Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt nam thành phố Hồ Chí Minh (Từ ngày 14 đến ngày 25-10-1980)

PHẦN THỨ NHẤT

TÌNH HÌNH THÀNH PHỐ TỪ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU LẦN THỨ NHẤT
CỦA ĐẢNG BỘ (
30-4-1977) ĐẾN NAY

Đại hội Đại biểu lần thứ hai của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh nhất trí với bản báo cáo về tình hình thành phố hơn ba năm qua và phương hướng cơ bản trong những năm trước mắt do đồng chí Võ Văn Kiệt Bí thư Thành ủy trình bày.

Từ Đại hội đại biểu lần thứ nhất đến Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng bộ thành phố, đất nước ta trải qua những biến đổi lớn có tác động quyết định đến mọi mặt phát triển của thành phố.

Sau 30 năm chiến tranh, nhiều vấn đề kinh tế và đời sống đặt ra rất cấp bách, quá sức chịu đựng của nền kinh tế. Thiên tai nặng nề lại xảy ra liên tiếp với nhịp độ dồn dập khác thường. Tập đoàn phản động Bắc Kinh, thực hiện chủ nghĩa bành trướng, bá quyền nước lớn, đã coi đó chính là cơ hội tốt để phát động chiến tranh xâm lược, hòng thôn tính đất nước ta, khuất phục nhân dân ta. Nền kinh tế chưa khắc phục hết hậu quả của cuộc chiến tranh trước, lại phải đáp ứng những yêu cầu mới, rất lớn về quốc phòng.

Cách mạng chuyển sang nhiệm vụ mới là xây dựng chủ nghĩa xã hội bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Trung ương Đảng và được anh em bầu bạn khắp thế giới kịp thời hết lòng giúp đỡ, nhân dân và quân đội cả nước đã chiến đấu anh dũng, chiến thắng vẻ vang liên tiếp trong hai cuộc chiến tranh ở biên giới phía tây – nam và biên giới phía bắc, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, tạo ra thế và lực mới vững chắc cho cách mạng ba nước Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia.

Từ thực tiễn sản xuất và chiến đấu, từ kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô và các nước anh em, đường lối của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư của Đảng được liên tục cụ thể hoá bằng các chủ trương, chính sách phù hợp tạo nên những triển vọng tốt trong thực hiện chuyển hướng tổ chức và chuyển hướng chính sách kinh tế.

Khối đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia, sự hợp tác toàn diện, chặt chẽ Việt Nam – Liên Xô, sự liên kết của nước ta trong cộng đồng kinh tế thế giới xã hội chủ nghĩa là những nhân tố mới, có ý nghĩa chiến lược đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta.

Chịu tác động sâu sắc của những biến đổi lớn trên đây, hơn 3 năm qua, chấp hành nghị quyết của Đại hội Đảng bộ lần thứ nhất, Đảng bộ ta đã tập trung sức tiếp tục xây dựng, củng cố hệ thống chuyên chính vô sản, trước hết là chính quyền cách mạng các cấp, nắm tình hình thành phố, vận dụng đường lối chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ, có nhiều chủ trương kịp thời và phù hợp, liên tục tổ chức nhiều phong trào hành động cách mạng của đông đảo quần chúng. Đảng bộ đã tiến hành cuộc đấu tranh gay go, phức tạp, đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa trên diện rộng, khôi phục, tổ chức lại và phát triển ở một số ngành và khu vực, nhất là khu vực tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp; trấn áp phản cách mạng, bảo vệ Tổ quốc; làm nghĩa vụ quốc tế; tạo ra những biến đổi cách mạng đáng tự hào trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thành phố đã xoá bỏ giai cấp tư sản thương nghiệp, cải tạo về cơ bản tư sản công nghiệp; đưa phần lớn lao động tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp vào các hình thức sản xuất hợp tác; bước đầu xây dựng màng lưới thương nghiệp quốc doanh, hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã mua bán. Công cuộc cải tạo nông nghiệp mới thu được kết quả bước đầu trong việc đưa một bộ phận nhỏ nông dân vào con đường làm ăn tập thể.

Mặc dù khó khăn chồng chất, sản xuất công nghiệp, nhất là tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh. Kim ngạch xuất khẩu tăng tương đối nhanh. Đảng bộ đã có nhiều cố gắng trong việc giải quyết công ăn việc làm, giải quyết các khó khăn về đời sống, khắc phục các tệ nạn xã hội, phát triển các mặt công tác văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao… bước đầu xây dựng một nếp sống lành mạnh.

Trước thử thách nghiêm trọng mới đối với vận mệnh của Tổ quốc, quân và dân thành phố cùng quân và dân cả nước đoàn kết nhất trí cao, nhất trí nhanh với đường lối của Đảng chống chủ nghĩa bành trướng, bá quyền Bắc Kinh. Đồng chí và đồng bào thành phố sôi sục căm thù, đồng thời rất bình tĩnh, vững vàng, tự tin, với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, đã hết lòng hết sức chi viện tiền tuyến, cứu bạn, diệt thù; đồng thời sẵn sàng ngăn chặn mọi âm mưu phá hoại, gây bạo loạn từ bên trong của bọn đế quốc và phản động quốc tế tại thành phố, giữ vững an ninh chính trị.

Khối liên minh công nông và lực lượng công nông trí hình thành và đang ở bước đầu củng cố. Đông đảo nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thấy được tinh thần cách mạng, vì nước vì dân của Đảng và chính quyền; cho nên ngày càng xoá bỏ mặc cảm, sống bình đẳng trong tình thương và trách nhiệm, chung sức chung lòng giữ nước, lao động sản xuất, lo cho nhau cái ăn, cái mặc, sức khoẻ, việc học hành, lo cho trẻ em và thanh niên, lo chung công việc phố phường, làng xóm…

Điều đặc biệt có ý nghĩa là trong cuộc đấu tranh gay go, phức tạp để cải tạo và xây dựng thành phố, Đảng bộ đã trưởng thành, thu được nhiều kinh nghiệm quý. Năng lực và sức chiến đấu của Đảng bộ có được nâng lên, bảo đảm lãnh đạo quán xuyến các mặt hoạt động của thành phố.

Tuy nhiên, ở những năm đầu này của thời kỳ quá độ, tình hình thành phố chưa thật ổn định, cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, đang có nhiều khó khăn rất gay gắt và có mặt phức tạp. Nền kinh tế bị đảo lộn, lại quản lý theo một cơ chế có nhiều mặt không còn phù hợp, cho nên ngày càng mất cân đối nghiêm trọng. Hậu quả của chiến tranh và chính sách xâm lược thực dân mới của Mỹ còn nặng nề. Bọn bành trướng Bắc Kinh câu kết với bọn phản động tại chỗ hoạt động phá hoại điên cuồng. Trên địa bàn thành phố, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chưa có một nền tảng công nghiệp với cơ cấu hợp lý và được tổ chức quản lý có hiệu quả. Sản xuất nói chung phát triển chậm, chưa được bảo đảm đều về nguyên liệu và năng lượng. Lương thực cung cấp không đủ và thất thường. Vành đai thực phẩm chưa hình thành rõ nét. Quỹ hàng hoá thuộc hầu hết nhu cầu thiết yếu không bảo đảm nổi một nửa định lượng. Tài chính, tiền tệ gần đây đã bội chi. Thị trường xã hội chủ nghĩa bị lấn áp. Giá cả tăng đột biến với nhiều yếu tố giả tạo. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa chưa hoàn thành nhưng cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai con đường cả trong sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng có lúc bị buông lơi. Vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh còn rất hạn chế. Các phần tử tư sản gian thương trá hình tận dụng mọi sơ hở của ta để đục khoét kinh tế quốc doanh và gây rối loạn trên thị trường. An ninh và trật tự còn những mặt, những lúc diễn biến khá phức tạp. Điều cần đặc biệt quan tâm là một bộ phận công nhân quốc doanh và những người hưởng lương nhà nước thiếu hăng hái sản xuất và công tác; bọn làm ăn bất chính và phi pháp vẫn ngang nhiên hoạt động. Tệ thoái hoá, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị ngăn chặn. Kẻ địch đang lợi dụng tình hình kinh tế và đời sống khó khăn để phá hoại ta trên nhiều mặt sản xuất và thị trường, tâm lý và dư luận. Sự đánh giá mặt tích cực cách mạng của quần chúng chưa xuyên suốt ở các cấp Đảng bộ, cùng với cơ chế quản lý chung có nhiều mặt không còn phù hợp, đang dẫn đến nguy cơ triệt tiêu động lực của chế độ làm chủ tập thể, không khuyến khích tài năng và nhiệt tình lao động. Một bộ phận dân cư túng thiếu đang xao xuyến trước tình hình căng thẳng về nhiều mặt và mức sống ngày càng sa sút.

Trước tình hình khó khăn gay gắt đó, ánh sáng Nghị quyết hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị là một nguồn sức mạnh mới, những hướng làm ăn mới nhằm đẩy mạnh sản xuất, ổn định lại trật tự kinh tế có lợi cho chủ nghĩa xã hội.

Trong cuộc đấu tranh giằng co, xen kẽ lẫn nhau giữa cái mới và cái cũ, giữa tiến bộ và lạc hậu, hầu như trên mọi lĩnh vực, trong hoạt động thực tiễn ở cơ sở, những cái phù hợp đang có sức sống vươn lên mãnh liệt. Đó chính là những đơn vị và cá nhân điển hình tiên tiến xuất hiện ngày càng nhiều, xuất hiện ngay những nơi khó khăn, phức tạp nhất. Cái mới hợp quy luật có sức hấp dẫn và lôi cuốn. Và mọi thành tựu đều bắt nguồn từ động lực mới của sự phát triển: quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Nhiều điển hình tiên tiến vừa thể hiện rõ bản chất cao đẹp cùng sức sống dồi dào của chế độ mới vừa khẳng định ý thức cùng năng lực làm chủ tập thể của công nhân, lao động thành phố trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Các điển hình tiên tiến tương đối toàn diện, thực sự là những đơn vị cơ sở làm tốt đồng thời ba cuộc cách mạng Các điển hình tiên tiến chỉ cho chúng ta khả năng giải quyết những vấn đề lớn cho chính cuộc sống đặt ra, bắt nguồn từ sức sáng tạo của quần chúng. Đó là ý nghĩa cách mạng to lớn của các điển hình tiên tiến.

Đại hội đại biểu lần thứ hai này của Đảng bộ là Đại hội chấp hành sự chuyển hướng chính sách kinh tế của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, giải phóng sức sản xuất, cải tiến phân phối lưu thông, xoay chuyển tình thế, đẩy mạnh sản xuất, trên cơ sở đó mà ổn định đời sống; Đại hội này khẳng định và noi gương các điển hình tiên tiến.

PHẦN THỨ HAI

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CÀ NHỮNG MỤC TIÊU PHẤN ĐẤU
TRONG NHỮNG NĂM SẮP TỚI

A. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CHUNG:

Thành phố Hồ Chí Minh được Trung ương Đảng xác định là: “một trung tâm công nghiệp, một trung tâm văn hoá và khoa học kỹ thuật, một trung tâm giao dịch quốc tế, một đầu mối giao thông quan trọng của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh có vị trí và trách nhiệm rất lớn trong sự nghiệp công nghiệp hoá nước nhà, xây dựng cơ cấu kinh tế công nông nghiệp tạo nên địa bàn vững mạnh về kinh tế và chính trị xã hội, về an ninh và quốc phòng, làm hậu phương lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, chống chủ nghĩa bành trướng xâm lược Trung Quốc”. Đảng bộ chúng ta cần xuất phát từ vị trí và trách nhiệm đó để xác định phương hướng, nhiệm vụ của mình và suy nghĩ tính toán các mặt công tác của thành phố.

Những năm sắp tới, tình hình chung có nhiều thuận lợi cơ bản:

- Đó là giai đoạn cả nước thực hiện các nghị quyết mới của Trung ương Đảng sẽ tạo ra sự chuyển biến mới trong quản lý kinh tế và xã hội đi đúng vào đường hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời bộ máy tổ chức từng bước được củng cố và kiện toàn sẽ tăng cường sức lãnh đạo chung và hiệu lực của quản lý.

- Qua đấu tranh cải tạo và xây dựng thành phố, Đảng bộ đã có những bước trưởng thành nhất định, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm phong phú và quý báu. Nhân dân thành phố vốn giàu lòng yêu nước, có truyền thống đoàn kết, có tinh thần đấu tranh cách mạng và tính năng động cao. Mặt khác, thành phố Hồ Chí Minh nằm giữa vùng kinh tế đang thu hút đầu tư lớn như: dầu khí, cao su, khai thác bốc-xít… Đó là những điều kiện thuận lợi, trong đó thành phố ta có nhiệm vụ đóng góp vào việc xây dựng, phát huy thế mạnh về lao động của mình và trên cơ sở phát triển sản xuất có được việc làm ổn định, đời sống được nâng cao.

- Khối đoàn kết đặc biệt giữa ba nước Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia ngày càng phát triển. Sự hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trong hội đồng tương trợ kinh tế, đặc biệt là sự hợp tác toàn diện với Liên Xô đang đi vào những hoạt động cụ thể, tạo ra thế chiến lược mới trong xây dựng, phát triển kinh tế, cũng như trong bảo vệ an ninh chung.

Tuy nhiên, cũng cần thấy hết những khó khăn gay gắt trong những năm tới:

- Bọn phản động Trung Quốc liên kết với đế quốc thường xuyên đe dọa chiến tranh, tìm cách gây rối không cho chúng ta yên để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, sắp tới cũng còn nhiều khó khăn phức tạp. Trên mặt trận phân phối lưu thông, cuộc đấu tranh chống bọn đầu cơ, buôn lậu, bọn ăn cắp còn khá gay go. Đồng thời, trên lĩnh vực sản xuất cũng phải tính hết những khó khăn do thiếu năng lượng, vật tư, nguyên liệu, phụ tùng thay thế trong những năm trước mắt.

- Cuộc đấu tranh chống sự bảo thủ trì trệ, thiếu sót và khuyết điểm kéo dài trong quản lý kinh tế và xã hội, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực trong cán bộ, đảng viên; việc xây dựng ý thức làm chủ tập thể của nhân dân lao động; xây dựng lối suy nghĩ mới, cách làm ăn mới trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý của các cấp, các ngành tại thành phố cũng cần phải có thời gian.

