấu tranh kinh tế và trên mặt trận văn hoá văn nghệ. Nhận thức và thực hiện công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa chưa đầy đủ, nên có thời gian buông lỏng cải tạo để cho những nhân tố tự phát tư bản chủ nghĩa phát triển, nhất là trên mặt trận phân phối lưu thông, chưa quan tâm tăng cường đúng mức kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa trong giai đoạn mới chưa làm rõ, chưa trở thành một động lực thúc đẩy mọi hành động của người cán bộ đảng viên; ý chí chiến đấu cách mạng có phần bị giảm sút; những biểu hiện vô trách nhiệm, vô tổ chức kỷ luật, gây mất đoàn kết, mất dân chủ nội bộ, coi thường pháp luật, cửa quyền, trù dập quần chúng, tham ô, hối lộ, làm ăn bất chính, sinh hoạt bê tha… tồn tại trong một bộ phận cán bộ đảng viên. Tình hình tiêu cực, suy thoái trong nội bộ và ngoài xã hội chưa được ngăn chặn có hiệu quả.
- Đội ngũ Đảng còn ít về số lượng và yếu về chất lượng, phát triển và bố trí không đồng đều, lực lượng còn rất mỏng nhất là trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, thương nghiệp, trường học phổ thông, đơn vị văn hoá – văn nghệ. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ tập thể, Nhà nước quản lý” chưa được hiểu sâu sắc và thực hiện chưa đồng bộ, còn nhiều lúng túng trong hoạt động thực tiễn bởi chưa cụ thể hoá thành quy chế ở từng cấp, từng ngành, từng loại tổ chức cơ sở. Đề ra nhiều chủ trương, quyết định đúng đắn nhưng triển khai chậm, có mặt trì trệ. Năng lực tổ chức thực hiện yếu, tinh thần hiệp đồng thấp. Chưa coi trọng kiểm tra thực hiện nghị quyết. Coi nhẹ tổng kết, hội nghị nhiều nhưng chất lượng ít. Giấy tờ, hành chánh, sự vụ còn nặng.
Những thành tích và tồn tại cũng như những mặt mạnh và yếu của Đảng bộ đều có liên quan chặt chẽ đến những ưu, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức.
I. ĐẢNG BỘ ĐÃ CÓ NHỮNG CỐ GẮNG NHẤT ĐỊNH VÀ ĐẠT ĐƯỢC NHỮNG KẾT QUẢ QUAN TRỌNG VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VÀ TỔ CHỨC
1- Trước hết, Đảng bộ đã coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm nâng cao trình độ giác ngộ của cán bộ, đảng viên về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về truyền thống cách mạng, lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa kết hợp với giáo dục tình hình, nhiệm vụ của Thành phố trong giai đoạn mới, đề cao tư tưởng cách mạng tiến công, tinh thần trách nhiệm, ý thức chủ động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng và quần chúng.
Những đường lối, chính sách lớn của Đảng, những nghị quyết, chỉ thị quan trọng của Trung ương và của Thành ủy được phổ biến và thảo luận rộng rãi đến các cấp, các ngành; 54% đảng viên đã được học tập lý luận cơ bản Chủ nghĩa Mác – Lênin. Gần đây toàn Đảng bộ đã tiến hành sâu rộng các đợt sinh hoạt chính trị học tập Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5, các Nghị quyết 01 và 03 của Bộ Chính trị, Nghị quyết BCH TW lần thứ 3 và 4, và kết luận của Bộ Chính trị về công tác của Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, đã nâng cao thêm một bước về nhận thức đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, củng cố lập trường, quan điểm giai cấp công nhân, nắm vững mục tiêu và phương hướng, mở rộng tầm nhìn cho Đảng bộ trước tình hình mới, và đã có chuyển biến bước đầu trong việc đề ra chương trình hành động trên các mặt công tác, nhất là trên lĩnh vực lãnh đạo quản lý kinh tế, quản lý xã hội và trong tổ chức thực hiện.
2- Các tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản từ thành đến cơ sở được kiện toàn từng bước, nhất là khâu tổ chức cơ sở Đảng.
a. Bộ máy chính quyền ở các cấp đã có sự đổi mới về cơ cấu và hoạt động.
- Ở cấp Thành, Hội đồng nhân dân được tăng thêm lực lượng khoa học kỹ thuật, chuyên môn, sinh hoạt và làm việc có nền nếp hơn. Ủy ban Nhân dân có sự phân công hợp lý hơn, đã có mức tập trung giải quyết công tác trọng tâm trước mắt, chỉ đạo quản lý – kinh tế xã hội và các mặt công tác của Thành phố có hiệu lực hơn. Các Sở, Ban, Ngành ngày càng đi sâu vào nhiệm vụ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, có quan tâm đến hiệu quả công tac.
- Ủy ban Nhân dân và các Phòng, Ban của Quận, Huyện được tăng cường nhiều cán bộ, đã cùng với Ủy ban Nhân dân và các cơ quan chính quyền Phường, Xã (gồm phần lớn cán bộ trưởng thành từ 30-4-1975), tích cực điều hành công việc trong hoàn cảnh xã hội còn nhiều khó khăn phức tạp, đã góp phần quan trọng tạo nên những chuyển biến mới trong 3 năm qua về sản xuất công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, nông nghiệp, về phân phối lưu thông, về giải quyết công ăn việc làm cho dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh, sự nghiệp, bộ máy chỉ đạo điều hành cùng với các bộ môn nghiệp vụ, được bổ sung dần những cán bộ có kiến thức quản lý, khoa học, kỹ thuật.
b. Các đoàn thể quần chúng, kể cả những tổ chức theo tính chất nghề nghiệp, đã có bước phát triển mới về số lượng và chất lượng. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội nông dân tập thể, Hội trí thức yêu nước đã phát huy được vai trò trách nhiệm và đóng góp ngày càng nhiều cho công cuộc cải tạo và xây dựng của Thành phố. Ban chấp hành các đoàn thể được kiện toàn, đã có những cố gắng động viên phong trào quần chúng tham gia vào sự nghiệp cách mạng ở Thành phố.
- Hoạt động của Công đoàn đã tập hợp trên 92% quần chúng công nhân viên chức vào tổ chức Công đoàn, và 79% quần chúng lao động tiểu thủ công nghiệp vào Hội Lao động hợp tác. Công đoàn đã thực hiện từng bước giáo dục về lập trường quan điểm giai cấp công nhân trong công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, về nâng cao ý thức làm chủ tập thể, nâng cao trình độ văn hoá, nghề nghiệp, nổi rõ nhất là đã tổ chức tốt phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện vượt mức kế hoạch Nhà nước, đã có 34.000 sáng kiến có giá trị làm lợi cho Nhà nước hàng trăm triệu đồng, xuất hiện hàng vạn lao động tiên tiến, 7.000 chiến sĩ thi đua, gần 1.000 tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa. Công đoàn đã cùng chính quyền tích cực chăm lo đời sống vật chất, văn hoá, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao phúc lợi tập thể cho công nhân viên chức.
- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, cánh tay đắc lực và đội hậu bị tin cậy của Đảng được Đảng bộ thường xuyên theo dõi, lãnh đạo chặt chẽ và hướng các phong trào hoạt động cách mạng của Đoàn vào việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng của Thành phố. Đoàn đã có nhiều hoạt động tích cực. Với các phong trào “Thi đua vượt mức khoán”, “Thi thợ giỏi”, các công trình Thanh niên, áp dụng khoa học kỹ thuật, thực hành tiết kiệm, phong trào Thanh niên xung kích bảo vệ Tổ quốc…, Đoàn đã góp phần quan trọng trong việc khắc phục các khó khăn, quản lý thị trường, chăm lo đời sống nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, hoàn thành nhiệm vụ tuyển quân trong nhiều năm liền.
Đoàn cũng đã quan tâm thực hiện khá tốt nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng bằng nhiều hình thức phong phú.
Qua các phong trào, Đoàn đã nâng cao được năng lực tập hợp, giáo dục quần chúng: đưa từ 50% - 70% số thanh niên vào tổ chức. Số lượng đoàn viên phát triển ngày càng tăng chiếm tỷ lệ 14% so với tổng số thanh niên.
Đoàn đã phát huy trách nhiệm tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở, thường xuyên gắn bó và tiếp thu sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức Đảng, góp ý kiến với Đảng về chủ trương công tác, tiến hành nhận xét phê bình cán bộ, đảng viên và đã giới thiệu cho tổ chức Đảng hàng chục ngàn đoàn viên ưu tú để phát triển Đảng.
c. Với ý thức sâu sắc Đảng là hạt nhân lãnh đạo chính trị trong hệ thống chuyên chính vô sản, Đảng bộ Thành phố đã không ngừng nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của các cấp ủy Đảng.
Thành ủy đã chú ý kiện toàn các Ban Đảng, đã thành lập được các Ban Kinh tế, tăng thêm cán bộ có trình độ chính trị, chuyên môn, bước đầu có tác dụng giúp cấp ủy theo dõi nghiên cứu các mặt công tác, tạo điều kiện cho sự lãnh đạo của Thành ủy ngày càng đi vào toàn diện hơn, có chất lượng hơn.
- Cấp ủy Quận, Huyện được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, được đổi mới về cơ cấu cho phù hợp với vị trí và nhiệm vụ, tăng thêm cán bộ khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ từ 26% lên 30%, cán bộ được bồi dưỡng chính trị ở Trường Đảng lên gần 80%, tăng thêm số cán bộ trẻ từ 17% lên 37%, số cán bộ trẻ ở cơ sở trưởng thành trong phong trào chiếm 22% trong các quận, Huyện ủy.
Nhiều Quận ủy, Huyện ủy trưởng thành nhanh, rõ nhất là về chỉ đạo cơ sở Phường, xã, về lãnh đạo quản lý kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng với tinh thần tích cực chủ động trong công tác và ý thức trách nhiệm đối với quần chúng. Có 1/3 số Quận, Huyện được Thành ủy xác định đạt thành tích xuất sắc. Huyện Hóc Môn được Trung ương Đảng công nhận và biểu dương là Đảng bộ Huyện vững mạnh.
- Xây dựng và kiện toàn cơ sở là mối quan tâm hàng đầu của Đảng bộ Thành phố. Tư tưởng chỉ đạo của Thành ủy là hướng về cơ sở, đi sâu, đi sát cơ sở, giúp đỡ cơ sở, dồn sức cho cơ sở. Vì vậy Đảng bộ đã có phương hướng và biện pháp tích cực nhằm xây dựng và tăng cường tổ chức Đảng ở cơ sở, bao gồm cả việc quy hoạch xây dựng lực lượng, kết nạp vào Đảng những công nhân ưu tú và những người lao động khác đủ tiêu chuẩn, xây dựng cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao chất lượng Đại hội cơ sở, cải tiến sinh hoạt Chi bộ, xây dựng cơ chế tổ chức xí nghiệp, phường, xã, phát động và tổ chức phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, học và nhân điển hình tiên tiến v.v…
Mặc dù hoàn cảnh khó khăn liên tiếp, các cơ sở Đảng đã giữ vững vị trí, không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực lãnh đạo của mình, có trưởng thành rõ rệt, nhất là ở cơ sở phường và có mức ở xí nghiệp và xã. Cơ sở Đảng được Thành ủy lựa chọn và biểu dương là cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh mỗi năm tăng lên và thêm nhiều dạng phong phú hơn: năm 1980 có 74 cơ sở, năm 1981 lên 117 cơ sở và năm 1982 lên 175 cơ sở (gồm có 26 xí nghiệp công nghiệp, 7 đơn vị kinh doanh, cung ứng dịch vụ, 41 phường, 17 xã và thị trấn, nông trường, 18 trường học, 4 bệnh viện, 3 trạm, viện nghiên cứu, 15 đơn vị công an quânsự, lực lượng thanh niên xung phong và 44 cơ quan) trong đó có 31 cơ sở được biểu dương 3 năm liền.
