(Báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, do đồng chí Võ Văn Kiệt, Bí thư Thành ủy, đọc tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ II, ngày 14-10-1980).
Thưa đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
Thưa Đoàn chủ tịch,
Thưa các đồng chí đại biểu,
Trong thời gian ngắn ngủi hơn ba năm qua, kể từ Đại hội đại biểu lần thứ nhất đến Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng bộ Thành phố, Tổ quốc ta trải qua những biến đổi lớn có tác động quyết định đến mọi mặt phát triển của thành phố.
Một là, sau 30 năm chiến tranh, nhân dân ta thiết tha mong muốn tập trung sức hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá. Từng bước phát triển đời sống, nhưng các vấn đề kinh tế và đời sống đặt ra rất cấp bách, quá sức chịu đựng của một nền kinh tế sản xuất nhỏ nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nghiêm trọng và bị đảo lộn. Thiên tai nặng nề lại xảy ra liên tiếp với nhịp độ dồn dập khác thường. Tập đoàn phản động Bắc Kinh, thực hiện chủ nghĩa bành trướng, bá quyền nước lớn, đã coi đó chính là thời cơ tốt để phát động chiến tranh xâm lược hòng thôn tính đất nước ta, khuất phục nhân dân ta. Nền kinh tế chưa khắc phục hết hậu quả của chiến tranh và chính sách xâm lược thực dân mới của Mỹ, lại phải đáp ứng những yêu cầu rất lớn về quốc phòng.
Cách mạng chuyển sang nhiệm vụ mới là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Dưới sự chỉ đạo đúng đắn của Trung ương Đảng và được anh em bầu bạn khắp thế giới kịp thời hết lòng giúp đỡ, nhân dân và quân đội cả nước đã chiến đấu anh dũng, chiến thắng vẻ vang liên tiếp trong hai cuộc chiến tranh ở biên giới phía tây – nam và biên giới phía bắc, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, tạo ra thế và lực mới, vững chắc cho cách mạng ba nước Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia.
Hai là, từ thực tiễn sản xuất và chiến đấu, từ kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô và các nước anh em, đường lối của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư của Đảng được liên tục cụ thể hoá bằng các chủ trương và chính sách, nhất là trong các nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, 5, 6 của Ban chấp hành Trung ương và Nghị quyết số 26 của Bộ Chính trị phù hợp với quy luật chiến tranh cách mạng, phù hợp với chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, với các quy luật kinh tế ở bước đầu của thời kỳ quá độ, từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Ba là, khối đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào – cam-pu-chia, sự hợp tác toàn diện, chặt chẽ Việt Nam – Liên Xô, sự liên kết của nước ta trong cộng đồng kinh tế thế giới xã hội chủ nghĩa là những nhân tố mới , có ý nghĩa chiến lược đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta.
Chịu tác động sâu sắc của những biến đổi lớn trên đây, hơn ba năm qua, chấp hành nghị quyết của đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ nhất, Đảng bộ ta đã tập trung sức tiếp tục xây dựng, củng cố hệ thống chuyên chính vô sản, trước hết là chính quyền cách mạng các cấp, nắm chắc tình hình thành phố, vận dụng đường lối, chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ, có nhiều chủ trương kịp thời và sát hợp, liên tục tổ chức nhiều phong trào hành động cách mạng của đông đảo quần chúng. Đảng bộ đã tiến hành cuộc đấu tranh gay go, phức tạp, đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa trên diện rộng, khôi phục, tổ chức lại và phát triển sản xuất ở một số ngành và khu vực, nhất là khu vực tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp; trấn áp phản cách mạng, bảo vệ Tổ quốc; làm nghĩa vụ quốc tế; tạo ra những biến đổi cách mạng đáng tự hào trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thành phố đã xóa bỏ giai cấp tư sản thương nghiệp, cải tạo về cơ bản tư sản công nghiệp; đưa phần lớn lao động tiểu thủ công nghiệp, thủ công nghiệp vào các hình thức sản xuất hợp tác; bước đầu cải tạo tiểu thương, xây dựng mạng lưới thương nghiệp quốc doanh, hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã mua bán. Công cuộc cải tạo nông nghiệp mới thu được kết quả bước đầu trong việc đưa một bộ phận nhỏ nông dân vào con đường làm ăn tập thể.
Mặc dù khó khăn chồng chất, sản xuất công nghiệp, nhất là tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh.Trên cơ sở đó kim ngạch xuất khẩu tăng tương đối nhanh. Đảng bộ đã có nhiều cố gắng trong việc giải quyết công ăn việc làm, giải quyết các khó khăn về đời sống, khắc phục các tệ nạn xã hội, phát triển các mặt công tác văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao... bước đầu xây dựng một nếp sống lành mạnh.
Trước thử thách nghiêm trọng mới đối với vận mệnh của Tổ quốc, quân và dân thành phố cùng quân và dân cả nước đoàn kết nhất trí cao, nhất trí rất nhanh với đường lối của Đảng chống chủ nghĩa bành trướng bá quyền Bắc Kinh. Đồng chí và đồng bào toàn thành phố sôi sục căm thù, đồng thời rất bình tĩnh, vững vàng, tự tin, với tinh thần quyết chiến quyết thắng, đã hết lòng hết sức chi viện tiền tuyến, cứu bạn, diệt thù; đồng thời sẵn sàng ngăn chặn mọi âm mưu phá hoại, gây phá hoại, gây bạo loạn từ bên trong của bọn đế quốc và phản động quốc tế tại thành phố, giữ vững an ninh chính trị.
Khối liên minh công nông và lực lượng công nông trí hình thành và đang ở bước đầu củng cố. Đông đảo nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thấy được tinh thần cách mạng, vì nước vì dân của Đảng và chính quyền; cho nên ngày càng xóa bỏ mặc cảm, sống bình đẳng trong tình thương và trách nhiệm, chung sức chung lòng giữ nước, lao động sản xuất, lo cho nhau cái ăn cái mặc, sức khỏe, việc học hành, lo cho trẻ em và thanh niên, lo chung công việc phố phường, làng xóm...
Tuy nhiên, ở những năm đầu này của thời kỳ quá độ, tình hình thành phố chưa được ổn định, cả về kinh tế chính trị, văn hoá, xã hội, đang có nhiều khó khăn rất gay gắt và có mặt phức tạp. Nền kinh tế bị đảo lộn, lại quản lý theo một cơ chế chưa được cải tiến cho phù hợp với tình hình thực tế và đường lối của Đảng, cho nên ngày càng thêm mất cân đối nghiêm trọng. Hậu quả của chiến tranh và chính sách xâm lược thực dân mới của Mỹ còn nặng nề. Bọn bành trướng Bắc Kinh câu kết với bọn phản động tại chỗ hoạt động phá hoại điên cuồng. Trên địa bàn thành phố, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chưa có một nền tảng công nghiệp với cơ cấu hợp lý, được tổ chức quản lý khoa học. Sản xuất chưa được bảo đảm về nguyên liệu và năng lượng. Lương thực cung cấp không đủ và thất thường. Vành đai thực phẩm chưa hình thành rõ nét. Quỹ hàng hoá thuộc hầu hết nhu cầu thiết yếu không bảo đảm nổi một nửa định lượng, Tài chính, tiền tệ gần đây đã bội chi. Thị trường xã hội chủ nghĩa bị lấn át. Giá cả tăng đột biến với nhiều yếu tố giả tạo. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa chưa hoàn thành, nhưng cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai con đường cả trong sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng có lúc bị buông lơi. Vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh còn rất hạn chế. Sản xuất tự sản tự tiêu cũng như phân phối lưu thông “tự do” (cả tiền tệ, hàng hoá, vật tư) phát triển. Các phần tử tư sản gian thương trá hình tận dụng mọi sơ hở của ta để đục khoét kinh tế quốc doanh và gây rối loạn trên thị trường. An ninh và trật tự còn những mặt, những nơi, những lúc diễn biến khá phức tạp. Điều cần đặc biệt quan tâm là một bộ phận công nhân quốc doanh và những người hưởng lương Nhà Nước thiếu hăng hái sản xuất và công tác; bọn làm ăn bất chính và phi pháp vẫn ngang nhiên hoạt động. Tệ thái hoá, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị ngăn chặn. Kẻ địch đang lợi dụng tình hình kinh tế và đời sống khó khăn để phá hoại ta trên nhiều mặt sản xuất và thị trường, tâm lý và dư luận. Sự đánh giá mặt tích cực cách mạng của quần chúng chưa xuyên suốt ở các cấp đảng bộ, cùng với cơ chế quản lý chung có nhiều mặt không còn phù hợp, đang dẫn đến nguy cơ triệt tiêu động lực của chế độ làm chủ tập thể, vừa trói buộc,vừa phung phí năng lực sản xuất hiện có, không khuyến khích tài năng và nhiệt tình lao động. Trong khi đó nền kinh tế ngày càng thêm mất cân đối nghiêm trọng và một bộ phận dân cư túng thiếu đang xao xuyến trước tình hình căng thẳng về nhiều mặt và mức sống ngày càng sa sút.
Trước tình hình khó khăn gay gắt đó, ánh sáng nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương và nghị quyết 26 của Bộ Chính trị đến thành phố như một nguồn sức mạnh mới mở ra những hướng suy nghĩ mới, những hướng làm ăn mới và đã bước đầu tạo một thế chung “bung ra” cho kinh tế. Chính sự chuyển hướng chính sách kinh tế của Trung ương, sự quan tâm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư và thực tiễn sinh động đang soi đường cho Đảng bộ, góp phần thực sự hình thành từng bước động lực của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa và vạch phương hướng đúng giải phóng sức sản xuất, xoay chuyển tình thế, đưa sản xuất lên, ổn định lại trật tự kinh tế có lợi cho chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc đấu tranh giằng co, xen kẽ lẫn nhau giữa cái mới và cái cũ, giữa tiến bộ và lạc hậu, chúng ta thấy hầu như trên mọi lĩnh vực trong hoạt động thực tiễn ở cơ sở, những cái phù hợp đang có sức sống vươn lên mãnh liệt. Đó chính là những đơn vị và cá nhân điển hình tiên tiến xuất hiện ngày càng nhiều ở ngay những nơi khó khăn, phức tạp nhất. Cuộc sống phát triển theo quy luật khách quan. Cái mới hợp quy luật có sức hấp dẫn và lôi cuốn kỳ diệu. Và mọi thành tựu đều bắt nguồn từ động lực mới của sự phát triển: quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Nhiều điển hình tiên tiến vừa thể hiện rõ bản chất cao đẹp cùng sức sống dồi dào của chế độ mới vừa khẳng định ý thức cùng năng lực làm chủ tập thể của công nhân, lao động thành phố trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Các điển hình tiên tiến trên cơ sở hướng mọi cố gắng của mình nhằm phục vụ lợi ích quần chúng một cách thiết thực nhất: đi từ đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm công ăn việc làm mà ổn định đời sống, giải quyết các tệ nạn xã hội, bảo đảm an ninh và trật tự, chăm lo đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Trong công nghiệp, các điển hình tiên tiến đã tìm cách tháo gỡ những ràng buộc về quản lý để đẩy mạnh sản xuất, đồng thời điều hòa hợp lý ba lợi ích: xã hội, tập thể và bản thân người lao động. Các điển hình tiên tiến tương đối toàn diện thực sự là những đơn vị cơ sở làm tốt đồng thời ba cuộc cách mạng, chỉ rõ một số phương hướng đúng đắn và nhiều biện pháp thiết thực, có hiệu lực về cải tạo, tổ chức, xây dựng, bảo vệ trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội thành phố. Các điển hình đó chỉ cho chúng ta khả năng giải quyết những vấn đề lớn do chính cuộc sống đặt ra, bắt nguồn từ sức sáng tạo của quần chúng. Nó khẳng định xu thế tất yếu ngày càng đi lên trong cuộc đấu tranh gay go, phức tạp đang diễn ra hàng ngày giữa cách mạng và không cách mạng, giữa cái mới và cái cũ. Đó là ý nghĩa cách mạng to lớn của các điển hình tiên tiến.
Đại hội đại biểu lần thứ hai này của Đảng bộ là Đại hội chấp hành sự chuyển hướng chính sách kinh tế của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, giải phóng sức sản xuất, cải tiến phân phối lưu thông, xoay chuyển tình thế, đẩy mạnh sản xuất, trên cơ sở đó mà ổn định đời sống; Đại hội này cũng khẳng định và noi gương các điển hình tiên tiến.
I
MỘT SỐ NÉT CƠ BẢN CỦA TÌNH HÌNH THÀNH PHỐ HƠN BA NĂM QUA
Thưa các đồng chí đại biểu,
Cùng cả nước độc lập, thống nhất, tiến lên chủ nghĩa xã hội và chiến đấu chống bọn phản động Trung Quốc, thành phố đã trải qua những biến đổi cách mạng sâu sắc trên mọi lĩnh vực, và giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Tuy nhiên trong bước đầu của thời kỳ quá độ, với một nền kinh tế bị đảo lộn, ở một địa bàn chiến lược trọng điểm, nơi mà cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn chặt với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đảng bộ và nhân dân thành phố phải liên tục giải quyết nhiều vấn đề mới mẻ, phải đương đầu với nhiều thử thách gay gắt, vượt qua nhiều khó khăn to lớn.
A. NHIỆM VỤ KHÔI PHỤC, CẢI TẠO VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ và phát huy những thành quả cách mạng được tạo ra từ ngày giải phóng, Đại hội lần thứ nhất của Đảng bộ đặt lên hàng đầu nhiệm vụ :”Tập trung lực lượng tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm tạo điều kiện và mở đường cho sản xuất phát triển theo hướng đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân”, và nêu rõ:”Cải tạo phải bảo đảm sản xuất phát triển không ngừng và cải thiện đời sống nhân dân, phải gắn liền với xây dựng mà xây dựng là chủ yếu, với tổ chức sản xuất, phân bổ lại lực lượng lao động nhằm tăng cường mạnh mẽ các thành phần kinh tế quốc doanh, hợp tác xã, tạo điều kiện cho kinh tế quốc doanh thực sự đóng vai trò chủ đạo, hướng dẫn đối với các thành phần kinh tế khác”.
1. Công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh được tiến hành một cách nghiêm túc, tập trung, tích cực và khẩn trương đúng với nội dung chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ.