Với những thuận lợi cơ bản và trong tình hình còn nhiều khó khăn phức tạp nói trên, để phát huy những thắng lợi đã giành được và để khắc phục các mặt tồn tại, trong những năm tới, Đảng bộ và nhân dân thành phố cần ra sức hoàn thành sáu nhiệm vụ cơ bản và cấp bách sau đây:

Thứ nhất, phát huy cao nhất năng lực sản xuất hiện có của các ngành kinh tế, đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; phát triển xuất khẩu; chuyển mạnh cải tiến quản lý kinh tế, quản lý phân phối, lưu thông; tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa và tổ chức lại hợp lý các ngành kinh tế - kỹ thuật, phối hợp và hiệp tác sản xuất kinh doanh trên địa bàn thành phố và khu vực nhằm tiếp tục sắp xếp công ăn việc làm và ra sức ổn định tình hình kinh tế, xã hội và từng bước cải thiện đời sống nhân dân.

Thứ hai, tiếp tục phục hồi và xây dựng mới có trọng điểm cơ sở vật chất kỹ thuật và đẩy mạnh hoạt động khoa học và kỹ thuật ở thành phố, chuẩn bị điều kiện tiến mạnh vào những năm sau trong sự nghiệp công nghiệp hoá.

Thứ ba, tiếp tục củng cố và xây dựng lực lượng vũ trang và an ninh nhân dân, đưa công cuộc xây dựng quốc phòng toàn dân vào nền nếp, bảo vệ vững chắc thành phố và góp sức tăng cường quốc phòng của cả nước, sẵn sàng làm nghĩa vụ quốc tế.

Thứ tư, đẩy mạnh các phong trào cách mạng của quần chúng, tiếp tục xây dựng và nhân các điển hình tiên tiến, kiên quyết khắc phục những mặt tiêu cực trong nội bộ như ăn cắp của công, hối lộ, ức hiếp quần chúng, đồng thời phải chống tiêu cực ngoài xã hội, đặc biệt tập trung chống đầu cơ, buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả.

Thứ năm, phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, văn nghệ, y tế, xã hội, thể dục thể thao, đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng nền văn hoá mới, nếp sống mới, con người mới.

Thứ sáu, củng cố và kiện toàn cơ chế làm chủ tập thể của nhân dân lao động, phát huy hiệu lực quản lý của chính quyền, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy vai trò của các đoàn thể cách mạng, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sức chiến đấu của các cơ sở Đảng.

Các nhiệm vụ cơ bản trên đây phải được thể hiện cụ thể trong kế hoạch 5 năm 1981 – 1985 với hệ thống chỉ tiêu được tính toán một cách tích cực và có cơ sở, nhằm đẩy mạnh sản xuất, ra sức xây dựng lại trật tự kinh tế, xã hội, từng bước ổn định và có mức cải thiện đời sống của nhân dân lao động thành phố. Trên cơ sở đó mà chuyển động các mặt công tác khác một cách căn bản, tạo ra tiền đề vững chắc cho bước phát triển mới của 5 năm tiếp theo (1986 – 1990).

Những mục tiêu phấn đấu đến cuối năm 1985 của thành phố ta là:

- Về sản xuất công nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp trên địa bàn thành phố, trong năm năm tới phải bảo đảm tăng nhịp độ bình quân hàng năm từ 10 – 15%; trong đó chú ý bảo đảm cho nhóm A của khu vực quốc doanh tăng nhanh hơn và chú trọng vào các ngành năng lượng, công nghiệp nguyên liệu, vật liệu xây dựng, cơ khí (sửa chữa và đóng mới) phục vụ cho các ngành nông, ngư, lâm nghiệp và giao thông vận tải (nhất là các loại phương tiện vận tải thủy)… Cần có sự kết hợp tốt giữa các cơ quan quản lý ngành với địa phương thành phố để tính toán và cân đối các mặt hàng chủ yếu của các ngành công nghiệp trong kế hoạch 5 năm (1981 – 1985).

- Về sản xuất nông nghiệp:

+ Tổng sản lượng lương thực quy lúa 270 – 300 ngàn tấn

+ Rau các loại 200 ngàn tấn

+ Thơm nông trường 40 ngàn tấn (tươi)

+ Đậu phộng 12 ngàn tấn (cả vỏ)

+ Tổng đàn heo (không kể heo sữa) 450 – 500 ngàn con

+ Cá 35 ngàn tấn.

- Về xuất khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn thành phố: 1,2 – 1,5 tỷ đồng.

- Về thương nghiệp xã hội chủ nghĩa (bao gồm quốc doanh và hợp tác xã) phải bảo đảm 60 – 70% khối lượng hàng hoá bán lẻ xã hội.

- Về giải quyết việc làm ổn định cho 350.000 người chưa có việc.

- Về cải tạo xã hội chủ nghĩa:

+ Hoàn thành về cơ bản hợp tác hoá nông nghiệp với bước đi và hình thức thích hợp, nhằm bảo đảm được yêu cầu phát triển sản xuất và cải thiện đời sống về vật chất, văn hoá của nông dân lao động.

+ Trong công nghiệp hoàn thành về cơ bản việc tổ chức lại các ngành kinh tế - kỹ thuật, đưa việc quản lý xí nghiệp vào nền nếp, ổn định phân công phân cấp, sử dụng tốt nhất công suất thiết bị hiện có, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập của công nhân.

B. NHIỆM VỤ 2 NĂM (1981 – 1982) VÀ NHỮNG MỤC TIÊU PHẤN ĐẤU TRONG NĂM 1981:

I. VỀ KINH TẾ VÀ ĐỜI SỐNG:

Hai năm tới, cần thực hiện nghiêm túc Nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 và Nghị quyết số 26 của Bộ Chính trị, động viên mọi suy nghĩ mới, cung cách làm ăn mới để đẩy mạnh sản xuất, nhất là sản xuất công nghiệp, nhằm ổn định một mức tình hình kinh tế và đời sống của công nhân, cán bộ, viên chức, chiến sĩ và nhân dân lao động thành phố. Do đó, cần phải:

1. Đẩy mạnh sản xuất công nghiệp và tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp; tiếp tục cải tạo và tổ chức lại sản xuất:

Đảng bộ phải có trách nhiệm lo toàn bộ công nghiệp trên địa bàn thành phố, bao gồm cả công nghiệp Trung ương và công nghiệp địa phương. Phải xem công nghiệp thành phố là một cơ cấu thống nhất, có sự phân công và hiệp tác sản xuất, nhằm phục vụ có hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp trong cả vùng kinh tế, cho đời sống và cho xuất khẩu. Ngành cơ khí là ngành mũi nhọn trong công nghiệp, bao gồm cả cơ khí trung ương, cơ khí địa phương, cơ khí quốc phòng. Cần có sự phân công hiệp tác sản xuất, phát huy mọi tiềm năng sẵn có để sản xuất máy móc chuyên dùng, thiết bị lẻ, phụ tùng sửa chữa, phương tiện vận tải, nhằm phục vụ đắc lực cho các ngành sản xuất nông ngư, lâm nghiệp ở các huyện ngoại thành, các tỉnh khác và cho nhu cầu quốc phòng. Công nghiệp cần ưu tiên phục vụ các cơ sở nông nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã, các tập đoàn sản xuất, các vùng chuyên canh cao sản có hợp đồng hai chiều với Nhà nước, hình thành cơ cấu công – nông nghiệp hoặc nông – công nghiệp hợp lý với từng loại huyện ngoại thành. Ngành dệt trên địa bàn thành phố cần thống nhất vào một đầu mối quản lý bảo đảm cân đối toàn bộ dây chuyền từ khâu sợi, dệt, nhuộm… và sử dụng tốt nhất khả năng trang bị kỹ thuật hiện có. Các ngành công nghiệp chế biến, nhất là những ngành dựa vào nguyên liệu trong nước như đường, thức ăn gia súc, thuốc lá, tinh dầu, giấy… bằng mọi cách, phải tạo nguồn nguyên liệu ổn định lâu dài, bảo đảm nâng cao công suất sử dụng thiết bị, nâng cao sản lượng hàng hoá tiêu dùng và tăng nguồn xuất khẩu. Cần chú trọng đúng mức việc phát triển các ngành công nghiệp nguyên liệu (như khai thác đá, gỗ, sắt thép), các loại vật tư thay thế, các phụ liệu, phụ gia cho các ngành xây dựng, giao thông, vận tải, đánh bắt thủy hải sản và chế biến… Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp gắn chặt với công nghiệp quốc doanh để có qui hoạch và tổ chức lại theo ngành kinh tế - kỹ thuật. Đồng thời có sự phân công, phân cấp quản lý một cách hợp lý giữa thành phố, quận, huyện, phường, xã và có cải tiến chế độ gia công, thu mua, tăng cường các mối quan hệ hợp đồng kinh tế.

Trong năm 1981, công nghiệp và tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp trên địa bàn thành phố phải phấn đấu đạt giá trị tổng sản lượng 2 tỷ rưỡi đồng.

Để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu nêu trên, cần đổi mới công tác tổ chức quản lý cho thích hợp. Trước hết, cần xem lại các tổ chức trung gian để bỏ bớt và xem lại các hình thức tổ chức quản lý ở đơn vị cơ sở, tăng cường trách nhiệm và quyền hạn của giám đốc đơn vị, tăng cường sự chỉ đạo của cấp trên đối với cơ sở. Cần kiểm tra lại các đơn vị đã cải tạo để thi hành cho đúng chính sách, phát huy tốt cơ cấu kinh tế 5 thành phần: quốc doanh, hợp tác xã, công tư hợp doanh, tư bản tư nhân và cá thể hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước, hướng vào một mục đích vì lợi ích của chủ nghĩa xã hội, trong đó không ngừng phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế quốc doanh. Củng cố, phát triển các hình thức nhóm sản phẩm, trong đó thành phần kinh tế hợp tác xã, tổ hợp, cá thể làm vệ tinh cho xí nghiệp quốc doanh đầu đàn.

Bằng các hình thức tổ chức và các biện pháp thích hợp, phối hợp được mọi khả năng trong khu vực, kết hợp được 3 lợi ích và phát huy được các thành phần kinh tế. Đồng thời đầu tư chiều sâu có trọng điểm để tạo thêm những khả năng mới, thúc đẩy sản xuất, bảo đảm được hiệu quả kinh tế cao.

Ngay từ kế hoạch năm 1981, phải thực hiện một bước việc phối hợp kế hoạch trên địa bàn thành phố, đồng thời có qui hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu tại thành phố và ở các tỉnh.

Ở đơn vị sản xuất, ngoài chỉ tiêu trong kế hoạch do Nhà nước cân đối, cần tìm mọi cách tự cân đối về vật tư, nguyên liệu, sản xuất ngoài kế hoạch bảo đảm sử dụng cao nhất công suất thiết bị, nâng cao mức sản xuất.

Các xí nghiệp có công suất lớn, thiết bị hiện đại, sản xuất kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao phải được ưu tiên cung cấp vật tư nguyên liệu.

Các xí nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh phải coi trọng việc nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và phát huy quyền làm chủ tập thể trong công nhân kết hợp với việc áp dụng chế độ trả lương theo sản phẩm, lương khoán, các chế độ tiền thưởng và phụ cấp, trợ cấp khác, bảo đảm kết hợp hài hoà ba lợi ích, đồng thời có biện pháp chống tham ô, lãng phí, đề cao ý thức tiết kiệm để xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Bất kể trước khó khăn nào, xí nghiệp cũng phải giữ cho được lực lượng công nhân kỹ thuật và cán bộ khoa học kỹ thuật ở lại xí nghiệp làm việc và cần có kế hoạch ngày càng tăng cường đội ngũ này.

2. Đẩy mạnh sản xuất nông, ngư, lâm nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt, chế biến) đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể một cách tích cực và từng bước vững chắc:

Hai năm tới, nông nghiệp phải giải quyết đủ lương thực cho nhân khẩu nông nghiệp ngoại thành và hình thành vành đai thực phẩm của thành phố (chủ yếu là cung cấp rau, một phần quan trọng thịt, cá, trứng…); đồng thời phát triển cây công nghiệp và nông sản xuất khẩu (đậu phộng, thơm, lác, thuốc lá, mía, tre, trúc…). Cần hoàn chỉnh việc quy hoạch phân vùng và xác định dứt khoát các diện tích trồng cho từng loại: lúa, màu, rau chuyên canh, cây công nghiệp (ngắn hạn, dài hạn) các loại nông sản xuất khẩu, chăn nuôi: trâu bò (cho sức kéo, cho sản xuất sữa, thịt), heo, gà, thịt, cá…

Mục tiêu phấn đấu đến cuối năm 1981 của nông nghiệp ngoại thành như sau:

- Tổng sản lượng lương thực quy lúa: 230.000 tấn (phải đảm bảo thu đủ thuế nông nghiệp theo quy định hiện hành của Nhà nước và tận thu mua số lương thực thừa theo hợp đồng hai chiều hoặc theo giá thỏa thuận).

- Rau các loại 120 – 130 ngàn tấn

- Đậu phộng 8 ngàn tấn (cả vỏ)

- Mía 120 ngàn tấn

- Thơm của nông trường 8 ngàn tấn (tươi)

- Thuốc lá 1.500 tấn (khô)

- Lát, bàng 4.500 tấn (khô)

- Chăn nuôi: tổng đàn heo (không kể heo sữa) 270 ngàn con

- Cá 15 ngàn tấn

- Trước mắt cần tiếp tục củng cố các hợp tác xã thí điểm và những tập đoàn sản xuất hiện có, hết sức chú ý cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi, phát triển ngành, nghề, tuân thủ điều kiện đất đai, thời tiết, bồi dưỡng đào tạo cán bộ quản lý, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng sân phơi, nhà kho, chuồng trại… nhằm tăng năng suất và sản lượng, giải quyết tốt đời sống xã viên, thật sự giương cao ngọn cờ xã hội chủ nghĩa ở nông thôn. Đồng thời phát triển rộng rãi hình thức làm ăn như vần đổi công, tổ đoàn kết sản xuất thích hợp với yêu cầu của nông dân trong sản xuất. Đi đôi với củng cố, phải tích cực chuẩn bị điều kiện về cán bộ, vốn, vật tư, kỹ thuật để mở rộng phong trào hợp tác hoá. Trước mắt, cần xóa bỏ bóc lột của phú nông và tư sản ở nông thôn, giải quyết các tranh chấp và điều chỉnh ruộng đất theo chỉ thị số 57 của Bộ Chính trị. Cần quy hoạch và định hình hoàn chỉnh các nông trường quốc doanh, tăng cường chỉ đạo, quản lý để sớm có sản phẩm hàng hoá tập trung cho xuất khẩu và phát huy tác dụng giúp đỡ cho các tập đoàn sản xuất và các hợp tác xã nông nghiệp. Tích cực củng cố và phát huy vai trò của trạm cơ giới, các cơ sở sản xuất giống của thành và huyện để tác động mạnh vào việc tăng năng suất. Trong lúc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp cần kết hợp phát triển đúng mức và đúng hướng các ngành, nghề tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp ở nông thôn để tăng thêm thu nhập của nông dân.

