Kính thưa đồng chí Đỗ Mười, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng,
Kính thưa đồng chí Nguyễn Văn Linh, Cố vấn Ban Chấp hành TW Đảng,
Kính thưa các đồng chí cách mạng lão thành và các đồng chí khách mời của Đại hội
Thưa các đồng chí đại biểu, thưa Đại hội.
Năm năm qua, kể từ Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ V đến nay, Thành phố đã có nhiều biến đổi to lớn.
Thời gian đầu sau đại hội, Thành phố đứng trước những thử thách hết sức nghiêm trọng. Đó là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, kéo theo sự xáo động lớn về kinh tế và chính trị, gây chấn động mạnh trong nhiều cán bộ, đảng viên và trong nhân dân về tâm trạng và tư tưởng; đó là sự lợi dụng của các thế lực thù địch bên ngoài, thừa cơ ngóc đầu dậy của những phần tử phản động trong nước đẩy mạnh các hoạt động diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ, mà Thành phố là một trọng điểm... Dù vậy, Đảng bộ và nhân dân thành phố vẫn thể hiện sự kiên trì và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng; tiếp tục phát huy và tận dụng những nhân tố thuận lợi của Thành phố, của cả nước, đồng thời khai thác những thuận lợi quốc tế, phấn đấu thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu tổng quát của Nghị quyết Đại hội VII của Đảng và Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ V là vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững và tăng cường ổn định chính trị, cùng cả nước thoát dần ra khỏi tình trạng khủng hoảng, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hội nghị đại biểu Đảng bộ thành phố giữa nhiệm kỳ đã nêu rõ những thành tựu và tồn tại trong hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội. Cho đến nay, dẫu còn nhiều khó khăn phải tiếp tục khắc phục, nhưng 5 năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ và nhân dân thành phố, chúng ta đã thu được những thành tựu quan trọng, nhiều chỉ tiêu đã vượt so với Nghị quyết Đại hội đề ra.
Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ VI có nhiệm vụ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ V, gắn với Nghị quyết Đại hội VII của Đảng ở thành phố; rút ra những bài học thực tiễn; dự báo tình hình và đề ra phương hướng nhiệm vụ 5 năm 1996-2000.
Phần thứ nhất
Những biến đổi 5 năm qua trên địa bàn thành phố
I.TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ
Năm năm qua, kinh tế thành phố đi dần vào ổn định, liên tục tăng trưởng cùng sự chuyển dịch cơ cấu phù hợp với xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hoá; đạt và vượt các chỉ tiêu chủ yếu do Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ V đề ra.
Tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng liên tục và tương đối đều đặn, bình quân 12,6%/năm, chiếm 17% trong GDP cả nước. GDP bình quân đầu người từ 644 USD năm 1991, tăng lên 912 USD năm 1995. Bình quân hàng năm, khu vực công nghiệp tăng 16,8%; khu vực dịch vụ tăng 10,1%; khu vực nông nghiệp tăng 4,7%. Mức tăng trưởng trên là cơ sở tăng thu ngân sách trên địa bàn, đóng góp nhiều hơn cho ngân sách quốc gia, bước đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.
Khu vực công nghiệp có tiến bộ đáng kể. Đã có nhiều cố gắng khắc phục khó khăn, mở rộng sản xuất – kinh doanh, tiếp cận thị trường, tự tích luỹ và huy động các nguồn vốn để đầu tư, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhiều sản phẩm thay dần hàng ngoại nhập, được thị trường tín nhiệm. Tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến được nâng cao trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Tuy vậy, công nghiệp trên địa bàn vẫn chưa được quy hoạch phát triển: các ngành công nghiệp cơ bản còn rất yếu và thiếu, các ngành công nghiệp mũi nhọn chưa chiếm được vị trí quan trọng trong nền kinh tế (cơ khí chế tạo, điện tử tin học, công nghệ sinh học, đóng tàu, vật liệu xây dựng...). Tốc độ tăng trưởng khá nhanh, nhưng chưa vững chắc do công nghệ lạc hậu, thị trường bấp bênh. Trên 2/3 số cơ sở có đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ, nhưng chỉ ở mức thấp và chưa đồng bộ.
Khu vực nông nghiệp duy trì được nhịp độ tăng trưởng, có sự chuyển đổi cơ cấu thích hợp theo hướng sản xuất hàng hoá và quá trình đô thị hóa. Cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao được chú ý, giống mới được nhân rộng. Dịch vụ cho nông nghiệp bình quân mỗi năm tăng 5%. Đã hình thành các vùng chuyên canh tập trung (lúa, rau, mía, đậu phọng...). Tỷ trọng chăn nuôi chiếm gần 40% giá trị tổng sản lượng nông nghiệp và đang tăng nhanh nhất là bò sữa. Các công trình thuỷ lợi Kênh Đông Hóc Môn - Bắc Bình Chánh bước đầu đưa vào khai thác có hiệu quả. Bảo vệ và phát triển tốt rừng phòng hộ. Trong quá trình phát triển nông nghiệp có chú ý đến việc xây dựng nông thôn mới theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5. Tuy nhiên, vai trò của công nghiệp và khoa học - kỹ thuật tác động đến nông nghiệp chưa mạnh; công nghiệp chế biến nông sản phát triển chưa đáng kể; cơ giới hoá còn ở mức thấp; giống cây, giống con có chất lượng cao mới thay đổi bước đầu; tiêu thụ sản phẩm còn nhiều khó khăn; thuỷ sản kém phát triển.
Khu vực dịch vụ tăng khá. Lưu thông hàng hoá mở rộng. Hoạt động tài chính, tiền tệ có tiến bộ. Lĩnh vực ngoại thương được đẩy mạnh. Du lịch mở rộng với nhiều loại hình phong phú. Dịch vụ tư vấn bắt đầu phát triển. Thương nghiệp quốc doanh chưa đủ sức can thiệp vào thị trường khi cần thiết, còn để tư thương lợi dụng. Thông tin, tiếp thị và một số ngành dịch vụ quan trọng chưa theo kịp yêu cầu (vận tải, bảo hiểm, tín dụng...).Đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng, đã có nhiều dự án lớn, nhưng ở lĩnh vực quan trọng chưa thu hút nhiều vốn đầu tư như: cơ sở hạ tầng, dịch vụ vận tải, cơ khí chế tạo, điện tử tin học, vật liệu mới, năng lượng, đóng tàu.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật có chuyển biến tích cực. Bưu chính viễn thông được hiện đại hoá với tốc độ khá nhanh. Nguồn điện đáp ứng được nhu cầu sản xuất và đời sống. Nhiều cầu, đường được đầu tư sửa chữa, nâng cấp. Nhưng kết quả đó vẫn chưa thoát khỏi tình trạng quá tải của hệ thống hạ tầng hiện hữu so với quy mô dân số; cơ chế chính sách, thể chế tạo vốn và điều hành chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
Cơ cấu kinh tế thành phố tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp với cơ cấu trong GDP hiện nay là công nghiệp 41,1%; dịch vụ 55,9%; nông nghiệp 3%.
Cơ cấu các thành phần kinh tế hình thành ngày càng rõ nét và vận động đan xen dưới nhiều hình thức đa dạng. Kinh tế quốc doanh được củng cố một bước về tổ chức, giảm bớt về số lượng, đang phấn đấu giữ các vị trí then chốt, nhưng quy mô còn nhỏ, hiệu quả kinh tế còn thấp; chậm xử lý những đơn vị thua lỗ. Kinh tế hợp tác sa sút, do thiếu quan tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo, đang tiến hành củng cố đổi mới về nội dung hoạt động và hình thức tổ chức. Kinh tế cá thể phát triển ở nhiều lĩnh vực. Kinh tế tư nhân phát triển nhanh, đang hình thành những doanh nghiệp lớn. Kinh tế tư bản nhà nước đang trong qua trình hình thành. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh.
Cơ cấu tích luỹ và tiêu dùng chuyển dịch theo hướng tích cực: tích luỹ đầu tư tăng từ 12,9% năm 1991 lên 25% năm 1995. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội (cả đầu tư nước ngoài) ngày càng tăng, bình quân 30% năm, vượt quỹ tích luỹ đầu tư hàng năm - số vượt này chủ yếu từ nguồn vốn nước ngoài và kiều hối. Do tỷ lệ để lại cho ngân sách thành phố từ các khoản thu trên địa bàn ngày càng giảm sút so với tỷ lệ tăng thu, nên vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách thành phố rất thấp so với yêu cầu và giảm dần trong cơ cấu tổng đầu tư phát triển hàng năm.
Lãnh đạo của Đảng bộ và Chính quyền thành phố đã quan tâm tháo gỡ cơ chế chính sách, cố gắng tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, mở rộng thị trường trong và ngoài nước; đa dạng hóa loại hình và đa phương hoá đối tượng hợp tác; chỉ đạo tập trung sửa chữa, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm hạ tầng kỹ thuật và đổi mới công nghệ; quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, mở mang đô thị, bố trí lại công nghiệp; chăm lo lĩnh vực tài chính, tiền tệ, hoạt động thương mại... của một thành phố trung tâm.
Kinh tế đang đi dần vào ổn định và tăng trưởng cao, nhưng chưa thật vững chắc và chưa tương xứng với tiềm năng của thành phố; thiết bị công nghệ còn lạc hậu; thị trường vốn chưa đáp ứng yêu cầu; khả năng cạnh tranh với hàng ngoại nhập còn yếu, hiệu quả kinh tế chưa cao; cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Nguyên nhân chính là cơ chế chính sách và thể chế chưa thích hợp để thành phố huy động tối đa các nguồn vốn cho đầu tư phát triển; chậm xác định các ngành kinh tế mũi nhọn; tổ chức bộ máy và năng lực quản lý vẫn trong tình trạng yếu kém; đội ngũ cán bộ chưa theo kịp yêu cầu phát triển chung; công tác kiểm tra, kiểm soát chưa đủ hiệu lực, nhiều lĩnh vực còn buông lỏng.
I. KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ, MÔI TRƯỜNG VÀ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
Hoạt động Khoa học – công nghệ đã có những đóng góp tích cực trong qúa trình đổi mới cơ cấu quản lý, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Việc nghiên cứu đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm đã góp phần điều chỉnh, bổ khuyết các nhược điểm của quy trình sản xuất cũ, tạo ra những sản phẩm mới có sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Lực lượng khoa học – công nghệ có khả năng tiếp thu một số lĩnh vực mũi nhọn như: tin học viễn thông, vật liệu mới, năng lượng mới... Việc ứng dụng tin học được mở rộng trong nhiều ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ, quản lý nhà nước, giáo dục đào tạo. Đã tập trung nghiên cứu giống cây, giống con, kỹ thuật thâm canh, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ và các biện pháp bảo vệ thực vật, góp phần đáng kể cho việc tăng trưởng và nâng cao năng suất, chất lượng nông sản phẩm.
Khoa học xã hội và nhân văn quan tâm tổ chức nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề trí thức, vấn đề người Hoa, vấn đề vận động công nhân trong chiến lược phát triển thành phố; nghiên cứu hệ thống các cơ sở pháp lý cho công tác quản lý đô thị, giải quyết tệ nạn xã hội, bảo tồn cảnh quan đô thị... Các đề tài nghiên cứu đổi mới cơ chế quản lý đã phân tích nhiều vấn đề bức xúc của Thành phố, góp phần thiết lập cơ sở khoa học cho tư duy kinh tế mới. Những kết quả nghiên cứu về khoa học xã hội đã góp phần tạo cơ sở cho một số chủ trương, chính sách của lãnh đạo thành phố.