Bước đầu cải tạo, xây dựng kinh tế mấy năm qua đã hình thành trên địa bàn thành phố một nền kinh tế gồm năm thành phần, trong đó kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm tỷ trọng ngày càng tăng. Trong sản xuất, phân phối, lưu thông Nhà nước độc quyền kinh doanh một số ngành, chiếm tỷ trọng chi phối ở một số ngành, kinh tế tư bản tư doanh trong công nghiệp (kể cả vận tải và xây dựng) về cơ bản đã được cải tạo dưới nhiều hình thức. 76% tổng số cơ sở công nghiệp của tư bản trước đây với khoảng 125.000 công nhân qua cải tạo đã trở thành xí nghiệp quốc doanh hoặc xí nghiệp công tư hợp doanh. Trong công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và vận tải còn nhiều nhà tư sản loại nhỏ và một số ít loại vừa đang tiếp tục hoạt động theo chính sách khuyến khích sản xuất của Nhà nước. Khoảng ¾ lao động tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp được tổ chức lại dưới các hình thức sản xuất tập thể trong hơn 180 hợp tác xã và 2.400 tổ hợp sản xuất. Đã xóa bỏ giai cấp tư sản thương nghiệp, phá vỡ sự lũng đoạn từ bao đời nay của tư sản thương nghiệp, đặc biệt là tư sản Hoa kiều đối với nền kinh tế. Màng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa bao gồm thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiêu thụ, hợp tác xã mua bán đã được xây dựng rộng khắp. Tuy chưa chi phối được thị trường, nhưng thương nghiệp có tổ chức đã mang lại lợi ích thiết thực đối với đời sống quần chúng. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp mới thu được kết quả bước đầu trong việc đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể. Tuy còn nhiều vấp váp, nhưng đã xây dựng được 400 tập đoàn, trong đó có 150 tập đoàn làm ăn khá, và 10 hợp tác xã thí điểm, bao gồm 1/5 tổng số hộ nông dân và 1/10 ruộng đất canh tác. Ở nông thôn, trung nông, nhất là lớp trên đang nắm phần lớn ruộng đất và tư liệu sản xuất quan trọng; kinh tế phú nông cũ và mới còn tồn tại ở một số nơi. Hơn 30 vạn tiểu thương và hàng ngàn trung thương đang chi phối khoảng 70% doanh số bán lẻ thị trường xã hội, chiếm một phần quan trọng bán buôn một số hàng nông sản, thực phẩm (nhất là ở các chợ đầu mối), đầu cơ, thao túng thị trường.
Nhìn chung, chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa trong sản xuất, phân phối, lưu thông đã được xác lập và từng bước có mở rộng, tạo điều kiện ban đầu cho việc tổ chức, sắp xếp lại và kế hoạch hoá quá trình tái sản xuất xã hội. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể còn gay go, phức tạp.
Trong công nghiệp, đội ngũ công nhân được tổ chức lại, có năng lực sáng tạo dồi dào, với hơn hai ngàn tổ lao động tiên tiến và một bộ phận có tay nghề giỏi thuộc đủ các ngành. Đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật thuộc các nguồn ngày càng bổ sung kiến thức và kinh nghiệm cho nhau. Cán bộ đã cùng công nhân xây dựng được một số điển hình tiên tiến và bước đầu khắc phục phần nào tính què quặt, lệ thuộc, thúc đẩy phát triển sản xuất trong một số ngành công nghiệp. Ngành cơ khí từ sửa chữa, lắp ráp, bước đầu chế tạo một số phụ tùng, máy móc nông nghiệp, đóng tàu đánh cá, tàu hút bùn, xà lan…; một số ngành sản xuất nguyên liệu được chú ý phát triển; ngành dệt được tổ chức lại và đầu tư xây dựng bổ sung nhằm cân đối năng lực sản xuất. Đến năm 1979, mặc dù có sự đảo lộn về kinh tế và sự trói buộc về quản lý, đội ngũ công nhân vẫn chịu đựng thiếu thốn và khó khăn, bám máy, bám xưởng cùng cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý đã phấn đấu đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp trên địa bàn thành phố, đạt 2,232/9 tỷ đồng, chiếm 24,5% giá trị tổng sản lượng công nghiệp cả nước (theo giá cố định 1970). Công nghiệp địa phương hình thành dần được một số ngành kinh tế - kỹ thuật, có lực lượng tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp tập thể hoá dồi dào, bước đầu hướng vào phục vụ nông nghiệp và nông thôn (cơ khí, điện, vật liệu xây dựng, phân bón, thuốc trừ sâu, hàng hoá tiêu dùng). Đã hai năm liền công nghiệp địa phương vượt khá xa (nếu được chỉ đạo tập trung và chặt chẽ hơn nữa, còn có thể vượt xa hơn) chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng do Đại hội lần thứ nhất đề ra: 1977 đạt 654,8 triệu/600 triệu; 1978 đạt 1.038 triệu/690 triệu. Tỷ trọng khá lớn (hơn 40%) của tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp trên địa bàn thành phố cùng với những gương của nhiều hợp tác xã tiên tiến chứng minh rõ năng lực sản xuấ dồi dào của tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp được tổ chức lại. Một số xí nghiệp công tư hợp doanh sản xuất hàng tiêu dùng với nhiều phương án kinh tế kỹ thuật khá tốt, đã nói lên khả năng thúc đẩy sản xuất phát triển của người tư sản yêu nước. Vận dụng quan điểm chỉ đạo của Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thành ủy đã xây dựng được một nghị quyết phù hợp, tạo một thế “bung ra” trong một số ngành nghề sản xuất công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp.
Trong điều kiện kinh tế bị đảo lộn và đang từ sản xuất nhỏ tiến lên, trong khuôn khổ một cơ chế quản lý chưa được cải tiến, công nghiệp cũng đã bước đầu phấn đấu theo hướng giảm dần mức độ què quặt, lệ thuộc vào bên ngoài, mạnh dạn đi vào con đường cơ khí chế tạo, chế tạo phụ tùng, sử dụng nguyên liệu trong nước. Đã xuất hiện những điển hình về cách suy nghĩ mới, cách làm ăn mới: xây dựng cơ khí chuyên dùng; gắn công nghiệp thành phố với nông nghiệp một số tỉnh, tạo nguồn nguyên liệu ổn định, trước hết là nguồn nguyên liệu trong nước; cải tiến kỹ thuật, cải tiến quy trình công nghệ; tổ chức hệ thống vệ tinh; tháo gỡ dần sự trói buộc của cơ chế quản lý không còn phù hơp; đẩy mạnh phát triển sản xuất; tăng giá trị xuất khẩu; chăm lo tổ chức đời sống công nhân; bước đầu quan tâm xây dựng lực lượng cách mạng trong xí nghiệp.
Trong nông nghiệp, nhiều tập đoàn cố gắng xây dựng được phương hướng sản xuất, kết hợp phát triển cây con thích nghi với đất, nước và khí hậu, ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật tiến bộ về thâm canh, áp dụng giống mới, phát triển thêm ngành nghề, khuyến khích và giúp đỡ kinh tế phụ gia đình, làm tốt nghĩa vụ với Nhà nước. Bốn nông trường đã xác định được nhiệm vụ trồng trọt và chăn nuôi cụ thể và hợp lý hơn. Mặc dù thiên tai liên tiếp và khắc nghiệt, nông dân ngoại thành đã vượt qua nhiều khó khăn, phát triển sản xuất nông nghiệp ngày càng toàn diện. Ngoài vụ mùa là chính, hai vụ đông xuân và hè thu dần dần trở thành tập quán trồng trọt. Cả hệ số sử dụng đất canh tác, sản lượng màu cùng một số cây công nghiệp ngắn ngày và đàn heo đều cao hơn trước ngày giải phóng. Một số chỉ tiêu Đại hội đại biểu lần thứ nhất đề ra (275.000 tấn lương thực, 300.000 tấn rau, mỗi năm trên diện tích 6.000 ha rau chuyên canh) nay thấy là không có đủ căn cứ. Do sự chỉ đạo không chặt, đàn heo tuy có phát triển, song không đạt chỉ tiêu 230.000 con: 1977 – 137.000; 1978 – 140.000; 1979 – 144.000 con.
Công tác quy hoạch, phân vùng sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đã mang lại những kết quả ban đầu làm cơ sở cho sự phát triển có hiệu quả nền nông nghiệp ngoại thành.
Sự phát triển ban đầu của nông nghiệp có phần là kết quả trực tiếp của phong trào nhân dân toàn thành đào đắp hàng chục triệu mét khối đất làm thủy lợi, tạo nên những công trình quy mô không nhỏ, làm đổi mới vùng đất từ Lê Minh Xuân lên Thái Mỹ và phát huy tác dụng rõ rệt của thủy lợi nội đồng ở một số nơi. Điều cần phê phán là do không được xây dựng trên cơ sở một sự tính toán cụ thể, có căn cứ khoa học, một số công trình đã gây tác dụng xấu, một số trạm bơm tốn kém lớn, hiệu quả rất thấp.
Bố trí lại lao động trên phạm vi cả nước là một chủ trương có tầm chiến lược lớn. Đối với Đảng bộ chúng ta, phân bổ lại lao động, bố trí lại dân cư là một tất yếu khách quan xuất phát từ yêu cầu cải tạo, xây dựng và bảo vệ thành phố, vì lợi ích của nhân dân. Tuy nhiên, trong tổ chức thực hiện chủ trương đúng đắn đưa dân đi xây dựng vùng kinh tế mới, Ban Thường vụ Thành ủy đã không cụ thể hoá và làm quán triệt mục đích, yêu cầu, không xác định đúng thành phần dân cư cần đưa đi, không xây dựng quy hoạch và phương hướng sản xuất phù hợp với từng vùng, không có biện pháp bảo đảm điều kiện sống bình thường cho nhân dân (nước uống, thuốc chữa bệnh…). Trước mắt, hàng chục vạn dân kinh tế mới bỏ về thành phố, trong đó khoảng 30.000 người sống ở lề đường, đang là một vấn đề xã hội mà bằng mọi cách chúng ta phải giải quyết với đầy đủ trách nhiệm và tình thương.
Theo một phương hướng phân bổ vốn đầu tư đúng đắn, xây dựng cơ bản trong mấy năm qua đã tăng thêm năng lực mới của các ngành kinh tế quốc dân và trên cơ sở phúc lợi xã hội do địa phương quản lý.
Về xuất khẩu - một trong những nhiệm vụ hàng đầu – đã ba năm liền thành phố hoàn thành vượt mức kế hoạch giao nộp hàng đại ngạch, năm sau giá trị cao hơn năm trước: 1975 – 79.657.000 đồng, 1978 – 136.815.000 đồng, 1979 – 147.764.000 đồng và đã thu hút hàng vạn lao động nhanh chóng đi vào những ngành hàng xuất khẩu không đòi hỏi đầu tư lớn và học nghề lâu. Đồng thời một bộ phận năng lực sản xuất công nghiệp sẵn có đã bước đầu làm những mặt hàng xuất khẩu có giá trị (xe đạp, đồ gỗ, hàng cao su, hàng dệt, hàng may mặc…).
Ngành giao thông vận tải phần lớn là lực lượng vận tải cơ giới đường bộ, đã nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, nhất là về phụ tùng và nhiên liệu, phục vụ cho kinh tế và đời sống, đáp ứng kịp thời yêu cầu vận chuyển của Trung ương, của quốc phòng theo kế hoạch và đột xuất. Ngành đã thực hiện một khối lớn về duy trì, tu sửa và làm mới đường giao thông, bảo đảm lưu thông được bình thường. Tuy nhiên, so với yêu cầu thì công tác bảo dưỡng đường giao thông, cầu cống còn bị hạn chế, đường sá tiếp tục bị xuống cấp.
Trong phân phối lưu thông, ngành tài chính đã tăng thu và tạo thêm nguồn thu mới, hàng năm đóng góp khoảng 25% vào tổng thu ngân sách cả nước và bảo đảm chi cho các nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị của thành phố. Ngân hàng đã tập trung lực lượng phấn đấu bội thu tiền mặt ba năm liền (1976 – 1978) trong tình hình các nguồn chi tăng nhanh hơn các nguồn thu và gần như không có vốn dự trữ; đã căn bản bảo đảm được nhu cầu to lớn về tiền tệ cho lưu thông, quốc phòng và nghĩa vụ quốc tế. Sự chỉ đạo giá, tiền lương từ thực tiễn của thành phố sớm phát hiện những mặt bất hợp lý và đã có một số đề nghị với Trung ương; đồng thời trong phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của địa phương đã thực hiện sự điều chỉnh thật cần thiết để thu mua một số mặt hàng thiết yếu đến đời sống của công nhân, viên chức. Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa đã có sự nỗ lực lớn để cung cấp lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân, góp phần nhỏ hạn chế đà sa sút mức sống của người hưởng lương Nhà nước và người lao động thu nhập thấp.
Tóm lại, sau những năm đầu đấu tranh cải tạo xã hội chủ nghĩa và tổ chức lại nền kinh tế, sản xuất công nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, sản xuất nông nghiệp được khôi phục và phát triển theo hướng khắc phục dần tính què quặt, lệ thuộc. Cả tính chất buôn bán, tiêu phí của thành phố cũng đang được chuyển dần từng bước sang lao động sản xuất. Từ tình trạng cạnh tranh vô chính phủ đã tạo được cơ sở ban đầu cho một trật tự kinh tế mới phát triển có kế hoạch.
2. Tuy nhiên, kinh tế địa phương thành phố từ khoảng hai năm nay có mặt trì trệ, sa sút, kinh tế quốc doanh nói chung phát triển chậm chạp và hiện nay đang ở trong tình trạng mất cân đối nghiêm trọng.
a. Chúng ta đứng trước thực trạng kinh tế thành phố hiện nay là: một bộ phận cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng bị phân tán, hư hỏng, phá hại. Dự trữ kinh tế rất mỏng, nhưng kho tàng, cơ sở sản xuất và kinh doanh, nhất là trong các khu vực tư nhân, cá thể, năng lực thực tế và tiềm năng nói chung không đánh giá được một cách chắc chắn, một phần bị bỏ sót không sử dụng, một phần khác bị mất mát, thậm chí bị hủy hoại. Cơ cấu kinh tế vốn đã què quặt lại bị tư tưởng, tâm lý, thói quen sản xuất nhỏ xé lẻ, phân tán, chia cắt, trì kéo lẫn nhau thành vòng lẩn quẩn, làm cho sự mất cân đối đã gay gắt càng thêm nghiêm trọng. Lực lượng lao động thất nghiệp hoàn toàn và không có việc làm ổn định còn rất đông; một bộ phận không nhỏ chạy theo buôn bán “chụp giựt” và đang là một mối lo của Đảng bộ; nhiều người có tay nghề giỏi, kể cả cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật bỏ xí nghiệp quốc doanh ra làm cho kinh tế tập thể, và kinh tế tư nhân, một số người bỏ đi nước ngoài. Động lực làm chủ tập thể về cả ba mặt lợi ích, trách nhiệm, quyền hạn đang có nguy cơ bị triệt tiêu; gần đây, nhiều thói hư, tật xấu phát triển, đời sống cơ cực, nhiệt tình lao động sản xuất giảm sút.
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập trên diện rộng, nhưng chủ yếu mới về chế độ sở hữu. Trong kinh tế quốc doanh quản lý sản xuất và kinh doanh kém do cơ chế quản lý chưa được cải tiến, thiếu một sự điều tra phân tích khoa học tình hình kinh tế - xã hội, thiếu một quy hoạch tổ chức lại sản xuất. Kết quả về phát triển sản xuất, quản lý thị trường và cải thiện đời sống đều đi ngược với mục đích cải tạo. Động lực làm chủ tập thể chưa chứng tỏ được tính hơn hẳn của chủ nghĩa xã hội, chưa trở thành nhân tố sáng tạo thúc đẩy sản xuất phát triển. Quan hệ sản xuất và sức sản xuất rõ ràng là chưa phát huy tác động thúc đẩy lẫn nhau.
b. Tình hình căng thẳng trong việc phát triển kinh tế địa phương một phần quan trọng là do hậu quả của sự non kém trong chỉ đạo quản lý kinh tế.