3. Không ngừng xây dựng đội ngũ đảng viên, đại bộ phận đảng viên trưởng thành không những qua các trường lớp, các đợt sinh hoạt chính trị và sinh hoạt Chi bộ thường kỳ, mà còn qua thực tiễn đấu tranh cách mạng.
Đảng bộ đã tổ chức nhiều đợt tự phê bình và phê bình đảng viên, có sự tham gia đóng góp ý kiến của quần chúng, sâu sắc nhất và thông qua phát thẻ đảng viên và tổng kết phát thẻ đảng viên gắn với sinh hoạt chính trị học tập nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 5 và tiến hành Đại hội Đảng cơ sở. Mới đây, trên cơ sở nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 3 và 4, nghị quyết 01 và kết luận của Bộ Chính trị về công tác của Thành phố Hồ Chí Minh, Đảng bộ lại tiến hành kiểm điểm phê bình, tự phê bình trong toàn Đảng bộ, trên mọi lĩnh vực công tác. Nhận thức của đảng viên đã được nâng lên, ý thức rõ hơn về nội dung đấu tranh giai cấp gắn liền với đấu tranh giữa ta và địch, làm cho đảng viên thấy rõ hơn và sâu sắc hơn về tiêu chuẩn, vị trí và trách nhiệm người đảng viên đối với nhiệm vụ cách mạng, đối với Đảng, với quần chúng, đấu tranh phê phán với những biểu hiện sai trái, góp phần hạn chế, ngăn chặn các mặt tiêu cực trong nội bộ Đảng, tạo được khí thế mới trong Đảng. Sinh hoạt Đảng, phân công đảng viên và quản lý đảng viên được thực hiện đều hơn, chặt chẽ hơn. Các cơ sở Đảng được củng cố một bước về tư tưởng và tổ chức, đã có tác động thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ sở. Trên 95% đảng viên được xác định đủ tư cách nhận thẻ đảng viên, trên 4% phải đưa ra khỏi Đảng.
Từ năm 1980 đến nay, đã kỷ luật 3.909 đảng viên, trong đó khai trừ và đưa ra khỏi Đảng bằng các hình thức khác là 1.926 người. Trong số bị kỷ luật, có 21,44% vi phạm về tham ô, ăn cắp, hối lộ, làm ăn phi pháp; 19,08% bỏ nhiệm vụ, bỏ sinh hoạt Đảng, mất đoàn kết nội bộ; 27,53% sinh hoạt bê tha; 13,38% thiếu trách nhiệm. Có 15,27% là cấp ủy viên các cấp, phần đông ở cơ sở.
Công tác bảo vệ Đảng đang giải quyết những tồn tại của giai đoạn trước và tiếp tục nghiên cứu bảo vệ Đảng trong tình hình Thành phố đang diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa ta và địch, cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.
Từ Đại hội tháng 10-1980 đến nay, Đảng bộ đã kết nạp 7.881 đảng viên mới (nếu tính cả trong tám năm là 13.183). Đó là những quần chúng ưu tú đã được rèn luyện, thử thách trong phong trào cách mạng hằng ngày ở cơ sở. Tuyệt đại bộ phận bảo đảm chất lượng tốt và ngày càng phát huy átc dụng, góp phần bảo đảm chất lượng tốt và ngày càng phát huy tác dụng, góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Chi bộ, nhất là ở người đảng viên mới giữ cương vị phụ trách hoặc có trình độ nghiệp vụ, kỹ thuật, có trên 70% ở độ tuổi thanh niên, gần 92% trình độ văn hoá cấp 2 trở lên (có 12% trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học).
4. Đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành nay đã lên đến 4.000 người, cộng với trên 11.000 cán bộ sơ cấp các loại, đang làm nòng cốt trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác ở thành phố.
Trong việc lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ, Thành ủy đã coi trọng bảo đảm phẩm chất và năng lực, tăng cường đoàn kết và phát huy các loại, các nguồn cán bộ, nhằm hỗ trợ bổ sung cho nhau. Nhìn lại đến nay thấy rõ: số cán bộ trưởng thành trong phong trào, qua công tác thực tiễn, từng bước tích lũy được kinh nghiệm và kiến thức quản lý kinh tế, quản lý xã hội; số cán bộ các nơi tăng cường cho Thành phố dần dần khắc phục được những bỡ ngỡ ban đầu, thâm nhập phong tào cách mạng của quần chúng, vận dụng kiến thức và nghiệp vụ từng bước có kết quả hơn; số cán bộ chuyên môn khoa học kỹ thuật và nghiệp vụ mới giải phóng đã dần dần hiểu rõ đường lối của Đảng, thông cảm được hoàn cảnh của đất nước, đang cố gắng đem tài năng đóng góp vào sự nghiệp cách mạng chung. Trong việc bố trí cán bộ, Thành ủy coi trọng những Ban, Ngành, các đơn vị quan trọng ở các cấp, các ngành.
Việc bổ sung cán bộ để sắp xếp ổn định cho một số tổ chức mới ở các cấp, các ngành cùng với việc huy động các đợt công tác đột xuất, được thực hiện khẩn trương và cũng qua đó chọn lựa được nhiều nhân tố mới, phát hiện và thanh lọc những phần tử suy thoái, góp phần nắm chắc thêm đội ngũ cán bộ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng và quy hoạch cán bộ đã được thực hiện bước đầu. Thành ủy quan tâm đẩy mạnh việc đào tạo bồi dưỡng cả 3 mặt: lý luận chính trị, quản lý kinh tế, nghiệp vụ kỹ thuật, văn hoá. Ba năm qua đã có thêm 911 đồng chí học trường Nguyễn Ái Quốc, Trường Nguyễn Văn Cừ, Trường tại chức Chính trị và quản lý kinh tế, một số đi học nước ngoài. Công tác bảo vệ sức khỏe cán bộ và thực hiện chính sách, chế độ đối với cán bộ lão thành, cán bộ hưu trí có nhiều cố gắng hơn trước.
5. Công tác kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của Đảng đã cố gắng bám sát và phục vụ các yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng.
Gần đây việc xây dựng nền nếp giữ gìn kỷ luật được triển khai ở trên một ngàn cơ sở Đảng, và công tác thí điểm về việc tổ chức kiểm tra thực hiện các quyết định ở cấp cơ sở và cấp Quận, Huyện đã thu được kết quả tốt, cần được kịp thời sơ kết và nhân rộng hơn nữa.
II. BÊN CẠNH NHỮNG VIỆC LÀM ĐƯỢC CÓ KẾT QUẢ NHƯ TRÊN, CÒN NHIỀU THIẾU SÓT, TỒN TẠI QUAN TRỌNG SAU ĐÂY:
1. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng tiến hành chưa kịp thời, chưa sắc bén, chưa gắn chặt đường lối nghị quyết của Đảng với diễn biến thời cuộc trong nước và thực tiễn cách mạng ở thành phố.
Giáo dục chưa sâu sắc liên tục, có hệ thống về chuyển biến giai đoạn cách mạng, về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về thời kỳ quá độ. Thiếu kết hợp chặt giáo dục đường lối chung với giáo dục lý tưởng và đấu tranh giai cấp giữa hai con đường trong điều kiện còn 5 thành phần kinh tế, đấu tranh chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của bọn bành trướng Bắc Kinh câu kết với đế quốc Mỹ và các bọn phản động khác. Công tác giáo dục thường dừng lại ở những chủ trương, quan điểm lớn, không đi sâu cụ thể hoá từng lĩnh vực, từng vấn đề, từng địa phương chỉ ra biện pháp tổ chức thực hiện, tháo gỡ khó khăn và đề phòng những sơ hở, lệch lạc có thể xảy ra trong quá trình thực hiện. Việc đề cao danh hiệu đảng viên chưa được coi trọng. Những biểu hiện sai trái về quan điểm lập trường giai cấp, thiếu cảnh giác, mơ hồ trước âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, cá nhân chủ nghĩa, tiêu cực với nhiều hình dạng… không được kịp thời phân tích phê phán. Những thiếu sót buông lỏng trong cải tạo công thương nghiệp, chần chờ trong cải tạo nông nghiệp, chống văn hoá phản động, đồi trụy để kéo dài, không đấu tranh triệt để. Những lệch lạc trong quá trình bung ra sản xuất thực hiện kế hoạch ba phần, thực hiện ba lợi ích, làm xuất nhập khẩu cũng như những biểu hiện cục bộ, tự do, tùy tiện, vi phạm luật pháp… không được kịp thời chỉ ra, nhắc nhở và ngăn chặn liên tục.
2. Việc bảo đảm cơ chế tổ chức hoạt động theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, chính quyền quản lý còn nhiều vấn đề tồn tại:
a. Trong lãnh đạo và chỉ đạo của cấp Thành, thường xuyên phải tập trung giải quyết những công việc hằng ngày, đột xuất, chưa dành thời gian và trí tuệ đúng mức trong việc tổng kết những vấn đề lớn, cũng như nghiên cứu những vấn đề cơ bản, lâu dài trong quá trình thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Trung ương. Các Ban của Đảng và các Sở, Ngành chính quyền, đoàn thể chưa chú ý đúng mức việc bố trí hợp lý cán bộ và bộ máy thực hiện kết hợp hai loại công việc này, chưa làm tốt việc theo dõi, hướng dẫn, quản lý, kiểm tra theo chức năng của ngành.
b. Nhiều cấp ủy Quận, Huyện, Phường, Xã còn làm một số mặt công tác của chính quyền, đáng lẽ phải phát huy vai trò và hiệu lực của chính quyền, trong khi đó việc chỉ đạo công tác xây dựng Đảng, công tác chính trị, tư tưởng, công tác quần chúng không được quan tâm đúng mức và cũng không phát huy trách nhiệm kiểm tra thực hiện nghị quyết đối với các ngành, các cấp.
Hội đồng nhân dân còn nhiều nơi chưa phát huy đầy đủ chức năng của mình (nhất là cấp cơ sở). Hiệu lực chỉ đạo của Ủy ban Nhân dân chưa mạnh. Chính quyền các cấp chưa thật sự phát huy và thường xuyên phối hợp các đoàn thể quần chúng, chưa kết hợp chặt chẽ giữa việc xây dựng phong trào với củng cố, phát triển lực lượng. Tỷ lệ hội viên, đoàn viên còn thấp, chất lượng cũng còn yếu, hoạt động của Ban chấp hành không đều, công việc thường dồn vào cán bộ phụ trách chủ chốt. Công tác Dân vận nói chung còn yếu.