Công tác bảo vệ môi trường được đẩy mạnh, thiết lập dần sự quản lý hành chính nhà nước về môi trường trên địa bàn. Phong trào xanh và sạch được nhân dân đồng tình, hưởng ứng.
Tuy nhiên, thực trạng khoa học, công nghệ và môi trường còn nhiều mặt yếu kém, khó khăn. Hoạt động khoa học, công nghệ chưa tương xứng với tiềm lực của thành phố, chưa thực sự trở thành động lực cho sự phát triển. Ở hầu hết các ngành kinh tế chủ yếu, trình độ công nghệ còn lạc hậu, tốc độ đầu tư đổi mới công nghệ quá chậm, nhất là khu vực doanh nghiệp nhà nước. Tỷ trọng sử dụng công nghệ tin học trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý, nghiên cứu còn thấp. Lực lượng khoa học, công nghệ còn thiếu và yếu: tổ chức chưa đồng bộ; điều kiện làm việc chưa tốt. Tốc độ đào tạo mới còn chậm, cán bộ đầu đàn trong các lĩnh vực công nghệ cao còn ít. Thiếu những chính sách cụ thể để huy động và tạo môi trường thuận lợi cho việc đầu tư phát triển khoa học, công nghệ. Ô nhiễm môi trường còn nặng nề, các giải pháp chưa đủ sức cải thiện.
Giáo dục và đào tạo được mở rộng với nhiều ngành học, cấp học và loại hình đào tạo. Việc thực hiện xã hội hoá giáo dịc đang tạo thêm nguồn lực đóng góp vào sự nghiệp đổi mới giáo dục. Cuối năm 1995, thành phố đạt tiêu chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phồ cập giáo dục tiểu học. Số cơ sở đào tạo dạy nghề được mở rộng, hàng năm thu hút trên 150.000 người. Tuy nhiên, mặt bằng học vấn còn thấp. Việc đi học của con em gia đình nghèo còn gặp khó khăn, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cũ. Chưa thật sự coi trọng việc giáo dục chăm sóc trẻ em và đào tạo cao đẳng, đại học trên địa bàn. Các môn học giáo dục công dân, văn, sử, địa chưa được chú ý đúng mức. Chất lượng giảng dạy chưa đáp ứng yêu cầu. Việc dạy nghề mang tính tự phát, chưa có quy hoạch dài hạn và đồng bộ gắn với quá trình phát triển thành phố. Vấn đề cho mở trường tư, thu học phí còn nhiều bất hợp lý. Công tác chính trị tư tưởng của Đảng và của Đoàn Thanh niên Cộng sản ở các trường đại học đạt hiệu quả thấp.
II. CÁC VẤN ĐỀ VỀ VĂN HOÁ – XÃ HỘI
Năm năm qua, nhất là từ sau Nghị quyết Trung ương 4, các hoạt động văn hoá – xã hội mang lại những kết quả đáng kể.
Dân số và việc làm luôn được quan tâm. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm (từ 1,61% năm 1991, còn 1,52% năm 1995). Biện pháp giải quyết việc làm có đổi mới: phát huy ý thức chủ động tạo việc làm cho mình và cho người khác, khắc phục dần tâm lý trông chờ Nhà nước. Đã quan tâm khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ với nhiều hình thức sở hữu, phát triển dịch vụ và kinh tế hộ gia đình, bảo đảm cho người lao động được tự do hành nghề, thuê mướn lao động. Các chương trình "quỹ quốc gia giải quyết việc làm", "giới thiệu việc làm", "trợ vốn", "giúp nhau mưu sinh lập nghiệp" đã thực hiện có kết quả; bình quân mỗi năm giải quyết cho 120.000 lao động có việc làm, tăng 71% so với thời kỳ 1986-1990. Chương trình xóa đói giảm nghèo sớm được quần chúng hưởng ứng thành phong trào, huy động được trên 57 tỷ đồng, trợ vốn cho trên 61.000 hộ; đến 30/4/1995 đã cơ bản xoá hộ đói... Nhưng dân số tăng cơ học còn lớn, tỷ lệ laođ ộng có kỹ thuật còn thấp, số người chưa có việc làm ổn định còn đông.
Đời sống của đại bộ phận nhân dân được nâng dần lên: mức chi tiêu hàng hoá dịch vụ dân cư tăng thực tế bình quân trên 13%/năm. Số hộ có mức sống nghèo khó giảm, số hộ có mức sống trung bình và khá tăng. Tỷ trọng chi phí dành cho sinh hoạt văn hoá tinh thần của người dân ngày càng tăng. Trên 60% hộ dân ngoại thành được dùng nước sạch; 97/100 xã có lưới điện, trong đó 18 xã được điện khí hoá. Nhưng sự phân hoá giàu – nghèo ngày càng rộng, một bộ phận nhân dân lao động và nhiều gia đình có công với nước, gia đình chính sách vẫn còn nghèo nàn, cơ cực; chính sách tiền lương còn chưa hợp lý.
Việc giải quyết nhà ở có những chuyển biến tích cực, nhờ huy động nhiều thành phần kinh tế tham gia. Đã đầu tư xây dựng mới khoảng 80.000 căn hộ, dân số tăng tương đối nhanh, nhưng vẫn bảo đảm diện tích nhà ở bình quân đầu người không giảm. Đã thực hiện một số chương trình phát triển nhà vừa có ý nghĩa xã hội, chính trị, vừa giải quyết được vấn đề an ninh trật tự (chương trình nhà tình nghĩa, chương trình giải toả và chỉnh trang đô thị khu vực nhà lụp xụp, chương trình nhà bán trả góp cho cán bộ và dân nghèo...). Tuy nhiên, nhà ở vẫn còn là vấn đề lớn; việc bán nhà thuộc sở hữu nhà nước thực hiện còn qúa chậm.
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có tiến bộ cả về phòng bệnh và chữa bệnh. Việc thu một phần viện phí ở bệnh viện công, thực hiện bảo hiểm y tế, phát triển y tế tư nhân (kể cả liên doanh với nước ngoài), thành lập bệnh viện miễn phí phục vụ dân nghèo, đã tạo nên một mạng lưới y tế sâu rộng chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Mỗi năm, các bệnh viện và trung tâm y tế khám cho hơn 10 triệu lượt người, điều trị nội trú cho hơn 500.000 bệnh nhân. Chất lượng phục vụ của các bệnh viện được nâng lên. Nhiều bệnh viện được đầu tư những thiết bị chuyên khoa hiện đại phục vụ xét nghiệm, chẩn đoán và điều trị. Việc củng cố y tế cơ sở, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, triển khai các chương trình y tế quốc gia có hiệu quả; số trẻ tử vong dưới 1 tuổi, dưới 5 tuổi và tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em đều giảm. Công tác phòng chống bệnh lao và HIV/AIDS được sự quan tâm đặc biệt với nhiều biện pháp tuyên truyền vận động, giám sát, xét nghiệm, phát hiện và ngăn chặn sự lây lan cho cộng đồng. Sản xuất, lưu thông phân phối và xuất nhập khẩu dược phẩm được đẩy mạnh, đảm bảo nhu cầu của nhân dân. Hoạt động đông y đạt được kết quả nhất định. Tuy nhiên còn nhiều khuyết điểm, tồn tại về tổ chức bộ máy, quản lý ngành, đặc biệt là trong khu vực y dược tư nhân về việc phòng chống thuốc giả và quản lý sản xuất dược phẩm nội địa còn yếu. Ngành dược còn lúng túng trong việc tổ chức sắp xếp lại trên địa bàn. Việc thu viện phí, bảo hiểm y tế còn nhiều tồn tại phải tiếp tục chấn chỉnh.
Hoạt động thể dục thể thao được củng cố và phát triển. Phong trào thể dục thể thao rèn luyện sức khoẻ nhân dân được duy trì tốt. Đã hình thành 13 liên đoàn, mạng lưới câu lạc bộ, nhà thi đấu thu hút đông đảo quần chúng tham gia luyện tập. Tổ chức thành công nhiểu giải thi đấu trong nước, quốc tế và đạt được nhiều thứ hạng cao. Khó khăn hiện nay là kinh phí hoạt động còn rất hạn chế; trình độ huấn luyện viên, vận động viên chưa cao; phần lớn cơ sở vật chất chưa đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu của quốc tế.
Việc phòng chống các tệ nạn xã hội đã được tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân; tổ chức nhiều cuộc hội thảo chuyên đề về phòng chống tệ nạn xã hội, phòng ngừa lây nhiễm HIV/AIDS; tấn công trực diện vào các tệ nạn xã hội, kiểm tra nhà hàng, khách sạn, nhà trọ, truy quét các tụ điểm mãi dâm và các ổ tiêm chích xì ke, ma tuý. Triển khai tận cơ sở các chương trình "cai nghiện tại chỗ", "giáo dục tại chỗ chị em lầm lỡ", "ngôi nhà mở cho trẻ em bụi đời"; đầu tư mở rộng nhiều cơ sở giáo dục lao động, dạy nghề góp phần tạo điều kiện cho nhiều đối tượng tệ nạn xã hội có công ăn việc làm. Nhưng nhìn chung, tệ nạn xã hội vẫn chưa giảm, nhất là nạn mại dâm, ma tuý biến tướng dưới nhiều hình thức tinh vi, phức tạp hơn.
Về tình hình văn hoá Kiến thức văn hoá của nhân dân được nâng lên. Di tích lịch sử văn hoá bước đầu được chú ý tôn tạo. Lịch sự trong giao tiếp xã hội, lòng nhân ái, tương trợ xã hội được phát huy. Vẻ đẹp trong hàng hoá được chú trọng, nhiều nhà cửa được sửa chữa và xây mới khang trang hơn, nhiều trung tâm dịch vụ, buôn bán, khu vui chơi giải trí, khu gia cư lớn và một số trục giao thông mới xây đã làm đẹp bộ mặt thành phố.
Phong trào văn nghệ và hoạt động văn hoá cơ sở có chú ý phát triển hướng vào nội dung lành mạnh, phát huy truyền thống cách mạng và bản sắc dân tộc. Khoảng cách trong hưởng thụ văn hoá giữa nội thành và ngoại thành được khắc phục một bước. Phong trào văn hoá dân tộc và phát huy truyền thống cách mạng bắt đầu lôi cuốn được lớp trẻ, sinh viên học sinh. Giao lưu văn hoá trong nước và các nước trên thế giới được mở rộng.
Trong hoạt động văn học - nghệ thuật, các hoạt động sáng tác, triển lãm, hội diễn... được nhiều người hưởng ứng, có một số tác phẩm tốt. Đại hội các hội văn học nghệ thuật có kết quả tốt.
Báo chí, xuất bản, in, phát hành có bước phát triển về số lượng và chất lượng. Đội ngũ nhà báo phát huy tính năng động sáng tạo, làm cho nội dung thông tin phong phú hấp dẫn. Những bài đấu tranh chống quan điểm sai trái, đấu tranh chống tiêu cực được dư luận hoan nghênh.