Trong một cơ chế quản lý đã lạc hậu, đánh giá nguyên nhân chủ quan của thực trạng kinh tế địa phương là một vấn đề khó khăn, phức tạp. Ánh sáng đường lối Đại hội Đảng, nhất là của các nghị quyết gần đây của Trung ương cùng kết quả ban đầu đạt được trong sự chỉ đạo hợp đồng giữa ngành trung ương với thành phố, giữa thành phố với một số tỉnh càng giúp và càng buộc chúng ta phải tìm ra phương pháp tổ chức mới với những hướng suy nghĩ mới và những hướng làm ăn mới, nhằm cải tiến tổ chức và quản lý phù hợp với hướng cải tiến chung, góp phần ổn định lại trật tự kinh tế ở thành phố có lợi cho chủ nghĩa xã hội.
Thời gian qua, Đảng bộ đã buông lơi chỉ đạo việc duy trì bảo dưỡng nhiều cơ sở vật chất, kỹ thuật và kết cấu hạ tầng hiện đại tiếp quản được gần như nguyên vẹn và những cơ sở này rất quý đối với nền kinh tế của cả nước. Trong lúc đó lại xây dựng một số cơ sở mới quá phân tán, thi công kéo dài, hiệu quả đầu tư rất thấp. Thiết bị, máy móc hiện có không sử dụng được quá nửa công suất, vật tư, nguyên liệu vừa có tình trạng lãng phí ghê gớm. Nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật bị phá hỏng – môi sinh bị ô nhiễm một cách có hệ thống.
Đảng bộ đã không tập trung sức chỉ đạo tốt nhiệm vụ hàng đầu là quản lý lực lượng lao động xã hội, không giao tốt công việc, nuôi con người thiếu chu đáo, khiến cho phần lớn người lao động làm không ra làm, ăn không ra ăn, ở không ra ở. Ngay cả ở các điển hình tiên tiến việc chăm sóc công nhân, xã viên, cán bộ chưa phải đã thật tốt. Cho nên nhiều tài năng còn bị phân tán, mai một, người hăng hái tích cực giảm sút dần nhiệt tình cống hiến. Chưa thiết lập các mối quan hệ kinh tế đúng giữa người và người trong sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu dùng, gây ra những cảnh trái ngược với đường lối, với bản chất chế độ, với quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội: quốc doanh kém hợp tác, hợp tác thua cá thể; người làm nhiều hưởng ít, kẻ làm ít hưởng nhiều, đứa xoay xở gian trá lại giàu có, phè phỡn.
Những thiếu sót trong chỉ đạo quản lý kinh tế được phát hiện khá sớm nhưng chưa xây dựng thành hệ thống các mối quan hệ kinh tế khách quan giữa trung ương với địa phương trên địa bàn thành phố, nhất là giữa thành phố với các tỉnh thuộc nam bộ cũ. Do đó, chưa tổ chức được nền sản xuất xã hội, nhất là chưa tác động bao nhiêu vào sự hình thành dần một cơ cấu công nghiệp trên địa bàn thành phố ở mức tương đối hợp lý; chưa tổ chức được công nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp thành “đội ngũ ba thứ quân”; chưa gắn được công nghiệp với nông nghiệp ngoại thành và nông nghiệp cùng công nghiệp địa phương các tỉnh trên khu vực thành một cơ cấu; chưa tổ chức được sự hợp đồng giữa các ngành và nhiều bộ phận của từng ngành. Chậm phát hiện “cách suy nghĩ mới” và “cách làm ăn mới” của những điển hình tiên tiến đã tổ chức được mối quan hệ kinh tế ổn định, lâu dài với các địa phương cung cấp nguyên liệu. Sự chỉ đạo chậm trễ đưa đến hậu quả là công nghiệp chế biến nông lâm hải sản thuộc thế mạnh của thành phố, có nguồn nguyên liệu của cả một vùng đồng bằng trù phú mà chỉ sử dụng khoảng 40 – 50% công suất. Trong xây dựng các vùng kinh tế mới không kết hợp được sức lao động, đối tượng lao động và công cụ lao động theo một phương hướng sản xuất thích hợp với sinh thái. Ở một số cơ sở, đơn vị, do sự chia cắt nên đã gây rối thêm trong tổ chức sản xuất sẵn có, tăng thêm tranh chấp, giành giựt, móc ngoặc trong bộ máy quản lý, nuôi dưỡng đầu óc bản vị, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, chuyên môn đơn thuần trong đội ngũ cán bộ.
Sự chỉ đạo phát triển kinh tế quốc doanh (công nghiệp quốc doanh, nông trường quốc doanh, thương nghiệp quốc doanh) thiếu chuẩn bị điều kiện và thiếu kiên trì chăm lo củng cố; cho nên nhiều trường hợp đã làm mất tín nhiệm đối với kinh tế quốc doanh. Trong cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, do thiếu điều tra phân tích kỹ đối tượng, thiếu chuẩn bị điều kiện, nhất là năng lực vận dụng chính sách, sách lược và cán bộ quản lý cho nên đã có xu hướng giản đơn trong việc đề ra chủ trương hoàn thành nhiệm vụ này trong hai năm 1977 – 1978. Mở rộng kinh tế tập thể đúng là phải tích cực, vững chắc; song, đã có xu hướng nóng vội, giản đơn trong bước đi, trong việc đề ra chủ trương căn bản hoàn thành tập thể hoá nông nghiệp năm 1979. Chưa thấy việc biến những tiềm năng to lớn của một thành phố công nghiệp thành hiện thực thúc đẩy nông nghiệp phát triển là không dễ dàng. Công tác đăng ký kinh doanh tháng 9-1980 càng làm lộ rõ chỗ yếu của sự chỉ đạo quản lý trước đây là điều khiển rất kém hiệu lực đối với kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể và cả một bộ phận kinh tế tập thể; yếu cả về sử dụng mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực. Rốt cuộc, với khối lượng của cải trong phạm vi trách nhiệm của mình vẫn không nắm và không làm chủ nguồn hàng, đặc biệt là nhiều hàng thuộc nhu cầu thiết yếu, để tiền mặt lưu thông “tự do” và quay vòng nhanh ngoài quỹ đạo của ngân hàng. Qua điều tra các hộ sản xuất kinh doanh cho thấy chúng ta đã để thất thu gần một nửa tiền thuế và không điều tiết được thu nhập các tầng lớp dân cư, không làm tốt việc phân phối vật tư, hàng hoá, không quản lý được thị trường xã hội.
Sự chỉ đạo quản lý kinh tế chưa nắm vững công cụ chủ yếu là kế hoạch hoá. Chưa bao giờ đi sâu nghiên cứu căn cứ khoa học của kế hoạch, hiệu quả mà kế hoạch mang lại, những mục tiêu mà kế hoạch đề ra có thể thực hiện được đường lối, chính sách hay không, những chủ trương kinh tế trong kế hoạch có phù hợp hay không phù hợp với các quy luật ở giai đoạn đầu thời kỳ quá độ của nền kinh tế còn nhiều thành phần. Chưa bao giờ kiểm tra xem những mục tiêu trong kế hoạch có nhằm đúng hay không đúng các mục tiêu của nghị quyết Đại hội lần thứ nhất của Đảng bộ. Từ khi có nghị quyết 6 của Trung ương, chúng ta chưa đặt vấn đề nghiên cứu thực hiện chủ trương kế hoạch hoá ba cấp. Cho nên, tốn rất nhiều công sức và thời gian, điều hành cực kỳ chật vật, vất vả, mà chung quy các mặt mất cân đối và trì trệ cứ tăng lên và nhiều chỉ tiêu cơ bản đề ra trong nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ nhất không thực hiện được.
Gần đây, sự chỉ đạo quản lý kinh tế có đi sâu vào thực tiễn, bước đầu cùng một số công ty, xí nghiệp công nghiệp trung ương và địa phương, chịu trách nhiệm phối hợp giải quyết những vấn đề về sản xuất và đời sống công nhân theo tinh thần hai nghị quyết 6 và 26; do đó đã mở ra những triển vọng mới về sử dụng tốt hơn công suất máy móc thiết bị hiện đại, phát triển sản xuất, quản lý nguyên liệu, hàng hoá, ổn định và có một mức cải thiện đời sống công nhân, viên chức. Song, nhìn chung sự chỉ đạo chưa khắc phục được tính thụ động của nhiều ngành và đang còn ở bước tìm kiếm nội dung và cách thức sử dụng cho có hiệu quả quan hệ hàng hoá - tiền tệ, gắn chặt với kế hoạch hoá ba cấp làm công cụ chủ yếu. Đến nay thành phố vẫn chưa có trong tay một đội quân thuế, một đội quân tín dụng, một đội quân thu mua có bản lĩnh kinh doanh ngang tầm nhiệm vụ chuyển hướng kinh tế.
Sự chỉ đạo quản lý kinh tế không quán triệt nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ, không gắn chặt việc quản lý về Đảng với việc tích cực, chủ động xây dựng một nền nếp phối hợp kế hoạch sản xuất công nghiệp trung ương với công nghiệp địa phương, thành phố và các tỉnh trong khu vực để hình thành dần một cơ cấu thống nhất làm cơ sở sử dụng hợp lý lao động xã hội, tận dụng mọi tiềm năng trong khu vực và kiểm tra việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch kinh tế. Quan hệ của các ngành trung ương với thành phố chưa chặt. Mặt khác, Thành ủy cũng chưa xác định đầy đủ trách nhiệm của mình đối với các cơ sở kinh tế trung ương trên địa bàn thành phố.
Sự chỉ đạo quản lý kinh tế của Đảng bộ trong tình hình có sự trì trệ chung đã chưa góp sức tháo gỡ được nhiều mà có mặt còn làm nẩy sinh thêm những hiện tượng tiêu cực có ảnh hưởng đến lòng tin của cán bộ và quần chúng.
c. Đảng bộ, trước hết và chủ yếu là Thành ủy, chưa làm tròn chức năng của một cấp chỉ đạo thực hiện: chưa điều tra và phân tích cụ thể tình hình kinh tế - xã hội cơ bản, chưa vận dụng quan điểm, đường lối, quy luật sát hợp với bước đi ban đầu thời kỳ quá độ, với một nền kinh tế còn nhiều thành phần, với vị trí và trách nhiệm rất lớn về kinh tế, an ninh và quốc phòng của thành phố trong sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc chống chủ nghĩa bành trướng, xâm lược của Trung Quốc. Mặt khác, chưa nắm chắc các tiềm năng về lao động và đất đai, các khả năng về trang bị kỹ thuật; chưa phân tích đặc điểm các thành phần kinh tế và các thế mạnh của thành phố để trên cơ sở đó mà vận dụng đường lối, chính sách của Đảng thành những chủ trương, chính sách cụ thể, phù hợp với một nền kinh tế từ sản xuất nhỏ tiến thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Khi lao vào thực tiễn với nhiệt tình cách mạng sôi sục và ý thức trách nhiệm cao thì một mặt, nhờ vốn hiểu biết chung về quan điểm đường lối của Đảng về con người ở thành phố nên đã có những chủ trương, những việc làm phù hợp, được biểu hiện tập trung trong nhiều nghị quyết công tác đúng đắn của Thành ủy, nhất là hai nghị quyết 9 và 10. Mặt khác, trên những lĩnh vực như công nghiệp, phân phối lưu thông…, cải tạo đã không thực sự nắm vững quan điểm, đường lối, quy luật nên chưa giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế cơ bản.
- Trong thực hiện quan điểm xã hội hóa xã hội chủ nghĩa có tình hình là: đối với quốc doanh và hợp tác xã thì nặng chạy theo số lượng và chế độ sở hữu, chưa chú trọng đúng mức về thực chất quản lý và phân phối, xem nhẹ hiệu quả kinh tế. Một số xí nghiệp liên hợp và liên hiệp xí nghiệp được thành lập không thực đúng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất và không trên cơ sở củng cố các đơn vị tham gia. Đối với công tư hợp doanh thì làm không đúng chính sách, thực chất giống như quốc doanh. Từ khi có nghị quyết 6 của Trung ương, đã không tập trung sức tháo gỡ những ràng buộc về chế độ quản lý cho kinh tế quốc doanh.
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, sự chỉ đạo của Thành ủy có biểu hiện nôn nóng, tính toán giản đơn, chưa đi sâu nắm chắc tình hình, thiếu chuẩn bị chính sách và chuẩn bị cán bộ quản lý. Thành ủy đã có đối sách đúng: phân biệt hai bộ phận thương nghiệp và công nghiệp của kinh tế tư bản, tập trung sức xóa ngay đại, trung thương. Riêng đối với bộ phận công nghiệp đã không nắm vững đặc điểm đất nước đang ở quá trình từ sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không phân tích kỹ và không đánh giá đúng vai trò, năng lực (kỹ thuật, quản lý, vốn, quan hệ kinh tế với ngoài nước) của tư sản công nghiệp để vận dụng nhuần nhuyễn chính sách khuyến khích phát triển sản xuất theo nguyện vọng của họ. Chưa coi trọng việc vận dụng các chính sách cụ thể đối với các thành phần tư sản. Trong tương quan lực lượng lúc ấy, lẽ ra không cần thiết phải làm ồ ạt. Dựa vào những ưu thế của một thành phố công nghiệp lớn, Đại hội lần thứ nhất của Đảng bộ hạ quyết tâm hoàn thành cơ bản hợp tác hoá nông nghiệp trước một năm so với tiến bộ chung của nghị quyết Trung ương. Qua thực hiện chúng ta thấy rõ từ tiềm năng biến thành hiện thực không dễ dàng. Mặt khác, chúng ta thiếu chuẩn bị cán bộ quản lý, chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết cho hợp tác hóa nông nghiệp. Sự chỉ đạo của Thành ủy còn giản đơn. Sự uốn nắn đã không kịp thời và không bảo đảm quán triệt đến cơ sở phương châm nêu trong nghị quyết 6 là “tích cực và vững chắc, hiện nay phải nhấn mạnh vững chắc”: đã để buông lỏng cả việc tích cực củng cố vững chắc các tập đoàn và hợp tác xã và việc tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho bước phát triển vững chắc tiếp theo của phong trào làm ăn tập thể.
- Không nắm vững quan điểm sản xuất lớn, không tập trung sức ưu tiên chăm lo nới lỏng vòng vây cho công nghiệp quốc doanh; không nghiên cứu chủ trương, biện pháp bảo đảm cho cả năm thành phần kinh tế trong công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng bung ra đúng hướng. Không xuất phát từ lợi ích sản xuất, thực hiện chính sách cùng kinh doanh cùng chia lãi mà có biện pháp uốn nắn thích hợp nhằm củng cố cơ sở công tư hợp doanh đã có hoặc mạnh dạn sửa lại cho đúng chính sách trong trường hợp cần thiết, như đã ghi trong nghị quyết 6. Đã không kinh doanh tiền tệ và hàng hoá, mà lại buông lỏng việc kiểm kê kiểm soát sản phẩm, buông lỏng việc kiểm soát phân phối và phân phối lại để điều tiết thu nhập các tầng lớp dân cư.