- Chú ý vận động thâm canh tăng vụ và xen canh. Mở rộng diện tích khai hoang, xây dựng kinh tế mới ở ngoại thành phải có tính toán hiệu quả kinh tế. Bảo đảm cân đối giống, thức ăn gia súc, để phát triển ngành chăn nuôi tập trung và chăn nuôi gia đình ở nông thôn, vừa tăng thêm nguồn thực phẩm, vừa tạo thêm phân bón cho trồng trọt, thâm canh. Phấn đấu nuôi cho được 2 – 3 đầu heo trên một héc-ta gieo trồng. Tích cực giải quyết cám, bắp… để nâng cao công suất các cơ sở sản xuất thức ăn gia súc tổng hợp của thành phố và thành lập thêm các phân viện nghiên cứu về giống cây, giống con. Có kế hoạch phân công cụ thể các xí nghiệp cơ khí nội thành hợp tác tương trợ 2 chiều với các huyện ngoại thành và các tỉnh khác.

- Có phương án giải quyết đồng bộ điện, nước, sân phơi, chuồng trại, các nguồn phân bón hữu cơ có thể khai thác trong thành phố. Có chính sách bảo vệ và có kế hoạch nhân giống cây, giống con có năng suất cao, áp dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật mới nhất vào nông nghiệp ngoại thành.

- Ngành thủy lợi phải có quy hoạch phục vụ phương hướng phát triển nông nghiệp. Trước mắt, hoàn thành dứt điểm các công trình dở dang ở nơi có nguồn nước, phát triển thủy lợi nhỏ, nội đồng, giúp nông nghiệp lợi dụng cao nhất điều kiện thiên nhiên để ổn định các mùa vụ chính. Cần kiểm điểm rút kinh nghiệm và mạnh dạn sửa chữa những sai sót trong các công trình đã xây dựng.

- Đẩy mạnh đánh bắt thủy hải sản, đồng thời xúc tiến quy hoạch nuôi trồng thủy hải sản nước ngọt , nước lợ. Mạnh dạn áp dụng những kinh nghiệm tốt của các đội tàu đánh cá Côn Đảo. Phấn đấu đến cuối năm 1981 nâng mức huy động công suất của đội tàu đánh cá thành phố lên 60-70% và phát triển mạnh các trại nuôi cá, tôm ở huyện Duyên Hải, kết hợp chặt với việc nuôi trồng, đánh bắt của nhân dân để nâng cao sản lượng thuỷ hải sản.

- Ngành lâm nghiệp phải kết hợp với nhân dân địa phương tích cực bảo vệ rừng, đẩy mạnh trồng rừng ở Duyên Hải và một số huyện khác ở ngoại thành, khai thác các khu rừng ở các tỉnh miền Đông được Trung ương phân cho thành phố. Tăng cường chế biến gỗ phục vụ xuất khẩu, phục vụ đóng mới trong các ngành sản xuất, giao thông vận tải và làm hàng tiêu dùng.

3. Về xuất nhập khẩu:

Phát triển mạnh xuất nhập khẩu tương xứng với tiềm năng, vị trí và yêu cầu phát triển của thành phố là một trong những trung tâm giao dịch lớn của cả nước.

Cần có kế hoạch khai thác mọi tiềm năng của thành phố và phối hợp với các tỉnh, đặc biệt với các tỉnh phía Nam để khai thác; đồng thời tranh thủ nhận gia công quốc tế và hợp tác quốc tế để phát triển xuất nhập khẩu nhằm thu hút thêm lao động, tạo ra nguồn ngoại tệ và có thêm nguyên, nhiên, vật liệu cho sản xuất. Cần đẩy mạnh đầu tư chiều sâu và tổ chức lại các cơ sở sản xuất những mặt hàng xuất khẩu hiện có ở thành phố để tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu. Đến cuối năm 1981, phải đạt giá trị tổng kim ngạch xuất khẩu tại thành phố là 500 triệu đồng.

Trong đó:

- Xuất khẩu đại ngạch: 390 triệu đồng

Bao gồm:

· Của Trung ương: 200 triệu đồng

· Của thành phố: 190 triệu đồng

- Xuất khẩu tiểu ngạch của thành phố (bao gồm xuất khẩu tại chỗ): 110 triệu đồng.

Để đạt được mục tiêu trên, trước tiên thành phố phải xây dựng cho được cơ cấu mặt hàng xuất khẩu thuộc thế mạnh của thành phố và có kế hoạch phối hợp với các tỉnh phía Nam.

Trước mắt, cần đẩy mạnh việc hợp tác gia công quốc tế, nhận sản xuất các dụng cụ đồ nghề, các mặt hàng kim khí tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ có thế mạnh và có truyền thống ở thành phố. Đẩy mạnh sản xuất những nông sản có giá trị xuất khẩu lớn như: thơm, lác, đậu phộng, thuốc lá, heo v.v… và có kế hoạch phát triển mạnh các công tác dịch vụ, xuất khẩu tại chỗ như du lịch, cung ứng tàu biển…

Cần nghiên cứu cách để tháo gỡ những trói buộc hiện nay trong công tác xuất nhập khẩu như: định giá mua, giá bán nguyên vật liệu, giá gia công và giá bán sản phẩm xuất khẩu, chính sách thuế có khuyến khích chế độ thưởng thỏa đáng bằng giá trị và hiện vật như tỷ lệ trích sản phẩm, trích ngoại tệ để lại cho cơ sở sản xuất hoặc bán hàng có khuyến khích cho các hộ sản xuất hàng xuất khẩu, v.v… Ngay từ đầu 1981 phải có kế hoạch mạnh dạn nhập vật tư kỹ thuật và nguyên liệu để làm hàng xuất khẩu và xây dựng kế hoạch ký hợp đồng dài hạn nguyên vật liệu trực tiếp với những nước được Trung ương cho phép.

Có chính sách huy động các nguồn vốn trong nước kể cả vàng và ngoại tệ của các tầng lớp nhân dân và thu hút nguồn kiều hối, vật tư kỹ thuật, trang thiết bị của Việt kiều có gia đình thân nhân ở thành phố, kể cả của tư bản nước ngoài và các tổ chức quần chúng ở các nước để góp phần tham gia xuất nhập khẩu và xây dựng thành phố.

Có chính sách sử dụng thỏa đáng lực lượng tại chỗ trước nay có mối quan hệ chặt chẽ và có tín nhiệm với thị trường tư bản chủ nghĩa, có kinh nghiệm tổ chức sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu.

Gấp rút kiện toàn bộ máy quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu của thành phố.

4. Thương nghiệp:

Thương nghiệp quốc doanh, hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã mua bán vươn lên làm chủ được thị trường xã hội, phục vụ tốt hơn nữa cho sản xuất và cho đời sống nhân dân lao động thành phố, trước hết phải đảm bảo đời sống cho khu vực ăn lương Nhà nước, cần thay đổi phương thức hoạt động kinh doanh trên cả 3 mặt: thu mua, phân phối, (bao gồm cả bán buôn và bán lẻ) và đấu tranh quản lý thị trường, gắn liền với cải tạo xã hội chủ nghĩa trong ngành.

Phải gấp rút chấn chỉnh các tổ chức thu mua của hệ thống thương nghiệp, nắm cho bằng được các nguồn hàng nông sản phẩm và công nghệ phẩm sản xuất tại thành phố.

Có kế hoạch từng bước loại trừ tư thương mua buôn, bán buôn ra khỏi thị trường thành phố.

Về phân phối hàng hoá phải đảm bảo công bằng hợp lý, đúng đối tượng, đúng tiêu chuẩn (định lượng và chất lượng) kịp thời và thuận tiện, chống lối phân phối bình quân, bao cấp, phấn đấu ổn định và từng bước có cải thiện đời sống của nhân dân lao động về những nhu cầu cấp bách nhất. Thương nghiệp phải đảm bảo 10 mặt hàng thiết yếu theo tiêu chuẩn định lượng và chất lượng như đã quy định cho khu vực ăn lương Nhà nước.

Ngoài ra, phấn đấu đảm bảo tốt hơn 2 bữa ăn chính trong ngày của nhân dân lao động thành phố, bữa ăn giữa ca, ca 3, bồi dưỡng độc hại, trang bị phòng hộ lao động kịp thời cho công nhân theo chế độ đã có và đáp ứng những mặt hàng tiêu dùng khác cho nhân dân thành phố với giá tự doanh của thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã.

Thực hiện tốt chủ trương đăng ký kinh doanh và sắp xếp lại hợp lý các cơ sở thương nghiệp tư doanh. Nghiêm trị số đầu cơ, buôn lậu, trốn tránh đăng ký kinh doanh.

Cần chấn chỉnh lại cơ cấu ngành thương nghiệp thành phố, có phân công phân cấp hợp lý giữa Trung ương (công ty cấp I) và thành phố, thành phố với các tỉnh khác và trong nội bộ thành phố (giữa cấp thành phố với quận, huyện và phường, xã). Các ngành ăn uống, lương thực thương nghiệp, có trách nhiệm cùng với các cơ quan, đơn vị nghiên cứu tổ chức hợp lý, đảm bảo tốt bữa ăn trưa cho cán bộ, công nhân viên chức theo từng đơn vị hoặc theo khu vực. Cần tuyển chọn kỹ, tăng cường giáo dục chính trị, nâng cao tinh thần phục vụ cho cán bộ, nhân viên các ngành thương nghiệp, lương thực, ăn uống, khách sạn và phải có biện pháp kiểm tra chặt chẽ: nhân viên bán phải đeo biển tên, tại nơi bán hàng phải có sổ góp ý kiến, đảng ủy, công đoàn, đoàn thanh niên cộng sản ở cơ sở phải có chế độ định kỳ, kiểm tra, nhận xét đánh giá về kết quả công tác của từng nhân viên một và kịp thời nêu gương người tốt việc tốt, nhân các điển hình tiên tiến. Đối với cá nhân hoặc tổ, đội phục vụ tốt, có hiệu suất cao, cần vận động ba lợi ích để có khen thưởng vật chất thỏa đáng; đối với kẻ ăn cắp, ăn xén phải có kỷ luật, nếu tái phạm hoặc vi phạm nghiêm trọng phải truy tố và loại ra khỏi ngành.

Đến cuối năm 1981, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phải chiếm 40 – 50% khối lượng hàng hóa bán lẻ xã hội.

5. Tài chính – ngân hàng – giá:

Các ngành tài chính, ngân hàng, giá cần tích cực tham gia xây dựng và kiểm tra thực hiện các kế hoạch kinh tế, thúc đẩy hạch toán kinh tế, điều tiết thu nhập, tăng thu, giảm chi, bảo đảm vốn kịp thời cho sản xuất kinh doanh và thu mua, bảo đảm sử dụng vốn đầu tư đạt hiệu quả kinh tế cao.

- Xây dựng kế hoạch tài chính phải gắn liền với kế hoạch sản xuất và kinh doanh, bảo đảm tăng thu, giảm chi và cân đối được ngân sách thành phố. Cần có kế hoạch chặt chẽ thu gom, thanh lý và bảo quản tốt tài sản xã hội chủ nghĩa được phân công đặc trách.

- Ngân hàng phải xây dựng kế hoạch tín dụng, tiền mặt gắn liền với quá trình cải tạo và tổ chức lại sản xuất của các ngành kinh tế, với kế hoạch của sản xuất - kỹ thuật – tài chính của các đơn vị sản xuất kinh doanh và có biện pháp chủ động, linh hoạt huy động được các nguồn vốn chết trong các cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã và trong nhân dân. Cải tiến công tác tổ chức vận động gửi tiền tiết kiệm theo hướng làm cho người gửi thấy có lợi và tiện. Bằng mọi cách phải bảo đảm tăng dần phần tiền tệ lưu thông qua hệ thống ngân hàng, tiến tới nắm cho được tiền, làm chủ được việc tổ chức điều hòa lưu thông tiền tệ. Phải quản lý chặt chẽ tiền mặt, quản lý tốt quỹ tiền lương, bảo đảm luôn có đủ tiền mặt cho tiền lương, tiền công, cho yêu cầu của sản xuất kinh doanh và nắm nguồn hàng. Cải tiến công tác thanh toán, bảo đảm thực hiện nhanh chóng và thuận tiện cho khách hàng. Tổ chức ngân hàng phải vươn lên mạnh mẽ để đủ sức phục vụ sản xuất, phân phối lưu thông, đời sống… đúng với vị trí và chức năng vừa phục vụ, vừa quản lý của mình.

- Ngành tài chính ngân hàng phải gắn với cơ sở, chính quyền quận, huyện, phường, xã để thực hiện các kế hoạch tài chính tín dụng, tiền tệ; có chính sách khen thưởng thỏa đáng, cho cá nhân và đơn vị có thành tích, đồng thời nghiêm trị những nhân viên hư hỏng.

- Công tác giá phải thực hiện đúng chính sách; kịp thời xây dựng và điều chỉnh giá các mặt hàng được phân cấp cho thành phố quản lý.

- Tăng cường công tác hạch toán kinh tế ở đơn vị cơ sở.

6. Giao thông vận tải và bưu điện:

Về giao thông vận tải:

Hai năm tới phải tiếp tục đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa và tổ chức sắp xếp lại ngành nhằm tận dụng hợp lý phương tiện hiện có và phát huy công suất sử dụng, bảo đảm phục vụ sản xuất, phân phối lưu thông, phục vụ chiến đấu, xây dựng và sự đi lại dễ dàng hơn cho nhân dân thành phố.