Bên cạnh các kết quả nêu trên, còn tồn tại nhiều vấn đề lớn:
Ý thức trong Đảng và trong xã hội chống địch phá hoại về văn hoá còn yếu; văn hoá phẩm độc hại tiếp tục xâm nhập gây ảnh hưởng xấu, đặc biệt là đối với lớp trẻ; lối sống thực dụng, lãng phí, xa hoa truỵ lạc, các hủ tục, tệ mê tín dị đoan trong xã hội và cả trong một số cán bộ đảng viên đang phát triển.
Những tác phẩm có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật còn ít. Các bản gốc có giá trị về hội hoạ chưa được quan tâm lưu giữ. Điện ảnh và sân khấu đang gặp rất nhiều khó khăn. Mỹ thuật trong kiến trúc đô thị còn lúng túng. Công trình xây dựng bia, tượng đài chưa được quy hoạch phù hợp. Việc quản lý, sử dụng khai thác và phát triển các công viên văn hoá cấp thành phố chưa tốt.
Thiết chế văn hoá, bảo tàng, nhà hát, khu triển lãm, đài phát thanh, truyền hình vẫn chưa được xây dựng và phát triển tương xứng với một trong những trung tâm văn hoá lớn. Đời sống và điều kiện hoạt động một bộ phận trí thức, văn nghệ sĩ còn nghèo nàn.
Thông tin trên báo chí có nhiều trường hợp không chính xác, thổi phồng hoặc lộ bí mật, chưa quán triệt chính sách đối ngoại của Đảng; báo đưa tin sai không nghiêm túc cải chính theo luật pháp quy định; thiếu ý thức đấu tranh với quan điểm xây dựng và chống những hành động sai trái. Quảng cáo trên báo đài còn chạy theo đồng tiền, chưa quán triệt chủ trương phát huy hàng nội và văn hoá dân tộc. Những sai sót trong xuất bản, báo chí và nhà báo chưa được phê phán và xử lý nghiêm khắc. Công tác quản lý nhà nước về văn hoá, văn học nghệ thuật, thông tin, báo chí, xuất bản còn lỏng lẻo.
Những tồn tại nói trên có nhiều nguyên nhân nhưng bao trùm là trong lãnh đạo vẫn chưa quán triệt sâu sắc và chưa tổ chức thực hiện tốt chủ trương đường lối trên lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, thông tin báo chí của Đảng.
IV. VỀ AN NINH - QUỐC PHÒNG VÀ ĐỐI NGOẠI
Thành uỷ đã ra Nghị quyết 06, Chỉ thị 04, Kế hoạch 15 và xây dựng các đề án nhằm chống lại âm mưu thực hiện "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch về kinh tế, văn hoá, tư tưởng để các cấp, các ngành, các đoàn thể triển khai thực hiện cụ thể.
Trên lĩnh vực an ninh, đã nắm chắc và thực hiện đúng đường lối đổi mới, chính sách đoàn kết dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng; từng bước xây dựng lực lượng vũ trang và công an nhân dân vững mạnh; luôn giữ vững ổn định chính trị. Đã kịp thời chỉ đạo phá các vụ án chính trị, làm thất bại kế hoạch xâm nhập từ bên ngoài hòng gây mất ổn định chính trị và tập hợp lực lượng đối lập tại chỗ; chủ động ngăn chặn, phá vỡ các nhóm chống đối nội bộ, kích động chuyển hoá nội bộ. Tổ chức nhiều đợt vận động chính trị trong đồng bào có đạo và có đối sách kiên quyết, thích hợp đối với phần tử phản động đội lốt tôn giáo. Việc ngăn chặn lưu hành tài liệu phản động, ấn phẩm văn hoá phản động, bạo lực, đồi truỵ và xử lý các vi phạm được tiến hành thường xuyên. Quan tâm chỉ đạo thực hiện pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước, chấn chỉnh công tác quản lý cán bộ đi nước ngoài
Việc triển khai đề án an ninh cơ sở, xây dựng và củng cố lực lượng nòng cốt, phát động quần chúng tham gia bảo vệ an ninh trật tự thu nhiều kết quả; nhiều tổ dân phố tự quản giải quyết được những việc liên quan đến an ninh trật tự. Việc vận động tội phạm ra đầu thú, giao nộp hung khí cùng với công tác phòng, chống tội phạm hình sự và tập trung giải quyết các đối tượng tệ nạn xã hội ở nhiều tụ điểm được thực hiện tốt. Sự phối hợp giữa Công an và Hội Cựu chiến binh được chặt chẽ, đã phát huy vai trò của cựu chiến binh và cán bộ hưu trí trong bảo vệ an ninh và giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong xây dựng lực lượng dân quân tự vệ ở cơ sở.
Nhiệm vụ quốc phòng và công tác quân sự địa phương có nhiều tiến bộ trong phối hợp cáclực lượng giữ gìn an ninh trật tự; xây dựng các phương án phòng chống bạo loạn, triển khai các cuộc diễn tập huy động lực lượng tổng hợp có quy mô từ liên phường, quận, thành phố; thực hiện có hiệu quả diễn tập lực lượng quân dân y toàn thành phố. Chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang thường trực, quân dự bị động viên và dân quân tự vệ cả về số lượng và chất lượng. Công tác tuyển quân hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu trên giao. Xây dựng lực lượng chính trị nòng cốt trong nhân dân cho cán bộ chiến sĩ và nhân dân, nhất là thanh thiếu niên với nhiều hình thức phong phú, sinh động. Hoạt động giúp dân của lực lượng vũ trang có nhiều tiến bộ. Thực hiện chính sách hậu phương quân đội ngày càng tốt hơn, nhất là việc tổ chức đón nhận danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng và Anh hùng lực lượng vũ trang, chăm lo đời sống lực lượng vũ trang, giải quyết việc làm cho bộ đội xuất ngũ.
Tồn tại lớn hiện nay là các lực lượng an ninh, quốc phòng và hệ thống pháp luật chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của sự nghiệp đổi mới. Tình trạng mất cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn mới của các thế lực thù địch còn khá phổ biến trong các ngành, các cấp, trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và trong nhân dân; còn bộc lộ nhiều sơ hở, yếu kém về mặt an ninh trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục – đào tạo, bảo vệ nội bộ... Việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và Thành uỷ về an ninh - quốc phòng thiếu đồng bộ, chuyển biến chưa mạnh trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chưa huy động đầy đủ sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trên địa bàn. Vai trò của cấp uỷ đảng trong việc nắm lực lượng, chỉ đạo điều hành phối hợp, phân công, phân cấp trên địa bàn quận, huyện và cơ sở còn hạn chế. Các cơ quan, đơn vị thiếu ý thức tự bảo vệ và chủ động phòng ngừa, chưa gắn chặt nhiệm vụ phát triển đơn vị với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia một cách thường xuyên. Tình trạng trốn nghĩa vụ quân sự, quân nhân đào ngũ còn cao nhưng chưa có chính sách xử lý kịp thời; việc đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp còn gặp khó khăn; công tác đăng ký, quản lý, huấn luyện quân dự bị và xây dựng lực lượng dân quân tự vệ một số mặt còn tồn tại.
Công tác bảo vệ pháp luật có nhiều tiến bộ góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Việc chấp hành pháp luật và thực thi dân chủ ngày càng khá hơn. Tuy nhiên tình hình phạm pháp chưa giảm; các loại tội phạm trọng án về kinh tế, hình sự trong thanh thiếu niên có chiều hướng gia tăng, tình trạng vi phạm trong việc bắt, giữ, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án khắc phục chậm. Nguyên nhân chính là do sự lãnh đạo của các cấp uỷ chưa tương xứng yêu cầu, ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm; còn một số quy định pháp luật chưa phù hợp thực tế; trình độ chính trị, nghiệp vụ của cán bộ chưa theo kịp đòi hỏi nhiệm vụ mới; cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động thiếu thốn, chính sách tiền lương chưa phù hợp.
Công tác chống tham nhũng, chống buôn lậu được tích cực chỉ đạo. Đã xử lý với số vụ và tài sản thất thoát thu hồi được ngày càng tăng, nhiều vụ xét xử với mức án nghiêm khắc, có tác động nhất định trong việc ngăn chặn. Nhưng tình hình tham nhũng, buôn lậu vẫn còn nghiêm trọng, thủ đoạn của bọn tội phạm tinh vi hơn và hành vi trắng trợn hơn. Nguyên nhân chủ yếu là các cấp uỷ chưa tập trung lãnh đạo đúng mức với đòi hỏi của tình hình; luật pháp chưa hoàn chỉnh; kiểm tra kiểm soát chưa chặt chẽ; một bộ phận cán bộ đảng viên thoái hoá biến chất chưa được sàng lọc nghiêm khắc; có vụ xử lý thiếu kiên quyết.
Công tác đối ngoại của thành phố đã đem lại những kết quả đáng kể, góp phần tích cực vào việc nâng cao uy tín và vị trí của nước ta và Thành phố trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi năm, đã đón tiếp tốt khoảng 100 đoàn khách quốc tế quan trọng đến thăm và làm việc tại thành phố. Hợp tác kinh tế và đầu tư nước ngoài tại thành phố có bước phát triển, nhiều loại hình hợp tác quốc tế được hình thành. Các cơ quan ngoại giao đóng tại thành phố tăng hơn 2 lần so với năm 1991 (từ 11 lên 24); gần 1000 văn phòng đại diện các công ty của nhiều nước đặt tại thành phố. Nhiều tổ chức hữu nghị giữa thành phố và các nước đã ra đời... Tồn tại lớn là chưa quản lý chặt chẽ hoạt động của người nước ngoài, các cơ quan nước ngoài, các tổ chức phi Chính phủ và chương trình hoạt động của một số đoàn; trong lĩnh vực đối ngoại nhân dân còn nhiều sơ hở, chưa được kiểm soát đầy đủ.
V. TÌNH HÌNH QUẦN CHÚNG VÀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
Nhân dân thành phố tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước và cách mạng, phấn đấu vượt qua khó khăn tạo nên những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững ổn định chính trị; những phong trào cách mạng của nhân dân diễn ra tự động; tư tưởng và tâm trạng chính trị của nhân dân diễn biến tốt hơn đầu nhiệm kỳ.
Giai cấp công nhân phát triển nhanh về số lượng, được chú ý hơn trong giáo dục về ý thức giai cấp; có nâng lên vềkiến thức, tay nghề và khả năng tiếp cận các thiết bị, công nghệ mới; tiếp tục phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế Thành phố. Nông dân ngoại thành có nhiều chuyển biến tốt, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Tầng lớp trí thức phát huy tiềm năng trí tuệ, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, góp nhiều giải pháp cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và thành phố theo đường lối đổi mới của Đảng. Lực lượng thanh niên luôn nhạy cảm với cơ chế mới, có ý chí tiến thủ, tích cực trong học tập, lao động, làm được vai trò nòng cốt trên các lĩnh vực xây dựng và bảo vệ Thành phố. Lực lượng phụ nữ hăng hái tham gia công tác xã hội, giúp nhau làm kinh tế gia đình, chăm lo bảo vệ quyền lợi bà mẹ và trẻ em> Cựu chiến binh, Cựu kháng chiến, cán bộ hưu trí, gia đình chính sách... tiếp tục phát huy truyền thống xây dựng và bảo vệ đất nước, tích cực tham gia các hoạt động ở địa phương. Giới công thương gia và tiêu chủ, tiểu thương an tâm trước chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tích cực đầu tư phát triển sản xuất – kinh doanh, số đông thành đạt và giàu lên rõ rệt. Đồng bào tín đồ các tôn giáo, các dân tộc người Việt ở nước ngoài ngày càng gắn bó với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc. Nhìn chung, các tầng lớp nhân dân thành phố ngày càng quan tâm hơn đến ổn định chính trị, đến vận mệnh quốc gia, dân tộc; tư tưởng và tích cực hưởng ứng đường lối đổi mới của Đảng.