- Không thực hiện đầy đủ và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, đông đảo công nhân, nông dân trí thức, là yếu tố chủ yếu, yếu tố quyết định, yếu tố sáng tạo nhưng chưa thực sự được phát động. Động lực làm chủ tập thể còn xem nhẹ về cả ba mặt lợi ích, trách nhiệm và quyền hạn. Do đó, trong hầu hết hoạt động kinh tế năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội đều rất thấp. Sai lầm nghiêm trọng nhất là suốt mấy năm liền chưa lúc nào tập trung sức tổ chức và xây dựng giai cấp công nhân thành cơ sở xã hội của Đảng và chính quyền Nhà nước, thành lực lượng quyết định sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, lực lượng tiền phong hướng dẫn và cải tạo nông dân lao động tiến lên con đường làm ăn tập thể, củng cố liên minh công nông và lực lượng công nông trí làm nòng cốt trong chế độ làm chủ tập thể.
- Chưa thật sự tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng cả trong công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng cơ bản, cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất chưa thường xuyên gắn bó chặt chẽ với việc duy trì, bảo dưỡng, tận dụng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng thêm cơ sở mới để nâng cao năng lực sửa chữa, sản xuất thiết bị, phụ tùng thay thế và sản xuất một số nguyên liệu nhằm khắc phục từng bước tính què quặt, lệ thuộc của nền kinh tế. Cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất càng chưa gắn bó với sự hình thành và phát triển của mô hình người công nhân, nông dân, lao động làm chủ tập thể, với việc bồi dưỡng, đào tạo, đoàn kết đội ngũ khoa học kỹ thuật. Riêng cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất còn nặng về thay đổi chế độ sở hữu, nhẹ về cải tiến quản lý, cải tiến phân phối. Trong cải tạo nông nghiệp, tập đoàn sản xuất là một hình thức sáng tạo, nhưng ta chưa nghiên cứu sâu, chưa nắm vững điều kiện sinh thái đa dạng, phức tạp và điều kiện kinh tế - xã hội nông thôn ngoại thành, nơi mà sản xuất hàng hoá bước đầu phát triển từ lâu gắn chặt với guồng máy thương nghiệp tư bản chủ nghĩa ở nội thành và một số tỉnh giáp ranh, trung nông giữ tỷ trọng lớn về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác. Cho nên ngoài việc mở rộng nhanh diện tập đoàn vượt quá điều kiện và khả năng quản lý, vi phạm các nguyên tắc hợp tác hoá, ta chưa kết hợp được công nghiệp với nông nghiệp ngay từ đầu, tập trung sức mạnh của công nghiệp, chủ động tạo ra cơ sở điện, phân bón, thuốc trừ sâu, sức kéo, giống cho một số vùng chuyên canh đã bước đầu hình thành.
- Hậu quả chung là nhiều vấn đề kinh tế cơ bản chưa được giải quyết theo đúng hướng suy nghĩ mới và hướng làm ăn mới mà hai nghị quyết 6 và 26 đã mở ra; phù hợp với điều kiện thuận lợi và khả năng thực tế của vùng kinh tế (Nam bộ cũ); tương xứng với vị trí và trách nhiệm rất lớn của thành phố và đáp ứng được một phần quan trọng đòi hỏi bức thiết của thành phố và cả nước. Sự chỉ đạo kinh tế của Thành ủy đã không bảo đảm sử dụng hết năng lực sản xuất hiện có, không bảo đảm tận dụng hết tiềm năng lao động và đất đai để đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, nông nghiệp và xuất khẩu. Sau 5 năm vẫn chưa hình thành được một quy hoạch và cơ cấu công nghiệp, một hệ thống chủ trương kinh tế và một kế hoạch hàng năm tích cực và vững chắc trên địa bàn thành phố.
3. Từ thực tiễn những năm vừa qua một câu hỏi đặt ra là: làm thế nào sử dụng hết công suất các xí nghiệp công nghiệp, ổn định tài chánh, lưu thông tiền tệ và thị trường, tăng cường nắm nguồn hàng trong tay Nhà nước, củng cố và phát triển trận địa xã hội chủ nghĩa trên địa bàn thành phố theo đúng nội dung nghị quyết 6 của Trung ương và nghị quyết 26 của Bộ Chính trị, vận dụng phù hợp với vị trí, trách nhiệm và đặc điểm thành phố, tránh đi đường vòng, mang lại lợi ích thiết thực to lớn cho cả trước mắt và lâu dài?
Câu hỏi này đặt ra hàng loạt vấn đề về tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa, tổ chức lại sản xuất, xây dựng và quản lý kinh tế ở thành phố theo phương thức xã hội chủ nghĩa. Một giải pháp cách mạng và khoa học đòi hỏi phải biết đứng trên quan điểm của đường lối đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc để tìm kiếm phương hướng, chủ trương và cách làm thích hợp. Bước cải tiến chỉ đạo của Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính phủ cùng các Bộ đối với thành phố, sự hợp tác đang hình thành giữa thành phố và các tỉnh xung quanh; sự chỉ đạo thí điểm của các đồng chí chủ chốt trong Thành ủy cùng các ban, ngành có liên quan trực tiếp bàn bạc với một số công ty, xí nghiệp của trung ương và thành phố, quận, huyện, để giải quyết nhiều vấn đề cụ thể về sản xuất, phân phối lưu thông về kết hợp hài hoà ba lợi ích: xã hội, tập thể và bản thân người lao động bước đầu mở ra triển vọng cho thành phố vươn lên theo đúng hướng nghị quyết 6 và 26 của Trung ương. Hướng đó được Ban Bí thư khẳng định lại là: Một sự chỉ đạo kinh tế biết tận dụng các khả năng và tác động qua lại giữa công nghiệp và nông nghiệp thành phố, kết hợp kinh tế trung ương và kinh tế địa phương nhất là công nghiệp trên địa bàn thành phố, giữa thành phố và các tỉnh xung quanh theo yêu cầu khách quan của sản xuất; đồng thời biết vận dụng khôn khéo xuất nhập khẩu, sử dụng các mối quan hệ mà riêng thành phố mới có, hoàn toàn cho phép mở rộng trao đổi hàng hoá và dịch vụ chí ít trên vùng B2 cũ, cho phép mở rộng ngoại thương và sử dụng kiều hối. Nhờ đó đẩy mạnh thu mua nông sản, kích thích nông nghiệp phát triển; cung cấp tốt nguyên liệu nông sản cho công nghiệp của thành phố; tăng thêm nguồn hàng xuất khẩu, tăng thêm khả năng nhập khẩu nguyên liệu và phụ tùng cho công nghiệp. Trong việc tìm kiếm cách làm ăn, không được bỏ qua những khả năng dù là nhỏ. Từng việc nhỏ làm có kết quả tốt đem lại kinh nghiệm, đem lại lòng tin và đóng góp vào hiệu quả chung.
B. NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC – KỸ THUẬT
Đại hội lần thứ nhất đề ra cho khoa học - kỹ thuật nhiệm vụ “phải bám sát phục vụ yêu cầu của cải tạo và xây dựng kinh tế, văn hoá, phục vụ sản xuất, đời sống và quốc phòng… Tập trung nghiên cứu, giải quyết một số vấn đề nguyên liệu, thiết bị phụ tùng, vật tư mà trước đây phụ thuộc nước ngoài; đồng thời phục vụ công tác điều tra cơ bản, cung cấp các cơ sở cho việc định ra kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế văn hóa”.
Về tổ chức: “Bước đầu đưa công tác quản lý khoa học – kỹ thuật vào nền nếp; thống nhất chỉ đạo và quản lý công tác nghiên cứu khoa học, quy hoạch, xây dựng hệ thống các cơ sở nghiên cứu thí nghiệm của Trung ương và các trường đại học, phân công đề tài nghiên cứu nhằm sử đụng phát huy đúng mức lực lượng khoa học - kỹ thuật tại thành phố”.
1. Thực hiện phương hướng đó, đội ngũ khoa học và kỹ thuật đã góp một phần quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng guồng máy quản lý kinh tế - xã hội; phát huy sáng kiến, nghiên cứu giải quyết nhiều khó khăn về nguyên liệu, vật tư, phụ tùng, nghiên cứu thiết kế, chế tạo một số máy móc, thiết bị, đóng mới một số phương tiện, nghiên cứu áp dụng một số giống mới, một số phương pháp và biện pháp tiến bộ về nông lâm, ngư nghiệp; hoàn thành một bước công tác điều tra cơ bản, nắm tiềm lực kinh tế khoa học kỹ thuật. Thực tiễn sản xuất đã thúc đẩy hoạt động khoa học kỹ thuật ở thành phố có những nét mới, sớm gắn với những yêu cầu kinh tế dưới các hình thức sản xuất thử, dịch vụ kỹ thuật, nghiên cứu tổng hợp kinh tế - kỹ thuật.
Về tổ chức, từ phân tán, thiếu phối hợp, tản mạn, đang dần dần quy tụ các lực lượng, hoạt động theo chương trình đề tài khoa học, chương trình mục tiêu kinh tế - kỹ thuật tập trung được sức nhiều ngành, nhiều nghề có phân công phối hợp cùng giải quyết.
Tuy nhiên, trong chỉ đạo còn thiếu sót là chưa huy động, tổ chức tốt thế mạnh đặc biệt của thành phố về lực lượng cán bộ khoa học - kỹ thuật được đào tạo từ nhiều nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, có kiến thức chuyên môn phong phú về khoa học kỹ thuật và quản lý kinh doanh. Đông đảo anh chị em phải chịu những thiếu thốn lẽ ra có thể hạn chế được, những sự dằn vặt, day dứt lẽ ra có thể tránh được, trong lúc chính đây là đội ngũ cán bộ quý giá, là lực lượng nòng cốt chủ yếu để khởi đầu triển khai cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật và nhiệm vụ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở thành phố những năm trước mắt và tiếp theo.
Một nguyên nhân chủ yếu có ý nghĩa quyết định làm hạn chế việc phát huy đội ngũ trí thức là chính sách đối với trí thức các nguồn cũ, mới chưa quán triệt quan điểm đường lối cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm.
2. Trong chỉ đạo, chúng ta chưa quán triệt vị trí then chốt của cách mạng khoa học - kỹ thuật: còn nặng về những yêu cầu trước mắt, chưa phát huy khả năng dự đoán của khoa học kỹ thuật để mở hướng phát triển một cách vững chắc và lâu dài; chưa đặt khoa học - kỹ thuật làm căn cứ cho các kế hoạch kinh tế và hoạt động kinh tế; càng chưa xây dựng được một kế hoạch phát triển và ứng dụng khoa học - kỹ thuật sát hợp với điều kiện và khả năng của thành phố nhằm thiết thực phục vụ sản xuất và đời sống. Trong chỉ đạo chưa làm cho công tác khoa học kỹ thuật hướng vào phục vụ nông nghiệp, xem nhẹ việc truyền bá kiến thức khoa học kỹ thuật phổ thông cho công nhân, nông dân, người lao động. Báo Khoa học phổ thông có nhiều cố gắng, có tác dụng tốt, nhưng chưa thỏa mãn được yêu cầu. Công tác thông tin khoa học - kỹ thuật chưa làm thường xuyên và chất lượng chưa cao.
Việc quản lý kỹ thuật (tiêu chuẩn hoá, đo lường, kiểm tra chất lượng sản phẩm) chưa được đề cao đúng mức.
Nghị quyết về công tác khoa học kỹ thuật và chính sách phát huy đội ngũ trí thức đề ra sớm nhưng chưa tạo được sự nhất trí cao trong Đảng bộ và tổ chức thực hiện chưa tốt. Mặt khác cũng chưa có kế hoạch thu hút hết những người lao động có văn hoá và học sinh vào giáo dục kỹ thuật, đào tạo thành đội ngũ kế tiếp. Ban Khoa học và Kỹ thuật thành phố, với chức năng là cơ quan đầu mối quản lý hoạt động khoa học - kỹ thuật, chưa tập trung tạo một sự chuyển biến trong quản lý kỹ thuật, chưa vươn lên đáp ứng yêu cầu tập hợp toàn bộ lực lượng, nghiên cứu quy hoạch đào tạo, sử dụng đội ngũ; chưa cùng với các ngành có liên quan khác thể hiện cho được sự chăm sóc của Đảng bộ, tạo điều kiện làm việc và bảo đảm đời sống cho anh chị em.
C. NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ, XÃ HỘI
Đại hội lần thứ nhất của Đảng bộ đã nêu rõ phương hướng công tác văn hoá xã hội là: “Cùng với việc cải tạo và xây dựng kinh tế, xã hội, cần phải xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, làm cho tư tưởng và văn hoá xã hội chủ nghĩa xâm nhập ngày càng sâu trong đời sống văn hoá và tinh thần của nhân dân lao động, đấu tranh không khoan nhượng chống tư tưởng tư sản, tàn dư tư tưởng phong kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, quét sạch ảnh hưởng của văn hoá thực dân, những nọc độc trong đời sống văn hoá của xã hội ta”.
Yêu cầu của công tác tư tưởng và văn hoá là “Tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân lao động, làm rõ ranh giới giữa lao động và bóc lột, giữa lao động và ăn bám, giữa tập thể và cá nhân… Trong công tác văn hoá, phải luôn luôn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phải nhằm phục vụ công nhân, nông dân, nhân dân lao động, lực lượng vũ trang, đặc biệt thanh niên, thiếu nhi, chú ý thích đáng ngoại thành, các vùng kinh tế mới, phải luôn luôn đi sát thực tế và kịp thời phản ánh cuộc đấu tranh, cải tạo và xây dựng của nhân dân, nêu gương người tốt, việc tốt, kết hợp xây dựng với cải tạo, áp dụng phương pháp phê bình và tự phê bình”.
Nhân dân thành phố vốn có truyền thống yêu nước, tinh thần yêu chuộng độc lập tự do, đấu tranh bất khuất, có lực lượng công nhân tập trung, tổ chức Đảng ra đời khá sớm. Những quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng được truyền bá liên tục trong đông đảo quần chúng suốt mấy chục năm qua, là cơ sở rất quý cho việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp đảng bộ và chính quyền cùng sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội, các mặt công tác văn hoá, giáo dục, thông tin, báo chí, xuất bản, y tế, thể dục thể thao, thương binh xã hội, bảo vệ bà mẹ và trẻ em đều có mức phát triển, góp phần quan trọng vào việc hình thành và bồi dưỡng liên tục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, lối sống mới trong các tầng lớp nhân dân lao động, vào việc thanh toán từng bước ý thức hệ tư sản, phong kiến, tư tưởng cá nhân vị kỷ, nọc độc văn hoá thực dân phản động đồi trụy cùng tàn dư văn hoá lạc hậu.
Con người mới hình thành chủ yếu trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ người bóc lột người, trong lao động, chiến đấu công tác, học tập, trong trách nhiệm và tình thương giữa người và người ở mọi lứa tuổi, trên mọi lĩnh vực, ở từng xí nghiệp, từng phường, xã, cơ quan, đơn vị, gia đình.