Các cấp ủy Đảng cũng chưa thật sự phát huy vai trò Công đoàn trong việc lựa chọn bồi dưỡng, giới thiệu những quần chúng ưu tú cho Đảng, trong việc xây dựng quy hoạch đào tạo cán bộ trẻ xuất thân từ công nhân.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chưa coi trọng đúng mức việc giáo dục lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, giáo dục cuộc đấu tranh giai cấp kết hợp chặt chẽ với việc phát động các phong trào. Phương thức hoạt động của Đoàn trong khu vực trường học, cơ quan hành chánh sự nghiệp còn lúng túng.
Đối với các mặt phong trào, cũng như việc xây dựng lực lượng nòng cốt của Đoàn chưa thật tập trung vào mặt trận cải tạo, khu vực trọng tâm cấp bách như lưu thông phân phối, khu vực trường học, ngành thuế, điện, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp, đấu tranh chống tiêu cực. Công tác bồi dưỡng đưa thanh niên vào Đoàn còn chậm, kể cả trong thanh niên công nhân.
Nhiều cơ sở Đảng chưa quan tâm lãnh đạo Đoàn, còn nặng sử dụng mà chưa tạo điều kiện cho Đoàn trưởng thành, khuynh hướng chưa tin lực lượng trẻ còn phổ biến. Các mặt công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ Đoàn, các chính sách chế độ cho hoạt động Đoàn chưa được đặt ra đúng mức. Đối với chính quyền và các Ban, Ngành đoàn thể khác, sự cộng tác với Đoàn còn ở mức quan tâm, hỗ trợ, chưa nâng lên thành cơ chế phối hợp hành động chặt chẽ, có kế hoạch và lâu dài.
c. Việc phân công, phân cấp quản lý giữa Thành với Quận, Huyện và cơ sở tuy sớm có chủ trương nhưng thi hành có mặt còn trì trệ.
Biên chế hành chánh, gián tiếp cồng kềnh ở các cấp, kể cả ở cơ sở sản xuất, kinh doanh và ngày càng có xu hướng phát triển. Nguyên nhân là chưa tiêu chuẩn hoá chức danh cán bộ, nhân viên, các thủ trưởng đơn vị ngại giảm người sẽ không làm được việc, các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể chưa phát huy trách nhiệm tham gia cải tiến công tác, sửa đổi lề lối làm việc trong đơn vị; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên còn hạn chế.
d. Việc xây dựng mô hình Quận, Huyện là một vấn đề mới, triển khai còn lúng túng, chưa được tổng kết rút kinh nghiệm. Cơ chế Phường đã có bước triển khai tốt, nhưng triển khai cơ chế xí nghiệp và xã chưa mạnh, nhiều ngành chủ quan chưa quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện cho cơ sở thực hiện. Nhìn chung năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng còn hạn chế, tính chiến đấu không cao, công tác nội bộ chưa được chặt chẽ.
3. Phát triển Đảng tuy có quan tâm nhưng tiến hành trong các khu vực đều chậm và còn ít, nhất là trong công nhân trực tiếp sản xuất còn quá ít.
Trong 13.183 đảng viên mới kết nạp chỉ có 2.128 ở xí nghiệp công nghiệp, trong đó có 1.180 là công nhân trực tiếp sản xuất. Tỷ lệ đảng viên thành phần xuất thân công nhân ở Đảng bộ Thành phố tuy đã nâng dần theo thời gian (năm 1976 là 0,03%, năm 1983 là 17,88%) nhưng chủ yếu do tiếp nhận các nơi về, và vẫn còn quá thấp đối với một Thành phố công nghiệp giai cấp công nhân đông đảo. Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ hai đã nghị quyết phải tăng tỷ lệ thành phần đảng viên là công nhân trực tiếp hoạt động ở phân xưởng lên 35% so với tổng số đảng viên ở mỗi xí nghiệp, nhưng đến nay tỷ lệ này còn ở mức 27%. Tình trạng ở những bộ phận trực tiếp (như phân xưởng, tập đoàn sản xuất, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã tiêu thụ, cửa hàng thương nghiệp, trường học phổ thông, các tổ chức văn hoá nghệ thuật…) chưa có hoặc có ít đảng viên đã làm cho Đảng chưa thật sự ăn sâu bám rễ trong quần chúng lao động. Việc triển khai xây dựng tổ trung kiên không được quan tâm thực hiện.
Trong năm 1981 còn gần 50% số cơ sở ở quận, trên 50% số cơ sở ở huyện, 1/3 số đảng bộ xí nghiệp trực thuộc Thành ủy và 116/165 đảng bộ xí nghiệp trực thuộc quận, huyện ủy, không kết nạp một đảng viên nào. Trong khi đó, thực tiễn cách mạng ở Thành phố đã tạo ra hàng vạn quần chúng cốt cán ưu tú, và hiện còn có trên 5.000 đối tượng kết nạp Đảng.
Cần nghiêm khắc kiểm điểm nhận thức về đánh giá quần chúng, tư tưởng hẹp hòi, bảo thủ, ngại khó, không sâu sát, ý thức trách nhiệm xây dựng Đảng chưa mạnh của đảng viên, của cấp ủy cơ sở, của đồng chí Bí thư Chi bộ và sự chỉ đạo thiếu tập trung thường xuyên của cấp ủy trên, coi đó là nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trì trệ trong công tác phát triển Đảng hiện nay. Đồng thời phải khắc phục những nguyên nhân do thủ tục thẩm tra còn máy móc, xét duyệt chậm.
4. Tình hình các loại cơ sở Đảng có tiến bộ hơn, song còn nhiều khu vực, nhiều nơi yếu cả về số lượng và chất lượng.
Số cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh mới có trên 9%; số cơ sở khá khoảng 40 – 50, còn lại là yếu và kém. Số đảng viên thực sự phát huy tốt vai trò của mình (cả phẩm chất, năng lực và tín nhiệm quần chúng) chỉ khoảng 40 – 50%, và còn khoảng 10 – 15% yếu kém. Một số nơi có hiện tượng mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng kéo dài, chủ yếu là trong cán bộ phụ trách chủ chốt, nhưng các cấp ủy và cơ quan quản lý cấp trên chưa phối hợp tập trung giải quyết dứt điểm. Nhiều nơi có khuynh hướng biến chi bộ thành công cụ của thủ trưởng.
Trong từng loại cơ sở Đảng, tình hình như sau:
Ở XÍ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP VÀ HỢP TÁC XÃ TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP:
Trong công nghiệp, tỷ lệ đảng viên rất thấp. Xí nghiệp địa phương có khoảng 2%, xí nghiệp Trung ương khoảng 4 – 5% so với cán bộ, công nhân viên. Phần lớn còn tập trung ở khâu hành chánh, gián tiếp. Ở 203 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, mới có 42 đảng viên công tác lẻ, chưa hình thành được chi bộ và phần lớn là cán bộ hưu trí.
Mặc dù hoàn cảnh rất khó khăn, nhưng nhiều cơ sở Đảng đã có tinh htần phấn đấu cao, tìm đủ mọi cách để tổ chức sản xuất, quyết tâm bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước, ổn định đời sống quần chúng, giữ vững đội ngũ công nhân và cán bộ kỹ thuật. Trình độ quản lý kinh tế, kỹ thuật được nâng lên rõ rệt. Ý thức phục vụ công nhân, tinh thần trách nhiệm thiết tha gắn bó với xí nghiệp có nhiều tiến bộ so với trước.
Tuy nhiên, tình hình cơ sở Đảng ở khu vực này nhìn chung còn yếu.
Cơ chế tổ chức xí nghiệp chưa được thực hiện nghiêm túc. Phần đông các cơ sở Đảng chưa phân biệt rõ vai trò lãnh đạo của Đảng và công việc của Giám đốc. Chi bộ họp thường bàn nhiều công tác sản xuất, đời sống và nhiều khi bàn quá sâu lấn sang việc hàng ngày của Giám đốc, chưa bàn kỹ công tác vận động giáo dục quần chúng, công tác xây dựng Đảng, xây dựng Đoàn. Việc quản lý, phân công, kiểm tra hoạt động của đảng viên thiếu chặt chẽ, công tác phát triển đảng viên mới trong công nhân trực tiếp sản xuất chưa được chú trọng đúng mức.
Phần đông Bí thư năng lực trình độ chính trị và chuyên môn có mặt yếu hơn Giám đốc, vừa làm chuyên môn vừa kiêm nhiệm công tác Đảng lại thiếu bồi dưỡng về chức trách nhiệm vụ của Bí thư và về công tác Đảng.
Nhiều biểu hiện bảo thủ, ỷ lại, bao cấp hành chánh, tư tưởng cục bộ, tự do, tùy tiện, khuynh hướng chạy theo chỉ tiêu kế hoạch, ít quan tâm thực hiện bốn chế độ Nhà nước đã ban hành, không được đấu tranh phê phán. Hiện tượng tiêu cực vẫn còn khá nặng trong nhiều xí nghiệp công nghiệp.
Ở CÔNG TY, CỬA HÀNG KINH DOANH THƯƠNG NGHIỆP, CUNG ỨNG DỊCH VỤ:
Phần đông cơ sở Đảng trong khu vực này hoạt động yếu. Tuy có cố gắng trong việc lãnh đạo tìm nguồn hàng, tạo thêm quỹ hàng hoá, tổ chức phân phối, cung ứng, nhưng chưa thật tập trung phục vụ đúng đối tượng. Tư tưởng kinh doanh đơn thuần, chạy theo doanh số, xem nhẹ yêu cầu phục vụ, buông lơi việc tham gia cải tạo và quản lý thị trường cũng còn khá phổ biến.
Sinh hoạt chi bộ không đều, nội dung thiên về phổ biến những việc cụ thể của công tác chánh quyền, thiếu nghị quyết, thiếu phân công đảng viên nhất là phân công phụ trách quần chúng. Các biểu hiện tiêu cực không được kiểm điểm, đấu tranh giáo dục và xử lý nghiêm minh.
Lực lượng đảng viên phân bố không hợp lý, hầu hết những nơi trực tiếp nắm hàng, giữ kho, giữ tiền, trực tiếp quan hệ mua bán hàng ngày với quần chúng lại không có hoặc có rất ít đảng viên.
Hầu hết cấp ủy và bí thư kiêm nhiệm công tác chuyên môn, hàng ngày chăm lo việc kinh doanh, buông lơi công tác quần chúng, công tác Đảng.
Ở PHƯỜNG:
Nhiều cơ sở Đảng trưởng thành rõ rệt trong nhiệm vụ lãnh đạo kinh tế - xã hội, tham gia đẩy mạnh sản xuất tiểu thủ công nghiệp với nhịp độ ngày càng tăng, giải quyết công ăn việc làm cho dân, chăm lo đời sống thiết yếu của quần chúng, giữ gìn trật tự trị an, thực hiện nghĩa vụ quân sự. Cơ chế tổ chức phường đang góp phần tạo nên ngày càng nhiều mô hình tổ, khu phố và phường tiên tiến từng mặt và nhiều mặt. Đại đa số đảng viên thường xuyên bám sát phong trào, đi sâu sát lãnh đạo quần chúng. Nhưng mặt yếu của tổ chức Đảng ở phường là chưa tham gia tích cực vào công tác cải tạo đối với tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, văn hoá, văn nghệ, quản lý thị trường. Một số cán bộ phường có quan hệ hùn hạp, làm ăn buôn bán với tổ hợp, cá thể và tư thương.