Nhưng, một bộ phận nhân dân đời sống còn khó khăn, việc làm chưa ổn định. Quần chúng còn bất bình trước tình trạng đạo đức sa sút, trật tự xã hộicòn phức tạp, kỷ cương phép nước chưa nghiêm, tệ quan liêu, tham nhũng và các tệ nạn xã hội còn nhiều, thủ tục hành chính rườm rà, mặt khác, có một bộ phận quần chúng chưa tự giác chấp hành chủ trương, pháp luật Nhà nước... Đây chính là kẻ hở để các thế lực thù địch, các phần tử xấu lợi dụng kích động, gây hoang mang, chia rẻ Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Quán triệt 4 quan điểm về đổi mới công tác quần chúng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8, các cấp uỷ đảng đã chú ý tăng cường chỉ đạo công tác quần chúng. Thành uỷ đã có những chương trình hành động về công tác quần chúng; bước đầu tăng cường cán bộ cho Mặt trận và các đoàn thể; củng cố Ban Dân vận Thành uỷ và hình thành hệ thống các Ban Dân vận quận, huyện uỷ; Có quy chế làm việc định kỳ với các đoàn thể, đi cơ sở nghe ý kiến, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng nhân dân. Các tổ chức đảng cơ sở, nhất là trên địa bàn dân cư đã quan tâm hơn công tác vận động quần chúng, lấy việc chăm lo đời sống quần chúng, nhất là quần chúng lao động làm nội dung chính trong chương hoạt động.
Quán triệt quan điểm chính của dân, do dân, vì dân, Hội đồng nhân dân các cấp thể hiện rõ hơn vai trò, trách nhiệm đại biểu cho ý chí và nguyện vọng chính đáng của nhân dân trong hoạt động cũ thể; tổ chức nhiều đợt sinh hoạt để nhân dân góp ý xây dựng pháp luật, duy trì định kỳ các cuộc tiếp xúc cử tri. Uỷ ban Nhân dân các cấp xây dựng quy chế phối hợp với Mặt trận và từng đoàn thể, tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận và các đoàn thể hoạt động có hiệu quả.
Mặt trận và các đoàn thể đã từng bước đổimới nội dung và phương thức vận động quần chúng trong thời kỳ mới, quan tâm đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân các giới, kết hợp giữa quyền lợi và nghĩa vụ, hướng vào mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Nhiều chương trình hành động thực hiện các chủ trương chính sách của Thành phố hoặc của bản thân các đoàn thể đã phát triển thành phong trào quần chúng rộng rãi như: nhà tình nghĩa, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng, chương trình khuyến học, khuyến nông, dạy nghề, từ thiện xã hội, bảo tồn văn hoá dân tộc, xây dựng nếp sống văn minh đô thị, ánh sáng văn hoá. Thông qua các chương trình đó, Mặt trận và các đoàn thể tiến hành xây dựng lực lượng chính trị, đa dạng hoá các hình thức tập hợp, xây dựng thêm nhiều loại hình Hiệp hội của quần chúng. Công tác xây dựng tổ chức đoàn thể trong khu vực ngoài quốc doanh bước đầu được chí trọng và có kết quả.
Công tác tôn giáo được quan tâm. Đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo duy trì sinh hoạt bình thường, vận động đồng bào tín đồ và các chức sắc hành đạo theo đúng chủ trương của Đảng và luật pháp nhà nước, đồng thời kiên quyết đấu tranh với các hoạt động phá rối, chưa rẽ của những phần tử xấu đội lốt tôn giáo. Công tác vận động đồng bào các dân tộc được coi trọng. Đã tạo điều kiện giúp đồng bào các dân tộc, nhất là đồng bào Hoa phát huy tiềm năng kinh tế, bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc, xây dựng và phát triển lực lượng chính trị, đoàn kết với cộng đồng các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.
Tồn tại lớn trong công tác vận động quần chúng là, quan điểm dân vận chưa thật sự thấm nhuần trong toàn Đảng bộ. Một số nơi, cấp uỷ và đảng viên thiếu tự giác trong công tác quần chúng; chậm đổi mới phương thức lãnh đạo công tác quần chúng, chưa chú trọng tăng cường cán bộ có năng lực cho các Ban Dân vận, Mặt trận và đoàn thể. Nhiều cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, thoái hoá, biến chất làm giảm lòng tin trong quần chúng. Một bộ phận cán bộ trong hệ thống chính quyền chưa coi trọng công tác vận động quần chúng.
Vai trò hiệp thương phối hợp của Mặt trận, chức năng đại diện nhân dân của các đoàn thể tham gia quản lý và giám sát hoạt động của chính quyền chưa phát huy đúng mức. Sự phối hợp giữa các đoàn thể, giữa đoàn thể với chính quyền, các ngành còn thiếu quy chế chặt chẽ và đồng bộ. Công tác xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng nòng cốt chưa tương xứng với quy mô phát triển phong trào; phát triển đoàn viên, hội viên còn chậm; chưa tập hợp đầy đủ các đối tượng quần chúng ở cơ sở. Nhiều cơ quan đoàn thể chỉ quan tâm lợi ích đơn thuần, chưa coi trọng giáo dục chính trị - tư tưởng và nghĩa vụ của quần chúng đối với sự nghiệp chung.
VI.TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ
Các cơ quan chính quyền đã có những chủ trương biện pháp thích hợp giữ gìn ổn định chính trị, an ninh- trật tự xã hội, đưa Thành phố tiếp tục đi lên, đáp ứng vai trò một trung tâm về nhiều mặt của cả nước, một đầu mối giao lưu quốc tế quan trọng.
Trong một số lĩnh vực, đã đạt được những kết quả quan trọng như: xây dựng văn bản pháp quy, đưa chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, thiết lập trật tự kỷ cương, tháo gỡ những vướng mắc trong hoạt động kinh tế - xã hội, có một số tiến bộ nhất định trong thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội, từng bước sắp xếp lại bộ máy và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức... Hội đồng nhân dân các cấp thể hiện được vai trò cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương.
Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền thành phố chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ quản lý hành chính, kinh tế - xã hội, quản lý đô thị. Mối quan hệ lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền tuy có tiến bộ nhưng còn thiếu rạch ròi về trách nhiệm, có lĩnh vực còn bao biện, có lĩnh vực buông lỏng. Vai trò trách nhiệm của Đảng đoàn, Ban cán sự đảng các cấp chưa xác định rõ ràng và chưa phát huy tác dụng đúng mức. Việc thể chế hoá môt số chủ trương của Đảng chưa kịp thời. Mối quan hệ giữa chính quyền với nhân dân còn phải tiếp tục củng cố thông qua các quyết định về chính sách, chế độ tiếp dân định kỳ và trong giao tiếp hàng ngày của cơ quan hành chính các cấp. Tệ quan liệu, cửa quyền tồn tại kéo dài, thể hiện ở ý thức, trách nhiệm phục vụ nhân dân, tác phong thái độ công nhân viên chức nhà nước; còn đùn đẩy, thiếu trách nhiệm trong giải quyết mọi yêu cầu của nhân dân. Trình độ và năng lực của đội ngũ công chức chưa ngang tầm với nhiệm vụ, trong đó có một bộ phận thoái hoá, biến chất, nhũng nhiễu, ức hiếp nhân dân chưa được sàng lọc loại trừ. Công sở và các phương tiện hoạt động vừa lãng phí, vừa thiếu, kỹ thuật còn thô sơ.
Nguyên nhân của tình hình trên là do cải cách nền hành chính ở thành phố chưa đạt yêu cầu. Một số mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ V đề ra chưa được triển khai thực hiện đầy đủ, như: tách chức năng quản lý hành chính nhà nước và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh; xây dựng cơ chế rõ ràng trong phân công, phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, theo cấp hành chính, yếu kém trong quy hoạch, đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ, chính sách đãi ngộ cán bộ hành chính, nhất là phường xã chưa thoả đáng...
VII. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG:
Tư tưởng cán bộ, đảng viên hiện nay so với đầu nhiệm kỳ ổn định hơn, lòng tin được nâng lên. Hầu hết nhất trí cao về con đường bảo vệ độc lập dân tộc, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh; số đông khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là yếu tố duy nhất bảo đảm ổn định chính trị và đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lực lượng đảng viên trung kiên tiếptục phát huy vai trò nòng cốt trong các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Nhiều đảng viên là cán bộ hưu trí, cựu chiến binh đã nêu gương tốt, tích cực tham gia công tác ở cơ sở và vận động quần chúng. Nhiều đảng viên trẻ hăng hái lao động công tác và học tập được quần chúng tín nhiệm.
Về giáo dục lý luận chính trị, Trường Đảng Nguyễn Văn Cừ và trung tâm giáo dục lý luận chính trị thành phố có sự phối hợp, giúp đỡ của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng chính trị, lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên. Chương trình, nội dung và phương thức đào tạo, bồi dưỡng có tiến bộ, đã chú ý gắn lý luận với thực tiễn, gắn bồi dưỡng chính trị với xây dựng đạo đức cách mạng. Các Trung tâm bồi dưỡng cán bộ quận, huyện mở nhiều lớp học về pháp luật, quản lý kinh tế và lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt và lực lượng cốt cán, kế cận ở cơ sở. Việc nghiên cứu quán triệt các nghị quyết đảng bước đầu có cải tiến phù hợp với từng loại đối tượng cán bộ, đảng viên đã chú ý gắn việc quán triệt nghị quyết với triển khai chương trình hành động thực hiện nghị quyết. Việc tổ chức thông tin những vấn đề lý luận, chính trị thời sự và hoạt động của Đảng cho cán bộ lãnh đạo các cấp đã thành nền nếp. Tạp chí Sổ tay xây dựng Đảng, Thông báo nội bộ và Thông tin tóm tất được phát hành đều đặn đến các chi bộ...
Tuy nhiên, trong một bộ phận cán bộ, đảng viên còn có những lệch lạc về quan điểm thể hiện trên các lĩnh vực hoạt động thực tiễn. Ý thức đấu tranh bảo vệ thực thi pháp luật nhà nước, cảnh giác với những hoạt động của địch còn kém. Một bộ phận cán bộ, đảng viên quan tâm nhiều đến mức sống, xem nhẹ lẽ sống và lối sống, vì lợi ích riêng mà làm tổn hại việc hung. Nạn tham nhũng, tệ quan liêu vẫn đang phát triển. Nhiều đồng chí còn bàng quan trước những luận điệu của các thế lực thù địch. Việc giải đáp những thắc mắc thời sự, chính sách trong cán bộ, đảng viên chưa kịp thời. Việc phê phán những quan điểm lệch lạc, những biểu hiện mất cảnh giác, đặc quyền đặc lợi, đạo đức lối sống lhông lành mạnh, mê tín dị đoan..., chưa tạo được sự chuyển biến trong thực tế. Nhiều vấn đề về lý luận chưa được làm sáng tỏ, kinh nghiệm thực tiễn chưa được tổng kết kịp thời.
Qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, nhiều tổ chức cơ sở đảng được củng cố và bước đầu nâng cao vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị.
Nhiều đảng bộ phường, xã có tiến bộ trong việc phát huy vai trò lãnh đạo ở cơ sở. Quy định tạm thời của Thành uỷ về chức năng, nhiệm vụ của các chi bộ đường phố, chi bộ ấp đã giúp nâng cao vai trò, trách nhiệm lãnh đạo chăm lo đời sống quần chúng lao động, xây dựng nền nếp và cải tiến nội dung sinh hoạt chi bộ, tổ đảng, tăng cường quản lý đảng viên. Thông qua lãnh đạo các phong trào xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phân công đảng viên làm công tác vận động quần chúng..., mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng ở cơ sở gắn bó hơn. Vai trò, vị trí của khu phố, ấp được các cấp uỷ cơ sở nhận thức đúng và quan tâm chỉ đạo. Mặt yếu của tổ chức đảng ở phường, xã là chưa đủ sức lãnh đạo thực hiện tốt lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn. Còn nhiều cán bộ phường, xã ngần ngại đụng chạm trong việc xử lý các vụ việc vi phạm luật pháp. Tác phong lãnh đạo một số nơi thiếu sâu sát thực tế. Chính sách đối với cán bộ phường, xã còn chưa hợp lý.
Trong loại hình doanh nghiệp nhà nước, cơ quan sự nghiệp, hành chánh, nơi nào đảng viên mạnh, cấp uỷ có năng lực và giám đốc (hoặc thủ trưởng) quan tâm công tác đảng thì vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng có hiệu quả rõ rệt; nhưng nhìn chúng, tác dụng lãnh đạo của cấp uỷ ở loại hình này không rõ nét, nhất là trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác cán bộ. Việc thực hiện Nghị định 49 và 51 của Ban Bí thư còn nhiều lúng túng do chưa có văn bản pháp quy của Nhà nước, trình độ năng lực của nhiều bí thư còn hạn chế và tính đảng của một số giám đốc (thủ trưởng) còn yếu.
Khu vực các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có 51/380 đơn vị có tổ chức đảng. Mặc dù Thành uỷ đã có Quy định tạm thời về chức năng, nhiệm vụ của loại hình này, nhưng hiệu quả hoạt động còn rất thấp; nhiều đảng viên còn hạn chế về trình độ chuyên môn, có người sa sút về phẩm chất đạo đức. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có rất ít đảng viên, phần lớn là cán bộ, nhân viên từ giảm biên chế, nghỉ việc rồi đi làm thuê, ít quan tâm đến sinh hoạt đảng, công tác đảng ở khu vực này rất yếu.
Tồn tại chung của các loại hình tổ chức cơ sở đảng là: Việc thực hiện các quy định, quy chế làm việc, phương thức lãnh đạo còn lúng túng, nhất là loại hình doanh nghiệp, hành chánh, sự nghiệp. Sinh hoạt đảng ở nhiều nơi chưa thành nền nếp, nội dung sinh hoạt chi bộ nghèo nàn; một số đảng viên là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý ít dự sinh hoạt chi bộ, tổ đảng, ít tham gia học tập các nghị quyết của Đảng; công tác quản lý đảng viên ở chi bộ, đảng bộ cơ sở lỏng lẻo. Ý thức trách nhiệm của nhiều đảng viên trong việc xây dựng chi bộ, tham gia cấp uỷ, phê bình và tự phê bình còn yếu, nhất là loại hình doanh nghiệp, cơ quan, sự nghiệp; một số đảng viên có tư tưởng cơ hội, không ít đảng viên xem thường hoặc ngán ngại công tác quần chúng. Cấp uỷ cơ sở hoạt động không đều tay, thưởng ỷ lại vào bí thư; một số ít mất đoàn kết, thủ tiêu đấu tranh xây dựng nội bộ. Bí thư ở các doanh nghiệp, cơ quan hành chính sự nghiệp phần nhiều trình độ năng lực yếu, một số thiếu kinh nghiệm công tác đảng, nhưng được bồi dưỡng về công tác lãnh đạo và xây dựng đảng.
Đến tháng 12/1995, Đảng bộ thành phố có 85.294 đảng viên, sinh hoạt trong 2.265 tổ chức cơ sở đảng. Một số ngành, đơn vị, địa bàn trọng yếu về kinh tế, xã hội, khoa học - kỹ thuật, văn học - nghệ thuật... còn ít hoặc chưa có đảng viên. Số đảng viên phấn đấu tốt, thật sự tiên phong, gương mẫu chiếm khoảng 1/3, đáng chú ý là, nơi nào cũng có một bộ phận đảng viên không thể hiện được vai trò lãnh đạo, kém tính tiên phong gương mẫu trong công tác sinh hoạt, ít làm công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, ngay cả quần chúng trong đơn vị. Tình trạng giảm sút ý chí chiến đấu, thiếu tinh thần đấu tranh thẳng thắn, tự phê bình và phê bình, xây dựng nội bộ, chống tiêu cực, chống tham nhũng còn khá phổ biến; một số đảng viên mê tín dị đoan. Một số đảng viên cầu an, bàng quan, ít quan tâm đến xây dựng đảng, xây dựng đoàn kết nội bộ. Trước nhu cầu nhiệm vụ mới, trình độ năng lực của một bộ phận đảng viên chưa đáp ứng, nhưng chưa được đào tạo bồi dưỡng.
Có một số đảng viên hoặc danh nghĩa là vợ (chồng), con tự đứng ra hoặc hùn vốn lập công ty trách nhiêm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, trong đó có đảng viên đương chức. Có trường hợp vợ đảng viên đương chức mở công ty trách nhiệm hữu hạn cùng ngành mà chồng làm giám đốc doanh nghiệp. Một số đảng viên (hoặc vợ, con) làm giàu bất chính, gây bất bình trong nội bộ và trong quần chúng. Tình hình đó chưa được đánh giá phân tích để chỉ đạo kịp thời.
Từ năm 1993 đến nay, công tác phát triển đảng đã có chuyển biến tích cực. Nhiều cấp uỷ cơ sở và cấp trên cơ sở quan tâm công tác phát triển đảng, kết nạp được nhiều đảng viên mới so với các năm trước; có chú ý tạo nguồn trong công nhân, lực lượng vũ trang, sinh viên, quần chúng ưu tú trong các đoàn thể, trên địa bàn dân cư.
Các ban của Thành uỷ đang tiếp tục sắp xếp, kiện toàn. Nhiều ban cố gắng làm tốt chức năng tham mưu, giúp Thành uỷ trong quá trình chuẩn bị ra các quyết định và kiểm tra việc thực hiện quyết định, nhưng kết quả chưa cao, nhất là chưa tổ chức tổng kết thực tiễn và nghiên cứu những vấn đề có tính chiến lược. Nhiều cán bộ lãnh đạo và chuyên viên phẩm chất chính trị vững vàng, có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn nhưng lớn tuổi, một số trình độ hạn chế.
Đảng đoàn và Ban cán sự đảng được tổ chức ở HĐND, UBND, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, các tổ chức nghề nghiệp, bước đầu phát huy tác dụng trong lãnh đạo đại hội các đoàn thể chuyên ngành, nhưng còn lúng túng về nội dung và phương thức hoạt động; sinh hoạt thiếu thường xuyên.
Các quận, huyện uỷ, nhiều nơi được kiện toàn và trẻ hoá, hầu hết đã xây dựng quy chế làm việc và làm việc theo quy chế. Đại bộ phận đảng bộ quận huyện làm tốt chức năng lãnh đạo toàn diện, nhưng cũng có một số ít quận, huyện vươn lên chậm.
Tổ chức và hoạt động của đảng bộ cấp cơ sở (gọi tắt là đảng bộ khối) đang phát huy tác dụng. Đảng bộ khối trung ương do không có chính quyền ngang cấp , nên nhiều vấn đề liên quan đến lãnh đạo Bộ (tại Hà Nội) thường bị chậm trễ. Một số đảng bộ khối thành phố mà giám đốc hoặc phó giám đốc kiêm nghiệm bí thư đảng uỷ thường bận công tác chuyên môn, ít chăm lo công tác đảng. Vấn đề đáng quan tâm ở các đảng bộ khối là cán bộ chuyên trách công tác đảng phần nhiều lớn tuổi, một số năng lực hạn chế; việc bố trí cáb bộ chuyên trách công tác đảng ở nhiều đảng bộ gặp nhiều khó khăn, do lãnh đạo ngành thiếu quan tâm, nhiều đồng chí từ chối làm công tác đảng.
Số đông cán bộ lãnh đạo và quản lý vững vàng về chính trị, nhiệt tình, năng động, dần dần thích nghi với cơ chế mới. Những năm gần đây, có một số cán bộ trẻ chịu khó học tập nâng cao kiến thức và năng lực công tác, nhiều đồng chí được bầu vào cấp uỷ thành phố, quận, huyện và tương đương, vào Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân các cấp và bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo các ban, ngành cấp thành phố và quận, huyện. Việc sơ kết thực hiện Chỉ thị 44 và triển khai Chỉ thị 37 của Ban Bí thư "về công tác cán bộ nữ" đã tạo sự chuyển biến tích cực đối với công tác cán bộ nữ. Đến nay, cán bộ nữ được bầu vào các chức danh nói trên nhiều hơn trước, tỷ lệ cán bộ nữ giữ cương vị lãnh đạo ở quận, huyện nhiều hơn ở các ban, ngành thành phố.
Bên cạnh đó, tình hình cán bộ và công tác cán bộ đặt ra những vấn đề bức xúc. Số đông cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp thành phố và một số quận, huyện lớn tuổi, sức khoẻ hạn chế, đã nghĩ hưu hoặc sắp nghỉ hưu, nhưng nhiều nơi chưa chuẩn bị lực lượng kế cận, gặp lúng túng trong thay thế. Cán bộ trẻ tương đối trẻ chưa được quy hoạch để đào tạo bồi dưỡng một cách căn cơ, đồng bộ, có nơi chưa mạnh dạn sử dụng và phát huy cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Đội ngũ cán bộ thành phố tuy đông về số lượng, nhưng trước nhiệm vụ mới, ở nhiều cấp, nhiều ngành, đã có tình trạng hụt hẫng, nhất là cán bộ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, kinh tế đối ngoại, cán bộ pháp luật; cán bộ làm công tác đảng, đoàn thể gặp nhiều khó khăn. Tình hình trên là do: các cấp uỷ chưa đầu tư đúng mức cho công tác quy hoạch và đào tạo các loại cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới, chính sách, chế độ đãi ngộ còn chưa phù hợp nhưng chậm sửa đổi.
Mấy năm gần đây, Thành uỷ có tích cực chỉ đạo và kiểm tra việc qui hoạch cán bộ ở các quận, huyện và nhiều ban ngành thành phố. Qua đó, đã phát hiện nhiều cán bộ trẻ, tốt, tạo cơ sở cho việc bố trí, đề bạt, chuẩn bị nhân sự Đại hội Đảng các cấp, có tác dụng thúc đẩy công tác qui hoạch cán bộ chung của Thành phố. Tuy nhiên, công tác qui hoạch cán bộ còn nhiều khuyết điểm, chưa được quan 1triệt sâu trong lãnh đạo, một số nơi thực hiện “đầu voi đuôi chuột”, dẫn đến tình trạng vẫn hụt hẫng cán bộ, nhiều ban, ngành thiếu cán bộ kế cận.