Cuộc đấu tranh để khôi phục, cải tạo, phát triển sản xuất, ổn định đời sống ở thành phố ta đã diễn ra gay gắt, nhiều lúc khá phức tạp. Nhưng cuộc đấu tranh để giành lại con người, xây dựng con người mới càng không giản đơn chút nào. Điều cần được nhấn mạnh là ảnh hưởng của tư tưởng và văn hoá thực dân mới của Mỹ bám rễ khá sâu, ở mức độ khác nhau trong các tầng lớp nhân dân. Có những người sống không cần biết đến ngày mai, sống chụp giựt, sống trên lao động, trên lưng người khác, có khi đi đến nhẫn tâm giết người mình yêu, cháu giết bà để lấy mấy chỉ vàng hoặc mấy trăm đồng bạc. Thế nhưng, giữa một xã hội còn đầy rẫy những rác rưởi, thì chính ngay ở đó đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều những con người mới, rất đẹp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cách mạng có sức cảm hoá, sức lôi cuốn lạ thường, nâng con người lên những tầm cao. Biết bao nhiêu gương điển hình về con người mới trong công nhân, nông dân, trí thức, trong lực lượng vũ trang, công an, trong các ngành văn hoá, xã hội, các ngành phục vụ, dịch vụ, thanh niên xung phong, thiếu nhi, bà con người Hoa, bà con các tôn giáo… Đó là những con người làm chủ tập thể, mình vì mọi người.
Gần đây tình hình xã hội diễn biến phức tạp: trộm cắp, cướp bóc, phá hoại, hành động phạm pháp xảy ra hàng ngày ở nhiều nơi, trật tự xã hội không tốt, an toàn xã hội chưa bảo đảm. Tình trạng chuyên quyền, độc đoán của một số cán bộ, đảng viên trực tiếp hàng ngày với quần chúng, tệ ăn cắp, hối lộ, ức hiếp quần chúng khá nghiêm trọng. Tâm trạng một bộ phận quần chúng có phần nặng nề. Rõ ràng trong xã hội có một bộ phận bi quan, tiêu cực, khí thế cách mạng trong thành phố so với mấy năm trước đây có những hiện tượng sa sút không thể coi thường. Đảng bộ trước hết là Thành ủy phải chịu trách nhiệm trước tiên về những hiện tượng không lành mạnh đó.
Sự chỉ đạo chưa phát động thật đông đảo quần chúng cơ bản thật sự làm chủ tập thể trên lãnh vực văn hoá xã hội. Sự chỉ đạo chưa theo một nội dung và phương thức phù hợp, đang còn nhiều mặt yếu kém ở dưới tầm yêu cầu và khả năng thực tế. Chưa thật quan tâm nâng cao sự hiểu biết và lòng tự hào của đông đảo nhân dân thành phố về lịch sử anh hùng và cội nguồn dân tộc. Chưa quan tâm đúng mức các huyện ngoại thành, nhất là những nơi xa xôi hẻo lánh, xa các trục giao thông chính. Chưa điều tra, phân tích cụ thể tác hại của văn hoá cùng lối sống thực dân mới kiểu Mỹ đối với từng giai cấp, từng lớp. Chưa đi sâu phân tích quan điểm chính trị phản động chỉ đạo từng ngành văn hoá, xã hội dưới chế độ thực dân mới. Tính chiến đấu, tính chủ động của Đảng bộ chống chiến tranh tâm lý còn thấp. Một thiếu sót nổi bật là việc tìm hiểu tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng các giai cấp, từng lớp chưa tới mức tìm hiểu đầy đủ tâm lý xã hội ở thành phố. Do đó, cho đến nay vẫn chưa nắm thật chắc những vấn đề mang tính quy luật, để hướng dẫn tốt cuộc đấu tranh “ai thắng ai” trên mặt trận tư tưởng, văn hoá xã hội.
Đối với công nhân, lao động, chưa chú ý giáo dục cơ bản về chủ nghĩa xã hội để kiên định phấn đấu đến cùng cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới chưa phải lúc nào cũng thực sự là ngày hội cách mạng của đông đảo quần chúng, chưa phải thực sự là quá trình con người mới nảy nở và trưởng thành một cách mạnh mẽ và phổ biến. Đội ngũ công nhân mới của thành phố vừa là kết quả, vừa là nhân vật trung tâm sáng tạo chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới chưa được rèn luyện để sớm trở thành điển hình đẹp đẽ nhất của con người mới.
Mặt khác, chúng ta chưa chăm lo đúng mức đối với đội ngũ văn nghệ sĩ, nhất là lực lượng sáng tác, chưa chăm lo, bồi dưỡng thỏa đáng lực lượng hạt nhân, những văn nghệ sĩ đã có quá trình trưởng thành trong cách mạng. Đối với văn nghệ sĩ cũ, chưa kiên trì giáo dục, phát huy những mặt tích cực, đấu tranh hạn chế những mặt tiêu cực, tạo điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần để họ có thể cống hiến được nhiều hơn cho sự nghiệp cải tạo, xây dựng và bảo vệ thành phố.
Các cơ quan trực tiếp chăm lo những hoạt động văn hoá văn nghệ tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng chưa đáp ứng với những đòi hỏi của quần chúng, chưa phục vụ rộng rãi nhân dân lao động, nhất là công nhân, nông dân vùng ngoại thành, những nơi xa xôi, hẻo lánh, chưa phục vụ thích hợp với từng lứa tuổi, nhất là thiếu niên và nhi đồng. Phong trào ca khúc tuổi trẻ chưa được lãnh đạo chặt chẽ và uốn nắn kịp thời.
D. NHIỆM VỤ XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN, CÁC ĐOÀN THỂ
Mối quan tâm hàng đầu và nhất quán của Đảng bộ là tổ chức thực hiện từng bước chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội của chính quyền thành phố, xây dựng cho được nội dung, phương thức hoạt động của các đoàn thể phù hợp với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
1. Về bộ máy và hiệu lực quản lý của chính quyền:
a. Thông qua các lần bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp và qua các lần củng cố, kiện toàn hệ thống chính quyền từ thành phố đến quận, huyện, phường, xã - nhất là quận và phường – ngày càng được củng cố về phẩm chất chính trị, trình độ quản lý kinh tế, quản lý xã hội và tổ chức thực hiện; về lề lối làm việc, phân công, phân nhiệm, tác phong sâu sát; về phát huy dân chủ nội bộ và thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Nhiều cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ đã được điều động từ cấp thành phố về tăng cường cho quận, huyện và từ quận, huyện đến tăng cường cho phường, xã, thiết thực nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội của ủy ban nhân dân quận, huyện, phường, xã.
Cơ cấu chính quyền các cấp đã có bước trưởng thành rõ rệt về quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Nhiều điển hình tiên tiến về quản lý tổ dân phố, quản lý lao động, quản lý hành chánh – kinh tế, quản lý sản xuất, quản lý phân phối lưu thông hàng hoá, tổ chức đời sống của nhân dân đã tích lũy được kinh nghiệm quý, phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của thành phố.
Hệ thống tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, thanh tra Nhà nước, công an từ thành phố đến quận, huyện được xây dựng và củng cố một bước, đi đôi với phát triển các tổ chức thanh tra nhân dân, với sự phối hợp hoạt động ngày càng tốt hơn của các cơ quan đó để giữ gìn an ninh và chống các hiện tượng tiêu cực trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Hiệu lực quản lý của bộ máy chính quyền dựa trên khối đoàn kết toàn dân trong mấy năm qua đã góp phần tích cực vào những thắng lợi nhiều mặt của nhân dân thành phố.
Tuy nhiên, năng lực quản lý kinh tế của chính quyền còn hạn chế.
b. Về quản lý xã hội, chưa cụ thể hoá được quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động thành quy chế ở mỗi cấp; chưa nắm chắc di biến động nhân hộ khẩu và các mối quan hệ xã hội và chưa quan tâm tìm hiểu cụ thể, sâu sắc con người thuộc các giai cấp, các từng lớp; chưa có kế hoạch, biện pháp tổ chức thực hiện nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, để tồn tại kéo dài nhiều hiện tượng bất công, không hợp lý, nhiều hiện tượng tiêu cực trong kinh tế và đời sống ở thành phố.
Quản lý các mặt công tác xã hội chưa chặt, chưa chú trọng phát triển văn hoá, văn nghệ, y tế, giáo dục phục vụ cho khu vực nông thôn, các vùng kinh tế mới, các đơn vị thanh niên xung phong, các đơn vị chiến đấu và phục vụ chiến đấu, các trường giáo dục cải tạo.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa được tôn trọng đầy đủ. Chưa chú ý xây dựng pháp luật để có thể quản lý xã hội bằng pháp luật.
Chế độ, lề lối làm việc, phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của một số khá đông cơ quan, đơn vị chưa được quy định rõ ràng. Biên chế hành chánh, biên chế gián tiếp tăng nhanh vượt xa chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, nhưng nhiều cơ quan vẫn không bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao và không quản lý nổi cán bộ, nhân viên; nơi nào cũng có hiện tượng vừa “thừa” vừa thiếu người; sử dụng lao động lãng phí.
2. Về an ninh, quốc phòng:
Kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của nhân dân ta là bọn phản động Trung Quốc câu kết ngày càng chặt chẽ với đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế khác, ráo riết hoạt động gián điệp, tình báo, phá hoại, gây rối loạn, tìm cách đánh vào nội bộ ta.
Thành phố đã phát động nhiều đợt tập trung kết hợp với công tác thường xuyên giáo dục cán bộ chiến sĩ và nhân dân về ý chí căm thù địch, về tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động đập tan mọi hành động chống đối của bọn phản động và tiêu diệt mọi mầm mống bạo loạn; về tư thế sẵn sàng làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc và nghĩa vụ quốc tế. Yêu cầu sớm truy quét bọn lưu manh chuyên nghiệp, giải quyết các tệ nạn xã hội cũng đặt ra rất cấp bách đối với nhân dân thành phố.
a. Về an ninh:
- Trong mấy năm qua, kết hợp lực lượng chuyên môn với phong trào quần chúng “bảo vệ an ninh Tổ quốc”, đã liên tục tấn công vào các loại đối tượng phản cách mạng và bọn tội phạm hình sự, trong 5 năm đã khám phá 285 vụ nhen nhóm phản động bắt giữ 5.442 tên; đã khám phá 460.250 vụ án hình sự; trong đó 2.747 vụ trọng án, bắt giữ 44.403 tên; đã từng bước đập tan những âm mưu phá rối, bạo loạn. Bọn tàn dư phản động ngày càng mất chỗ dựa. Về cơ bản ta giữ được thế ổn định của tình hình không để xảy ra sự xáo trộn lớn về an ninh, ngay cả những khi tình hình có những diễn biến phức tạp (như khi xảy ra vụ “nạn kiều”, hai cuộc chiến tranh biên giới phía tây – nam, phía bắc…).
Ta đã ngăn chặn và hạn chế hàng loạt âm mưu, hành động phá rối võ trang, từng bước phân hoá các loại phản động trong nội địa; trấn áp kịp thời các âm mưu gây rối loạn của các bọn phản cách mạng; đẩy lùi những mặt tiêu cực trong khu vực người Hoa và trong các tôn giáo.
Kết hợp với việc đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, phong trào quần chúng “bảo vệ an ninh Tổ quốc” phát triển ngày càng rộng, có nơi khá vững chắc. Về an ninh kinh tế và trật tự xã hội, ta đã có những biện pháp bảo vệ tích cực, khám phá nhiều vụ án quan trọng, hạn chế nhiều hoạt động của bọn tội phạm, làm giảm một phần thiệt hại tài sản Nhà nước ở một số khu vực và một số địa bàn trọng điểm.
Thắng lợi trên mặt trận an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là kết quả của sự vận dụng đúng đắn chủ trương, chính sách của Đảng, những đối sách sát hợp, kịp thời và sự phối hợp những lực lượng rộng lớn của quân, dân thành phố dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng với lực lượng công an làm cốt.
Hiện nay, khó khăn lớn của thành phố là bọn bành trướng Bắc Kinh cấu kết với bọn gián điệp và tay sai Mỹ còn âm mưu hoạt động chống phá cách mạng. Mặt khác các tệ nạn xã hội chưa giảm; sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn có hiệu quả; mức sống của đông đảo cán bộ công nhân viên và quần chúng lao động nghèo đang sa sút nghiêm trọng. Tất cả đều đó làm cho cuộc đấu tranh để giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội còn gay go, phức tạp.
Một bộ phận cán bộ và chiến sĩ công an chưa nhận thức đầy đủ vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chưa quán triệt sức mạnh làm chủ tập thể của quần chúng và còn có biểu hiện công tác đơn độc, khuynh hướng chuyên môn đơn thuần.
Đến nay, vẫn chưa quản lý chắc nhân khẩu, nhất là khâu di biến động; chưa nắm chắc kẻ địch, thiếu tầm nhìn bao quát trong đánh giá tình hình và chủ trương đối phó, chưa kết hợp chặt an ninh chính trị với trật tự xã hội, chính trị với kinh tế, mối liên quan qua lại giữa nội bộ với ngoài xã hội. Khi phải khẩn trương đối phó với các nhen nhóm, các hoạt động sôi nổi của địch, thì ngoài một số vụ đánh sâu, đánh hiểm, nhìn chung chưa có ý thức và tạo điều kiện tập trung sức đánh địch về chiều sâu, chưa truy tầm địch đến tận gốc. Cuộc đấu tranh trên mặt trận trật tự an toàn xã hội chưa tiến hành liên tục.
Ở một số địa bàn trọng điểm, khu vực trọng điểm, chưa nắm chắc tình hình, chưa có kế hoạch cụ thể nhằm huy động sức mạnh tổng hợp (Đảng, các đoàn thể, các ngành kinh tế - xã hội, giáo dục, y tế…) để làm biến đổi tình hình một các rõ nét.
Thành ủy có nắm chắc lực lượng an ninh. Nhưng, do sự chỉ đạo chưa bảo đảm quán triệt quan điểm đường lối chủ trương và do cơ chế quản lý ngành chưa cải tiến, cho nên có một tình hình khá phổ biến là ban thường vụ các cấp đảng bộ chưa lãnh đạo tập thể, chặt chẽ, trực tiếp và toàn diện mọi hoạt động của ngành công an, chưa chăm sóc chu đáo ngành công an về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đời sống vật chất, văn hoá của cán bộ chiến sĩ. Còn gần như khoán trắng cho một số đồng chí đảng viên và cấp ủy viên phụ trách và cho ngành đọc. Chưa tạo được sức mạnh tổng hợp giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội và xây dựng lực lượng công an nhân dân một cách vững chắc.
b. Về công tác quân sự địa phương:
- Sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Thành ủy đã nâng cao được nhận thức về đường lối quốc phòng toàn dân trong các cấp đảng bộ, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể và bước đầu tổ chức chỉ đạo thực hiện sự hợp đồng, tạo ra sức mạnh tổng hợp để công tác quân sự địa phương phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chính trị của thành phố trong giai đoạn mới. Nhân dân thành phố ngày càng nhận rõ trách nhiệm của mình đối với nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong 5 năm đã có hơn 100.000 hộ đưa con em của mình đi bộ đội và thanh niên xung phong. Và khi Tổ quốc gọi, các tầng lớp nhân dân đã dấy lên một phong trào sôi nổi, rộng khắp “Vì tuyến đầu Tổ quốc”, đóng góp hơn 116 tấn hàng gửi ra tiền tuyến, và không phân biệt dân tộc, lương, giáo, các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia xây dựng tuyến bảo vệ biên giới và tuyến phòng thủ thành phố.