Phải có sự chuyển hướng phát triển nhanh ngành vận tải thủy trên địa bàn thành phố và bảo đảm vận chuyển được 50% khối lượng vận tải giữa thành phố với các tỉnh miền tây và vận chuyển quá cảnh phục vụ cho Campuchia; đồng thời đi kèm theo đó phải tổ chức tốt các bến bãi, kho tàng và khâu bốc xếp.

Phải kiện toàn tổ chức và tăng cường quản lý ngành về các mặt; bảo đảm quản lý được xăng dầu, giá cước, đầu xe, tàu thuyền, chống các tệ ăn hối lộ, bán vé chợ đen, ăn cắp, để hư hỏng, mất mát tài sản và hàng hoá. Tiến hành tổ chức xây dựng mạng lưới vận tải hàng hoá và hành khách thủy, bộ. Cần có sự phân công, phân cấp hợp lý giữa các lực lượng vận tải công cộng thuộc thành phố quản lý với các quận, huyện và giữa lực lượng vận tải của ngành giao thông với vận tải chuyên dùng của các ngành khác. Chú ý bảo đảm cho các huyện ngoại thành và các ngành có yêu cầu vận chuyển lớn, đặc biệt trong những lúc thời vụ. Nâng cao năng lực sửa chữa cơ khí của ngành giao thông.

Phải có kế hoạch sửa chữa lớn và bảo đảm công tác duy tu, bảo dưỡng cơ sở hạ tầng, đường sá, cầu cống, nhất là hệ thống cầu sắt, trục đường chính, các khu lao động, các tuyến đến vùng kinh tế mới, các nông trường; có phân công phân cấp quản lý giao thông một cách hợp lý giữa thành phố với trung ương và có chính sách khen thưởng vật chất thích đáng cho nơi làm tốt, cho người lo tốt.

Tăng cường và cải tiến phục vụ khách ở các ga đường sắt, sân bay, bến cảng, bảo đảm đúng giờ giấc đi đến, lịch sự, thuận tiện, tương xứng với vị trí thành phố là một trung tâm giao dịch quốc tế. Tổ chức phục vụ tốt sự đi lại của hành khách ở nội, ngoại thành, nhất là cho các đối tượng hàng ngày đi lại công tác, làm việc và đi học.

Về bưu điện:

Tăng cường công tác duy tu, bảo dưỡng, bảo vệ nhằm tận dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, đặc biệt là mạng cáp và các thiết bị của hệ thống điện thoại, điện báo, đồng thời tranh thủ khả năng tăng thêm trang bị mới. Phát triển bưu cục ở nội ngoại thành. Cải tiến tổ chức sản xuất và quản lý để bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, nhanh chóng, chính xác, an toàn, phục vụ kịp thời cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp thành phố và quận, huyện. Có kế hoạch phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị và phường, xã để bảo vệ cho được hệ thống đường dây điện thoại thông suốt liên tục. Bảo đảm chuyển thư, chuyển phát bưu kiện, bưu phẩm được nhanh chóng, không bị mất mát, hư hỏng. Mặt khác, phải khắc phục các biểu hiện tiêu cực, trì trệ trong ngành, tăng cường ý thức giác ngộ về chính trị, nâng cao tinh thần phục vụ cho cán bộ, nhân viên; kết hợp giải quyết tốt đời sống và thưởng phạt nghiêm minh, kịp thời.

7. Ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân lao động, chiến sĩ và công nhân, viên chức Nhà nước.

Đời sống nhân dân là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là mục đích cao nhất của Đảng và Nhà nước ta và cũng là kết quả của hoạt động đồng bộ: sản xuất, tiết kiệm, phân phối lưu thông, an ninh quốc phòng, y tế, giáo dục, văn hoá, xã hội, thực hiện quyền làm chủ tập thể, xây dựng lối sống thương yêu đùm bọc nhau trong tình đồng bào đồng chí, tránh làm khó, làm khổ, làm phiền nhau, v.v… Cần có quan niệm về đời sống như vậy, để mọi cấp, mọi ngành, mọi cán bộ, đảng viên, mọi người trong thành phố đều có trách nhiệm cùng lo.

- Hiện nay, vấn đề cấp bách trước mắt là phải bảo đảm có bữa ăn ổn định và có hàng tiêu dùng thiết yếu như vải, thuốc chữa bệnh thông thường, dụng cụ gia đình, phương tiện đi lại, vật tư sửa chữa nhà cửa, giấy bút sách vở học sinh, đồ dùng trẻ em và các đồ dùng văn hoá khác.

Trong trường hợp chưa có đủ cho mọi người, cần ưu tiên giải quyết cho lao động trong khu vực sản xuất, cho các lực lượng vũ trang, cho cán bộ nhân viên ngành giáo dục, y tế, cho trẻ em và người bệnh, cho thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có nhiều đóng góp cho cách mạng đang gặp khó khăn, cho học sinh và gia đình lao động nghèo.

- Về nhà ở: cần điều chỉnh, sắp xếp lại việc phân phối sử dụng nhà hợp lý theo quy định hiện hành của Nhà nước. Trả những nhà chuyên dùng cho ngành chủ quản. Điều chỉnh lại nhà làm việc của cơ quan theo tiêu chuẩn diện tích quy định và có kế hoạch gom lại những cơ quan có liên quan cùng ngành, cùng khối để sử dụng hợp lý diện tích và tránh được các lãng phí khác. Trong 2 năm 1981 – 1982 phải dành kinh phí và vật tư thỏa đáng để sửa chữa những nhà hư hỏng thuộc diện Nhà nước quản lý và có phân công, phân cấp quản lý một cách hợp lý, ngăn chặn cho được tình trạng nhà cửa bị xuống cấp. Ngoài ra phải dành một số vật tư tối cần thiết để bán cho nhân dân sửa chữa nhà. Ưu tiên giải quyết nhà cho công nhân, cán bộ chưa có nhà hoặc nhà quá chật hẹp và cho nhà trẻ, mẫu giáo và câu lạc bộ thiếu nhi.

Đối với các công trình, nhà cửa thuộc các ngành y tế, giáo dục, văn hóa thông tin, các câu lạc bộ, các nhà nghỉ cần được bảo quản tốt, có chế độ tu bổ định kỳ, không được để xuống cấp và phải phát huy cao nhất hiệu suất sử dụng. Khuyến khích mọi khả năng ở cơ quan (cơ quan, xí nghiệp, quận, huyện, phường, xã) dựa vào sức dân, dựa vào tập thể để góp phần tu bổ và xây dựng mới những nơi khám bệnh, học hành, biểu diễn văn nghệ, vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi.

- Bảo đảm tốt việc cấp nước, thoát nước và chiếu sáng cho thành phố, chú ý giải quyết một cách cơ bản cho nhân dân huyện Duyên Hải, Nhà Bè, Nam Bình Chánh về nước ngọt. Bảo đảm dầu thắp sáng cho các huyện ngoại thành và những nơi ở nội thành thiếu điện.

- Sửa sang lòng lề đường cho sạch sẽ và bảo đảm an toàn, trật tự giao thông trong nội thành. Đối với ngoại thành, chú ý sửa sang đường sá, cầu cống, các khu vui chơi giải trí công cộng.

Vì vấn đề đời sống đang đặt ra cấp bách và phải giải quyết cụ thể, nên có nghị quyết riêng của Đại hội.

8. Bố trí lại lao động, tạo công ăn việc làm:

Sắp xếp công ăn việc làm phải gắn liền với phân bổ lại lực lượng lao động xã hội và bố trí lại một bộ phận dân cư trên địa bàn thành phố, có kết hợp với yêu cầu an ninh quốc phòng, với công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng, phát triển kinh tế ở thành phố và khu vực.

Cần đưa thêm lao động vào khu vực sản xuất công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp và nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng (ở nội, ngoại thành, ở các nông trường cao su, công trường dịch vụ dầu khí, xây dựng đường sắt…), đồng thời có kế hoạch phối hợp với các nước anh em để đào tạo công nhân và giải quyết một phần lao động cho thành phố.

Đến cuối 1981, phải bố trí thêm 100.000 lao động và có kế hoạch chuẩn bị giải quyết khoảng 70.000 tiếp trong những năm sau.

9. Tiếp tục điều tra cơ bản, đẩy mạnh công tác quy hoạch và cải tiến công tác kế hoạch hoá:

Cần tiếp tục hoàn chỉnh các số liệu điều tra cơ bản do từng ngành, từng cấp phụ trách, đặc biệt các số liệu cơ bản về đất đai, thổ nhưỡng, biển, rừng và năng lực sản xuất của các ngành kinh tế thành phố để có thêm cơ sở cho việc quy hoạch ngành cũng như xây dựng một bước quy hoạch tổng thể của thành phố trong khoảng mười, mười lăm năm, và trên cơ sở đó mà xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm. Cần bảo đảm cho kế hoạch phải thực sự là cương lĩnh thứ hai của Đảng, là công cụ chủ yếu để quản lý kinh tế, xã hội.

Cần cải tiến nội dung và phương pháp làm kế hoạch ở thành phố theo quy định ba cấp của Trung ương. Trong điều kiện kinh tế còn nhiều thành phần, cần kết hợp chặt quản lý theo kế hoạch với sử dụng các quan hệ thị trường một cách linh hoạt.

Trong cân đối kế hoạch phải thể hiện tốt các mối quan hệ kết hợp, phải bảo đảm dân chủ, tập trung, khoa học và làm từ cơ sở lên. Nên có nhiều phương pháp kế hoạch và có kèm theo các phương án kinh tế - kỹ thuật để giúp cấp ủy và Ủy ban Nhân dân (cấp kế hoạch) cân nhắc lựa chọn được phương án tốt nhất.

Cần gấp rút kiện toàn ngành thống kê và kế hoạch, đặc biệt chú ý tăng cường cho quận, huyện, phường, xã và đơn vị kinh tế cơ sở.

II. CÔNG TÁC XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT KỸ THUẬT VÀ CÔNG TÁC KHOA HỌC KỸ THUẬT.

1. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật:

Trong 2 năm tới, cần tập trung tu bổ, sửa chữa kịp thời những nhà xưởng, thiết bị máy móc, cơ sở hạ tầng hiện có, kết hợp với tăng cường và cải tiến quản lý, nhằm phát huy cao nhất công suất sử dụng. Tập trung đầu tư chiều sâu phát triển các ngành: cơ khí, dệt, chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, giao thông vận tải thủy, một số ngành hoá chất thiết yếu… nhằm phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Tập trung làm dứt điểm các công trình dở dang có chứng minh được hiệu quả kinh tế, tạm thời ngưng các công trình chưa có tác dụng thiết thực. Ngoài ra, trong phân bổ vốn đầu tư cần có tỷ lệ thích đáng dành cho các công trình phúc lợi công cộng và các sơ sở sự nghiệp. Việc khởi công xây dựng những công trình mới cần được cân nhắc, tính toán chặt chẽ theo quy hoạch chung của thành phố và khu vực, trước hết là ngành dệt, cơ khí, chế biến lương thực, thực phẩm… tiến tới thống nhất quản lý theo ngành kinh tế - kỹ thuật để tránh lãng phí công suất máy móc thiết bị, tiết kiệm được vốn đầu tư xây dựng cơ bản và đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của huyện phải tính toán đặc điểm của từng huyện, trước mắt, cần tập trung khai thác công suất của các cơ sở hiện có ở thành phố.

2. Công tác khoa học kỹ thuật:

Trong 2 năm tới, chủ yếu là nghiên cứu ứng dụng và triển khai những tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào việc giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong các ngành sản xuất và đời sống, trong an ninh quốc phòng, trong quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Phải làm cho khoa học, kỹ thuật trở thành căn cứ của kế hoạch và hoạt động kinh tế. Kế hoạch nghiên cứu và phát triển khoa học, kỹ thuật phải là một bộ phận quan trọng hợp thành của kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá của thành phố. Cần thực hiện tốt sự đoàn kết, văn hoá của thành phố. Cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, dài hạn đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật của thành phố. Có kế hoạch sử dụng tốt năng lực thiết bị, máy móc, dụng cụ phòng thí nghiệm của các trường đại học, viện nghiên cứu, các trạm trại hiện có. Tăng cường công tác thông tin khoa học, kỹ thuật và công tác phổ biến những kiến thức về khoa học kỹ thuật trong quần chúng. Đưa công tác quản lý kỹ thuật vào nề nếp, xây dựng bổ sung hệ thống tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật, làm tốt công tác đo lường, kiểm tra kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản phẩm. Cần quản lý chặt chẽ những sáng chế, phát minh và xét khen thưởng kịp thời, đúng mức. Việc nghiên cứu sản xuất thử phải gắn với các cơ sở sản xuất để có chương trình thống nhất và có phân công, phối hợp thực hiện, tránh trùng lắp và đem lại hiệu quả thiết thực. Tăng cường công tác dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ quản lý.

Xúc tiến ngay công tác điều tra cơ bản với chương trình thống nhất trên địa bàn thành phố, để có hướng dẫn, giúp đỡ các ngành nắm chắc tình hình khoa học, kỹ thuật ở thành phố, gắn liền với các điều kiện khác để xây dựng các kế hoạch và quy hoạch phát triển kinh tế, văn hoá ở thành phố, từng bước xây dựng thành phố thành một trong những trung tâm khoa học - kỹ thuật của cả nước.

Cần có mức đầu tư thỏa đáng trong 2 năm cho công tác nghiên cứu khoa học, kỹ thuật ở thành phố.

Cần kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý kỹ thuật từ Ban Khoa học kỹ thuật thành phố tới các bộ phận quản lý kỹ thuật, bao gồm quản lý công nghệ, quản lý cơ điện, quản lý tiêu chuẩn, đo lường và quản lý chất lượng sản phẩm (KCS) của các cơ sở sản xuất, bảo đảm sản phẩm xuất xưởng phải theo đúng tiêu chuẩn chất lượng qui định. Có biện pháp kiểm tra và nghiêm khắc xử lý đối với các mặt hàng giả hoặc không đúng chuẩn chất đã đăng ký.

Trước mắt, Ban Khoa học kỹ thuật thành phố phải coi việc quản lý kỹ thuật (tiêu chuẩn hoá, đo lường và kiểm tra chất lượng sản phẩm) là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, đồng thời phải vươn lên hơn nữa với chức năng tham mưu và quản lý toàn diện các mặt hoạt động khoa học kỹ thuật, thật sự trở thành nơi đầu mối qui tụ và phát huy các lực lượng khoa học kỹ thuật trên địa bàn thành phố và khu vực.