Trong điều kiện và môi trường mới, có một số cán bộ lãnh đạo và quản lý vi phạm khuyết điểm, phổ biến là về phẩm chất đạo đức: ăn nhậu, tiêu xài phung phí tiền của Nhà nước, tham ô hối lộ, làm giàu bất chính, tha hoá về lối sống; một số cán bộ tính toán, thu vén cá nhân, kèn cựa địa vị, gây mất đoàn kết nội bộ... đã làm giảm uy tín Đảng và Nhà nước. Nguyên nhân là do bản thân số cán bộ, đảng viên này không tự giác tu dưỡng, không tự kềm chế trước những cám dỗ; bên cạnh đó cơ chế quản lý còn nhiều sơ hở; công tác quản lý cán bộ đảng viên, sinh hoạt đảng và đấu tranh xây dựng nội bộ ở nhiều nơi còn buông lỏng kéo dài.
Trong nhiệm kỳ qua, công tác kiểm tra đảng đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện Điều lệ Đảng, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, chấp hành các chỉ thị, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao chất lượng đảng viên và tổ chức đảng; góp phần chống tham nhũng, tiêu cực. Uỷ ban Kiểm tra các cấp chú trọng thực hiện chức năng giáo dục, ngăn ngừa cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước. Trong nhiệm kỳ, đã xử lý bằng các hình thức kỷ luật 2.738 đảng viên, tăng 285 trường hợp so với nhiệm kỳ trước, trong đó khai trừ và xoá tên 2.487 trường hợp. Tình hình vi phạm kỷ luật của đảng viên không giảm, tính chất lại phức tạp, có nơi vi phạm tập thể. Đảng viên bị kỷ luật một số có chức, có quyền hoặc ở các đơn vị kinh tế; số bị xoá tên gấp hơn 2 lần số bị khai trừ (phần lớn là những đảng viên gặp nhiều khó khăn về đời sống việc làm nên bỏ sinh hoạt đảng). Vi phạm nhiều nhất là về chính sách, chế độ quản lý kinh tế, nhà đất cố ý làm trái, tham ô, hối lộ; về phẩm chất, lối sống và nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng. Nhưng công tác kiểm tra chưa chủ động kiểm tra việc thực hiện nghị quyết đảng; việc kiểm tra ngăn ngừa vi phạm hiệu quả thấp; còn tình trạng xử lý chưa nghiêm, có vụ việc kéo dài... Đôi ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng, thiếu cán bộ chuyên trách ở các ban, ngành, sở, các đơn vị kinh tế lớn và Uỷ ban Kiểm tra cơ sở.
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng được coi trọng hơn. Thành uỷ và nhiều cấp uỷ đảng đã xây dựng quy chế làm việc, tạo mối quan hệ phối hợp tương đối chặt chẽ giữa tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể ở từng cấp, từng ngành, từng cơ quan, đơn vị, theo hướng nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy chức năng quản lý, điều hành của cơ quan nhà nước, bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Thành uỷ và các cấp uỷ sâu sát cơ sở hơn, nắm tình hình kịp thời hơn. Việc sơ kết, tổng kết một số mặt công tác được quan tâm, nhất là cuộc vận động đổi mới và chỉnh đốn đảng, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Đã cải tiến việc ra nghị quyết bằng xây dựng chương trình hành động, vừa cụ thể hoá nghị quyết của Trung ương, vừa vạch được kế hoạch, biện pháp chỉ đạo thực hiện. Trên cơ sở kiểm tra thực tế, Ban Thường vụ Thành uỷ ra thông báo tiếp tục chỉ đạo thực hiện các nghị quyết đã có, không ra nghị quyết mới; đề xuất kiến nghị với Trung ương những vấn đề phát sinh mới.
Tuy nhiên, nhiều cấp uỷ, kể cả Thành uỷ, chưa quan tâm đúc rút kinh nghiệm để không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo và cải tiến lề lối làm việc; bệnh quan liêu, hành chánh sự vụ kha 1nặng nề. Nhiều nơi quy chế còn chung chung, chưa làm đúng mức độ, phạm vi và mối quan hệ cụ thể giữa Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý và hoạt động của các đoàn thể. Có nơi cấp uỷ bàn quá sâu các công tác của chính quyền, không còn thì giời đi cơ sở, sơ kết tổng kết, rút kinh nghiệm, nhất là những khâu trọng tâm và địa bàn trọng yếu. Trái lại, có cấp uỷ lơi lỏng lãnh đạo, thiếu kiểm tra đối với chính quyền, đoàn thể.
Từ Thành uỷ đến các cấp uỷ cơ sở đều có nghị quyết chỉ đạo công tác xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Nhờ đó, hoạt động công đoàn có những chuyển biến tích cực, gầy dựng và phát triển được nhiều phong trào sôi nổi, phát huy tốt vai trò nòng cốt của Đoàn trong lực lượng thanh thiếu niên. Số cơ sở đoàn khá tăng lên (khoảng 1/3), số đoàn viên bỏ Đoàn giảm, số thanh niên vào Đoàn tăng, số đoàn viên ưu tú tăng và đã có 3162 đoàn viên được kết nạp vào Đảng (chiếm 44% số đảng viên mứi kết nạp trong nhiệm kỳ). Mặt yếu là lúng túng về phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ đối với Đoàn ở cơ sở, thiếu điều kiện để đầu tư, đào tạo cán bộ đoàn chuyên trách.
NGUYÊN NHÂN – BÀI HỌC THỰC TIỄN
Những thành tựu nêu trên là kết quả của cả qúa trình phấn đấu quyết liệt trong 10 năm đổi mới kể từ sau Đại hội VI của Đảng, mà gay go nhất của quá trình đó là ở thời điểm đầu thập kỷ 90. Nhìn lại 5 năm qua, Thành phố đã trải qua những thời điểm đầy khó khăn, thử thách, nhưng chẳng những đứng vững mà còn đạt được những thành tựu, tạo được một số tiền đề rất quan trọng: kinh tế đi dần vào ổn định và có mức cải thiện; nhiều vấn đề về xã hội được thực hiện đem lại kết quả thiết thực; đã góp phần cùng cả nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hôi; tiếp tục giữ vững ổn định chính trị; hệ thống chính trị được củng cố, việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 3 đem lại những kết quả bước đầu; lòng tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước được củng cố và nâng lên...
Mặt khác, cũng cần thấy hết những mặt tồn tại, yếu kém và khó khăn. Kinh tế tăng trưởng nhưng chưa thật vững chắc, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp; cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội chưa theo kịp yêu cầu phát triển chung; tình trạng tăng dân số cơ học ngày càng cao, dẫn đến lao động thiếu việc làm còn nhiều, gây thêm phức tạp về an ninh trật tự xã hội; kết quả chống lạm phát còn chưa vững chắc; quản lý nhà nước chưa theo kịp yêu cầu phát triển mới; những yếu kém trong hoạt động văn hoá, văn nghệ, báo chí, xuất bản chậm được khắc phục; tình trạng kỷ luật kỷ cương không nghiêm trong Đảng và trong xã hội kéo dài, cùng với tệ tham nhũng, hối lộ và các tệ nạn xã hội khác đang gây tác hại đến chế độ, xói mòn truyền thống tốt đẹp của Đảng và dân tộc... Những tồn tại, yếu kém đó chứa đựng mầm móng bất ổn định chính trị, xã hội, gây trở ngại công cuộc xây dựng và phát triển thành phố.
Hội nghị đại biểu Đảng bộ thành phố giữa nhiệm kỳ nêu ra 4 vấn đề vừa là nguyên nhân của thành tựu, của tồn tại, vừa mang tính chất bài học thực tiễn, cho đến nay, vẫn còn nguyên giá trị. Nhìn lại cả nhiệm kỳ, có thể rút ra một số kết luận:
1/ Thực tiễn đã kiểm nghiệm sự đúng đắn của đường lối đổi mới của Đảng cũng như sự vận dụng của Đảng bộ đề ra chủ trương cụ thể sát hợp với hoàn cảnh của Thành phố; đồng thời cũng khẳng định sự lãnh đạo kiên định, vững vàng của Đảng và sự nỗ lực to lớn của nhân dân là nhân tố quyết định những thành tựu vừa qua.
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện cho thấy, chúng ta càng bám sát thực tiễn thì càng thể hiện nhiều điều hay, dở, đúng, sai cùng những đòi hỏi nảy sinh từ thực tiễn, buộc chúng ta phải suy nghĩ, tìm tòi những gỉai pháp, đề ra chủ trương cụ thể hợp quy luật, hợp lòng dân, tạo nên sức mạnh hành động vượt qua khó khăn, giành lấy thắng lợi. Đồng thời, cũng từ bám sát thực tiễn, trên cơ sở nắm chắc chủ trương đường lối của Đảng, mà Đảng bộ không ngừng phát huy tính năng động, sáng tạo, dám nghĩa, dám làm, dám chịu trách nhiệm với cấp trên, với nhân dân, thấy sai kiên quyết sửa chữa, đưa thành phố phát triển theo đúngđ ịnh hướng của nghị quyết đảng và đóng góp vào sự lãnh đạo của Trung ương. Mặt khác, chính quá trình ấy cũng bộc lộ những bất cập về trình độ năng lực lãnh đạo, quản lý của Đảng bộ và Chính quyền thành phố trên nhiều lĩnh vực, trong thời gian dài, do chưa giải quyết tốt vấn đề cốt lỏi về tổ chức bộ máy cán bộ, đã dẫn tới nhiều vấn đề nảy sinh phải đối phó bị động, tốn nhiều công sức nhưng hiệu quả mang lại không cao.
Từ đó, có thể kết luận: công việc dù mới mẻ và phức tạp, nhưng khi đã khẳng định và kiên trì đường lối đúng, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò của nhân dân, bám sát thực tiễn, dồn tâm trí vào sự nghiệp chung, thì sẽ giúp chúng ta đủ tỉnh táo và năng lực suy xét, đề ra chủ trương cụ thể giải quyết những vấn đề phát sinh mới một cách đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của quy luật khách quan, đạt được kết quả mong muốn. Nếu không như vậy thì kết quả sẽ ngược lại.