Trên cơ sở thông suốt tình hình và nhiệm vụ, Đảng bộ đã khẩn trương xây dựng lực lượng, vừa tập trung dồn sức chi viện biên giới, vừa bảo đảm an toàn nội địa, hình thành các tuyến phòng thủ và một thế trận chiến tranh nhân dân ở địa phương sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ thành phố. Đến nay, 347 phường, xã, hàng trăm cơ quan, xí nghiệp đã có phương án bố phòng, tác chiến, sẵn sàng chiến đấu.
Các lực lượng quân sự địa phương không ngừng được xây dựng và củng cố về chính trị tư tưởng, tổ chức, trình độ kỹ thuật, chiến thuật và tổ chức chiến đấu; đã kết hợp với lực lượng công an nhân dân, tăng cường công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, kết hợp tấn công truy quét địch với tích cực phòng thủ, bảo vệ vững chắc các vùng trọng điểm và các mục tiêu quan trọng.
Đảng bộ đã dồn sức chỉ đạo cuộc vận động thi hành nghĩa vụ quân sự. Công tác tuyển quân bốn năm liền vượt chỉ tiêu và đang đi dần vào nền nếp. Tuy nhiên, nhiều cấp ủy Đảng còn chưa nhận rõ vị trí thành phố đối với nền quốc phòng cả nước, chỉ đạo các mặt quân sự, chính trị, hậu cần… thiếu tầm nhìn xa, bị động chạy theo yêu cầu trước mắt; chưa động viên và tổ chức được sức mạnh tổng hợp và đồng bộ của các ban ngành, đoàn thể, còn để óc địa phương, có ngành, có lúc chưa nghiêm túc và triệt để chấp hành nhiệm vụ quân sự.
Công tác chính trị, tư tưởng trong lực lượng vũ trang chưa thật gắn chặt với nhiệm vụ quân sự địa phương, với cơ sở, với phong trào, hình thức còn gò bó, công thức; chưa theo kịp sự phát triển công cuộc cải tạo, xây dựng, bảo vệ thành phố. Việc quản lý đơn vị, chăm lo đời sống cho chiến sĩ chưa tốt, chưa xây dựng được cơ sở vật chất cho quốc phòng và cũng chưa nhận thức đúng về mối quan hệ xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng, quốc phòng kết hợp kinh tế.
3. Về nhiệm vụ xây dựng mặt trận đoàn kết dân tộc trên cơ sở khối liên minh công nông và lực lượng công nông trí:
Nắm được đặc điểm xã hội thành phố, Đảng bộ đã xác định nhiệm vụ của công tác dân vận mặt trận là phải ra sức “lấp hố chia rẽ”, “xóa bỏ mặc cảm”, tranh thủ, tận dụng mọi khả năng mở rộng đoàn kết, cô lập bọn đầu sỏ phản động; động viên và tổ chức các tầng lớp nhân dân thành phố liên tục phấn đấu theo những mục tiêu thiết thực, cụ thể là khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh xâm lược và chủ nghĩa thực dân mới để lại, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá theo chủ nghĩa xã hội, đương đầu với những âm mưu cực kỳ thâm độc của tập đoàn cầm quyền Bắc Kinh, chịu đựng những khó khăn to lớn, dồn dập trong kinh tế và đời sống.
Đó là quá trình làm biến đổi bước đầu có chiều sâu về nhận thức tư tưởng và tổ chức của đông đảo nhân dân lao động. Nhìn chung, các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động ngày càng tin tưởng sự lãnh đạo chính trị đúng đắn của Đảng, gắn bó với cách mạng, bước đầu thấy được vị trí làm chủ của mình trong xã hội, dần dần hiểu được bản chất của chế độ mới, xóa dần mặc cảm, cùng nhau đoàn kết, yêu nước, lao động sản xuất, công tác, nhiệt tình tham gia hoạt động văn hoá, xã hội, tích cực thực hiện chủ trương, chính sách về đối nội và đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đến nay gần 1,5 triệu quần chúng đã tham gia các tổ chức cách mạng. Thành tựu quan trọng khác của công tác dân vận mặt trận là từ phong trào đã đào luyện được cho Đảng và Nhà nước một đội ngũ gồm hàng vạn cán bộ cốt cán, có phẩm chất và năng lực, gắn bó mật thiết với quần chúng.
Từ nền truyền thống yêu nước, anh dũng, tinh thần yêu chuộng độc lập tự do và từ kinh nghiệm thực tiễn cuộc sống các tầng lớp nhân dân lao động ít nhiều đều thấy sự tất yếu phải đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng, họ không khỏi có những băn khoăn lo lắng chính đáng, có nhiều ý nghĩ và hành động tiêu cực trước tình hình mức sống sa sút, nhiều chính sách, chủ trương, cách quản lý không phù hợp với thực tế, với đường lối của Đảng, tác phong công tác và thái độ cư xử không phù hợp với bản chất chế độ. Quyền làm chủ tập thể của quần chúng bị vi phạm ở nhiều nơi, tệ tham ô, móc ngoặc, hối lộ phát triển, một bộ phận cán bộ đảng viên thoái hoá, biến chất, trật tự an toàn xã hội có nơi, có lúc xấu đi nghiêm trọng, tệ nạn xã hội vẫn còn nhiều; lại thêm tác động tâm lý của bọn phản động và phần tử xấu chưa bị ngăn chặn. Tâm trạng vừa hoài nghi, chán nản, bất mãn vừa băn khoăn, bứt rứt khá phổ biến trong nhiều người.
Một bộ phận quần chúng chậm tiến, còn mang nặng thói hư tật xấu do chế độ cũ để lại như: ngán ngại lao động, thích hưởng thụ, không muốn làm nghĩa vụ với đất nước, muốn an nhàn mà thu nhập cao, chạy theo lối làm ăn bất chính (như đầu cơ nâng giá, buôn lậu, bán chợ trời…), muốn duy trì lối làm ăn cá thể, không chịu đi vào làm ăn tập thể. Một số ít người giác ngộ thấp, mơ hồ mất cảnh giác, phụ hoạ với những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của địch, dao động trước khó khăn, chưa thấy tiền đồ xán lạn của dân tộc, thậm chí bỏ trốn ra nước ngoài.
Cũng cần thấy rằng chỉ có năm năm mà tư tưởng và tình cảm nhân dân đã nhiều lần chịu tác động mãnh liệt: vừa thoát khỏi chiến tranh lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh mới, con em tiếp tục lên đường ra tiền tuyến bảo vệ Tổ quốc; sau chiến tranh nhân dân mong muốn có cơ hội xây dựng lại nhanh nền kinh tế, nhưng kinh tế nước nhà chậm phát triển, do mất cân đối gay gắt, do nhiều mặt cơ chế quản lý không còn phù hợp, do thiên tai, mất mùa liên tiếp; nhân dân vốn “lý tưởng hoá” cán bộ, đảng viên, nay lo lắng, xao xuyến trước hiện tượng thoái hóa cho nên giảm lòng tin đối với chế độ mới. Và cho đến nay lòng tin vào chủ nghĩa xã hội cùng những quy tắc xã hội chủ nghĩa mới hình thành ở mức thấp. Đó chính là một trong những biểu hiện buộc Đảng bộ, trong lúc kiểm tra sự chỉ đạo kinh tế, phải kiểm tra của sự chỉ đạo công tác dân vận mặt trận.
Chỉ riêng cuộc đấu tranh kiên quyết để bảo vệ nguyên vẹn xí nghiệp; và ngay sau đó, chỉ riêng ý chí dũng cảm chịu đói, bám máy, bám xưởng, cùng đội ngũ quản lý, đội ngũ kỹ thuật phát huy hàng vạn sáng kiến, duy trì, phát triển sản xuất cũng đủ để chứng minh công nhân thành phố là máu thịt của giai cấp công nhân Việt Nam, có cùng một bản chất cách mạng, gánh vác cùng một sứ mạng lịch sử, giữ cùng một vai trò lãnh đạo, đứng cùng ở vị trí trung tâm các sự kiện lịch sử của đất nước… Sự chỉ đạo công tác dân vận mặt trận không quán triệt nội dung cốt lõi đó, không tập trung sức phát huy phẩm chất chính trị và năng lực sáng tạo của đội ngũ công nhân. Sự chỉ đạo công tác dân vận mặt trận đã không đi sâu điều tra, phân tích một cách có hệ thống đội ngũ công nhân thành phố vừa được giải phóng từ chế độ thực dân mới kiểu Mỹ, để nêu cao và phát huy bản lĩnh làm chủ tập thể của giai cấp công nhân, người tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến và chế độ xã hội mới. Cho nên quá trình xây dựng chế độ làm chủ tập thể ở thành phố những năm qua, dù có nhiều thành tựu nổi bật, về thực chất chưa phải là quá trình đội ngũ công nhân tự cải tạo mình, gột rửa những biểu hiện trái với đạo đức, tác phong của giai cấp, trau dồi và phát huy bản chất cách mạng vốn có của mình, gột rửa những biểu hiện trái với đạo đức, tác phong của giai cấp, trau dồi và phát huy bản chất cách mạng vốn có của mình; cũng chưa phải là quá trình đội ngũ công nhân cải tạo bồi dưỡng các giai cấp, các tầng lớp lao động khác theo hình ảnh của mình. Sự chỉ đạo công tác dân vận và mặt trận chưa kiên trì tập trung sức nắm vững khâu trung tâm và then chốt là động viên, tổ chức đội ngũ công nhân thành phố dũng cảm đương đầu với những thử thách nghiêm trọng, vật lộn với những khó khăn chưa từng thấy của đất nước ở bước đầu thời kỳ quá độ để tự cải tạo, tự rèn luyện trở thành mẫu mực về ý thức và năng lực làm chủ tập thể, tự mình làm chủ tập thể trước nhất và tốt nhất, đồng thời hướng dẫn giúp đỡ các giai cấp, các tầng lớp lao động khác, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Mặc dù chúng ta rất vinh dự có hơn hai nghìn tổ công đoàn tiên tiến, những đội kiểm tra công nhân đầu tiên, nhưng nhìn chung, kể cả ở các xí nghiệp điển hình tiên tiến, phong trào lao động sản xuất để khôi phục, cải tạo, xây dựng, bảo vệ kinh tế còn mang nặng bệnh “đơn thuần chạy theo chỉ tiêu” hoàn thành kế hoạch trên giao, chứ chưa gắn chặt với nhiệt tình giai cấp và trách nhiệm chính trị của giám đốc, đội ngũ quản lý kinh tế trong việc xây dựng ý thức và năng lực làm chủ tập thể của công nhân, bồi dưỡng công nhân thành một tấm gương lao động làm nức lòng người, có tính hấp dẫn, lôi cuốn toàn thể nhân dân lao động thành phố sôi nổi, hăng hái tiến quân vào mặt trận sản xuất.
Sự chỉ đạo công tác dân vận mặt trận cũng không quán triệt quan điểm lấy liên minh công nông và lực lượng công nông trí làm nòng cốt của chế độ làm chủ tập thể. Công tác dân vận mặt trận nhất là nông vận đã không đi sâu điều tra, phân tích một cách có hệ thống giai cấp nông dân ngoại thành vốn yêu nước nồng nàn, đã một lòng một dạ đi với giai cấp công nhân suốt từ khi có Đảng, ngày nay đã có độc lập dân tộc và có ruộng. Nền truyền thống cách mạng kiên cường bất khuất của nông dân Củ Chi Đất Thép Thành Đồng, Mười Tám Thôn Vườn Trầu, Bưng Sáu Xã, Vườn Thơm, An Phú Đông, Rừng Sát chưa được phát huy và nâng lên thành lòng yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội, góp phần hình thành động lực đẩy mạnh sản xuất trên vành đai thực phẩm, nuôi sống công nhân và một phần nền công nghiệp thành phố. Công tác dân vận và mặt trận, trước hết là trí vận cũng không đi sâu điều tra, phân tích một cách có hệ thống đội ngũ đông đảo trí thức, những người đều cùng yêu nước, đều cùng muốn cống hiến và tạo nên thế mạnh đặc biệt của thành phố, nhưng chưa được liên tục hướng dẫn hoạt động theo một kế hoạch chung về phát triển và ứng dụng khoa học - kỹ thuật sát hợp với yêu cầu và khả năng của công nghiệp, nông nghiệp, quốc phòng và đời sống. Trong khi thực hiện chính sách đoàn kết đội ngũ trí thức, chúng ta bao giờ cũng xác định: đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa đáng tin cậy của Đảng. Việc trợ cấp tạm thời cho trí thức tại chỗ chỉ là biện pháp cần thiết trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt và không phải là sự phân biệt đối xử. Thiếu sót của chúng ta là chưa làm thông suốt chủ trương trong đội ngũ trí thức.
Sự chỉ đạo công tác dân vận, mặt trận hầu như mới chỉ tập trung sức chăm lo bộ phận tích cực mà chưa thấy hết trách nhiệm đối với bộ phận trung bình và nhất là bộ phận tiêu cực, lạc hậu còn khá đông trong quần chúng các giai cấp, tầng lớp. Đặc biệt nhấn mạnh sai lầm, thiếu sót của sự chỉ đạo công tác thanh vận đối với lớp thanh niên chậm tiến, đối với các thiếu niên hàng ngày đang còn phải lang thang kiếm sống.
Thành phố ta có nhiều dây liên hệ rộng lớn với Việt kiều mà số đông luôn luôn hướng về Tổ quốc, có nhiều khả năng cống hiến cho đất nước. Nhiều anh chị em đã có phần đóng góp đáng kể; nhưng, nhìn chung kiều bào chưa được tập hợp, hướng dẫn để góp phần nhiều hơn và thiết thực hơn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tóm lại, sự chỉ đạo chưa nắm chắc và chưa giải quyết được những vấn đề cơ bản, quyết định, phù hợp với nội dung có tính quy luật đi lên chủ nghĩa xã hội của mỗi giai cấp, mỗi giới, làm nền cho công tác vận động cách mạng quần chúng; cho nên, vừa chưa tạo được nòng cốt cho chế độ làm chủ tập thể, vừa chưa thực sự khơi lên tính chủ động, sáng tạo của đông đảo nhân dân lao động thành phố.
E. NĂNG LỰC CHỈ ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ
Những biến đổi cách mạng cũng như những vấn đề tồn tại trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội thành phố đều gắn chặt với công tác xây dựng Đảng bộ.