III. CÔNG TÁC AN NINH, QUỐC PHÒNG

Bọn bành trướng Trung Quốc, kẻ thù nguy hiểm trực tiếp của nhân dân ta đang câu kết với chủ nghĩa đế quốc, nhất là Mỹ, Nhật lôi kéo các thế lực phản động xấu xa nhất chống phá cách mạng nước ta. Chúng coi thành phố này là một địa bàn trọng điểm, ráo riết phối hợp với bọn phản động trong nước, đẩy mạnh hoạt động tình báo, gián điệp, nhen nhóm phản động, tập trung phá hoại ta về kinh tế, tác động chiến tranh tâm lý, trong lúc tình hình đời sống sản xuất đang khó khăn nhằm gây chia rẽ, xói mòn lòng tin của quần chúng, mua chuộc làm hư hỏng cán bộ chiến sĩ, gây rối an toàn xã hội.

1. Mọi âm mưu của chúng đều nhằm phá hoại cuộc sống yên lành của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi phường, xóm. Do đó, sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc phòng là sự nghiệp chung của thành phố, là trách nhiệm của Đảng bộ và quân dân thành phố. Giữ vững an ninh quốc phòng của thành phố có tác động lớn đối với quốc phòng và an ninh của cả nước.

Cơ sở của nền an ninh nhân dân và quốc phòng toàn dân chính là sự ổn định về chính trị, tư tưởng, về kinh tế, tư tưởng, về đời sống xã hội, và nhân dân lao động làm chủ tập thể về an ninh, quốc phòng. Để bảo đảm an ninh, quốc phòng ở thành phố, một mặt phải nâng cao năng lực quản lý hành chánh – kinh tế - xã hội từ các đơn vị cơ sở nhất là từ phường, xã, ấp, tổ dân phố; mặt khác làm cho mọi người đều có ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ, nâng cao lòng yêu nước, tự giác tuân thủ luật pháp xã hội chủ nghĩa, có ý thức cảnh giác chống lại mọi thủ đoạn của địch và bọn xấu.

Duy trì và phát triển phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở, củng cố đoàn kết và lòng tin trong quần chúng để chung sức xây dựng, bảo vệ thành quả cách mạng, qua đó nắm chắc tình hình, kịp thời ngăn ngừa, phát hiện và dập tắt mọi âm mưu thủ đoạn chống phá cách mạng của địch. Nghiêm trị bọn lưu manh chuyên nghiệp, các ổ đầu cơ tích trữ, buôn lậu, các tổ chức móc người trốn đi nước ngoài. Song song với chức năng trấn áp kẻ thù cách mạng và bọn tội phạm, ngành công an phải thực hiện chức năng cải tạo con người, thực hiện nghiêm túc các chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là chính sách đoàn kết dân tộc, chính sách tôn giáo, chăm lo tốt đời sống nhân dân, tổ chức tốt các trường giáo dục công nông nghiệp nhằm cải tạo con người qua lao động.

Phải bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối toàn diện của các cấp ủy Đảng đối với các lực lượng vũ trang, nâng cao tính Đảng trong cán bộ chiến sĩ ngành công an. Các cấp ủy Đảng, các ngành, các cấp, các đoàn thể phải có trách nhiệm chăm sóc tốt đời sống vật chất và văn hoá đối với lực lượng công an.

Cần chọn người được thử thách trong phong trào quần chúng, bảo đảm trung thành, liêm khiết, am hiểu tình hình địa phương gắn bó với quần chúng, được quần chúng tin yêu mà xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững và tác phong làm việc khẩn trương, chính xác, đúng pháp luật, đối xử lịch sự khi tiếp xúc và giải quyết mọi yêu cầu của quần chúng. Khắc phục tác phong xa rời quần chúng, gây phiền hà cho nhân dân, bài trừ hẳn tệ hối lộ, ức hiếp quần chúng. Tập trung củng cố tổ chức cơ sở, công an khu vực về phẩm chất và nghiệp vụ.

Trong 2 năm 81 – 82, phấn đấu có từ 30 – 40% đơn vị cơ sở có phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc khá, quản lý tốt nhân hộ khẩu, giải quyết thỏa đáng số người cư trú không hợp lệ ở thành phố, tạo được sự chuyển biến có ý nghĩa ở các địa bàn trọng điểm.

2. Củng cố quốc phòng, đưa công tác quân sự địa phương đi vào nền nếp, xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu:

Công tác an ninh quốc phòng nói chung phải dựa vào phong trào tự giác của quần chúng, dựa vào sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân.

Duy trì thường xuyên việc huấn luyện quân sự phổ cập trong nhân dân, trước hết ở trường học, cơ quan, cơ sở sản xuất. Rèn luyện phong cách có tổ chức, có kỷ luật, khẩn trương, phù hợp với yêu cầu sẵn sàng chiến đấu, và xây dựng tác phong công nghiệp.

Tiếp tục nâng cao kết quả cuộc vận động “phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang”, kể cả lực lượng nửa vũ trang, hết sức chú trọng nâng cao giác ngộ chính trị và tính kỷ luật, tăng cường đoàn kết giữa quân và dân, giữa cán bộ và chiến sĩ.

Xây dựng lực lượng vũ trang thành phố có chất lượng cao. Lực lượng tập trung phải vững mạnh về chính trị tư tưởng, có kỷ luật, nắm vững kỹ thuật hiện đại với các binh chủng cần thiết, được bố trí hợp lý. Lực lượng hậu bị phải mạnh, sẵn sàng; lực lượng dân quân tự vệ phát triển vững chắc, đều khắp ở cơ sở. Phát huy vai trò của ban chỉ huy quân sự thống nhất các cấp để phối hợp tốt các lực lượng trên địa bàn. Trước mắt phải tập trung củng cố phường đội, xã đội, bảo đảm đa số là người tại chỗ, bố trí ổn định, quản lý chặt chẽ, chăm lo đời sống cho anh em.

Trên cơ sở bảo đảm việc bố phòng, huấn luyện mà có kế hoạch huy động bộ đội và các phương tiện kỹ thuật của quân đội trên địa bàn thành phố tham gia sản xuất và xây dựng kinh tế, đem lại hiệu quả cao. Mỗi khu vực sản xuất của quân đội phải hình thành thế trận chiến đấu khi cần thiết. Đẩy mạnh việc vận động tiết kiệm trong quân đội. Xây dựng tốt ngành hậu cầu, bảo đảm hậu cần tại chỗ phục vụ sẵn sàng chiến đấu và đời sống chiến sĩ.

Thực hiện đầy đủ các chỉ tiêu tuyển quân, bảo đảm công bằng trong nghĩa vụ quân sự, thực hiện pháp lệnh về niên hạn nghĩa vụ quân sự theo tinh thần chỉ thị mới của Trung ương. Thực hiện tốt hơn nữa chính sách hậu phương quân đội, chính sách đối với bộ đội phục viên, thanh niên làm xong nghĩa vụ quân sự hoặc hoàn thành nhiệm kỳ thanh niên xung phong. Ở cơ sở phải hình thành tổ chức phụ trách công tác hậu phương quân đội gồm phường, xã đội, các đoàn thể quần chúng, do thương binh và xã hội làm nòng cốt. Ở cấp thành có tổ chức chỉ đạo phối hợp điều hòa lực lượng các ngành.

IV. CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VÀ VĂN HOÁ, XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ MỚI VÀ CON NGƯỜI MỚI.

1. Trong những năm trước mắt, cuộc đấu tranh sẽ còn tiếp tục diễn ra gay gắt và phức tạp giữa ta và địch, giữa “hai con đường”, giữa yêu cầu đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa với lề thói sản xuất nhỏ, giữa văn hoá, nếp sống mới xã hội chủ nghĩa với các tàn dư văn hoá, nếp sống tư sản, thực dân, phong kiến, giữa yêu cầu phải chuyển mạnh trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội với sự trói buộc của cơ chế quản lý trên nhiều mặt không còn phù hợp nữa.

Để thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng, toàn Đảng bộ phải đẩy mạnh công tác chính trị, tư tưởng với nội dung chủ yếu sau đây:

- Phải khẳng định tính chất cách mạng và khoa học của đường lối chung, đường lối xây dựng kinh tế, các quan điểm, chủ trương đúng đắn của Đảng trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ. Đặc biệt phải nắm vững việc thiết lập quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động vừa là mục đích, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa, nắm vững công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ; phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng tốt năm thành phần kinh tế, kết hợp đúng đắn ba mặt lợi ích; có cách nhìn toàn diện, lịch sử, cụ thể về cục diện của cả nước, của thành phố; giữ vững tinh thần lạc quan cách mạng, vừa đánh giá hết khó khăn phức tạp vừa thấy được xu thế đi lên của tình hình, nâng cao tinh thần tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng đất nước, xây dựng thành phố. Chống mọi biểu hiện dao động, bi quan, hoài nghi, nhìn tình hình một cách phiến diện.

- Xác định rõ việc xây dựng con người mới là kết quả của ba cuộc cách mạng mà công tác giáo dục chính trị tư tưởng và việc xây dựng lẽ sống cách mạng có tác động trực tiếp. Con người mới xã hội chủ nghĩa trong một thành phố công nghiệp phải được xây dựng theo quan điểm của giai cấp công nhân.

Trước hết phải là con người Việt Nam, hiểu rõ lịch sử anh hùng và cội nguồn dân tộc, có lòng yêu nước và niềm tự hào sâu sắc về dân tộc Việt Nam, có tinh thần quốc tế vô sản, có ý thức đúng về mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia, tình cảm gắn bó với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đó là con người sống đẹp, con người làm chủ tập thể, thiết tha gắn bó với chế độ mới, biết kết hợp đúng đắn lợi ích của bản thân và lợi ích của tập thể và lợi ích của toàn xã hội; là con người yêu lao động, lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất cao, coi lao động là lẽ sống, là phẩm giá con người, là phương tiện để làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân; là con người giàu tình thương và biết tôn trọng lẽ phải. Đó là con người có lối sống văn minh, lịch sự, trật tự, khẩn trương, đối xử với nhau có nghĩa có tình, biết tôn trọng pháp luật, biết đấu tranh chống đầu óc dân tộc hẹp hòi, chống nếp suy nghĩ và lối sống cũ, chống mê tín dị đoan.

- Xác định rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù nguy hiểm là bọn bành trướng Trung Quốc câu kết với đế quốc Mỹ và thế lực phản động quốc tế khác đối với cách mạng Việt Nam. Nâng cao ý chí căm thù, tinh thần cảnh giác cách mạng. Chống thái độ bàng quan, tê liệt cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc chế độ, tác động chiến tranh tâm lý, hành động phá hoại kinh tế, chínht rị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng của kẻ địch.

- Phải chú trọng giáo dục truyền thống của dân tộc, của địa phương, truyền thống từng cơ quan, đơn vị, xí nghiệp, phường, xã, đường phố, xóm ấp, từng gia đình/

Kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức, nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội và tổ chức chăm lo đời sống; phải trên cơ sở phát huy bồi dưỡng mặt tích cực mà đẩy lùi mặt tiêu cực.

Đặc biệt chú trọng hình thức tuyên truyền miệng, đi sâu vào từng tập thể, gia đình, từng người; dùng quần chúng tuyên truyền quần chúng ở nơi trực tiếp với sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu.

Trong các đối tượng, phải nhằm chủ yếu vào công nhân, nông dân, trí thức, thanh thiếu niên. Cần quan tâm đúng mức đến tâm tư, tình cảm của đồng bào có đạo, bà con lao động người Hoa, gia đình còn có người thân đang học tập cải tạo, hoặc ở nước ngoài. Tiếp tục xây dựng tình đoàn kết, hòa hợp trong nhân dân lao động xóa bỏ mặc cảm.

Phải quan tâm đồng đều đến các vùng, các khu vực khác nhau trong phạm vi thành phố, đặc biệt là vùng nông thôn ngoại thành, vùng căn cứ cũ và Duyên Hải.

2. Cần nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính chỉ đạo, tính quần chúng, tính chân thật của công tác thông tin tuyên truyền báo chí. Báo chí phải nắm vững chức năng vừa là phương tiện làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Phải có trách nhiệm phổ biến đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng đến quần chúng, đồng thời phản ánh nhanh chóng, chính xác tình hình, diễn biến tư tưởng, tình cảm, ý kiến, nguyện vọng của quần chúng về cho Đảng, phát hiện những nhân tố mới nảy sinh trong phong trào quần chúng, phát huy được sức sáng tạo vô cùng phong phú trong nhân dân.

Tăng cường thông tin thời sự, chính sách một cách nhạy bén kịp thời thường xuyên để hướng dẫn dư luận và chỉ đạo hành động trong nội bộ và ngoài nhân dân. Cải tiến công tác phát hành báo bảo đảm mỗi đơn vị cơ sở đều có báo đọc kịp thời. Đẩy mạnh việc sản xuất giấy, mực, pin… để tăng số lượng phát hành sách, báo, tận dụng các máy thu thanh, thu hình hiện có. Bộ phận truyền thanh và đài truyền hình phối hợp với Sở Văn hóa và Thông tin mở rộng màng lưới sửa chữa máy thu thanh, thu hình cho nhân dân, chú trọng đặc biệt các xã ngoại thành và Duyên Hải.

Các ngành, các cấp phải coi trọng việc giải đáp thắc mắc, trả lời những ý kiến phê bình đóng góp của quần chúng một cách nghiêm túc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Tổ chức hợp lý bảo đảm cho đông đảo quần chúng được đọc báo, nghe đài, xem vô tuyến truyền hình.

Xây dựng và nâng cao chất lượng mạng lưới truyền thanh ở phường, và ưu tiên cho các xã ở ngoại thành.

Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ viết báo, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên từ cán bộ, đảng viên, hội viên các đoàn thể cắm sâu trong quần chúng, ở những nơi trực tiếp với sản xuất, chiến đấu.

Học tập và nhân các điển hình tiên tiến về kinh nghiệm tổ chức và huy động quần chúng làm thông tin, tuyên truyền ở cơ sở.