2/Nhận thức ngày càng rõ tính 2 mặt của cơ chế thị trường, đồng thời có những chính sách, chủ trương cụ thể bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lãnh đạo phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp cách mạng vĩ đại, chưa có tiền lệ. Trong thực tế, cơ chế đó đã kích thích tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng cũng kích thích sản sinh nhiều thói hư tật xấu trong các thành phần kinh tế, trong các thành phần giai cấp và các tầng lớp nhân dân, trái với định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta ra sức khai thác mặt tích cực có lợi cho sự nghiệp cách mạng, còn kẻ địch thì khai thác mặt tiêu cữc để phục vụ ý đồ xoá chủ nghĩa xã hội bằng "diễn biến hoà bình". Cuộc đấu tranh ai thắng ai, đấu tranh giữa tích cực và tiêu cực trong lĩnh vực này diễn ra khốc liệt, nhưng không phải mọi cấp mọi ngành, mọi người đều dễ dàng nhận ra điều đó. Trong thực tế đã biểu hiện – ngay trong một bộ phận cán bộ đảng viên – tâm lý thực dụng, coi đồng tiền hơn tất cả, không quan tâm chế độ chính trị, chính là miếng đất màu mỡ cho các thế lực thù địch khai thác thực hiện ý đồ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, đòi hỏi mỗi cấp, mỗi ngành phải tỉnh táo nhận biết trong điều hành hoạt động hàng ngày theo hướng: Vừa thực hiện tốt chính sách khuyến khích phát triển kinh tế, khuyến khích làm giàu chính đáng, vừa phải thực hiện xoá đói giảm nghèo, hạn chế sự phân hoá giàu – nghèo trong xã hội, sự chênh lệch quá xa về thu nhập trong nội bộ. Tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển đi liền với tăng cường quản lý nhà nước, thực hiện điều tiết hợp lý trong tiêu dùng xã hội, bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh; khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, mở rộng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, nhưng phải vì sự tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm phát triển hài hoà giữa kinh tế với giải quyết các vấn đề về văn hoá, xã hội, phát huy truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc, tinh thần cách mạng và lòng yêu nước của nhân dân.
3/ Ổn định chính trị vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của ổn định và phát triển kinh tế - xã hội; ổn định và phát triển kinh tế - xã hội cũng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của ổn định chính trị.
Những năm gần đây, sở dĩ Thành phố giữ vững ổn định chính trị là vì: Một mặt các vấn đề về kinh tế, xã hội đã đạt được những thành tựu quan trọng, đời sống nhân dân đi dần vào ổn định và có mức cải thiện... Mặt khác, đã kịp thời đập tan nhiều thủ đoạn hoạt động chống phá của kẻ địch, bảo vệ đời sống yên lành của nhân dân. Nhưng tình trạng mất cảnh giác trong cán bộ, đảng viên và trong nhân dân còn khá phổ biến và nghiêm trọng, làm tăng thêm nhân tố bất ổn định chính trị, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Vấn đề đặt ra là, song song với phát triển kinh tế, phải ra sức khắc phục những yếu kém, tồn tại trong công tác quần chúng, công tác xây dựng đảng và chính quyền, tăng cường cảnh giác trước âm mưu diễn biến hoà bình của địch, có biện pháp cụ thể khắc phục những yếu kém, tồn tại trong vận động quần chúng, trong xây dựng đảng và chính quyền các cấp, nhất là ở cơ sở.
Nền tảng của ổn định chính trị là yên dân, là niềm tin vững chắc của nhân dân đối với Đảng và chính quyền; đồng thời phải luôn đề cao cảnh giác, chủ động đập tan những âm mưu thủ đoạn thâm độc của địch cùng các tổ chức, các phần tử phản động chống chế độ.
4/ Sự thống nhất nội bộ là sức mạnh của thành công
Chúng ta đã nhiều lần rút ra bài học về đoàn kết nội bộ Đảng, đoàn kết toàn dân. Đó là truyền thống quý báu, là bí quyết của thành công. Ở đây có thể rút ra một kết luận về sự thếng nhất nội bộ của lãnh đạo và quản lý một thành phố lớn, thường phát sinh những vấn đề tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, có vụ việc rất phức tạp không lường trước được. Trong lãnh đạo và quản lý vừa qua, chúng ta có nhiều thành tích, nhưng cũng không ít va vấp và gặp tình thế khó khăn, có trường hợp gây bất lợi cho sự thống nhất nội bộ, gây hoài nghi trong quần chúng đối với chủ trương của Đảng. Vấn đề quan trọng là khi va vấp và gặp phải tình thế khó khăn, chúng ta thẳng thắn đấu tranh, phê phán, phân tích có lý có tình để thống nhất nội bộ, lắng nghe ý kiến quần chúng, tìm ra cái đúng, chỉ rõ cái sai và cùng chịu trách nhiệm, không đổ lỗi cho nhau, cùng đồng tâm hiệp lực tìm giải pháp để vượt qua. Nhờ đó, chúng ta đã vượt qua những vụ "bể tín dụng", những "cơn sốt" về nhà, đất... Đây là một kinh nghiệm rất quý báu cho thời kỳ phát triển mới, vốn chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn khó lường.
5/ Phải gắn chặt với lợi ích của quần chúng và thông qua phong trào hành động cách mạng của quần chúng mà xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 cho thấy, đảng bộ, cấp uỷ nào biết gắn cuộc vận động đổi mới và chỉnh đốn Đảng với lãnh đạo thúc đẩy các phong trào quần chúng thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống nhân dân, thì chẳng những bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của mình, mà còn thông qua đó để củng cố, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Trong thực tế, có rất nhiều dẫn chứng về vấn đề này, nhất là cơ sở phường, xã. Có những đảng bộ phường, xã, chi bộ đường phố, chi bộ ấp lãnh đạo giải quyết tốt các vấn đề liên quan trực tiếp đến cuộc sống thường ngày của người dân, như: tìm việc làm cho số laođ ộng thất nghiệp, vận động xoá đói giảm nghèo, khai thông cống rảnh, lo nước sạch cho dân, chốđng dột cho gia đình chính sách và lao động nghèo, phát huy tình làng nghĩa xóm, bảo vệ giữ gìn an ninh trật tự... đã khơi dậy nhiều phong trào hành động cách mạng của quần chúng khá sinh động. Bởi vậy hiệu quả của việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng và sự lãnh đạo của Đảng, xét cho cùng là có thể hiện ra đuợc các hoạt động của đời sống xã hội hay không, có đem lại lợi ích thiết thực cho quần chúng hay không, nhất là quần chúng lao động. Và, khi Đảng lãnh đạo giải quyết tốt những lợi ích và nguyện vọng chính đáng của quần chúng thì đuợc đông đảo quần chúng hưởng ứng và trở thành phong trào hành động cách mạng của quần chúng, cũng có nghĩa là quần chúng tín nhiệm sự lãnh đạo của Đảng; qua đó mà tạo thành sức mạnh quần chúng, đồng thời là sức mạnh của Đảng.
Vì vậy, có thể rút ra một kết luận là: Nếu lãnh đạo tốt việc giải quyết những yêu cầu bức xúc, những lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, thì lòng tin của nhân dân đối với Đảng đuợc tăng lên, nhiều phong trào hành động cách mạng của quần chúng đuợc duy trì và phát triển, tạo ra những nhân tố tích cực tác động trở lại nội bộ đảng, xuất hiện những phần tử tiên tiến đuợc quần chúng tín nhiệm; từ đó mà nâng chất đảng viên, phát triển đảng viên mới, tăng thêm sức mạnh, uy tín và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, làm cơ sở cho việc củng cố, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Phần thứ hai
Phương hướng nhiệm vụ 5 năm 1996 – 2000
Là một trung tâm về nhiều mặt của khu vực và cả nước, có vị trí quan trọng trong khu vực Đông Nam Á, thành phố Hồ Chí Minh luôn chịu tác động sâu sắc bởi bối cảnh chung (quốc tế và trong nước) đang và sẽ diễn biến nhanh chóng, chứa đựng nhiều yếu tố thuận lợi và nhiều khó khăn thử thách mới.
Nước ta nằm trong khu vực các nước phát triển kinh tế năng động nhất thế giới, là thành viên của khối ASEAN, có điều kiện thúc đẩy mối quan hệ với các nước trên thế giới sau khi bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Mỹ; cách mạng khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ nhanh... tạo nên những cơ hội cho chúng ta vận dụng, khai thác, mở rộng quan hệ hợp tác và liên kết kinh tế quốc tế, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế thành phố. Những thành tựu của Đảng bộ và nhân dân thành phố đạt được trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới đã tạo một số tiền đề quan trọng về vật chất lẫn tinh thần cho bước phát triển mới, đồng thời cũng cho chúng ta những bài học kinh nghiệm quý báu trong lãnh đạo, điều hành và tổ chức thực hiện, là cơ sở thực tiễn chứng minh đường lối đúng đắn của Đảng, từ đó tiếp tục cổ vũ, động viên, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, làm nền tảng vững chắc cho ổn định chính trị, tác động tích cực và mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội thành phố.
Bên cạnh đó, thành phố còn phải tiếp tục đương đầu với những khó khăn phức tạp. Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng nêu lên (tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và thế giới; về chệch hướng xã hội chủ nghĩa; về nạn tham nhũng và quan liêu; về diễn biến hoà bình) tiếp tục biểu hiện đầy đủ, rõ nét nhất và vẫn là những thách thức lớn nhất đối với Thành phố. Việc bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Mỹ vừa có thuận lợi, vừa có nhiều phức tạp mới không thể xem thường. Chúng ta còn phải tiếp tục khắc phục những khó khăn yếu kém mà Hội nghị đại biểu Đảng bộ thành phố giữa nhiệm kỳ nêu ra; đồng thời đứng trước hàng loạt mâu thuẫn ngày càng bộc lộ rõ trong quá trình phát triển. Đó là, mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo vệ độc lập tự chủ và chủ nghĩa xã hội, giữ vững ổn định chính trị với mưu đồ áp đặt, gây rối và xoá chủ nghĩa xã hội của các thế lực thù địch chủ yếu bằng diễn biến hoà bình; giữa nhu cầu đòi hỏi cao của thời kỳ phát triển mới với trình độ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và nguồn nhân lực cùng cơ sở hạ tầng, dịch vụ tài chính, tiền tệ còn yếu kém; giữa mở cửa, phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề văn hoá, xã hội, phân hoá giàu nghèo; giữa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong cơ chế thị trường với thế lực tư bản chủ nghĩa tự phát...
Xuất phát từ dự báo tình hình trên đây và căn cư Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng thông quan, Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, mục tiêu tổng quát của thành phố trong 5 năm tới là: giữ vững và tăng cường ổn định chính trị, tập trung sức khai thác thời cơ, vượt qua thử thách, đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội tương ứng với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo đảm hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế liên tục, vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao tích luỹ nội bộ với giải quyết các vấn đề văn hoá – xã hội, an ninh - quốc phòng, nâng dần mức sống của nhân dân; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ đảng viên, góp phần cùng cả nước thúc đẩy công cuộc đổi mới phát triển một cách toàn diện và đồng bộ, đạt và vượt các mục tiêu của "chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn trong những năm đầu của thế kỷ 21.
Dưới đây là nhiệm vụ chủ yếu trên từng lĩnh vực.
TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ:
Từ nay đến năm 2000, đẩy nhanh tiến trình hiện đại hoá công nghiệp và dịch vụ, công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, trước hết là cơ sở hạ tầng, tạo sự biến đổi đáng kể về chất trong các ngành sản xuất và các ngành dịch vụ then chốt. Tập trung đầu tư một số ngành có hàm lượng công nghệ - kỹ thuật cao, trên cơ sở lợi thế của thành phố; định hình các khu chế xuất, xây dựng các khu công nghiệp tập trung và khu công nghệ cao; hình thành trung tâm tài chính, trung tâm thương mại và dịch vụ hiện đại... đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thành phố và các tỉnh phía Nam; cùng với các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Sông Bé thành một trung tâm kinh tế lớn về công nghiệp, thương mại, dịch vụ, tài chính, tiền tệ, vận tải của cả nước và là một trong các trung tâm kinh tế ở khu vực Đông Nam Á.