Cơ cấu đảng viên ở phường chưa cân đối; 55% số đảng viên hưu trí, nhiều đồng chí tích cực hoạt động, sống gương mẫu, nhưng chưa được phân công, sử dụng hợp lý để phát huy hết khả năng. Đại đa số hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã tiêu thụ, ban quản lý chợ, nhà trẻ, nhà mẫu giáo, trạm y tế… chưa có đảng viên.
Ở XÃ:
Từ mấy năm nay, nhiều cơ sở đã cố gắng lãnh đạo, vận động nhân dân đẩy mạnh sản xuất công nghiệp. Một số xã đã vươn lên, đạt thành tích trên nhiều mặt về sản xuất, cải tạo nông nghiệp, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước, sửa chữa hoặc xây dựng mới những công trình công cộng theo phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Gần đây, đã đẩy mạnh công tác hoàn thành điều chỉnh ruộng đất và đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể, đa số đảng viên đã đi đầu tiến hành kê khai ruộng đất, đấu tranh chống bóc lột. Những biểu hiện do dự chần chờ, buông lơi cải tạo nông nghiệp, không kết hợp chặt giữa cải tạo nông nghiệp và cải tạo công thương nghiệp, giữa cải tạo và xây dựng nông thôn mới được uốn năn một cách tích cực. Nhưng việc tiến hành cơ chế tổ chức xã rất chậm, việc chuẩn bị đội ngũ cán bộ cho hợp tác hoá nông nghiệp chưa được chú ý đúng mức. Phong trào không đồng đều giữa các huyện cũng như các xã trong cùng một huyện. Bình Chánh, Nhà Bè, Duyên Hải còn nhiều xã yếu. Không ít cán bộ, đảng viên còn mang nặng tính bảo thủ, tư hữu, chưa thật gương mẫu làm nhiệm vụ nộp thuế, bán lúa dư, bán nông sản thực phẩm cho Nhà nước, coi nhẹ công tác quần chúng, công tác Đảng. Giờ giấc làm việc không chặt chẽ.
Còn 23 ấp và nhiều tập đoàn sản xuất chưa có đảng viên nhưng công tác phát triển Đảng không được chú ý, công tác quần chúng còn yếu.
Ở ĐƠN VỊ CÔNG AN VÀ QUÂN SỰ:
Nhiều cơ sở Đảng hoạt động tương đối có nền nếp, bảo đảm thực hiện có kết quả nhiều công tác trọng yếu của Đảng và Nhà nước giao cho.
Cán bộ, đảng viên được rèn luyện, hăng hái hoạt động, tích cực phát hiện và trấn áp kẻ địch, đập tan các âm mưu bạo loạn phản cách mạng, chống mọi hành động phá rối trật tự trị an, bảo vệ các cơ quan, xí nghiệp, bệnh viện, trường học, bảo vệ tính mạng tài sản nhân dân. Trong chiến đấu, phần đông tỏ ra dũng cảm, ngoan cường, giữ vững kỷ luật và phẩm chất, đạo đức cách mạng. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác có được nâng lên.
Tuy nhiên, công tác chính trị, tư tưởng chưa sâu sắc, nhạy bén, ý thức chủ động và tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu chưa cao, chưa thấy đầy đủ âm mưu và thủ đoạn phá hoại của địch trên khắp các lãnh vực. Một số quan hệ với dân chưa tốt, không nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh cấp trên, hoặc dùng danh nghĩa, chức vụ của mình để đe dọa ức hiếp quần chúng, tham ô, hối lộ, thậm chí còn cấu kết hoặc phục vụ cho bọn xấu làm ăn phi pháp, trốn đi nước ngoài.
Ở TRƯỜNG HỌC:
Nhiều cơ sở Đảng ở trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp, trường phổ thông đã phát huy tác dụng trong việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kế hoạch đào tạo giáo dục ở nhà trường, từng bước thực hiện cải cách giáo dục. Nhưng chưa làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đào tạo con người mới. Công tác Đoàn nói chung là yếu. Còn hàng trăm trường phổ thông cơ sở chưa lập được chi bộ.
Nhìn chung, trong các trường kể cả Đại học, Cao đẳng, Trung học, đội ngũ cán bộ đảng viên, tuy hoàn cảnh đời sống rất chật vật nhưng vẫn nỗ lực bám trường, gắn bó với học sinh để làm nhiệm vụ. Song tâm trạng lo âu với đời sống khó khăn đang ảnh hưởng đến hiệu suất nghiên cứu, giảng dạy học tập.
Ở CƠ QUAN HÀNH CHÁNH, NGHIÊN CỨU:
Các cơ quan là nơi tập trung đông đảo đảng viên, trong đó có nhiều đồng chí là cán bộ lãnh đạo cao, trung cấp. Nhìn chung, chất lượng chính trị khá hơn các nơi khác. Trình độ lý luận, nghiệp vụ công tác ngày càng tiến bộ. Các chi bộ Đảng qua các đợt sinh hoạt chính trị học tập đường lối, nghị quyết của Đảng, qua các cuộc vận động cải tiến công tác, đấu tranh chống tiêu cực, tiến hành phát thẻ đảng viên… đã góp phần quan trọng vào những kết quả công tác của cơ quan, củng cố nội bộ Đảng.
Mặt yếu trong hoạt động của chi bộ cơ quan là không bám chắc nhiệm vụ chính trị, chưa đề cao công tác Đảng, sinh hoạt chưa đều, nội dung nghèo nàn, có nhiều biểu hiện tiêu cực; trung bình chủ nghĩa, làm việc theo lối công chức thụ động, thiếu tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, thiếu dân chủ nội bộ, quan liêu, hành chánh giấy tờ v.v… nhưng trong sinh hoạt Đảng không kiên quyết đấu tranh phê phán. Việc quản lý và kiểm tra đảng viên còn lỏng lẻo, thiếu kết hợp quản lý nơi công tác và nơi cư trú.
Ở ĐƠN VỊ VĂN HOÁ, VĂN NGHỆ:
Đảng viên ở khu vực này mỏng, hoạt động của chi bộ không đều, kém tính chiến đấu. Những quan điểm và phương hướng đúng đắn của Đảng về văn hoá, nghệ thuật ít được quan tâm thảo luận quán triệt để lãnh đạo vận dụng thể hiện trong sáng tác biểu diễn.
Đa số đảng viên đã qua thời kỳ kháng chiến, tuổi nhiều, lâu năm trong nghề, có trình độ chính trị và kiến thức chuyên môn, kiên trì bám đường lối quan điểm của Đảng, cố gắng không ngừng nâng cao rèn luyện nghiệp vụ. Tuy nhiên, năng lực quản lý sáng tác, biểu diễn tiến bộ chậm. Thiếu nhạy bén với cuộc sống mới, ý thức cảnh giác chống địch cũng như đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trên lãnh vực văn hoá, văn nghệ còn mơ hồ, buông lỏng, có lúc có nơi để cho văn hoá tư tưởng phản động, đồi trụy xâm nhập gây tác hại nghiêm trọng. Nhiều đồng chí có biểu hiện coi nhẹ học tập chính trị, chỉ thiên về tài năng nghệ thuật dẫn đến kèn cựa địa vị danh tiếng, không phục tài nhau. Có một số chạy theo lối sống tự do, buông thả. Gần đây các biểu hiện quan điểm, tư tưởng nói trên đã được các tổ chức Đảng quan tâm kiểm điểm uốn nắn.
5. Công tác cán bộ cũng còn nhiều nhược điểm thiếu sót.
a. Nhìn chung, việc bố trí sử dụng cán bộ còn dàn đều vẫn lúng túng về yêu cầu cán bộ để kiện toàn một số ngành trọng điểm đủ mạnh, như: công nghiệp, thương nghiệp, ngoại thương, vật giá, thuế, lao động v.v… bố trí chưa đồng bộ, chưa kết hợp giữa yêu cầu trước mắt và tính toán lâu dài, thiếu quy hoạch, do đó có tình trạng “hững” ở nhiều ngành. Việc kết hợp và sử dụng các loại cán bộ một số nơi chưa thật tốt.
- Phần đông cán bộ chủ chốt ở các ban, ngành cấp Thành trải qua 2 thời kỳ kháng chiến, một số bị tù đày, nay tuổi đã cao (71% trưởng, phó ban, ngành, sở thành phố trên 50 tuổi) lại phải làm việc với cường độ khẩn trương, dồn dập nên sức khỏe có bị giảm sút nhiều: 26% sức khỏe loại C, khoảng 10% thường đau yếu dài ngày, 25% đến tuổi hưu hoặc sắp tuổi hưu, có một số năng lực bị hạn chế. Trong tình hình đó, chưa chuẩn bị kịp đội ngũ kế thừa, còn hẹp hòi đối với lực lượng trẻ, nữ. Vai trò của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong việc tạo nguồn cán bộ kế thừa còn hạn chế.
b. Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ còn chắp vá, bị động, thiếu một kế hoạch đồng bộ, có tính toán cho nên một mặt không đào tạo, bồi dưỡng kịp theo yêu cầu của nhiệm vụ và tiêu chuẩn hoá, mặt khác, nhiều nơi thiếu mạnh dạn cử cán bộ đi học, hoặc chọn người chưa theo quy hoạch nên khi học về có trường hợp bố trí chưa phù hợp. Việc đào tạo cán bộ xuất thân từ công nhân làm quá chậm, một phần do chế độ chính sách đối với người đi học chưa hợp lý. Ở nông thôn, việc bồi dưỡng đào tạo cán bộ cho yêu cầu hợp tác hoá nông nghiệp chưa theo kịp tình hình.
c. Công tác quy hoạch cán bộ còn trì trệ. Tuy có tiến hành ở một số quận, huyện, ban ngành bằng việc chọn lực lượng dự bị nhưng cũng chỉ là bước đầu, còn lúng túng. Công tác quản lý cán bộ còn theo lối cũ, còn nặng về hành chính, ít theo dõi sát sự chuyển biến của từng cán bộ để phát hiện được nhiều người có năng lực, có triển vọng để kịp thời đề bạt hoặc đưa đi đào tạo, đồng thời cũng không nắm chắc tâm tư nguyện vọng, đời sống, vướng mắc của cán bộ để giúp đỡ, động viên nhắc nhở, ngăn ngừa sai phạm. Chưa kết hợp việc quản lý cán bộ, đảng viên ở cơ quan và nơi cư trú.
d. Việc thực hiện chính sách, chế độ đối với cán bộ nhất là cán bộ phường xã, cán bộ khu vực hành chính, sự nghiệp, lực lượng vũ trang, cán bộ về hưu, tuy có chú ý song chưa đúng mức, đời sống còn nhiều khó khăn. Việc chăm sóc và sử dụng kinh nghiệm tích lũy của số đồng chí cũ hoạt động lâu năm có nhiều cống hiến, chưa thực hiện tốt.
6. Việc kiểm tra, giữ gìn kỷ luật Đảng còn thiếu kịp thời. Việc xem xét số đảng viên có biểu hiện sai trái, giải quyết thư tố cáo, thư khiếu nại còn chậm. Xử lý kỷ luật còn có biểu hiện nể nang, xuê xoa
TÓM LẠI:
Có được những thành tích, ưu điểm như trên là do Đảng bộ đã phát huy truyền thống cách mạng vốn có, luôn luôn giáo dục cho cán bộ đảng viên về tinh thần cách mạng tiến công, ý thức trách nhiệm, phấn đấu vận dụng những chủ trương, nghị quyết của Trung ương để đề ra những chủ trương kế hoạch, biện pháp thích hợp về công tác xây dựng Đảng.