1. Bước trưởng thành quan trọng và mặt yếu cơ bản của Đảng bộ về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
a. Công tác chính trị, tư tưởng của Đảng bộ ngày càng bám sát nhiệm vụ chính trị và thực tiễn của thành phố hơn, tạo được sự nhất trí cao trong nội bộ Đảng và đông đảo quần chúng về đường lối chống chủ nghĩa bành trướng, xâm lược của Trung Quốc, và một số quan điểm cơ bản về kinh tế, văn hoá và chính sách đối ngoại của Đảng; nâng cao năng lực tổ chức thực hiện của cán bộ, đảng viên; làm cho cán bộ đảng viên ngày càng nắm chắc hơn chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trước thử thách và khó khăn chung và tình hình rất phức tạp của thành phố. Bộ máy tổ chức của Đảng bộ luôn luôn được chăm lo củng cố. Sơ bộ phân loại cơ sở ở 205/259 phường và ở 86 xã: loại trong sạch, vững mạnh chiếm 5,5%; loại khá 35,05%; loại yếu 41,93%; loại kém 17,52%. Trong đợt phát thẻ Đảng 3/2 và bước một đợt 19/5 có 475 cơ sở đạt tiêu chuẩn trong số 590 được xét duyệt, đạt 83,22%. So với đại hội lần thứ nhất, số cơ sở mạnh và khá có tăng, song cũng mới chiếm hơn 40%. Tổ chức cơ sở của Đảng bộ được mở rộng nhanh chóng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Các cấp uỷ Đảng từng bước được tăng cường, củng cố nhất là quận, huyện, phường, xã. Trước những khó khăn gay gắt, chồng chất về mọi mặt, nhiều chi bộ phường, xã đã tin và dựa vào quần chúng, sáng tạo nhiều biện pháp phong phú về tổ chức sản xuất, kinh doanh, quản lý lao động, quản lý hành chánh, kinh tế, chăm lo đời sống nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự, làm nghĩa vụ quân sự, cải tạo nạn nhân các tệ nạn xã hội, hoạt động văn hoá thông tin… xây dựng được hàng loạt điển hình tiên tiến toàn diện, nhiều mặt hoặc từng mặt, một số điển hình có mức ăn sâu bám chắc trong quần chúng và đang được nhân ra. Lực lượng cán bộ, đảng viên được tăng cường từ nhiều nguồn và trong mức độ nhất định đáp ứng yêu cầu kịp thời nhiệm vụ trong thời gian qua. Nhìn chung đại đa số cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý đã được rèn luyện, thử thách qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và trong đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội, vững vàng về chính trị, có nhiệt tình cách mạng cao, có ý chí tiến thủ, có phẩm chất tốt. Nhiều đồng chí có cố gắng học tập, bám sát công việc, thâm nhập phong trào, tích luỹ được kinh nghiệm, có tinh thần cách mạng tiến công, ý thức chủ động, tự lực, tự cường, đấu tranh vượt qua nhiều thử thách mới, ngăn chặn những biểu hiện sai trái trong nội bộ Đảng và ngoài xã hội. Đặc biệt số cán bộ tại chỗ, cán bộ trực tiếp ở nhiều phường, xí nghiệp và một số xã có những tiến bộ nhanh và vững. Lực lượng trí thức, viên chức của chế độ cũ, đã có những đóng góp đáng kể vào công cuộc cải tạo và xây dựng thành phố, nhất là trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật. Công tác quản lý cán bộ đang đi vào nề nếp. Việc phân cấp quản lý, quy hoạch đội ngũ cán bộ đang được tiến hành. Việc xử lý, thay thế cán bộ mất phẩm chất, kém năng lực, đồng thời đề bạt tăng cường số có phẩm chất tốt và năng lực cho quận, huyện, phường, xã được tiến hành thường xuyên và có tập trung từng đợt. Trong 5 năm, đã kết nạp được 5.293 đảng viên mới; số đồng chí này đã tỏ ra gắn bó với quần chúng, thể hiện được vai trò nòng cốt, động viên phong trào, tăng thêm sức chiến đấu mới cho Đảng bộ. Từ 1977 đến nay đưa ra khỏi Đảng bằng các hình thức 1.080. Gần đây có chú ý phát triển Đảng trong lực lượng trực tiếp sản xuất và trẻ; hiện nay hơn một ngàn đối tượng trong số này đang được bồi dưỡng. Qua phân tích 34.412/37.776 đảng viên, thành phần công nhân chiếm 14,06%, bộ đội chuyển ngành 30,25%, lực lượng trẻ (18-30 tuổi) 19,94%, trình độ đại học trở lên 14,45%.
Sau hơn 5 năm cầm quyền, Đảng bộ liên tục giữ được nhiệt tình cách mạng, thủy chung gắn bó với quần chúng; mau chóng hình thành được hệ thống tổ chức chuyên chính vô sản theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị, có bước trưởng thành nhất định, tích luỹ được một số vốn kinh nghiệm trên tất cả các mặt hoạt động, được biểu hiện tập trung ở hàng loạt đối sách chính trị phù hợp trước tình hình phức tạp, ở nhiều nghị quyết công tác đúng đắn và ở nhiều điển hình tiên tiến. Chính sự trưởng thành và vốn kinh nghiệm đó đã là nhân tố quyết định, nhân tố sáng tạo bảo đảm cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ và nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
b. Đảng bộ thành phố cấu tạo từ nhiều nguồn, nhiều đồng chí được thử thách lâu dài trong hai cuộc kháng chiến, trưởng thành qua phong trào quần chúng, hiểu quần chúng, nhiều đồng chí qua đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã có kinh nghiệm quý. Hai nguồn cán bộ bổ sung cho nhau. Nhưng đối với chúng ta, tất cả đều mới mẻ, khi chuyển sang làm nhiệm vụ cải tạo, xây dựng và bảo vệ một thành phố lớn của cả nước trước đây vốn là sào huyệt đầu não của chế độ thực dân mới của Mỹ. Đảng bộ đã bộc lộ những mặt yếu cơ bản. Về năng lực chỉ đạo, đó là việc nắm đường lối, nắm quy luật, nắm thực tiển phân tích thực tiễn chưa bảo đảm rèn luyện được một tầm nhìn xa và sâu về những vấn đề kinh tế, kỹ thuật và văn hoá tương xứng với vị trí và trách nhiệm của một trung tâm công nghiệp, một trung tâm văn hoá và khoa học kỹ thuật, một trung tâm giao dịch quốc tế; chưa bảo đảm tạo ra chỗ dựa vững chắc của chế độ làm chủ tập thể trong giai cấp công nhân, khối liên minh công nông và lực lượng công nông trí; chưa bảo đảm tạo ra sức mạnh quản lý kinh tế có hiệu quả, quản lý xã hội có hiệu lực, chiến đấu có hiệu suất. Về ý thức, đó là tư tưởng, tâm lý, tác phong sản xuất nhỏ phổ biến và nặng nề; gần đây, có sự giảm sút về ý chí chiến đấu, tinh thần trách nhiệm và tổ chức kỷ luật, sự phát triển tư tưởng bi quan, dao động, bàng quan vô trách nhiệm, hữu khuynh buông lỏng đấu tranh, tê liệt cảm giác, bảo thủ… Tệ thái hóa biến chất mà phổ biến là ăn cắp, hối lộ, ức hiếp quần chúng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là số có chức có quyền vẫn còn nghiêm trọng, kéo dài. Về tổ chức, bộ máy tổ chức của chúng ta không phù hợp với một trung tâm công nghiệp và một trung tâm giao dịch quốc tế đòi hỏi năng động tính phản ứng khẩn trương và kịp thời trước mọi biến chuyển mới; cho nên càng làm tăng thêm mức độ nghiêm trọng của khuyết điểm chung kéo dài và quản lý kém hiệu lực. Nghiêm trọng nhất là bộ máy tổ chức đó chẳng những không đào tạo ra thêm nhiều người lãnh đạo giỏi, người quản lý giỏi, người kỹ thuật giỏi; trái lại, đã và đang làm mai một, thậm chí có nơi, có lúc còn vùi dập, làm hư hỏng nhân tài xuất hiện và trưởng thành đông đảo từ cơ sở, nhất là ở xí nghiệp và ở phường.
Việc bố trí, sử dụng cán bộ, đảng viên chưa hợp lý, chưa gắn chặt với nhiệm vụ chính trị, thiếu đồng bộ, nặng tình cảm “chiếu cố chính sách” chưa mạnh dạn đề bạt lực lượng trẻ có năng lực, phát triển từ trong các phong trào cách mạng của quần chúng, chưa khai thác hết khả năng của từng loại cán bộ trong từng nguồn. Việc đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ chưa được quan tâm thường xuyên, nhất là đào tạo đội ngũ lãnh đạo và đội ngũ quản lý, cán bộ nghiệp vụ (kế hoạch, kế toán, thống kê, lao động, tiền lương…) ở các cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa kinh qua công tác quản lý, chưa được đào tạo. Việc chọn cán bộ kế tiếp chưa làm được bao nhiêu. Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa thực hiện có nền nếp. Đời sống vật chất của cán bộ chưa được chăm sóc, rất ít chi bộ đưa vấn đề đó vào chương trình hội nghị hàng tháng. Công tác phát triển đảng viên mới còn quá chậm. Ở một thành phố công nghiệp lớn của cả nước mà thành phần công nhân trong đảng bộ mới chỉ có 14,06%. Các cấp ủy ở xí nghiệp hầu như buông lơi công tác phát triển Đảng. Nhận thức về sự lãnh đạo, về nội dung, phương pháp, phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền còn rất mơ hồ; khuynh hướng dùng mệnh lệnh hành chánh giải quyết công việc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng còn phổ biến và nặng nề. Những sai lầm đó cộng với bệnh hẹp hòi, tệ kiêu căng, đánh giá thấp quần chúng, sự giảm sút ý chí chiến đấu và cơ cấu tổ chức hiện tại đang gây trở ngại cho việc phát triển Đảng trong bộ phận ưu tú của công nhân, lực lượng trẻ, phụ nữ xuất hiện qua các phong trào.
Về cơ cấu, nhược điểm nổi bật của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là số cán bộ, đảng viên trưởng thành từ phong trào quần chúng ở cơ sở tại chỗ cũng như cán bộ đảng viên trực tiếp sản xuất, kinh doanh còn quá ít. Số cán bộ phải được thay thế trong vài năm tới chiếm tỷ lệ khá cao (hiện nay có 25% đến tuổi hưu hoặc sắp hưu, trên 9% đau yếu phải nghỉ thường xuyên, 26% sức khỏe loại C; đó là chưa kể số bị đào thải và hư hỏng). Bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, xa thực tế, công chức hoá có chiều hướng lây lan trong nhiều cán bộ, đảng viên và cốt cán.
Những vấn đề tồn tại cần đặc biệt chú ý là: chưa tập trung suy nghĩ, bàn sâu về kế hoạch, về biện pháp cụ thể để thực hiện thật đầy đủ các nghị quyết của Trung ương và Thành ủy; chấp hành thật đầy đủ các nghị quyết của Trung ương và Thành ủy; chấp hành pháp luật Nhà nước ở mỗi cơ sở; chưa tạo được quan điểm đúng đắn thông suốt từ trên xuống dưới về công tác phát triển Đảng trong giai cấp công nhân, về nhận thức cụ thể quyền làm chủ tập thể của người dân; chưa chống và ngăn chặn được các biểu hiện tiêu cực về tư tưởng và hành động trong cán bộ, đảng viên.
2. Những vấn đề tồn tại, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân chủ yếu sau:
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nhiều lúc và trên nhiều vấn đề có nét nhạy bén, kịp thời; nhưng, nhìn chung chưa theo kịp sự chuyển biến của cách mạng sang giai đoạn mới. Chưa tiến hành giáo dục cơ bản về chủ nghĩa xã hội một cách có hệ thống và sát hợp với từng loại đối tượng.
Nội dung sinh hoạt nội bộ kém chất lượng, đấu tranh tự phê bình, phê bình chống các tư tưởng phi vô sản chưa mạnh, chưa thường xuyên.
Trước sự cám dỗ về tiền tài, vật chất, lối sống gấp của chế độ cũ để lại, một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng rèn luyện bản thân, không chịu sự giám sát, quản lý của tổ chức Đảng và quần chúng, ý chí chiến đấu sa sút, thậm chí thoái hoá biến chất.
Hệ thống tổ chức quản lý cán bộ, đảng viên còn yếu, nhiều khi nặng về làm việc bàn giấy, chỉ đọc lý lịch, chỉ nghe phản ánh gián tiếp, không lắng nghe và phân tích kỹ cả ba nguồn ý kiến: đảng viên và quần chúng ở cơ sở, cán bộ cùng cấp và người phụ trách cấp trên; do đó, không đánh giá được thật chính xác năng lực và phẩm chất cán bộ, đảng viên, có khi có định kiến trong nhận xét cán bộ, đảng viên, nhất là đối với những đồng chí phê bình thẳng thắn các khuyết điểm của lãnh đạo. Ban tổ chức và đội ngũ làm công tác cán bộ ở các cấp còn nhiều nơi có quan điểm và cách làm việc chưa thật đúng, còn quan liêu giấy tờ, cửa quyền, chưa giữ đúng vị trí ban chuyên môn của cấp ủy Đảng, chưa gây được lòng tin yêu, cởi mở của cán bộ đảng viên đối với cơ quan và cán bộ tổ chức các cấp.
Các ban chức năng xây dựng Đảng chưa có sự phối hợp chặt chẽ, chưa có biện pháp thích hợp và hiệu lực để quản lý tốt cán bộ, đảng viên, chưa giúp cấp ủy nắm chắc đội ngũ cán bộ, trước hết là số chủ chốt ở mỗi cấp, mỗi ngành; nhiều trường hợp đánh giá và bố trí không đúng người, đúng việc, gây lãng phí trong sử dụng cán bộ. Xử lý kỷ luật chưa nghiêm minh thiếu kiên quyết, thiếu kịp thời, tác dụng giáo dục cán bộ đảng viên, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực còn hạn chế. Các cấp ủy và ban Đảng cấp trên thiếu quan tâm giúp đỡ, đôn đốc, kiểm tra cơ sở một cách thiết thực. Ngoài công tác phát thẻ Đảng, việc phát động quần chúng tham gia xây dựng Đảng, thường xuyên kiểm tra tư cách đảng viên, chưa được chú ý.
3. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện:
a. Về cơ bản, Thành ủy nắm vững tinh thần nội dung và các quan điểm chỉ đạo đường lối, chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, và ngày càng hiểu rõ tình hình thành phố, nên đã có nhiều chủ trương đúng đắn, sát hợp và kịp thời.
Thành ủy ngày càng nhận rõ những mối quan hệ giữa thành phố với cả nước và vùng kinh tế và kiến nghị với Trung ương có những chủ trương thích hợp nhằm giữ vững và phát triển năng lực sản xuất công nghiệp địa phương và công nghiệp trung ương trên địa bàn thành phố.
Nét nổi bật là sự nhạy bén, vững vàng trước các vấn đề chính trị phức tạp ở thành phố; là lòng tin vào tính chủ động sáng tạo của công nhân, lao động và tinh thần cách mạng tiến công, đoàn kết nhất trí trong cấp ủy; là ý thức trách nhiệm và kỷ luật trong việc nghiên cứu, vận dụng quan điểm đường lối, chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ vào tình hình thành phố, mạnh dạn vận dụng các chế độ, chính sách đòn bẩy kinh tế nhằm kích thích sản xuất trong điều kiện rất khó khăn về vật tư, nguyên liệu, góp phần ngăn chặn đà sa sút mức sống vật chất của công nhân, viên chức, người lao động thu nhập quá thấp; đã phát động nhiều phong trào sản xuất ổn định đời sống, tăng cường an ninh quốc phòng, kiện toàn và củng cố cơ sở, bước đầu chú ý bồi dưỡng và nhân điển hình tiên tiến, đã kịp thời chuyển hướng một số mặt công tác khi gặp những khó khăn như chuyển hướng xây dựng vùng kinh tế mới từ miền đông xuống đồng bằng, từ đi xây dựng ở các tỉnh về xây dựng chung quanh ngoại thành; đã đẩy mạnh hợp tác với các tỉnh, đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ…
Đối với những công tác trọng tâm lớn, đột xuất, sự chi đạo có tập trung, huy động lực lượng cán bộ, đảng viên và phương tiện phục vụ, mang lại kết quả tốt.
b. Tuy nhiên sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện còn bộc lộ nhiều khuyết điểm, nhược điểm, có mặt cơ bản nghiêm trọng kéo dài:
Sự chỉ đạo chưa theo những quy hoạch, kế hoạch có căn cứ điều tra, phân tích khoa học, trên cơ sở vận dụng đường lối chủ trương chính sách phù hợp với thực tiễn thành phố. Thành ủy chưa quan tâm đầy đủ việc chỉ đạo công tác kế hoạch, chưa thường xuyên nhắc nhở kiểm tra hiệu quả kinh tế, xây dựng cơ cấu công nghiệp, tổ chức giai cấp công nhân.