Công tác xuất bản phải nhằm phổ biến những tác phẩm thiết thực phục vụ yêu cầu chính trị của thành phố, phù hợp với trình độ, tình cảm, thẩm mỹ và yêu cầu của nhân dân, chú trọng sách khoa học kỹ thuật và sách cho thiếu nhi.

3. Bảo đảm công tác văn hoá văn nghệ phục vụ tốt hơn nữa nhiệm vụ chính trị của thành phố; xây dựng phong trào văn hoá văn nghệ thành phố ngày càng thể hiện sâu sắc nội dung xã hội chủ nghĩa, tính chất dân tộc, có phong cách độc đáo, phong phú hơn. Đấu tranh chống ảnh hưởng và tàn dư của văn hoá thực dân, phong kiến, tư sản và những nhân tố tiêu cực, lạc hậu trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Phải khắc phục những biểu hiện chạy theo thị hiếu tầm thường để kinh doanh, không đi vào phục vụ sản xuất và chiến đấu.

Không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị và tinh thần phục vụ quần chúng. Giữ vững và phát triển phong rào văn hoá văn nghệ quần chúng, nhất là quan tâm tổ chức và nâng chất lượng sinh hoạt văn hóa văn nghệ trong thanh thiếu niên, công nhân, các lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong. Khắc phục tình trạng quá chênh lệch về đời sống văn hoá giữa nội thành và ngoại thành.

Kiện toàn các đơn vị nghệ thuật do Nhà nước quản lý, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các đơn vị đó phát huy được vai trò nòng cốt trên trận địa nghệ thuật sân khấu, ca nhạc; củng cố sắp xếp lại các đoàn hát tập thể dân doanh, tăng cường quản lý và chỉ đạo tốt phong trào ca khúc tuổi trẻ. Nghiêm cấm việc lưu hành và biểu diễn các tác phẩm văn hoá phản động đồi trụy.

Có chính sách khuyến khích nghệ sĩ, những người làm công tác văn học nghệ thuật đi sâu vào thực tế, bám các chủ đề nóng hổi của cuộc sống, lao động và chiến đấu trong giai đoạn cách mạng mới để có được những tác phẩm văn học nghệ thuật có chất lượng cao. Đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận và phê bình văn học nghệ thuật xây dựng quan điểm, tình cảm đúng đắn trong sáng tác, biểu diễn và thưởng thức văn nghệ.

Có qui hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ văn hoá văn nghệ, trên cơ sở không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, ý thức tổ chức kỷ luật và đạo đức cách mạng.

Phát hiện năng khiếu, tài năng trong phong trào quần chúng để bồi dưỡng, đào tạo thành lực lượng sáng tác và biểu diễn trẻ, có nhiệt tình cách mạng, có phẩm chất, có văn hoá, có tài năng. Chú trọng bồi dưỡng anh chị em trẻ từ công nhân, lao động ra, gắn bó với đời sống, tâm tư, tình cảm của công nhân, lao động.

Sưu tầm, nghiên cứu, sử dụng có chọn lọc các vốn cổ của dân tộc, bảo vệ phục hồi các di tích lịch sử, gây thành phong trào quần chúng làm công tác bảo tồn bảo tàng, trước mắt hoàn thành khu nhà lưu niệm Bác Hồ, khu địa đạo Củ Chi, khu di tích Ngã ba dòng (Hóc Môn); chuẩn bị cho hướng xây dựng Phân viện bảo tàng Hồ Chí Minh, bảo tàng mỹ thuật, khu di tích của chiến khu Rừng Sát. Nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống của các cơ sở bảo tàng ở thành phố.

Hoàn thành việc đổi tên đường phố trong năm 1981. Đến cuối năm 1982, phấn đấu cho mỗi phường, xã, mỗi cơ sở đều có thư viện hoặc phòng đọc sách, báo, có nhà triển lãm, câu lạc bộ hoặc nhà văn hoá, nhà truyền thống, có phong trào văn nghệ quần chúng, có đội thông tin, có sân khấu ngoài trời, cơ sở thể dục thể thao. Phải có kế hoạch sửa chữa bảo dưỡng các cơ sở vật chất của ngành văn hoá hiện có, phát huy hết hiệu suất sử dụng, có mức thu hợp lý.

4. Phải quán triệt và từng bước tổ chức thực hiện nghị quyết và cải cách giáo dục của Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhằm đào tạo con người mới phát triển toàn diện.

- Trước mắt, giữ vững và phát triển giáo dục phổ thông trên cơ sở hiện có. Kết hợp nhà trường, gia đình và xã hội nhằm giáo dục toàn diện thanh thiếu niên; thực hiện tốt cuộc vận động: “Tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng trong các trường học”, đẩy mạnh phong trào dạy tốt và học tốt nhằm giữ vững và nâng cao dần chất lượng về chính trị, đạo đức, văn hóa.

Đến năm 1982, bảo đảm có 55% các cháu từ 3 đến 5 tuổi được vào học mẫu giáo, đại bộ phận thiếu nhi được đi học đúng độ tuổi.

Củng cố và phát triển phong trào bổ túc văn hoá với nhiều hình thức thích hợp với mỗi tầng lớp. Triệt để xóa mù chữ. Từng bước thực hiện phổ cập cấp I cho nhân dân lao động, lớp 7 cho thanh niên và công nhân, cấp II cho cán bộ chủ chốt ở phường và một phần ở xã. Từng bước giáo dục kiến thức khoa học - kỹ thuật phổ thông trong nhân dân.

Không ngừng bổ sung và tăng cường đội ngũ giáo viên nhất là giáo viên chính trị, nâng cao lòng yêu nghề, yêu trẻ, trình độ chính trị và năng lực giảng dạy cho giáo viên.

Huy động sức nhân dân cùng với Nhà nước chăm lo đời sống cho thầy, cô giáo và tu bổ, xây dựng trường sở. Trang bị cho các trường có đủ bàn ghế, học cụ (thư viện, phòng thí nghiệm trong trường cấp II, III), nhất là các trường lớp ở nông thôn ngoại thành. Cần tu bổ trường sở hiện có ở nội thành, xây thêm trường mới cho nông thôn và vùng ven. Chấm dứt các lớp còn dạy ca 3, điều chỉnh nhà cho các trường mẫu giáo quá chật hẹp trong hai năm 1981 – 1982. Tăng thêm sách giáo khoa, bảo đảm đủ sách học. Củng cố kiện toàn bộ máy quản lý giáo dục từ thành đến quận, huyện, ban giám hiệu các trường.

Nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện của Đảng ở các trường học, nhất là trường đại học, trung học chuyên nghiệp, các trường bổ túc văn hoá tập trung và trường sư phạm. Đặc biệt chú trọng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị tư tưởng và về tổ chức đời sống cho cán bộ, nhân viên, giáo viên, học sinh nội trú.

- Củng cố và mở rộng màng lưới nhà trẻ, mẫu giáo chuẩn bị cơ sở để hình thành hệ giáo dục mầm non nuôi dạy các cháu một cách liên tục từ cơ sở; tiến tới tất cả các cháu từ 2 tháng đến 6 tuổi ở các nhà trẻ và ở đa số các gia đình được nuôi dưỡng theo phương pháp mới. Tăng cường việc đào tạo, bồi dưỡng và chăm sóc đời sống cho đội ngũ cô nuôi dạy trẻ.

5. Phải coi trọng vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch bảo đảm khống chế các bệnh dịch của thành phố, quản lý và điều trị tốt hơn nữa các bệnh xã hội. Phối hợp tốt các ngành để có kế hoạch từng bước cải tạo môi trường sống ở thành thị và nông thôn. Thực hiện nghiêm chỉnh vệ sinh thực phẩm, vệ sinh lao động, vệ sinh trường học, bảo đảm các quy chế vệ sinh mà chính quyền đã ban hành. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và tinh thần phục vụ nhân dân của các cán bộ, nhân viên y tế. Hướng dẫn đẩy mạnh phong trào trồng và sử dụng thuốc nam, kết hợp y học cổ truyền dân tộc và y học hiện đại, bảo đảm đủ thuốc thông thường, thuốc cấp cứu cho nhân dân, thuốc trị bệnh trẻ em, phụ nữ. Chỉ đạo tốt phong trào sinh đẻ có kế hoạch, hạ thấp tỷ lệ tăng dân số xuống 1,5%. Kiện toàn màng lưới y tế cơ sở, củng cố và mở rộng mạng lưới khám, chữa bệnh cho trẻ em. Nâng cao hơn nữa chất lượng quản lý bệnh viện. Củng cố và phát triển lực lượng hội viên chữ thập đỏ đến tổ dân phố.

6. Phát triển rộng rãi hơn nữa phong trào thể dục thể thao rèn luyện thân thể trong mọi lứa tuổi, nhất là trong thanh thiếu niên, học sinh các trường, chú trọng hơn nữa nông thôn ngoại thành. Phát triển các bộ môn thể dục thể thao hiện có của thành phố, coi trọng việc phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu. Đẩy mạnh thể dục thể thao quốc phòng. Tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ, huấn luyện viên, vận động viên và hướng dẫn viên thể dục thể thao, chú trọng bồi dưỡng về chính trị, trình độ kỹ thuật và đạo đức phẩm chất thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa.

Tu bổ, tận dụng và cải tạo các cơ sở vật chất kỹ thuật thể dục thể thao hiện có, thống nhấ quản lý theo ngành có phân công phân cấp hợp lý. Củng cố hệ thống tổ chức màng lưới câu lạc bộ thể dục thể thao. Tăng cường lãnh đạo và quản lý đối với mọi tổ chức hoạt động thể thao (kể cả võ thuật) trong thành phố bảo đảm đi đúng hướng, khắc phục những khuynh hướng tiêu cực và ngăn ngừa bọn xấu xen vào để phá hoại.

7. Chỉ đạo tốt việc thực hiện chính sách thương binh và xã hội. Nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho gia đình liệt sĩ thương binh, bệnh binh, gia đình có công với cách mạng, gia đình bộ đội, cán bộ về hưu, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. Hoàn thành xây dựng nghĩa trang liệt sĩ vào cuối năm 1982. Nâng cao chất lượng cuộc vận động chính trị trong thương binh và gia đình liệt sĩ để phấn đấu mãi mãi là người công dân gương mẫu, gia đình cách mạng kiểu mẫu. Chăm sóc việc giáo dục, đào tạo con em liệt sĩ. Dưới sự chỉ đạo của cấp ủy, các ngành, các cấp đều có trách nhiệm đối với công tác cải tạo các nạn nhân tệ nạn xã hội, vừa tạo nếp sống văn minh, vừa giành lại con người, phấn đấu đến cuối năm 1982 có được những thay đổi có ý nghĩa. Bảo đảm công tác cứu tế xã hội đúng chính sách, đúng đối tượng.

V. CÔNG TÁC CHỐNG TIÊU CỰC TRONG NỘI BỘ VÀ NGOÀI XÃ HỘI

Nguyên nhân của các hiện tượng tiêu cực trong nội bộ Đảng, các cơ quan Nhà nước và ngoài xã hội có nhiều mặt liên quan với nhau: quản lý kinh tế - xã hội, đời sống, chính sách, tư tưởng và tổ chức. Trên mỗi hiện tượng cần phân tích cụ thể để có biện pháp giải quyết cụ thể, không chỉ đơn thuần giải quyết tư tưởng hoặc chỉ phát hiện xử lý về tổ chức.

Yêu cầu cấp bách hiện nay là phải khắc phục bằng được tệ ăn cắp, ức hiếp quần chúng. Đồng thời cần chống thái độ vô trách nhiệm, gây lãng phí, chống lối làm ăn phi pháp, đầu cơ, buôn lậu, trốn thuế, tránh nghĩa vụ, làm hàng giả, lười biếng, lơi lỏng kỷ luật lao động, luồn lọt móc ngoặc.

Phải lấy mặt tích cực để hạn chế tiêu cực, đề cao đúng mức gương tiết kiệm, liêm khiết, khen thưởng kịp thời những cán bộ và quần chúng phát hiện và dám đấu tranh chống lại những hiện tượng tiêu cực.

Cần phải thực hiện tốt sáu biện pháp cụ thể đồng bộ sau đây:

- Trước hết phải khắc phục từng bước những thiếu sót, sơ hở trong quản lý tổ chức nội bộ, trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

- Đẩy mạnh sản xuất, thực hiện các chính sách, chế độ Nhà nước trên tinh thần hết sức chăm lo đời sống quần chúng cán bộ công nhân viên.

- Phát huy trách nhiệm và hiệu lực của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp, nhất là ở cơ sở.

- Tiến hành công tác chính trị tư tưởng thường xuyên, kịp thời, cổ vũ mặt tích cực, nhân các điển hình tiên tiến, đẩy lùi mặt tiêu cực.

- Kết hợp chặt chẽ việc đấu tranh chống tiêu cực trong nội bộ Đảng, trong khu vực Nhà nước, tập thể với khắc phục hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội bằng phong trào cách mạng rộng mạnh của quần chúng, cảnh giác đối với bọn địch và bọn xấu lợi dụng.

- Xử lý các vụ vi phạm kịp thời, kiên quyết, chính xác, nghiêm minh.

Nhiệm vụ chống tiêu cực là của toàn Đảng, toàn dân. Từng ngành, từng đoàn thể, từng tổ chức, từng người phải tham gia vào 6 biện pháp đồng bộ trên. Mỗi đơn vị phải chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc chống tiêu cực ở cơ sở mình, trước hết là trách nhiệm của tổ chức Đảng và đồng chí phụ trách chủ chốt. Ngành chức năng và cấp ủy trên giúp đỡ, tạo điều kiện cho cơ sở làm tốt, có quy định trách nhiệm và thời gian cụ thể đối với từng vụ, từng việc. Cần kiên trì chỉ đạo sâu sát, cụ thể, thận trọng, công phu, bảo đảm đưa lại hiệu quả thiết thực.

VI. XÂY DỰNG BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN, ĐOÀN THỂ, PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ TẬP THỂ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG

1. Phải tăng cường hiệu lực của chính quyền để qua đó mà phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.

Phát xuất phát từ vị trí, nhiệm vụ chính trị của thành phố mà củng cố kiện toàn ủy ban nhân dân các cấp, các ban, ngành, các cơ quan chức năng các cấp, làm cho bộ máy chính quyền, nhất là quận, huyện, phường, xã có đủ năng lực quản lý hành chính kinh tế, quản lý xã hội. Cần xác định phạm vi phụ trách của từng ban, ngành, để xây dựng cơ cấu tổ chức cho phù hợp với khả năng quản lý, giảm bớt đầu mối.