Tuy nhiên, cần thấy rõ những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thiếu sót tồn tại như sau:
a. Công tác tư tưởng và tổ chức chưa gắn chặt với nhau và chưa theo kịp với yêu cầu tình hình nhiệm vụ chính trị của Thành phố, chưa nhạy bén với cuộc đấu tranh của giai cấp mới.
b. Các cấp ủy Đảng còn bận lo những việc cấp bách về kinh tế, đời sống, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chưa dành thời gian thích đáng bàn bạc và chỉ đạo công tác tư tưởng, tổ chức. Các đồng chí Bí thư Đảng các cấp chưa thật sự tập trung sức vào công tác Đảng, ở cơ sở phần lớn Bí thư kiêm nhiệm chức vụ chính quyền lại phụ trách nhiều việc trong hoàn cảnh cơ sở liên tiếp phải ứng phó với tình hình khó khăn. Những đảng viên là thủ trưởng các Sở, Ban, Ngành, đơn vị cơ sở, kể cả các đồng chí Thành ủy viên, ít quan tâm chăm lo công tác quần chúng, công tác xây dựng Đảng đối với cơ sở mình.
c. Đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tư tưởng, tổ chức và kiểm tra Đảng chưa được kiện toàn đúng mức về số lượng và chất lượng, vừa thiếu vừa yếu.
PHẦN II
NHỮNG NHIỆM VỤ VÀ BIỆN PHÁP LỚN VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG HAI NĂM TỚI (1984 – 1985)
I. NHIỆM VỤ CHUNG
Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với mọi mặt công tác của Thành phố, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ mà Trung ương và Đại hội Đảng bộ đề ra, nhiệm vụ chung của công tác xây dựng Đảng trong những năm 1984 – 1985 là:
“Tiếp tục nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, lý tưởng Cộng sản, xây dựng lập trường kiên định trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường, đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống bọn bành trướng và bá quyền Trung Quốc, chống đế quốc Mỹ và các thế lực phản động khác; tiếp tục nâng cao tính giai cấp, tính tiên phong và những nguyên tắc tổ chức của Đảng, tăng cường đoàn kết thống nhất, phát huy sức mạnh tổng hợp của chuyên chính vô sản và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; phấn đấu làm cho Đảng bộ vững mạnh, trong sạch cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, gắn bó chặt chẽ với giai cấp công nhân và quần chúng lao động”.
Từ những nhiệm vụ chung đó, trong hai năm tới, phải thực hiện được những yêu cầu chủ yếu sau đây:
1. Bảo đảm thực hiện tốt hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm làm cho cán bộ, đảng viên thông suốt nhất trí cao với đường lối, chánh sách của Đảng và Nhà nước. Tất cả cấp ủy Đảng và các cán bộ phụ trách chủ chốt các cấp, các ngành được trang bị lý luận cơ bản chủ nghĩa Mác – Lê-nin và kiến thức quản lý kinh tế, theo chương trình quy định.
2. Kiện toàn cấp ủy Đảng, gắn liền với xây dựng chính quyền và xây dựng các đoàn thể quần chúng đủ mạnh. Tập trung xây dựng Đảng trong khu vực công nhân, trên mặt trận kinh tế và an ninh quốc phòng. Bảo đảm xây dựng được Chi bộ Đảng, tổ Đảng hoặc có đảng viên và tổ trung kiên ở các phân xưởng, cửa hàng, khu phố, hợp tác xã tiểu, thủ công nghiệp, nông nghiệp, hợp tác xã tiêu thụ và mua bán, trường phổ thông, các đơn vị văn hoá nghệ thuật. Phấn đấu có 20% tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh, trong sạch, không còn cơ sở kém; xây dựng mô hình Quận, Huyện toàn diện, phấn đấu có 1/3 Đảng bộ Quận, Huyện vững mạnh.
3. Tăng cường giáo dục lý tưởng Cộng sản, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tính tổ chức kỷ luật, ý chí chiến đấu, ý thức cảnh giác cách mạng, đấu tranh không khoan nhượng chống mọi kẻ thù và mọi biểu hiện tiêu cực. Không để tồn tại trong Đảng những người không đủ tư cách đảng viên. Thông qua phong trào cách mạng của quần chúng, trong 2 – 3 năm tới tích cực lựa chọn, bồi dưỡng khoảng 10 ngàn quần chúng ưu tú để có thể kết nạp vào Đảng, bảo đảm chất lượng, trong đó ít nhất 1/3 là công nhân và 2/3 là đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Nâng tỷ lệ thành phần xuất thân công nhân trong Đảng bộ ít nhất là 20% và ở mỗi xí nghiệp công nghiệp có 40% đảng viên trực tiếp sản xuất ở phân xưởng.
4. Tăng cường cán bộ cho các ngành trọng điểm, các đơn vị trọng yếu về kinh tế, văn hoá, an ninh, quốc phòng, tăng cường cấp Quận, Huyện và cơ sở gắn liền với thực hiện cơ chế tổ chức và cơ chế quản lý; đồng thời xây dựng quy hoạch cán bộ và có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở từng cấp, từng ngành, từng đơn vị, tăng dần tỷ lệ trẻ, thành phần công nhân, nữ, khoa học kỹ thuật trên cơ sở bảo đảm các tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực. Đổi mới nội dung và phương thức đào tạo, bồi dưỡng cho thiết thực và có nền nếp.
II. NHỮNG NHIỆM VỤ VÀ BIỆN PHÁP LỚN VỀ TƯ TƯỞNG:
1. Quán triệt sâu sắc trong Đảng bộ Thành phố về cách mạng xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ, giáo dục nâng cao lý tưởng Cộng sản, lập trường, quan điểm giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa gắn với cuộc đấu tranh chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt.
Trên cơ sở đường lối chung và nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần này, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng phải làm cho toàn thể Đảng bộ và nhân dân Thành phố thấu suốt, nhất trí cao và biến thành quyết tâm hành động cách mạng, bảo đảm thực hiện thắng lợi các mục tiêu do Đại hội Đảng bộ đề ra.
Thông qua việc giáo dục quán triệt chủ trương đường lối, để nâng cao lý tưởng Cộng sản, lập trường giai cấp công nhân, ý thức làm chủ tập thể, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của tư tưởng tiểu tư sản, chống sự xâm nhập của tư tưởng tư sản, mọi ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, mọi tàn dư của tư tưởng phong kiến, khắc phục tư tưởng hoài nghi dao động, chùn bước trước khó khăn. Chống chủ nghĩa cơ hội dưới mọi hình thức, phê phán thái độ lẫn tránh đấu tranh đối với những vấn đề thuộc về quan điểm, đường lối.
Cần nhận thức đầy đủ vị trí, đặc điểm và trách nhiệm của Thành phố Hồ Chí Minh như đã nêu rõ trong nghị quyết 01 của Bộ Chính trị. Coi trọng thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng và công tác quản lý kinh tế - xã hội, bảo đảm luôn luôn nắm vững những vấn đề thuộc về lập trường, nguyên tắc của Đảng, đề cao nhiệt tình cách mạng, tinh thần chủ động, dám nghĩ, dám làm, đồng thời chống quan liêu, bảo thủ, không tin cấp dưới, không dám phát huy thật sự quyền chủ động của cơ sở, quyền làm chủ tập thể của quần chúng và bệnh phân tán, tự do vô kỷ luật, cục bộ, bản vị, tùy tiện. Phải kết hợp tiến hành giáo dục nâng cao nhận thức quản lý kinh tế, xã hội, có yêu cầu, nội dung thích hợp với từng cấp, từng ngành, từng loại cán bộ, đảng viên.
2. Nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên định lập trường chống chủ nghĩa bành trướng, bá quyền Trung Quốc, chống đế quốc Mỹ và các thế lực phản động khác.
Cần làm cho Đảng bộ và nhân dân Thành phố hiểu sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược (xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa), thấy được tính chất phức tạp, quyết liệt của cuộc đấu tranh giai cấp trên địa bàn Thành phố trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, tư tưởng, văn hoá, thấy được âm mưu và thủ đoạn phá hoại thâm độc, xảo quyệt của bọn bành trướng bá quyền Trung Quốc câu kết với đế quốc Mỹ và các bọn phản động khác đối với nước ta ngay tại thành phố. Làm cho cán bộ, đảng viên, quần chúng cảnh giác cao, căm thù sâu sắc, sẵn sàng đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của chúng.
Đặc biệt trong lãnh vực tư tưởng, phải kịp thời vạch trần và đập tan mọi âm mưu và luận điệu chiến tranh tâm lý của địch. Phải đề cao ý thức giữ bí mật, tính tổ chức, kỷ luật trong phát ngôn, nói và làm theo nghị quyết của Đảng.
Tăng cường giáo dục thời sự, trên các lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, cả thời sự thế giới, trong nước và thành phố, có nội dung chính xác, có phân tích, làm rõ đúng, sai.
Không chỉ các cơ quan, các cán bộ chuyên trách về công tác văn hoá tư tưởng mà mọi cán bộ đảng viên đều có trách nhiệm tham gia đấu tranh trên mặt trận này.
3. Tăng cường đoàn kết thống nhất, giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng trong sáng, chống mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái.
Mọi cán bộ, đảng viên, dù ở cương vị, lãnh vực công tác nào cũng đều phải giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết gắn bó với quần chúng, đoàn kết quốc tế, tôn trọng nguyên tắc tổ chức Đảng và Nhà nước; nêu cao tính tiên phong, gương mẫu, hăng hái chấp hành và vận động quần chúng chấp hành đường lối chính sách, tích cực làm tròn trách nhiệm được giao, kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái đúng, phê phán cái sai, giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng.
Phải tích cực đấu tranh loại trừ mọi biểu hiện tiêu cực trong nội bộ Đảng, kiên trì đấu tranh đẩy lùi tiêu cực ngoài xã hội. Chống tư tưởng cá nhân chủ nghĩa dưới nhiều màu sắc và nhiều hình thức đang tác động vào lối sống của cán bộ, đảng viên. Mọi hành vi vô trách nhiệm, tự do vô kỷ luật, hối lộ, tham ô, hủ hoá, thu vén cá nhân, cửa quyền, độc đoán, gia trưởng, trù dập, ức hiếp quần chúng, mất dân chủ nội bộ v.v… đều phải được phê phán và xử lý nghiêm khắc.
Các chi bộ Đảng phải giữ vững chế độ tự phê bình và phê bình 6 tháng một lần, có quần chúng đóng góp ý kiến. Qua đó tiếp tục giáo dục rèn luyện, sàng lọc đảng viên, kiểm tra lại tư cách đảng viên.
4. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong Đảng, phải gắn liền tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong quần chúng. Có nội dung và biện pháp thích hợp với mỗi tầng lớp, mỗi giới, mỗi lứa tuổi. Phát huy trách nhiệm của các tổ chức quần chúng trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Kiện toàn các cơ quan làm công tác chính trị tư tưởng từ Thành đến cơ sở, đặc biệt chú trọng đến chất lượng chính trị và tư tưởng của đội ngũ cán bộ chuyên trách trên mặt trận này. Các đồng chí Bí thư Đảng và Thủ trưởng các cấp, các ngành phải là người trực tiếp chịu trách nhiệm về công tác chính trị, tư tưởng ở cấp, ngành mình. Ngoài nhiệm vụ sử dụng có hiệu lực các phương tiện thông tin đại chúng, phải hết sức coi trọng công tác tuyên truyền miệng của hệ thống tổ chức các đoàn thể, phải tổ chức mạng lưới báo cáo viên và tuyên truyền viên được chọn lựa và có sự chỉ đạo chặt chẽ. Các trường chính trị, văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ của Thành phố cần phối hợp chặt chẽ với các trường của Trung ương, để rà lại và cải tiến nội dung chương trình học tập chính trị cho thích hợp. Kiện toàn trường Đảng Nguyễn Văn Cừ và các trường Đảng ở Quận, huyện.
VỀ TỔ CHỨC:
1. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng gắn liền với phát huy hiệu lực chỉ đạo, quản lý của bộ máy chính quyền và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
a. Từng cấp, từng ngành phải xây dựng cơ chế tổ chức và quy chế làm việc, tạo một nền nếp hoạt động cách mạng và khoa học. Các cấp ủy Đảng nhất thiết phải nắm vững và có chủ trương đối với những vấn đề lớn, phức tạp, những công tác trọng tâm, và phải tăng cường kiểm tra đối với các ngành, đối với cấp dưới, đối với chánh quyền và đoàn thể quần chúng trong quá trình thực hiện những chủ trương đó.
Ngoài việc lãnh đạo nhiệm vụ kinh tế - xã hội, các cấp ủy Đảng phải đầu tư thời gian thích đáng cho công tác xây dựng Đảng và lãnh đạo các đoàn thể quần chúng.
b. Chánh quyền phải thực sự là người quản lý kinh tế - xã hội trên cơ sở pháp luật. Phải thể chế hoá và cụ thể hoá các chủ trương, nghị quyết của Đảng làm cho quần chúng quán triệt trong thực hiện. Chánh quyền cần phát huy mạnh hơn nữa vai trò chỉ đạo tổ chức thực hiện, phối hợp, liên kết các hoạt động trên địa bàn, bảo đảm theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý trên địa phương và vùng lãnh thổ, phát huy được vai trò, vị trí của thành phố.
Tổ chức Đảng các cấp phải thường xuyên chăm lo lãnh đạo, xây dựng và phát huy các đoàn thể quần chúng, nhất là đối với Công đoàn và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Các đoàn thể phải phấn đấu nâng cao hơn nữa chất lượng tổ chức và hoạt động của mình, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Thành phố.
Xây dựng Đảng bộ mạnh phải trên cơ sở xây dựng giai cấp công nhân mạnh. Các cấp ủy Đảng phải tăng cường lãnh đạo tổ chức Công đoàn, làm cho công nhân gắn chặt với Đảng, hiểu rõ rằng Đảng Cộng sản là Đảng của chính mình. Phát huy trách nhiệm của Công đoàn thực hiện có nền nếp việc tham gia xây dựng Đảng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận và bảo đảm bổ sung ngày càng nhiều cán bộ có kinh nghiệm quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước xuất thân từ giai cấp công nhân cho các ngành, các cấp thành phố.
Tổ chức Đảng phải trực tiếp lãnh đạo, hướng mọi hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vào những mục tiêu cơ bản và cấp bách trong sự nghiệp cải tạo, xây dựng, bảo vệ thành phố, xây dựng thế hệ thanh niên mới.
Các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể khác cần đánh giá đúng vị trí và vai trò của thanh niên để có sự lãnh đạo, hỗ trợ tốt hơn nữa.
Đoàn phải xây dựng được tổ chức trong tất cả các địa bàn cơ sở, nhất là trong thanh niên công nhân, nâng cao chất lượng cơ sở Đoàn. Trong 2 năm tới, nâng tỷ lệ đoàn viên lên 20% so với tổng số thanh niên, và đẩy mạnh công tác bồi dưỡng, lựa chọn đoàn viên ưu tú để giới thiệu cho Đảng.
c. Kiện toàn các ban của cấp ủy và các ngành của chánh quyền, nhất là những ngành trọng điểm.
- Các ban của Thành ủy, trước hết là các Ban Kinh tế, Công nghiệp, Khoa giáo, Nội chính, Văn hoá văn nghệ cần được kiện toàn về chất lượng cán bộ và cải tiến phương thức hoạt động để làm được trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, giúp cấp ủy chỉ đạo các ngành chánh quyền và cơ sở, chủ yếu về mặt chấp hành đường lối, quan điểm của Đảng.
- Soát xét lại tất cả các Sở, Ban, Ngành chánh quyền cấp Thành, để tinh giản bộ máy, tăng cường cán bộ có trình độ chính trị, chuyên môn; trước hết là các ngành: Công nghiệp, Thương nghiệp, Ngoại thương, Nhà đất, Khách sạn ăn uống, Du lịch, Khoa học kỹ thuật, Lao động, Vật tư, Vật giá, Thuế. Đối với một số ngành vừa quản lý hành chánh vừa quản lý trực tiếp các cơ sở sản xuất, kinh doanh, sự nghiệp, phải bảo đảm làm tốt cả hai chức năng, kịp thời rút được những kinh nghiệm để đổi mới, cơ chế quản lý và cơ chế tổ chức ngành. Các Sở, Ban, Ngành cấp Thành phải làm công tác chính trị tư tưởng, xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là bố trí đúng, đồng bộ cán bộ đối với các cơ sở thuộc ngành, khắc phục tình trạng sản xuất, kinh doanh đơn thuần.
d. Xây dựng mô hình cấp Quận, Huyện, kiện toàn và nâng cao vai trò, trách nhiệm của Quận, Huyện và cấp ủy cấp trên cơ sở.
Đề nghị với Trung ương xác định cấp Quận là một cấp quản lý toàn diện, tiến hành xây dựng mô hình Quận, và triển khai việc xây dựng cấp Huyện.
Phát huy vai trò và quyền lực của Hội đồng nhân dân, đồng thời tăng cường hiệu lực chỉ đạo của Ủy ban nhân dân Quận, Huyện và chỉnh đốn lại các ban, phòng cho hợp lý. Tăng cường cán bộ cho Quận, Huyện nhất là Quận, Huyện có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng.
Cần tăng cường cán bộ và kiện toàn bộ máy của các Đảng ủy cấp trên cơ sở, để bảo đảm đủ sức làm tròn nhiệm vụ đã quy định.
đ. Cần chỉ đạo và hướng dẫn cho từng loại cơ sở về chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các tổ chức Đảng, chánh quyền, đoàn thể. Trước mắt cần sơ kết để bổ sung, hoàn chỉnh cơ chế tổ chức phường, xã, xí nghiệp và tiếp tục xây dựng cơ chế tổ chức ở các loại hình cơ sở khác (như đơn vị kinh doanh, trường học, bệnh viện, cơ quan…).
e. Giảm biên chế hành chánh một cách hợp lý ở các cấp, cải tiến tổ chức, lề lối làm việc để nâng cao hiệu quả công tác. Khẩn trương xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn hoá bộ máy tổ chức và cán bộ, nhân viên theo chức danh Nhà nước đã quy định.
g. Để bảo đảm sự lãnh đạo và chỉ đạo của Thành ủy được toàn diện, sâu sát hơn, và để phát huy trách nhiệm của các đồng chí Thành ủy viên, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, Thành ủy đã có quyết định cách làm việc theo khối và được sự đồng ý của Trung ương đã thành lập Phân Ban của Thành ủy chỉ đạo công tác nông thôn, qua thực tiễn cần rút kinh nghiệm để phát huy tốt hơn nữa.
2. Kiện toàn cơ sở Đảng, coi đây là một khâu then chốt của toàn bộ công tác xây dựng Đảng.
a. Ra sức kiện toàn các tổ chức cơ sở Đảng, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng cơ sở Đảng vững mạnh, trong sạch, kết hợp các phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, học và nhân điển hình tiên tiến. Tiếp tục xây dựng và phát huy cơ chế tổ chức ở xí nghiệp, phường, xã đồng thời tập trung sức xây dựng cơ sở Đảng ở khu vực sản xuất, kinh doanh, văn hoá, văn nghệ, trường học. Những nơi chưa có đủ điều kiện hình thành chi bộ, tổ Đảng thì nhanh chóng lập tổ trung kiên để từng bước xây dựng tổ chức Đảng.
Từng cơ sở Đảng phải đề cao trách nhiệm, chủ động thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ chung, vừa bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn, vừa làm tốt công tác quần chúng, công tác xây dựng Đảng.
- Cơ sở Đảng ở xí nghiệp cần đề cao công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, lãnh đạo xây dựng và thực hiện thắng lợi kế hoạch chỉ tiêu sản xuất, cải tiến quản lý xí nghiệp, thực hiện 3 lợi ích một cách đúng đắn, nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống vật chất, văn hoá của công nhân, chăm lo bảo vệ an toàn xí nghiệp, không để mất cắp tài sản hoặc để địch phá hoại. Thường xuyên quan tâm xây dựng và phát triển lực lượng chính trị, đẩy mạnh phát triển những công nhân ưu tú đang trực tiếp sản xuất vào Đảng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công nhân và trí thức vừa có giác ngộ xã hội chủ nghĩa vừa có tay nghề cao, có nghiệp vụ quản lý, kỹ thuật giỏi. Phấn đấu ở mỗi phân xưởng có chi bộ hoặc tổ Đảng, ở mỗi tổ sản xuất có đảng viên hoặc tổ, nhóm trung kiên.
- Cơ sở Đảng ở Phường cần tập trung hơn nữa lãnh đạo phát triển sản xuất tiểu, thủ công nghiệp gắn liền với tổ chức lại sản xuất theo con đường làm ăn tập thể, tích cực tham gia công tác cải tạo và quản lý thị trường, chăm lo đời sống nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giải quyết tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống văn hoá mới.
Phấn đấu xây dựng mỗi khu phố có chi bộ, ở trạm y tế, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã tiêu thụ có chi bộ, tổ Đảng hoặc có đảng viên và tổ trung kiên. Phát huy vai trò của các đảng viên hưu trí và phân công cho hợp lý. Ở những phường tập trung đông người Hoa và người theo đạo Thiên Chúa, cơ sở Đảng cần nắm chắc tình hình quần chúng, giáo dục, động viên quần chúng thi hành đầy đủ chánh sách của Đảng và Nhà nước, đấu tranh vạch trần mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của bọn phản động. Phải thông qua phong trào cách mạng, lựa chọn và xây dựng lực lượng cốt cán trong quần chúng lao động người Hoa và người theo đạo Thiên Chúa. Chú trọng công tác phát triển Đảng theo đúng tinh thần chỉ đạo của Trung ương và hướng dẫn của Thành ủy.