Nhiều nghị quyết, chủ trương, chính sách lớn của Trung ương Đảng và Chính phủ chưa quán triệt từ thành đến cơ sở, chưa giành thời gian thích đáng để bàn sâu, làm rõ kế hoạch, biện pháp thực hiện.
Phương pháp và phương thức chỉ đạo mang nặng ảnh hưởng lề lối sản xuất nhỏ: thiếu tầm nhìn xa, nhìn sâu; quản lý phân tán, chia cắt; thiếu chương trình kế hoạch; tuy từng lúc có tập trung chỉ đạo vào một số mặt, nhưng thiếu phân công đeo bám, cho nên có những vấn đề lớn bị buông trôi. Bộ máy cồng kềnh, nặng nề, kém hiệu lực, không theo kịp yêu cầu nhiệm vụ. Chức trách từng tổ chức, từng bộ phận, từng người chưa được quy định rõ ràng. Mối quan hệ ngang dọc chưa thông suốt, nhất là chưa bám và chỉ đạo tại cơ sở. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện và quản lý chưa rõ, còn có hiện tượng chồng chéo, bao biện làm thay, vừa hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa không phát huy hết hiệu lực của chính quyền và vai trò của các đoàn thể quần chúng.
Trong chỉ đạo, Thành ủy chưa phát huy các ban chuyên môn làm tham mưu, làm việc sự vụ, bao biện, làm thay, không sử dụng tổ chức. Cách làm việc đó dẫn đến trách nhiệm của tập thể Thành ủy chưa được nâng cao.
Chưa chỉ đạo tốt việc hợp tác xã hội chủ nghĩa, hợp đồng thống nhất giữa các ngành, các cấp vào những mặt trận và công tác mũi nhọn, những địa bàn chiến lược. Tính phân tán, tản mạn, tư tưởng cục bộ, địa phương còn khá nặng. Chỉ đạo thực hiện thiếu cụ thể và dứt điểm, nhiều việc chưa được tổng kết rút kinh nghiệm. Công việc nhiều dồn dập, nhưng sự chỉ đạo kết hợp giữa công tác đột xuất và thường xuyên chưa chặt, chỉ đạo điểm chưa thường xuyên.
Giấy tờ, thủ tục còn quá nhiều thứ không cần thiết, gây thêm phiền hà. Hội họp nhiều, chuẩn bị hội nghị chưa tốt, thiếu kiểm tra đôn đốc.
*
Thưa các đồng chí,
Sau những năm đầu thời kỳ quá độ - những năm đảo lộn về kinh tế và đầy thử thách quyết liệt – trên địa bàn chiến lược trọng điểm này của hậu phương lớn cả nước, chuyên chính vô sản đã được thiết lập và củng cố, kinh tế xã hội chủ nghĩa đã chiếm những vị trí then chốt quyết định; giữ vững an ninh chính trị, làm tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc và nghĩa vụ quốc tế; tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa và thực hiện chức năng tổ chức, quản lý nền sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế… Con người mới xã hội chủ nghĩa đang hình thành và phát triển đậm nét nhất trong hàng loạt điển hình tiên tiến, khẳng định bước đầu chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa.
Những thắng lợi trên đây gắn liền với sự trưởng thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và Đảng bộ thành phố; với sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và Chính phủ.
Nhân dân thành phố mà tuyệt đại bộ phận là công nhân, nông dân lao động, thanh niên vốn có truyền thống cách mạng, trước đây đã phải sống đắng cay, đọa đày nhiều năm dưới chế độ thực dân, có nhiều hoài bão về một xã hội công bằng, tôn trọng lẽ phải, cho nên đã tiếp thu nhanh chóng chủ trương, chính sách của Đảng, tin và theo Đảng, chủ động và sáng tạo dấy lên nhiều phong trào hành động cách mạng rộng rãi, sôi nổi, một số mặt có chiều sâu.
Đảng bộ đã sớm đặt lên hàng đầu chủ trương lấp hố ngăn cách, xóa bỏ mặc cảm, thực hiện và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, đồng thời nắm vững và vận dụng linh hoạt chủ trương, chính sách của Trung ương vào địa phương.
Việc tổ chức chỉ đạo thực hiện biết tập trung vào những khâu quan trọng: cải tạo thương nghiệp tư doanh, phân bố lao động, bảo đảm nguồn nguyên liệu, vật liệu cho sản xuất công nghiệp, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, lo hai bữa ăn, tìm những biện pháp để ngănn chặn đà giảm sút thu nhập thực tế của công nhân, viên chức, kiện toàn các cấp ủy Đảng, phát hiện và nhân điển hình tiên tiến, phát triển Đảng trong công nhân.
Đảng bộ thực sự tin, dựa vào quần chúng cách mạng, sống có tình có nghĩa với dân, thông cảm với khó khăn đau khổ của dân, nhất là biết giáo dục, động viên, tổ chức lớp trẻ thành lực lượng xung kích cổ vũ phong trào cách mạng quần chúng.
Trước mắt, để tiếp tục tiến lên, Đảng bộ, giai cấp công nhân và nhân dân lao động thành phố phải giải quyết những tồn tại sau đây:
Một là, đời sống vật chất, trước hết là hai bữa ăn của công nhân, viên chức trong khu vực Nhà nước, cán bộ hưởng định xuất ở phường, xã và những người lao động nghèo ở nội và ngoại thành từ khoảng hai năm nay không đủ bù đắp hao phí lao động và đang liên tục sa sút nghiêm trọng.
Hai là, sản xuất chậm phát triển, nền kinh tế có những nhược điểm không lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là cho công thương nghiệp quốc doanh và cho nền tài chánh, tiền tệ Nhà nước.
Ba là, do kinh tế mất cân đối nghiêm trọng và cơ chế quản lý chưa cải tiến; cộng với tác động của nhiều yếu tố tiêu cực khác, trật tự an toàn xã hội nhiều nơi, nhiều lúc không được bảo đảm; an ninh chính trị tuy về cơ bản đã củng cố, nhưng chưa thật vững chắc.
Nhìn chung, do chưa nhận thức đúng và tổ chức tốt cơ chế làm chủ tập thể, bao gồm năng lực chỉ đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, năng lực tổ chức quản lý của chính quyền, nội dung và phương thức hoạt động của các đoàn thể còn dưới tầm yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo và quản lý một thành phố công nghiệp lớn ở bước đầu thời kỳ quá độ.
II
PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN NHỮNG NĂM TRƯỚC MẮT
Thưa các đồng chí đại biểu,
Bước vào đầu những năm 1980, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở thành phố Hồ Chí Minh có nhiều thuận lợi. Nghị quyết 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và nghị quyết 26 của Bộ Chính trị được tổ chức thực hiện sẽ tạo ra sức mạnh về tổ chức và quản lý phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, mở đường cho việc khôi phục năng lực sản xuất của một số ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố, nhất là công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biến thực phẩm. Sự hợp tác kinh tế với các tỉnh trước hết với một số tỉnh giáp ranh thành phố ngày càng phát triển. Khối đoàn kết hợp tác Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia ngày càng phát triển và củng cố. Sự hợp tác và giúp đỡ của các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đặc biệt là của Liên Xô bắt đầu đi vào kế hoạch, trong đó thành phố có trách nhiệm và lợi ích ở khu dầu khí và ở vùng cây công nghiệp tập trung (miền đông Nam bộ). Qua năm năm phấn đấu, qua việc phát thẻ đảng viên, Đảng bộ đã có bước trưởng thành nhất định, tích lũy được nhiều kinh nghiệm phong phú và quý báu. Bộ máy tổ chức từng bước chấn chỉnh và kiện toàn theo yêu cầu chuyển hướng chính sách kinh tế và cải tiến quản lý kinh tế. Vị trí, vai trò, trách nhiệm và khả năng của thành phố dần dần được nhất trí và nhất quán xác định.
Tuy nhiên, để thống nhất quan điểm về hướng suy nghĩ mới và cách làm ăn mới; để ngăn chặn đà sa sút mức sống của công nhân, viên chức và người lao động nghèo túng; để khôi phục lại trật tự kinh tế, củng cố và phát triển trận địa kinh tế xã hội chủ nghĩa, tận dụng mọi năng lực của các thành phần kinh tế khác; để bảo đảm trật tự an toàn xã hội, củng cố an ninh quốc phòng trong tình trạng hiện nay đảng bộ còn phải tiến hành cuộc đấu tranh liên tục, gay go, phức tạp và cần có thời gian. Phải thấy trước và đánh giá đúng những khó khăn to lớn trong quá trình hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tổ chức lại sản xuất, phân bổ lại lao động theo yêu cầu thực hiện một bước công nghiệp hoá và kế hoạch hoá ba cấp cùng việc cải tiến phương thức quản lý, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, cụ thể hoá và thể chế hoá chế độ làm chủ tập thể ở mỗi cấp, mỗi tổ chức, mỗi người lao động; rèn luyện phương pháp tổ chức đại công nghiệp, xóa bỏ tư tưởng, tâm lý thói quen sản xuất nhỏ. Đồng thời, từ thực tiễn cuộc chiến đấu những năm qua và sự phát triển tình hình chung, phải đánh giá đúng âm mưu, hoạt động của bọn phản động Trung Quốc, đế quốc Mỹ và các loại đế quốc phản động khác. Chúng phối hợp các mặt hoạt động để chống phá chúng ta: vừa chia rẽ, kích động về chính trị, vừa phá hoại kinh tế, phá rối thị trường đi đôi với chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp.
Trong tình hình vừa có hòa bình vừa có thể xảy ra chiến tranh, ở một địa bàn chiến lược xung yếu trên hậu phương lớn cả nước mà lơ là cảnh giác đối với các loại kẻ thù sẽ là một trọng tội đối với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, tình hình thành phố chưa thật ổn định. Thường xuyên chăm lo củng cố an ninh quốc phòng, bảo vệ thành phố, bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế, kiên định cuộc đấu tranh “ai thắng ai” trên tất cả các lĩnh vực vẫn là một nhiệm vụ hàng đầu của Đảng bộ, cả trước mắt và lâu dài. Tuy nhiên về phía địch, để làm xói mòn lòng tin của quần chúng đối với chế độ, kẻ thù đang phối hợp hoạt động chống phá ta trên các mặt, kể cả kinh tế, thị trường. Về phía ta, tâm trạng bất mãn trong một bộ phận nhân dân chính cũng bắt nguồn từ sai lầm thiếu sót kéo dài của Đảng và Nhà nước về quản lý kinh tế. Cho nên, để tiến lên tạo thế vững, lực mạnh trên tất cả các lĩnh vực, trong những năm trước mắt, Đảng bộ phải tập trung sức nắm vững khâu mấu chốt là đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống. Phải thực sự đạt được sự nhất trí cao với Nghị quyết Trung ương Đảng, tập trung cao độ vào việc khôi phục công nghiệp quốc doanh trên địa bàn thành phố, giữ cho được đội ngũ công nhân, đội ngũ quản lý và đội ngũ kỹ thuật; khuyến khích và tạo điều kiện cho tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp bung ra đúng hướng; gấp rút hình thành vành đai thực phẩm; mở rộng quan hệ với các tỉnh xung quanh, góp phần hình thành bước đầu một số vùng chuyên canh nông nghiệp; mở rộng hoạt động ngoại thương và sử dụng kiều hối; tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa gắn liền với tổ chức lại sản xuất và thực hiện tốt phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, tạo nên động lực làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của người lao động, của cơ sở, ngành, địa phương trong sản xuất, kinh doanh; nắm lại vật tư, hàng và tiền, điều tiết thu nhập các tầng lớp dân cư một cách hợp lý, ổn định đời sống công nhân, viên chức và người lao động nghèo túng, góp phần ổn định trật tự kinh tế có lợi cho chủ nghĩa xã hội; giữ vững an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội, làm tốt nghĩa vụ quốc phòng, nghĩa vụ quốc tế.
Theo phương hướng cơ bản đó, Đảng bộ cần dồn sức chỉ đạo thực hiện đồng bộ, nghiêm túc nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp quản lý theo địa phương và địa bàn thành phố, tổ chức những mối quan hệ tất yếu giữa công nghiệp quốc doanh thành phố với nông nghiệp ngoại thành, với nông nghiệp và công nghiệp địa phương nhiều tỉnh chung quanh, chủ yếu bằng thực hiện kế hoạch hoá ba cấp kết hợp vận dụng đúng đắn những “bòn đẩy” kinh tế. Mục tiêu cơ bản là góp phần hình thành dần một cơ cấu công – nông nghiệp, trước hết trong vùng B2 cũ. Mục tiêu cấp bách là khôi phục hết năng lực sản xuất của các xí nghiệp, giữ và thu hút đội ngũ công nhân, đội ngũ quản lý và đội ngũ cán bộ kỹ thuật. Vấn đề nóng bỏng phải giải quyết là tiến hành cuộc đấu tranh trên thị trường nhằm nắm nguồn hàng ngày càng nhiều, nắm tiền mặt ngày càng nhiều, mở rộng kinh doanh của thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán của ngân hàng, thu hẹp từng bước hoạt động của tư thương: kiên quyết bài trừ buôn lậu, nhất là buôn lậu từ nước ngoài vào, tiến lên làm chủ thị trường và ổn định giá cả, ổn định đời sống.
Trong phương hướng cơ bản những năm trước mắt của thành phố, vấn đề quan trọng nhất là tạo điều kiện tối thiểu khôi phục và phát triển sản xuất làm cơ sở ổn định đời sống của công nhân, viên chức, người lao động nghèo túng. Đó là yêu cầu cấp bách, là nội dung cơ bản của việc xây dựng quyền làm chủ tập thể, đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, bồi dưỡng lực lượng nhằm đạt cả hai mục tiêu nêu trên và quản lý thị trường. Muốn vậy phải tận dụng hai thế mạnh của thành phố là lao động có tay nghề và máy móc, thiết bị cùng đất đai hiện có.
Thưa các đồng chí,
Khó khăn còn nhiều, trở lực không ít. Nhưng, thực tiễn sinh động của những xí nghiệp và hợp tác xã, phường, xã điển hình tiên tiến chứng minh rằng dưới ánh sáng các nghị quyết gần đây của Trung ương Đảng, không có gì ngăn cản nổi bước chuyển mạnh về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống theo đường hướng của Đảng, phù hợp với chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa.