Quang cảnh buổi hội thảo.(Thanhuytphcm.vn) - Tại Hội thảo góp ý cho dự án Luật Công nghiệp công nghệ số do Đoàn Đại biểu Quốc hội TPHCM tổ chức sáng 13/3, các đại biểu đã đóng góp nhiều ý kiến nhằm xác định rõ lĩnh vực công nghiệp công nghệ số và công tác đào tạo nhân lực cho lĩnh vực này. Đến dự hội thảo có đồng chí Nguyễn Thị Lệ, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND TPHCM. Chủ trì hội thảo có các đồng chí Thành ủy viên, Phó trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội TPHCM: Hà Phước Thắng, Nguyễn Trần Phượng Trân.
Tránh chồng chéo với các luật hiện hành
Tại hội thảo, nhiều đại biểu cho rằng cần xác định rõ lĩnh vực thuộc công nghiệp công nghệ số và quy định cụ thể các đối tượng được hưởng ưu đãi theo quy định của Luật.
TS. Nguyễn Vinh Huy, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM cho rằng, cần xác định rõ những lĩnh vực thuộc công nghiệp công nghệ số. Luật cũng cần làm rõ sự khác biệt giữa công nghệ số và công nghệ thông tin, tránh chồng chéo với các luật hiện hành.
Theo TS. Nguyễn Vinh Huy, hiện nay, khái niệm "công nghiệp công nghệ số" vẫn còn rộng và có sự chồng lấn với các lĩnh vực khác như: công nghệ thông tin, viễn thông và an ninh mạng. Do đó, luật cần đưa ra định nghĩa cụ thể, bao quát các lĩnh vực như: trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), chuỗi khối (Blockchain), điện toán đám mây và Internet vạn vật (IoT). Điều này sẽ giúp xác định rõ phạm vi áp dụng của luật, tránh chồng chéo với các văn bản pháp luật hiện hành.
Cùng với nội dung này, Phó Trưởng Ban Thanh tra - Pháp chế, Đại học Quốc gia TPHCM Thái Thị Tuyết Dung cho biết, một khái niệm quan trọng khác như “sản phẩm, dịch vụ công nghệ số trọng điểm” (Điều 15) chỉ được định nghĩa chung chung như “giá trị gia tăng cao”, “nhu cầu lớn”. Điều này có thể dẫn đến cách hiểu và áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan quản lý, đặc biệt khi Bộ Khoa học và Công nghệ được giao ban hành danh mục theo từng thời kỳ mà không có tiêu chuẩn cụ thể.
Đại biểu Thái Thị Tuyết Dung đề xuất nên bổ sung phụ lục hoặc giao Chính phủ ban hành danh mục chi tiết khái niệm này, có thể kèm theo các tiêu chí như: tỷ trọng đóng góp vào GDP hoặc giá trị gia tăng cao đối với nền kinh tế; có ảnh hưởng lớn đến quá trình chuyển đổi số, đổi mới công nghệ và phát triển kinh tế - xã hội; nhu cầu cao trong thị trường nội địa hoặc có tiềm năng xuất khẩu lớn; ứng dụng công nghệ số chiến lược có tác động quan trọng đến các ngành, lĩnh vực ưu tiên…
Hỗ trợ đào tạo, hợp tác giữa doanh nghiệp và cơ sở giáo dục
Về chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, đại biểu Thái Thị Tuyết Dung cho biết, tại điểm g và điểm h khoản 2 Điều 23 Dự thảo quy định: “Tổ chức các chương trình đào tạo, cung cấp học bổng ngắn hạn, dài hạn trong và ngoài nước cho sinh viên giỏi, giảng viên; có chính sách tín dụng, hỗ trợ một phần học phí, trang trải chi phí học tập, sinh hoạt đối với sinh viên, giảng viên, chuyên gia Việt Nam đi học tập, nghiên cứu, trao đổi học thuật về công nghệ số ở trong nước và nước ngoài”. Tuy nhiên, đại biểu Thái Thị Tuyết Dung cho rằng, việc quy định các chính sách áp dụng là “sinh viên” chưa bao quát; đồng thời đề xuất thay thế bằng cụm từ “người học” bao gồm học sinh, học viên ở các cấp bậc đào tạo khác nhau.
Một số ý kiến đề xuất, việc đào tạo nhân lực công nghiệp số không chỉ tập trung cho bậc đại học mà phải có quy định đưa vào từ bậc phổ thông với các hình thức phù hợp.
Cùng với nội dung này, TS. Nguyễn Vinh Huy cho rằng, muốn phát triển công nghệ số, cần có đội ngũ nhân lực chất lượng cao; đồng thời đề nghị luật bổ sung các chính sách hỗ trợ đào tạo, hợp tác giữa doanh nghiệp và cơ sở giáo dục để cung cấp nguồn nhân lực có tay nghề cao, đáp ứng yêu cầu của ngành.
Nhấn mạnh Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển công nghệ số, nhưng thực tế vẫn còn nhiều rào cản, TS. Nguyễn Vinh Huy đề xuất bổ sung các cơ chế ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực này. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích nghiên cứu, phát triển (R&D) và chuyển giao công nghệ, giúp doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu.
Theo Phó Trưởng Phòng Quản lý công nghiệp, Sở Công thương TPHCM Nguyễn Minh Trí, Luật quy định đối tượng được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân tại các viện, trung tâm có hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ số sử dụng ngân sách Nhà nước (khoản 3, Điều 18). Luật cũng quy định đối tượng được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân nhưng giới hạn hoạt động công nghệ số trong khu công nghệ số tập trung hoặc hoạt động liên quan đến công nghệ số trọng điểm, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (điểm a và b, Khoản 5, Điều 25). Do đó, cần thống nhất về đối tượng được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân.
Đồng chí Hà Phước Thắng phát biểu tại hội thảo.Đại biểu Lê Thị Thi, Ngân hàng Nhà nước - chi nhánh Khu vực 2 đề xuất, cần làm rõ hơn về việc áp dụng Luật đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ số, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs), để khuyến khích sự phát triển của hệ sinh thái khởi nghiệp.
Cũng theo đại biểu Lê Thị Thi, theo khái niệm về khu công nghệ số tập trung, Trung tâm tài chính quốc tế có thể là khu công nghệ số tập trung mang tầm vóc quốc tế thực hiện nhiều chức năng quan trọng về tài chính trong và ngoài nước. Do đó, cần cân nhắc kết hợp lồng ghép về khái niệm cũng như thống nhất/hình thành chính sách cần thiết để Trung tâm tài chính quốc tế có thể áp dụng một phần hay toàn phần.
Bên cạnh các chính sách đặc thù, ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước nêu tại Dự thảo, đại biểu Lê Thị Thi đề nghị Dự thảo xem xét bổ sung quy định chính sách ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần trong thử nghiệm và quy định chính sách phân chia lợi nhuận khi dự án triển khai thành công.