- Cơ sở Đảng ở xã, phải xứng đáng là người đại diện của giai cấp công nhân ở nông thôn, tiêu biểu lập trường, tư tưởng giai cấp công nhân, thể hiện liên minh công nông bằng hành động thực tế, chấp hành đường lối chủ trương của Đảng, thực hiện tốt nghị quyết 21 của Thành ủy. Phải coi trọng lãnh đạo phát triển sản xuất gắn liền cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển và củng cố vững chắc tập đoàn, hợp tác xã nông nghiệp, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chăm lo đời sống văn hoá và vật chất của quần chúng, xây dựng nông thôn mới. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu và vận động quần chúng hăng hái lao động, kiên quyết đấu tranh chống mọi hình thức bóc lột, tự giác thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước, chấp hành chủ trương chính sách của Đảng. Phát triển đảng viên mới để tăng thêm lực lượng trẻ trong chi bộ và cấp ủy Đảng. Ở mỗi tập đoàn, mỗi hợp tác xã nông nghiệp phải xây dựng tổ trung kiên, tiến tới xây dựng được chi bộ Đảng hoặc tổ Đảng. Đối với 23 ấp trắng hiện nay cần tạo điều kiện xúc tiến thành lập Chi bộ.
- Cơ sở Đảng ở Công ty, Cửa hàng cần lãnh đạo tốt nhiệm vụ kinh doanh, lấy việc phục vụ sản xuất và đời sống, ổn định giá cả thị trường làm mục tiêu hàng đầu. Kiên quyết chống kinh doanh đơn thuần, chạy theo doanh số, lợi nhuận. Phải coi trọng lãnh đạo khâu nắm hàng, tiền, không để hư hao, mất mát, tăng cường giáo dục cán bộ, công nhân viên thực hiện văn minh thương nghiệp, phân phối công bằng, thuận tiện đến tay người tiêu dùng. Coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, ngăn ngừa tiêu cực nội bộ; làm công tác phát triển Đảng, phấn đấu mỗi cửa hàng có chi bộ hoặc tổ Đảng; điều chỉnh đảng viên ở bộ phận gián tiếp tăng cường cho các cửa hàng, quầy hàng, bố trí cán bộ liêm khiết có năng lực vào các khâu gia công, thu mua.
- Cơ sở Đảng ở lực lượng vũ trang cần lãnh đạo tốt việc xây dựng các chế độ sẵn sàng chiến đấu, thực hiện các phương án tác chiến; nêu cao tính tổ chức, tính kỷ luật, tinh thần sẵn sàng hy sinh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân; chăm lo đời sống của cán bộ, chiến sĩ, xây dựng đội ngũ trong sạch về chính trị, vững mạnh về tư tưởng và tổ chức.
- Cơ sở Đảng ở trường học cần quan tâm lãnh đạo vận dụng đường lối, phương châm cải cách giáo dục, để xây dựng nhà trường thực sự là nơi đào luyện nhân tài tương lai cho đất nước. Phải coi trọng kết hợp dạy tốt và học tốt, kết hợp nâng cao lý thuyết và thực hành. Coi trọng tính tổ chức kỷ luật trong giảng dạy và trong học tập. Chăm lo bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn nghề nghiệp và đời sống giáo viên, bảo đảm thực hiện đúng chánh sách.
Trong các trường đại học và cao đẳng phải xây dựng ở mỗi khoa có một chi bộ, mỗi bộ môn có tổ Đảng và mỗi lớp học có tổ trung kiên. Phấn đấu mỗi trường phổ thông cơ sở đều lập được chi bộ hoặc tổ Đảng. Hết sức coi trọng lãnh đạo Đoàn thanh niên, giáo dục xây dựng con người, lối sống mới xã hội chủ nghĩa.
- Cơ sở Đảng ở bệnh viện cần lãnh đạo tốt việc điều trị chăm sóc người bệnh, quan tâm giáo dục tinh thần hết lòng hết sức vì người bệnh, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ thầy thuốc có lương tâm và tay nghề giỏi. Xây dựng mỗi khoa có chi bộ hoặc tổ Đảng.
- Cơ sở Đảng ở đơn vị văn hoá văn nghệ cần bảo đảm làm quán triệt đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng. Tăng cường giáo dục phẩm chất, đề cao tính Đảng, coi trọng kiểm tra công tác biên tập, sáng tác, biểu diễn, kịp thời phát hiện và ngăn ngừa những khuynh hướng lệch lạc, chống tư tưởng kinh doanh văn nghệ, kiên quyết loại trừ văn hoá đồi trụy, phản động.
- Cơ sở Đảng ở cơ quan cần đặc biệt coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ, công nhân viên, tham gia cải tiến tổ chức, cải tiến công tác, cải tiến lề lối làm việc. Tăng cường kiểm tra, giám sát, quản lý đảng viên, cán bộ, công nhân viên, thực hiện chặt chẽ nội quy bảo vệ cơ quan. Kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng trung bình chủ nghĩa, bệnh quan liêu, cửa quyền, gia trưởng, thiếu dân chủ.
b. Để xây dựng Đảng bộ, chi bộ cơ sở trong sạch, vững mạnh thì vấn đề then chốt là xây dựng cho được Đảng ủy, chi ủy cơ sở trong sạch, vững mạnh, bảo đảm đủ tiêu chuẩn chất và có cơ cấu hợp lý. Phải lựa chọn đúng các chức danh chủ chốt. Kiện toàn đội ngũ bí thư Đảng ở cơ sở cũng như ở chi bộ bộ phận có phẩm chất, được đảng viên và quần chúng tín nhiệm, có năng lực làm công tác Đảng. Ở những cơ sở có số lượng đảng viên và quần chúng theo quy định, sẽ bố trí bí thư làm chuyên trách công tác Đảng. Cần tổ chức các lớp học chuyên đề bồi dưỡng cho Bí thư từng loại cơ sở. Xây dựng quy hoạch đào tạo dự bị Bí thư chuẩn bị cho nhiệm kỳ Đại hội cơ sở 1985 và tăng cường cho những cơ sở yếu kém.
d. Phải chú trọng cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, bảo đảm giữ vững sinh hoạt đều kỳ, tập trung vào những nội dung chủ yếu như phổ biến quán triệt chỉ thị, nghị quyết của tổ chức Đảng cấp trên, thảo luận những việc chủ yếu của nhiệm vụ chuyên môn và công tác xây dựng Đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong quần chúng, phê bình và tự phê bình, kiểm tra công tác của đảng viên. Trong các kỳ sinh hoạt phải có ghi chép vào sổ biên bản, có Nghị quyết từng việc và có sự phân công từng cấp ủy viên, từng đảng viên.
Từ nay quy định thống nhất tất cả các chi bộ cơ quan cấp Thành, Quận, Huyện và tương đương sinh hoạt vào tuần cuối tháng; các cơ sở sản xuất, kinh doanh, sự nghiệp, Phường, Xã sinh hoạt vào tuần đầu tháng. Các đảng ủy cấp trên và đảng ủy cơ sở cần chỉ đạo hướng dẫn nội dung chủ yếu trong từng kỳ sinh hoạt chi bộ và cần phân công đến dự. Chi ủy cần chuẩn bị và thông báo trước cho đảng viên về nội dung, thời gian sinh hoạt chi bộ. Tất cả đảng viên đều phải chịu sự phân công của chi bộ về công tác quần chúng, công tác Đảng. Đối với đảng viên hưu trí, sức khỏe yếu, đảng viên nữ có con mọn, có thể giảm hoặc miễn công tác và có chế độ sinh hoạt phù hợp.
3. Nâng cao lý tưởng cộng sản, tính giai cấp công nhân, tính Đảng, vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên, không ngừng rèn luyện, sàng lọc đảng viên, đẩy mạnh phát triển đảng viên mới, nhất là trong công nhân trực tiếp sản xuất.
a. Mỗi đảng viên dù ở cương vị trách nhiệm gì, cấp bậc gì, độ tuổi nào, vào Đảng lâu hay mới… đều phải không ngừng rèn luyện, phấn đấu mọi mặt, luôn luôn giữ vững lập trường, tư tưởng giai cấp công nhân và luôn luôn thể hiện vai trò tiên phong gương mẫu bằng hành động thực tế trong lao động sản xuất, công tác, chiến đấu, học tập cũng như trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
Hằng năm ở cấp Quận, Huyện và Đảng ủy tương đương cần tổ chức hội nghị phổ biến kinh nghiệm và nêu gương những đảng viên có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác chuyên môn, công tác quần chúng và công tác xây dựng Đảng.
b. Cần phát huy kết quả đợt tổng kết công tác phát thẻ Đảng, tiếp tục giáo dục, rèn luyện nâng cao tư cách đảng viên, đồng thời thông qua việc thực hiện các chủ trương, chánh sách của Đảng và Nhà nnước, tiếp tục kiểm tra rà lại tư cách đảng viên, kiên quyết sàng lọc, đưa ngay những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng, kể cả số đảng viên yếu, kém không chịu phấn đấu tiến bộ.
Những quy định hướng dẫn về tư cách đảng viên cần được phổ biến rộng rãi trong các chi bộ và phải được tất cả mọi đảng viên chấp hành nghiêm chỉnh. Qua mỗi đợt tự phê bình và phê bình, chi bộ và đảng bộ cơ sở cần phân loại lại đảng viên và có biện pháp chấn chỉnh, củng cố. Từng chi bộ cần kết hợp với tổ chức Đảng ở khu phố nơi cư trú để quản lý đảng viên cả về tư tưởng, công tác, sinh hoạt, quan hệ giao dịch. Bất kỳ đảng viên nào cũng phải chịu sự quản lý, kiểm tra, giám sát không những của chi bộ và quần chúng nơi công tác mà cả chi bộ và quần chúng nơi cư trú.
c. Đẩy mạnh việc phát triển đảng viên mới, tập trung chủ yếu vào công nhân trực tiếp sản xuất và ở những đơn vị đang còn quá ít hoặc không có đảng viên.
Phải làm cho đảng viên nhận thức đúng ý nghĩa của việc phát triển Đảng, có trách nhiệm và nghĩa vụ phát triển đảng viên mới, đấu tranh khắc phục nhận thức không đúng về công nhân và quần chúng lao động, tư tưởng hẹp hòi, bảo thủ, ngại khó sợ trách nhiệm, đang là trở ngại chính cho công tác phát triển Đảng. Cấp ủy cơ sở trước hết là các Bí thư Đảng ủy, Bí thư chi bộ phải coi công tác phát triển đảng viên mới là một trong những nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên của cơ sở Đảng. Sinh hoạt Đảng hàng tháng phải dành một phần thời gian kiểm điểm và bổ khuyết về công tác này. Phải xây dựng được quy hoạch và kế hoạch phát triển Đảng từng năm, từng quí. Không thể chấp nhận một Đảng bộ vững mạnh nếu Đảng bộ đó không làm kế hoạch và không làm tốt công tác phát triển Đảng.
Các đoàn thể phải tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng về chủ nghĩa xã hội, về Đảng, và lựa chọn những đoàn viên, hội viên ưu túc có đủ chuẩn chất để giới thiệu cho Đảng.
Cần cải tiến thủ tục thẩm tra và xét duyệt vừa bảo đảm nguyên tắc vừa nhanh chóng, tránh gây phiền hà, lãng phí. Chú trọng bồi dưỡng chính trị cho số đối tượng kết nạp Đảng và số đảng viên mới vào Đảng. Các quận, huyện ủy và Đảng ủy cấp trên cơ sở cùng các ban của Thành ủy phải chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra đôn đốc thường xuyên, kịp thời giải quyết những vướng mắc của cơ sở, định kỳ sơ kết, tổng kết, phát huy những điển hình, đơn vị và cá nhân làm tốt công tác phát triển Đảng. Phải kiểm điểm nghiêm khắc cơ sở nào có điều kiện mà không kết nạp đảng viên mới.
Tổ chức một đợt phát triển Đảng lấy tên là: “Lớp đảng viên Nguyễn Văn Cừ” kể từ ngày kỷ niệm lần thứ 54 thành lập Đảng 3-2-1984 cho đến ngày kỷ niệm lần thứ 9 giải phóng miền Nam 30-4-1984, Đại hội giao cho Ban Chấp hành mới vạch kế hoạch và chỉ đạo tiến hành nhằm đạt kết quả cao.
4. Đoàn kết, phát huy năng lực các loại, các nguồn cán bộ, đào tạo bồi dưỡng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, xây dựng đội ngũ kế thừa đủ sức đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng mới của thành phố.
a. Trong mỗi ngành, mỗi địa phương, mỗi đơn vị, phải bảo đảm được sự đoàn kết chặt chẽ đội ngũ cán bộ trên cơ sở đường lối, nguyên tắc của Đảng. Phát huy khả năng các nguồn, các loại cán bộ và từng người cán bộ, tạo thành một tập thể đồng bộ có phẩm chất, kiến thức và năng lực dám nghĩ, dám làm và biết làm. Chống tư tưởng biệt phái, địa phương, cục bộ. Phải hoàn toàn xuất phát từ yêu cầu của công việc mà bố trí cán bộ. Rà soát lại đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành, từ đó có kế hoạch tích cực điều chỉnh, bố trí lại cán bộ trước hết nhằm kiện toàn cho các ban, ngành, các quận, huyện, cơ sở trọng điểm.
Phải bảo đảm tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ thành phần công nhân, cán bộ nữ, cán bộ có trình độ quản lý, khoa học kỹ thuật, phải căn cứ tiêu chuẩn lấy việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ làm thước đo để chọn lựa và đề bạt cán bộ. Chống tư tưởng cầu toàn, hẹp hòi, hoặc nặng về trình độ chuyên môn, nhẹ xem xét về lập trường, quan điểm, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng. Đối với một số trường hợp bố trí không phù hợp, cần điều chỉnh lại, thay thế số cán bộ không làm tròn nhiệm vụ. Cần chấm dứt việc bố trí tùy tiện chắp vá.
Cần bố trí người thay thế nối tiếp để các đồng chí sức yếu hoặc đến tuổi hưu được nghỉ theo đúng chánh sách, chế độ của Đảng và Nhà nước quy định. Các cơ quan chủ quản cùng với cơ quan có trách nhiệm về vấn đề này phải quan tâm đầy đủ kể cả sau khi các đồng chí ấy đã về hưu.
b. Phải xây dựng bằng được quy hoạch cán bộ ở mỗi cấp, mỗi ngành, trên cơ sở tiêu chuẩn hoá cán bộ về chính trị, nghiệp vụ. Sau đại hội này, phải làm ngay quy hoạch đối với các chức danh chủ chốt ở các cấp, các ngành, xác định và giải quyết sớm nhu cầu cán bộ đáp ứng cho 2 năm tới, đồng thời chuẩn bị để quy hoạch cho 5 năm sau (1986 – 1990).
Phải bảo đảm tính kế thừa trong xây dựng đội ngũ cán bộ bằng hạ thấp tuổi đời bình quân và có đủ 3 độ tuổi với một tỷ lệ thích hợp trong mỗi cấp ủy Đảng, mỗi ban lãnh đạo. Nhất thiết mỗi cán bộ lãnh đạo quản lý, phải chọn lựa được một hai đồng chí sẽ là người kế thừa cương vị mình, coi đó là trách nhiệm của mình.
Phải hết sức quan tâm đào tạo ngày càng nhiều cán bộ xuất thân từ thành phần công nhân, nhất là công nhân kỹ thuật. Các cấp, các ngành, đặc biệt là các cơ sở công nghiệp (kể cả các đơn vị thuộc ngành Trung ương trên địa bàn Thành phố) phải thấy hết ý nghĩa của vấn đề này không những chỉ đối với sự nghiệp của Thành phố mà còn đối với sự nghiệp chung của cả nước. Đảng bộ Thành phố sẽ lập riêng một quy hoạch và kế hoạch, sẽ có những biện pháp cần thiết chọn lựa người và sẽ có những chế độ thỏa đáng bảo đảm cho anh chị em công nhân an tâm, phấn khởi đi học.
Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo cán bộ Phường, Xã và hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã tiểu, thủ công nghiệp, hợp tác xã tiêu thụ và mua bán theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Phải dấy lên được một phong trào học tập sôi nổi, đều đặn trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm vừa nâng cao trình độ chính trị vừa nâng cao trình độ chuyên môn. Cần tạo điều kiện và có hình thức thích hợp để trong 2 – 3 năm tới các đồng chí Thành ủy viên, quận, huyện ủy viên, các đồng chí phụ trách Ban, Ngành, Sở, các giám đốc xí nghiệp, công ty nếu chưa học qua các chương trình chính trị lý luận cơ bản và nghiệp vụ quản lý thì đều được bồi dưỡng ở các trường lớp tập trung hoặc tại chức.
c. Đảng bộ có trách nhiệm tìm mọi biện pháp để từng bước ổn định và cải thiện một mức đời sống cán bộ hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Trên cơ sở chính sách chung, cần xem xét giải quyết cho thích hợp với đặc điểm hoạt động của từng loại cán bộ.
d. Cần đổi mới việc quản lý cán bộ. Điều cần thiết và quan trọng hơn cả là phải hiểu cán bộ, kiểm tra cán bộ qua thực tiễn công tác và sinh hoạt, lấy hiệu quả công tác kết hợp với quan điểm, lối sống làm thước đo chủ yếu xem xét cán bộ. Phối hợp chặt chẽ quản lý trong công tác với quản lý ngoài xã hội, nơi làm việc với nơi cư trú. Kiên quyết thực hiện chế độ nhận xét cán bộ hàng năm, bằng biện pháp phê bình, tự phê bình từng cán bộ trong đơn vị công tác. Cần cải tiến việc phân công, phân cấp quản lý cán bộ, đưa công tác quản lý cán bộ thành quy chế có nền nếp.
Cần cải tiến công tác quản lý hồ sơ, lý lịch cán bộ, bảo đảm chính xác, đầy đủ, kịp thời, không để lẫn lộn, mất mát. Áp dụng điện toán vào việc tổng hợp, thống kê, quản lý cán bộ đảng viên.
đ. Kiện toàn sớm hệ thống bộ máy làm công tác quản lý cán bộ ở các ngành, các cấp (nhất là ở quận, huyện và các ngành chánh quyền). Phải bố trí những cán bộ có phẩm chất, hiểu biết công tác ngành, địa phương, đã được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng, công tác tổ chức, cán bộ.
5. Coi trọng thường xuyên công tác bảo vệ Đảng, bảo đảm làm trong sạch tổ chức Đảng và bộ máy chánh quyền, trước hết là ở các ngành nội chính, các bộ phận trọng yếu của các ngành: văn hoá giáo dục, kinh tế giao dịch với nước ngoài. Quản lý, kiểm tra chặt chẽ thường xuyên nhằm giữ vững đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, ngăn ngừa sự xâm nhập của kẻ thù vào hàng ngũ Đảng và bộ máy Nhà nước. Cần giải quyết xong những trường hợp thuộc về lịch sử chính trị, đồng thời quan tâm đến công tác bảo vệ Đảng trong tình hình mới.
6. Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng.
Các cấp ủy Đảng từ thành đến cơ sở phải luôn luôn coi trọng và tổ chức tốt công tác kiểm tra việc thực hiện các quyết định. Đó là một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng, một yêu cầu cấp thiết làm cho chất lượng và hiệu lực lãnh đạo của các tổ chức Đảng được nâng lên, bảo đảm cho các nghị quyết, chủ trương chánh sách của Đảng và Nhà nước được quán triệt, chấp hành nghiêm chỉnh và đạt hiệu quả cao.
Từng cấp ủy Đảng căn cứ nội dung công tác của địa phương mình, đơn vị mình trong từng thời gian mà định ra chương trình, kế hoạch kiểm tra việc chấp hành và bố trí lực lượng thực hiện chương trình, kế hoạch đó. Phải hết sức quan tâm chỉ đạo cán bộ đảng viên và lãnh đạo các tổ chức chánh quyền, đoàn thể, các lực lượng kiểm tra có tính chất quần chúng, cán bộ, đảng viên làm tốt công tác giám sát và kiểm tra việc thực hiện các quyết định, khẩn trương đưa công tác này thành nền nếp.
Các Ban, ngành phải vừa làm tốt chức năng tham mưu, vừa làm tốt chức năng kiểm tra, và theo chức trách, phạm vi công tác của mình, tích cực góp phần thực hiện chương trình kiểm tra của cấp ủy, đồng thời có kế hoạch kiểm tra chặt chẽ công tác thuộc ngành mình.
Các đồng chí cấp ủy viên, các đồng chí phụ trách ở các cấp, các ngành, các đoàn thể danh một ngày trong tuần đi xuống cơ sở, có nội dung, có kế hoạch làm việc, tiếp xúc trực tiếp với cấp dưới, với cơ sở, với quần chúng để hiểu sát tình hình, đôn đốc, kiểm tra và xử lý công việc tại chỗ, khắc phục tệ quan liêu, xa thực tế.
Phải thường xuyên đẩy mạnh công tác kiểm tra, giữ gìn kỷ luật của Đảng và pháp luật Nhà nước. Kiểm tra cán bộ, đảng viên trước hết phải chú trọng về lập trường, quan điểm giai cấp, phát hiện, xem xét, kết luận kịp thời và xử lý nghiêm minh đối với những sai phạm như: không chấp hành hoặc làm trái nghị quyết, chủ trương, chánh sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất của Đảng, lợi dụng chức quyền hoặc điều kiện công tác để tham ô, ăn cắp, móc ngoặc, tuồn hàng hóa, vật tư của Nhà nước ra ngoài, ăn hối lộ, trù dập, ức hiếp quần chúng, thiếu tinh thần trách nhiệm để tác hại đến việc hoàn thành kế hoạch Nhà nước, gây tổn thất tài sản xã hội chủ nghĩa, thoái hoá, biến chất, sa đọa… Kỷ luật phải nghiêm minh đối với tất cả cán bộ, đảng viên sai phạm.
Cần tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện nền nếp sinh hoạt giữ gìn kỷ luật ở tổ chức cơ sở Đảng.
Phải kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra cả về số lượng và chất lượng, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao về phẩm chất, trình độ lý luận và nghiệp vụ công tác kiểm tra, công tác xây dựng Đảng.
*
Xây dựng Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng và tổ chức là mục tiêu, là nhiệm vụ then chốt có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp cách mạng. Được sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, sự tin yêu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thành phố, chúng ta tiếp tục phát huy truyền thống, đoàn kết nhất trí, luôn nâng cao khí thế cách mạng tiến công sâu sát quần chúng, quyết tâm thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội, phấn đấu từng bước xây dựng Đảng bộ thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là Đảng bộ của thành phố mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và kính yêu.