Các cấp ủy Đảng phải hết sức phát huy vai trò của Hội đồng nhân dân, phát huy quyền lực và trách nhiệm của ủy ban nhân dân. Tất cả cán bộ, đảng viên phải thi hành nghiêm chỉnh pháp luật Nhà nước, thi hành chế độ trách nhiệm, chế độ kỷ luật, chế độ bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, chế độ phục vụ nhân dân.

Phải trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị mà xác định biên chế, tinh giản bộ máy hành chính nhằm nâng cao hiệu suất công tác, phát huy năng lực cống hiến của cán bộ, công nhân viên, huy động được cao nhất năng lực lao động vào công cuộc xây dựng đất nước, bảo đảm phúc lợi cho tập thể và tăng thu nhập cho từng người.

Trên cơ sở xác định nhiệm vụ, chức trách của từng cơ quan đến từng người, đồng thời nâng cao trình độ nghiệp vụ mà phấn đấu giảm biên chế hành chính trong năm 1981 từ 15 – 20% theo hướng: chuyển bớt người từ bộ phận gián tiếp qua trực tiếp sản xuất, chuyển số người dôi ra trong các cơ quan hành chính sang các ngành sản xuất, kinh doanh, sự nghiệp. Có chính sách khuyến khích những người chưa có việc làm thích đáng hoặc thiếu việc làm đi nhận việc ở các ngành sản xuất hoặc đến nơi có công việc thích hợp.

2. Sớm hoàn chỉnh việc phân công, phân cấp giữa thành phố và quận, huyện để quận, huyện thực sự là cấp kế hoạch, cấp ngân sách, chủ động phát huy được tiềm năng của địa phương, tổ chức lại sản xuất trên địa bàn và chăm lo đời sống cho nhân dân.

Đồng thời tiến hành phân công, phân cấp cho phường, xã. Ổn định tổ chức phường, xã. Điều thêm cán bộ đảng viên về tăng cường cho những tổ chức cơ sở trọng điểm, phát huy hơn nữa năng lực cơ sở. Hoàn chỉnh việc phân ô khu vực, tổ dân phố ở phường, tổ nhân dân ở xã.

3. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm sát và công tác giáo dục pháp chế xã hội chủ nghĩa cho cán bộ, đảng viên và cho nhân dân.

Ngành kiểm sát và thanh tra cần phát huy hơn nữa vai trò ngăn ngừa các hành động sai phạm, phát hiện các vụ vi phạm và sơ hở trong quản lý kinh tế, quản lý cán bộ, quản lý công tác, nhất là đối với ngành có chức năng thi hành luật pháp và ngành kinh tế. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhân dân, xây dựng và kiện toàn các tổ chức thanh tra của công nhân ở các cơ sở sản xuất.

Củng cố các tổ hòa giải ở cơ sở, nâng cao chất lượng xét xử của tòa án các cấp, phát huy tác dụng giáo dục, ngăn ngừa tội phạm. Cần sớm bổ sung, hệ thống hóa các luật lệ, các chế độ quản lý hành chính – kinh tế - xã hội, bỏ các điều khoản trái ngược nhau và công bố rộng rãi trong nhân dân. Nâng cao hơn nữa trình độ hiểu biết của nhân dân về luật pháp xã hội chủ nghĩa và làm cho việc chấp hành luật pháp trở thành đòi hỏi của mọi người, thành nếp nghĩ và thói quen của công dân thành phố, xem đó là biểu hiệu của lối sống văn minh trong chế độ xã hội chủ nghĩa, lối sống có kỷ luật và trật tự. Tăng cường đào tạo cán bộ pháp chế cho các cấp, các ngành. Kết hợp giáo dục với thi hành pháp luật nghiêm minh, công bằng đối với các trường hợp phạm pháp.

4. Phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận hướng vào xây dựng kinh tế, giải quyết đời sống, tham gia quản lý kinh tế - xã hội, chống tiêu cực, bảo đảm an ninh quốc phòng. Có phương thức vận động phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp, mỗi giới, mỗi lứa tuổi… nhằm tạo không khí đoàn kết nhất trí, sinh hoạt, lao động, công tác và học tập sôi nổi, làm nguồn động lực mới vượt qua mọi khó khăn thử thách.

- Công đoàn: Phải nâng cao hơn nữa chức năng giáo dục chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản cho giai cấp công nhân; tổ chức tốt phong trào thi đua thực hiện kế hoạch Nhà nước, đẩy mạnh sản xuất, chăm sóc đời sống công nhân viên chức; phát huy chức năng giám sát chính quyền thực hiện chế độ chính sách của Nhà nước đối với công nhân viên chức, bảo đảm cho công nhân những điều kiện cần thiết để có thể thật sự tham gia vào quá trình quản lý sản xuất, quản lý kinh doanh. Trước mắt phải phối hợp các ngành chăm lo cải thiện điều kiện lao động, phúc lợi tập thể, bảo đảm bữa ăn trưa và bữa ăn giữa ca cho công nhân khu vực sản xuất. Nâng cao chất lượng sinh hoạt của công đoàn cơ sở, nhất là tổ công đoàn. Đặc biệt chú trọng nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, giáo dục thái độ lao động mới xã hội chủ nghĩa kết hợp với đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong công nhân, trong xã hội và trong bộ máy Nhà nước. Cùng với cơ quan chính quyền chăm lo bồi dưỡng tay nghề, và phát huy hết tay nghề; tuyển chọn những công nhân ưu tú từ phong trào để đào tạo thành cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ kỹ thuật giỏi.

Tăng cường giáo dục trong công nhân ý thức đối với tổ chức công đoàn và nhanh chóng mở rộng tổ chức công đoàn.

- Củng cố các hội lao động hợp tác để làm tốt chức năng giáo dục chủ nghĩa xã hội, giải quyết công ăn việc làm và chăm lo đời sống, quyền lợi cho lao động ở cơ sở, góp phần cùng chính quyền thúc đẩy và quản lý hoạt động của các cơ sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp ở địa phương. Đặc biệt chú trọng thực hiện đúng đắn sự kết hợp của 3 mặt lợi ích.

- Tổ chức nông hội cần thu hút ngày càng đông đảo nông dân vào hội trên cơ sở đẩy mạnh cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp tích cực và từng bước vững chắc. Cần chú trọng củng cố quan hệ đoàn kết giữa nông dân và công nhân, phát huy truyền thống yêu nước của giai cấp nông dân thành phố đã từng gắn bó với Đảng, đi theo Đảng làm cách mạng. Giáo dục cho nông dân về quyền lợi và nghĩa vụ trong thực hiện kế hoạch sản xuất, đóng thuế nông nghiệp và bán nhiều nông sản cho Nhà nước, thực hiện tốt các hợp đồng hai chiều góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc.

- Phải hết sức quý trọng sự hiểu biết và tài năng của đông đảo đội ngũ trí thức, tạo cho anh chị em mọi thuận lợi thích đáng trong hoạt động nghề nghiệp cũng như trong đời sống. Bố trí, sử dụng trí thức một cách hợp lý, tạo điều kiện cho anh chị em tham gia vào các chương trình nghiên cứu kinh tế, các đề tài nghiên cứu khoa học - kỹ thuật nhằm khuyến khích anh chị em cống hiến tốt hơn nữa cho sự nghiệp khoa học - kỹ thuật, sự nghiệp xây dựng kinh tế, xây dựng nền văn hoá mới và con người mới.

- Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh phải xây dựng tổ chức đoàn ngày càng vững mạnh, tăng cường giáo dục lý tưởng và đạo đức phẩm chất cộng sản chủ nghĩa cho thanh niên, nâng cao vai trò rường cột của lực lượng thanh niên xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước, bảo vệ thành phố, phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong ba cuộc cách mạng, đi đôi với tăng cường công tác tổ chức quản lý đoàn viên, thanh niên ngoài đoàn. Đoàn phải chịu trách nhiệm giáo dục, xây dựng các đối tượng thanh niên trong các khu vực, đặc biệt chú trọng lực lượng thanh niên công nhân ở các xí nghiệp; bồi dưỡng và giới thiệu đoàn viên ưu tú vào Đảng.

Xây dựng những công trường, nông trường của thanh niên, tạo điều kiện cho thanh niên trở thành người làm chủ công trình từ khi khởi công đến lúc hoàn thành. Coi trọng xây dựng lối sống mới trong thanh niên. Kết hợp với chính quyền các cấp mở nhiều lớp dạy nghề để thu hút những học sinh không vào được lớp 10 và đại học có điều kiện học nghề. Thu hút rộng rãi thanh niên trung bình và chậm tiến vào các hoạt động xã hội, văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, nhất là vào hướng học nghề, qua đó đưa thanh niên đi vào thực hiện nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ quân sự. Trên cơ sở qui chế mới về thanh niên xung phong của thành phố, góp phần động viên, tổ chức và thực hiện tốt nhiệm vụ của thanh niên xung phong phục vụ xây dựng kinh tế, củng cố quốc phòng và đào tạo lớp người mới trong thanh niên. Phải qua thử thách trong công tác cách mạng mà phát triển đoàn, phấn đấu tăng số lượng đoàn viên gấp 2 lần số hiện nay, đạt tỷ lệ 20% trong tổng số thanh niên thành phố và 40 – 60% thanh niên công nhân trong từng xí nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang. Củng cố và phát triển Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam và các hình thức tổ chức quần chúng thanh niên rộng rãi khác. Trước hết, tổ chức đoàn phải đi sâu và phát huy tác dụng ở các cơ sở, đơn vị sản xuất và chiến đấu.

Đoàn có trách nhiệm giáo dục thiếu niên nhi đồng theo năm điều Bác Hồ dạy. Phát huy phong trào kế hoạch nhỏ, công tác Trần Quốc Toản. Tổ chức các lớp bổ túc văn hoá và dạy nghề ban đêm cho các cháu chưa có điều kiện đi học. Bằng những hoạt động đó mà từng bước hạn chế, tiến tới chấm dứt tình trạng lang thang của các cháu. Phấn đấu đưa đại bộ phận các cháu trong độ tuổi vào đội.

Sự nghiệp chăm sóc thiếu niên nhi đồng là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Phải hình thành Ủy ban bảo vệ thiếu niên nhi đồng các cấp để thường xuyên chăm sóc thế hệ mầm non.

- Hội Liên hiệp Phụ nữ: Trên cơ sở phát huy truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, động viên, tổ chức cho chị em tham gia 3 cuộc cách mạng, thực hiện quyền làm chủ tập thể, thực hiện nam nữ bình đẳng, thực hiện giải phóng xã hội, giải phóng phụ nữ. Phát động mạnh mẽ phong trào lao động sản xuất và tiết kiệm xây dựng thành phố, động viên chồng, con, em hăng hái thực hiện nghĩa vụ quân sự, chăm lo đời sống phụ nữ và trẻ em, thực hiện nếp sống văn minh, xây dựng gia đình văn hoá mới. Ra sức bồi dưỡng và nâng cao trình độ văn hoá khoa học - kỹ thuật, trình độ nghề nghiệp của phụ nữ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo và quản lý, chú trọng chị em trẻ.

- Đối với các đoàn thể quần chúng khác trong mặt trận, cần căn cứ vào nhiệm vụ chính trị mới và rút kinh nghiệm các mặt công tác trong thời gian qua mà có kế hoạch kiện toàn tổ chức, định chương trình hành động từng thời gian cho thiết thực.

- Công tác mặt trận:

Mở rộng hơn nữa mặt trận đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nông và lực lượng công nông trí thức. Phát huy vai trò gương mẫu của các cụ phụ lão trong việc giáo dục, động viên con cháu hăng hái làm tròn nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước, xóm làng. Chấp hành nghiêm túc các chính sách tự do tín ngưỡng, chính sách dân tộc, chính sách đối với người Hoa. Xây dựng bồi dưỡng cán bộ nòng cốt trong khu vực các tôn giáo, trong người Hoa. Riêng đối với bà con người Hoa, cần tiếp tục nâng cao nhận thức về kẻ thù chung của nhân dân Trung Quốc và Việt Nam là bọn phản động Bắc Kinh, thực hiện tốt chủ trương đoàn kết giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt – Hoa, thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, không phân biệt nguồn gốc dân tộc, nghiêm trị những phần tử phạm pháp và cố tình làm tay sai cho phản động Bắc Kinh.

Cần làm rõ các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với Kiều bào ở nước ngoài, đồng thời qua quan hệ gia đình tác động lẫn nhau làm cho bà con Việt kiều hướng về Tổ quốc và có những đóng góp vào công cuộc xây dựng lại đất nước.

Củng cố xây dựng mặt trận thành nơi tập hợp lực lượng rộng rãi, thể hiện tình đoàn kết gắn bó của các tầng lớp quần chúng vào sự nghiệp chung.

PHẦN THỨ BA

CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG

Nhiệm vụ xây dựng Đảng sắp tới là phải nâng cao năng lực tổ chức và sức chiến đấu của Đảng bộ, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy Đảng, bảo đảm thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội lần thứ hai. Đặc biệt phải làm cho toàn Đảng bộ chuyển mạnh từ nhận thức tư tưởng đến hoạt động thực tiễn, về tính chất của cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay, về tinh thần trách nhiệm, về trình độ và năng lực tổ chức, lãnh đạo và quản lý nhằm thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động từ cơ sở, phát triển sản xuất, ổn định đời sống, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

I. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG

Trên cơ sở tư tưởng, lập trường quan điểm của giai cấp công nhân mà tập trung làm thấu suốt trong toàn Đảng bộ tính chất gay gắt, phức tạp của cuộc đấu tranh đang diễn ra trên mọi lĩnh vực, phải làm rõ đúng sai về những vấn đề có tính nguyên tắc của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Kiên định con đường đấu tranh vì thắng lợi của độc lập dân tộc, của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng đối với bọn phản động Trung Quốc và chủ nghĩa đế quốc, nhất là Mỹ.

- Mở rộng việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, phương pháp luận cách mạng và khoa học nhằm làm cho cán bộ, đảng viên quán triệt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng trên các mặt công tác, nhất là công tác cải tạo, xây dựng khi nền kinh tế còn năm thành phần.

- Trước hết cần xác định Đảng ta là Đảng của giai cấp của công nhân. Mỗi cán bộ, đảng viên phải rèn luyện, tu dưỡng theo lập trường, quan điểm, ý thức tư tưởng của giai cấp công nhân; xây dựng tình cảm gắn bó với giai cấp công nhân; chăm lo về mọi mặt đối với giai cấp công nhân; củng cố khối liên minh công nông, đoàn kết lực lượng công nông trí; phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động.

Nâng cao ý chí chiến đấu, tinh thần trách nhiệm, vai trò tiên phong gương mẫu của người đảng viên cộng sản, tích cực chủ động giải quyết những thắc mắc về tư tưởng và những khó khăn trong đời sống quần chúng, đổi mới hẳn cách suy nghĩ, tác phong công tác và lề lối làm việc.

- Giáo dục truyền thống tốt đẹp của Đảng bộ, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên nhất trí ngày càng cao về vai trò, vị trí và trách nhiệm của thành phố, nhất trí về đường lối, thống nhất về tổ chức, về ý chí và hành động. Tăng cường đoàn kết trong các cấp Đảng bộ, đoàn kết giữa trên và dưới, giữa cán bộ cũ và mới, giữa cán bộ các nguồn, các địa phương khác nhau, coi đó là nguồn sức mạnh của Đảng. Trên cơ sở đó mà xây dựng niềm tin vào việc thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng, xây dựng lòng tin giữa dân với Đảng.

- Nâng cao tinh thần quốc tế vô sản, hiểu rõ và có ý thức đúng về mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia; về sự hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Chống những biểu hiện mơ hồ về tính giai cấp công nhân trong nhận thức, công tác và sinh hoạt, bệnh kiêu ngạo, tự mãn, công thần, quan liêu, xa rời quần chúng, vô trách nhiệm, vô tổ chức, vô kỷ luật, gây mất đoàn kết nội bộ. Chống mọi tư tưởng và lề thói sản xuất nhỏ, tư tưởng coi thường lực lượng trẻ, cục bộ bản vị; bảo thủ, cơ hội. Kiên quyết bài trừ tệ ăn cắp, hối lộ, ức hiếp quần chúng.

II. CỦNG CỐ, KIỆN TOÀN CƠ SỞ ĐẢNG

Cần khắc phục mọi trở ngại, tăng mạnh việc phát triển Đảng trong công nhân trực tiếp sản xuất, trong lực lượng võ trang, trong lao động tập thể và trong trí thức cách mạng ưu tú, chú trọng lớp trẻ, làm cho chi bộ có đảng viên bắt rễ sâu vào quần chúng… sát tâm tư nguyện vọng quần chúng và tuyên truyền giáo dục quần chúng hằng ngày. Phải chuyển mạnh nhận thức về vai trò, trách nhiệm của tổ chức Đảng ở cơ sở, nhất là ở xí nghiệp, phường, xã, làm cho chi bộ thể hiện rõ là đội tiên phong của giai cấp công nhân có đa số đảng viên cùng lao động, sinh hoạt với quần chúng công nhân lao động, là hạt nhân lãnh đạo chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động của cơ sở.

Để sớm đạt mục tiêu trên, phải thống nhất quan điểm đánh giá quần chúng công nhân và nhân dân lao động thành phố, từ đó mỗi chi bộ có quy hoạch phát triển Đảng một cách tích cực và vững chắc. Từ đồng chí phụ trách đến đảng viên đều phải có trách nhiệm đối với công tác phát triển Đảng. Tăng tỷ lệ thành phần đảng viên là công nhân trực tiếp hoạt động ở phân xưởng lên 35% so với tổng số đảng viên trong mỗi xí nghiệp. Phải có đảng viên trực tiếp từ tổ sản xuất của xí nghiệp, hợp tác xã sản xuất, ở mỗi ô khu vực của phường, mỗi ấp của xã, ở mỗi trường phổ thông, mỗi cửa hàng, hình thành tổ trung kiên, tiến tới xây dựng chi bộ Đảng. Đến cuối năm 1981, phải xây dựng được cơ sở Đảng ở các khâu then chốt của các ngành kinh tế.

Phải giữ vững và cải tiến chế độ sinh hoạt của chi bộ để chi bộ thực sự là hạt nhân lãnh đạo ở cơ sở, vừa là nơi giáo dục ý thức Đảng, quản lý về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức cộng sản chủ nghĩa của mọi đảng viên. Chi bộ chủ động đề ra được chương trình công tác hàng năm, hàng quý, hàng tháng tổ chức được lực lượng để thực hiện nghị quyết của chi bộ, phân công đảng viên phụ trách những khâu then chốt nhất. Tăng cường sự chỉ đạo của cấp trên đối với cơ sở.

Phải giữ vững sinh hoạt thường kỳ của tổ Đảng để tự phê bình và phê bình. Việc nâng cao chất lượng đảng viên phải làm đồng thời với việc củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng, phát triển đảng viên mới và đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng.

Phát động tốt hơn nữa phong trào quần chúng tham gia xây dựng Đảng. Định kỳ tổ chức lấy ý kiến quần chúng phê bình đảng viên để kiểm tra, giáo dục đảng viên. Hoàn thành thắng lợi công tác phát thẻ đảng trong năm 1981, đưa công tác quản lý đảng viên vào nề nếp. Phấn đấu đến cuối năm 1981, đưa tỷ lệ cơ sở Đảng khá, trong sạch, vững mạnh lên 50%.

Tăng cường công tác kiểm tra và bảo vệ Đảng nhằm giáo dục, ngăn ngừa và xử lý kịp thời cán bộ, đảng viên làm trái đường lối, chính sách của Đảng, vi phạm kỷ luật Đảng và luật pháp Nhà nước, ngăn ngừa kẻ địch và phần tử cơ hội chui vào Đảng. Phấn đấu hoàn tất việc xử lý những trường hợp cán bộ, đảng viên bị tù trong thời kỳ kháng chiến.

- Các cơ sở Đảng cần chú ý xây dựng truyền thống của Đảng bộ địa phương, đơn vị mình để góp phần tích cực vào việc xây dựng lịch sử, truyềnt hống của Đảng bộ thành phố.

III. NÂNG CAO NĂNG LỰC VÀ PHẨM CHẤT CỦA CÁN BỘ, BỐ TRÍ ĐÚNG CÁN BỘ, XÂY DỰNG, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ THEO YÊU CẦU MỚI

Phải xem đây là khâu quyết định của việc tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng.

1. Xây dựng quy hoạch và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là khâu trung tâm của công tác cán bộ. Phải dựa vào vị trí và nhiệm vụ chính trị của thành phố với tính chất là một trung tâm công nghiệp, trung tâm văn hoá và khoa học kỹ thuật, trung tâm giao dịch quốc tế mà xây dựng quy hoạch bồi dưỡng đào tạo cán bộ.

Từng cấp Đảng bộ phải có quy hoạch đội ngũ cán bộ của mình (cán bộ lãnh đạo, quản lý, khoa học kỹ thuật và nghiệp vụ). Nội dung đào tạo bồi dưỡng phải rất thiết thực, gắn lý luận với đường lối chính sách và kinh nghiệm thực tiễn, kết hợp nâng cao trình độ nghiệp vụ với rèn luyện phẩm chất cách mạng. Tăng cường bồi dưỡng theo chức danh để cán bộ biết sâu và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Củng cố kiện toàn hệ thống trường Đảng, trường các đoàn thể, trường các ngành chuyên môn.

- Cần đề ra tiêu chuẩn cán bộ các loại để hướng dẫn cán bộ phấn đấu rèn luyện trong thời hạn quy định.

Phải qua phong trào hành động cách mạng của quần chúng mà rèn luyện cán bộ, phát hiện cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dự bị, kế tiếp. Cần làm trẻ đội ngũ cán bộ và chú trọng rút công nhân trẻ đã qua rèn luyện thử thách đưa đi đào tạo dài hạn để phân bổ về các cơ sở làm cán bộ chính trị, cán bộ quản lý.

2. Bố trí lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý. Phải hoàn toàn xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ mà xây dựng tổ chức, bố trí cán bộ. Phải dựa vào phẩm chất, năng lực thực tế, sự cống hiến cho trước mắt và lâu dài mà sử dụng thích đáng; thực hiện đúng đắn các chính sách, chế độ đối với tất cả các loại cán bộ thuộc các nguồn (bao gồm cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng). Phải tạo mọi điều kiện cho cán bộ hoàn thành nhiệm vụ được giao, thay thế sắp xếp lại hợp lý những cán bộ về phẩm chất và năng lực không còn tương xứng với trách nhiệm hiện tại. Phải chống quan niệm phong kiến, hẹp hòi, cũ kỹ về phương pháp bố trí, đề bạt cán bộ, bảo đảm nguyên tắc tập thể trong công tác cán bộ. Nghiêm cấm việc trù dập cán bộ.

Tăng cường đoàn kết cán bộ thuộc các nguồn trong từng cơ quan, xí nghiệp… trên cơ sở đường lối chính sách đúng đắn của Đảng, vì lợi ích chung của sự nghiệp cách mạng.

3. Đổi mới công tác quản lý cán bộ bảo đảm nắm cán bộ một cách toàn diện, nhất là nắm việc chấp hành các nghị quyết của Đảng. Đưa công tác nhận xét cán bộ thành chế độ và bảo đảm nhận xét tập thể. Phải lắng nghe và có phân tích cả ba nguồn ý kiến: đảng viên và quần chúng ở cơ sở, cán bộ cùng cấp và người phụ trách trên, qua đó đánh giá được năng lực và phẩm chất cán bộ một cách chính xác. Khắc phục lối làm việc bàn giấy, chỉ đọc lý lịch, chỉ nghe phản ánh gián tiếp, một chiều. Hết sức tránh định kiến trong nhận xét cán bộ, nhất là đối với những cán bộ phê bình thẳng thắn các khuyết điểm của lãnh đạo. Đổi mới về quan điểm và cách làm việc của các ban tổ chức và đội ngũ làm công tác cán bộ, giữ đúng vị trí là ban chuyên môn của cấp ủy Đảng, gây lòng tin yêu, cởi mở của cán bộ đối với cơ quan tổ chức các cấp, tránh quan liêu giấy tờ, cửa quyền.

4. Phát động và tổ chức tốt phong trào ham học tập trong cán bộ đảng viên. Gây khí thế hồ hởi tiến công vào văn hoá, khoa học kỹ thuật, đi sâu nghiên cứu lý luận về quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Tổng kết kinh nghiệm các điển hình tiên tiến nâng lên thành bài học có lý luận, có thực tiễn sinh động cho các trường lớp hoặc hội nghị học tập ở các cấp, các ngành. Chống bệnh tự mãn, bảo thủ, lười suy nghĩ trong cán bộ, đảng viên.

IV. CẢI TIẾN LỀ LỐI LÀM VIỆC VÀ PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC

Đổi mới lề lối làm việc và phương pháp công tác, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, bảo đảm hoạt động đồng bộ với tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa có hiệu suất cao.

Cải tiến, nâng cao chất lượng thông tin của cả hai chiều, nhanh chóng phát hiện được tình hình mới có phân tích và nêu được phương án xử lý cụ thể. Mặt khác, cán bộ cấp trên phải tìm hiểu bằng tiếp xúc trực tiếp với cơ sở, với quần chúng để bổ sung nguồn thông tin qua báo cáo.

Các cấp ủy Đảng, các ban ngành phải có chương trình công tác cụ thể, thiết thực, có lịch làm việc ăn khớp, có tổ chức và bố trí cán bộ phù hợp, có phân công phạm vi quyền hạn phụ trách và quy định thời hạn thực hiện.

Cần chuẩn bị tốt các cuộc họp để vừa tiết kiệm thì giờ, vừa phát huy được trí tuệ tập thể của cán bộ, đảng viên. Đối với các vấn đề lớn, nhất là về kinh tế, trước khi cấp ủy họp quyết định phải qua các ban chuyên môn làm tham mưu nghiên cứu kỹ, thu nhập ý kiến rộng rãi của các chuyên gia trong và ngoài Đảng, của cấp thừa hành, đề ra được nhiều phương án để cấp ủy thảo luận, lựa chọn phương án tốt nhất.

Củng cố kiện toàn các ban đảng, nhất là các ban kinh tế, tích cực phát huy và nâng cao chất lượng tham mưu của các ban đảng.

Phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy Đảng với các cấp, các cơ quan chính quyền, trước hết là Ủy ban nhân dân, Ủy ban Kế hoạch làm cho các nghị quyết chủ trương của Đảng được thể hiện trong kế hoạch Nhà nước, được thể chế hóa ngay bằng quy định, chính sách, chế độ, biện pháp tổ chức cán bộ, văn bản pháp lý về mặt Nhà nước.

Cán bộ lãnh đạo cấp thành và quận, huyện đều được phân công chỉ đạo một cơ sở. Phải dành ít nhất 4 ngày trong tháng để đi xuống cơ sở (cán bộ đoàn thể thì ít nhất một nửa thời gian làm việc ở cơ sở), giúp cơ sở giải quyết công việc tại chỗ và thu thập ý kiến đóng góp phê bình của bên dưới. Các ban, ngành dọc nhất thiết phải phối hợp với cấp ủy và chính quyền cơ sở khi triển khai chủ trương, chính sách của ngành mình.

Với những nhiệm vụ nặng nề đang đặt ra trước mắt và những năm tới, Đại hội Đảng bộ của chúng ta lần này đánh dấu một sự chuyển biến mới, là Đại hội chấp hành sự chuyển hướng chính sách kinh tế của Trung ương để mở ra một giai đoạn mới cho sự phát triển kinh tế, văn hoá, đẩy mạnh sản xuất, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân.

Mặc dầu những khó khăn trước mắt còn rất lớn, nhưng được sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, với truyền thống cách mạng của nhân dân thành phố, với tinh thần đoàn kết nhất trí, tinh thần cách mạng tiến công và những kinh nghiệm quý báu của Đảng bộ ta trong mấy năm qua, chúng ta hoàn toàn tin tưởng Đảng bộ và nhân dân thành phố có thể vượt qua khó khăn thử thách để thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội lần này.

Ngày 25 tháng 10 năm 1980

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU LẦN THỨ II ĐẢNG BỘ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Thông báo