Phấn đấu tăng trưởng kinh tế hàng năm (mức tăng GDP bình quân) từ 15% trở lên đến năm 2000, GDP bình quân đầu người đạt tối thiểu 1.5000 USD với cơ cấu kinh tế: công nghiệp 46%, dịch vụ 52% và nông nghiệp 2%.
Để bảo đảm tốc độ tăng trưởng và cơ cấu nêu trên, phải khống chế tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1,5%/năm, giảm tối đa tăng dân số cơ học. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm: công nghiệp 17%; dịch vụ 14% và nông nghiệp 5%, xuất khẩu tăng từ 22%/năm trở lên. Thực hiện thu hút vốn đầu tư trong 5 năm từ 12 đến 13 tỷ USD trong đó vốn trong nước chiếm trên 50%.
Khu vực công nghiệp: phát triển chủ yếu các ngành công nghiệp sạch, nâng dần tỷ trọng những ngành có hàm lượng công nghệ - kỹ thuật cao (điện tử, tin học, công nghệ sinh học...), ngành cơ khí sản xuất linh kiện, phụ tùng cho máy móc công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải và có khả năng trang bị một phần cho các ngành khác trên địa bàn và các tỉnh phía Nam. Bước đầu xây dựng công nghiệp cơ khí chính xác, đóng tàu và sửa chữa tàu biển. Có phương án sản xuất các loại nguyên - vật liệu mới để giảm bớt nhập khẩu. Đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ - thiết bị cho các ngành công nghiệp tinh chế nông – lâm - thuỷ hải sản, công nghiệp hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Đồng thời vẫn coi trọng các ngành công nghiệp truyền thống sử dụng nhiều lao động (dệt, may); các ngành công nghiệp sử dụng các loại nguyên liệu nội địa; các ngành thu hồi vốn nhanh và sử dụng mặt bằng xây dựng không lớn. Hướng sản xuất công nghiệp vào tinh chế, tăng dần sản phẩm hoàn chỉnh bằng nguyên -vật liệu trong nước. Trong vài năm trước mắt, tập trung khả năng vốn, nhân lực, trình độ quản lý để vừa sử dụng có hiệu quả các loại công nghệ còn thích hợp, vừa nhanh chóng đầu tư chiều sâu thay đổi công nghệ, thiết bị mới thích ứng với thị trường trong nước, khu vực ASEAN và các nước ta có quan hệ thương mại. Quy mô phát triển chủ yếu là xí nghiệp vừa và nhỏ, thuận lựi trong đổi mới công nghệ tạo sức cạnh tranh trên thương trường. Tích cực di chuyển các cơ sở sản xuất không phù hợp ở nội thành ra các khu công nghiệp tập trung ở các huyện ngoại thành và các tỉnh lân cận, đi đôi với việc chuyển giao công nghệ và xử lý ô nhiễm môi trường.
Hướng chuyển dịch cơ cấu trong công nghiệp là: nâng tỷ trọng một số ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển; tăng sản phẩm sử dụng nguyên liệu trong nước; ổn định tốc độ phát triển và giữ vững, nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp dệt – may, hoá chất, nhựa, vật liệu xây dựng.
Khu vực dịch vụ: Mở rộng và hiện đại hoá các loại hình dịch vụ; đặc biệt là dịch vụ tài chính – ngân hàng để vươn tới ngang tầm với các trung tâm kinh tế - tài chính của các nước trong khu vực. Đầu tư phát triển các cơ sở dịch vụ khoa học phục vụ sản xuất và đào tạo nguồn nhân lực. Hiện đại hoá và phát triển bưu chính - viễn thông. Nâng cao năng lực vận tải, nhất là vận tải công cộng nội thị. Phát triển dịch vụ hàng hải, cung ứng tàu biển. Mở rộng và phong phú hoá hoạt động du lịch ngang tầm một ngành kinh tế mũi nhọn. Tích cực chuẩn bị và phối hợp các ngành Trung ương hình thành thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thí điểm thu hút vốn qua hình thức trái phiếu, cổ phiếu quốc tế. Đa dạng hoá các loại hình bảo hiểm. Xây dựng và phát triển các trung tâm thương mại hiện đại phù hợp với hướng phát triển thành phố đa tâm, mở rộng giao lưu hàng hoá trong và ngoài nước, giải quyết tốt "đầu vào", "đầu ra" cho sản xuất của Thành phố và khu vực. Tạo điều kiện cho các Tổng Công ty Nhà nước đủ sức liên kết các đầu mối hàng hoá để hình thành mộy hệ thống bán lẻ hoặc thu mua hàng hoá của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, qua đó mà kiểm soát các hoạt động thương mại bằng chính sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp nhà nước.
Đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Nâng tỷ trọng chăn nuôi công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và phát triển kinh tế biển; đẩy mạnh sản xuất giống cây, giống con; khuyến khích sản xuất các nông sản có năng suất chất lượng cao cho xuất khẩu và ray quả sạch. Phát triển cây cảnh hoá tươi; bảo vệ tốt rừng phòng hộ; tiếp tục trồng rừng và cây phân tán, xây thêm công viên để nâng độ che phủ và tạo cảnh quan cho thành phố. Hình thành các cơ sở nghiên cứu giống mới, chuyên sản xuất giống cây, con phục vụ sản xuất nông nghiệp thành phố và khu vực. Chú trọng công tác khuyến nông, cơ giới hoá và thuỷ lợi hoá. Phấn đấu điện khí hoá 100% số xã; mở rộng và hiện đại hoá mạng lưới giao thông nông thôn; phát triển mạng lưới giáo dục y tế, văn hoá; cung cấp nước đủ sinh hoạt, ưu tiên cho các vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng; giảm dần khoảng cách mức sống vật chất, tinh thần giữa nội thành với ngoại thành. Khuyến khích phát triển kinh tế vườn kết hợp phục vụ du lịch phù hợp với quá trình đô thị hoá ngoại thành. Nâng cao trình độ văn hoá và đào tạo tay nghề, chủ động chuyển dịch lao động một bộ phận lớn dân cư khu vực nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ.
Tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng. Đến năm 2000, bảo đảm đủ nước cho sản xuất và đời sống ; không để tình trạng nội thành bị ngập nước trong mùa mưa như hiện nay; tiếp tục cải tạo mạng lưới điện, giảm tổn thất điện còn 13-14%, bảo đảm đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt; tăng nhanh phương tiện thông tin liên lạc và giao thông công cộng. Khai thác hiệu quả các khu chế xuất, xây dựng và đưa vào hoạt động một số khu công nghiệp tập trung mới. Xây dựng các đường vành đai, các đường xuyên tâm Đông – Tây, Nam - Bắc, đường đi Hiệp Phước, cầu qua Thủ Thiêm, Cát Lái và nâng cấp tuyến giao thông đi Cần Giờ. Phát triển cảng sông, cảng biển, hàng không đủ sức vận tải hàng hoá, hành khách thành phố và các tỉnh trong khu vực. Điều chỉnh quy hoạch xây dựng thành phố theo hướng: hiện đại hoá có trọng điểm nội thành (cũ) và phấn đấu khống chế dân số dưới 3 triệu người; hình thành một số quận mới; mở rộng xây dựng đô thị tập trung theo hai hướng chính: Nam và Đông Sài Gòn cùng một số đô thị vệ tinh ở các huyện ngoại thành song song với các khu công nghiệp mới.
Xây dựng những dự án đầu tư trong từng lĩnh vực cụ thể theo nguyên tắc vốn trong nước là quyết định, vốn bên ngoài là quan trọng, huy động mọi nguồn đầu tư trong và ngoài nước theo từng dự án bằng các chính sách: động viên các thành phần kinh tế tiết kiệm để đầu tư phát triển; dùng quỹ đất tạo vốn xây xựng cơ sở hạ tầng; mở rộng hình thức BOT cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước; tranh thủ nguồn vốn tín dụng ưu đãi, các nguồn vốn viện trợ gọi vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) trên cơ sở có lợi cho nền kinh tế; mở rộng sổ số kiến thiết theo dự án; thu phí và phụ thu trên các lĩnh vực điện, nước, vệ sinh, giao thông vận tải, xây dựng... Sớm hình thành quỹ đầu tư phát triển đô thị để cho vay ưu đãi các dự án hạ tầng kỹ thuật, đổi mới công nghệ. Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách.
Dựa trên các mục tiêu phát triển, đổi mới phương pháp công tác kế hoạch và quy hoạch phát triển, chủ yếu trên các mặt: dự báo và thông tin, hình thành "Trung tâm dự báo thị trường"; phối hợp các ngành Trung ương trong quy hoạch phát triển ngành và vùng để xác định một số mặt cân đối chủ yếu, xây dựng các dự án trọng điểm nhằm chủ động phát triển kinh tế, bảo đảm tính mục tiêu và định hướng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu các thành phần kinh tế; sớm hình thành phòng Thương mại và Công nghiệp thành phố; củng cố các Hiệp hội để các doanh nghiệp có đủ điều kiện vươn ra thị trường trong và ngoài nước...
Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển đúng định hướng, phù hợp với quy hoạch của thành phố. Tiếp tục sắp xếp và củng cố kinh tế quốc doanh theo hướng giảm số lượng, tăng quy mô một cách hợp lý từng doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả hoạt động, hình thành các tổng công ty mạnh trên các lĩnh vực, đồng thời phát triển kinh tế hợp tác với nhiều hình thức thích hợp để từng bước đưa kinh tế quốc doanh cùng kinh tế hợp tác trở thành nền tảng.
Hướng các loại hình kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn phát triển theo quy hoạch, đúng luật pháp. Đẩy mạnh tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm 100% vốn. Cóphương thức thích hợp tham gia cổ phần của nhà nước ở các doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn và những lĩnh vực quan trọng, tăng dần tỷ lệ vốn góp của nhà nước trong các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài, hình thành và mở rộng kinh tế tư bản nhà nước.
II. KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ, MÔI TRƯỜNG VÀ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
Về khoa học – công nghệ, môi trường:
Hoạt động khoa học – công nghệ tập trung nghiên cứu ứng dụng và phục vụ đổi mới công nghệ ở những ngành sản xuất chủ yếu, trước hết là các ngành sản xuất hàng xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu. Phấn đấu đến năm 2000 có một số ngành đạt trình độ công nghệ trên mức trung bình của khu vực, tạo năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước. Tích cực hình thành một số ngành công nghiệp mũi nhọn dựa trên công nghệ cao (tin học, viễn thông, điện tử, tự động hoá, vật liệu mới, công nghệ sinh học, cơ khí chế tạo), chuẩn bị điều kiện phát triển sản xuất theo chiều sâu sau năm 2000. Áp dụng các thành tựu mới của khoa học - kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp để phát triển số lượng, chủng loại các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới, hướng tới một nền nông nghiệp sạch, hiện đại. Hiện đại hoá công nghệ tinh chế lương thực, thực phẩm.
Các ngành khoa học xã hội nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học cho các chủ trương chính trị lớn của thành phố; lựa chọn các phương án, chương trình tối ưu, các đề tài hiệu quả cao, thúc đẩy quá trình đổi mới nhanh hơn, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng thành phố trí tuệ, văn minh, kỷ cương xã hội.
Thực hiện các chương trình hành động vì môi trường thành phố sạch đẹp, cân bằng sinh thái, bảo đảm sự phát triển lâu bền và nâng cao chất lượng sống của cộng đồng dân cư. Phối hợp với các tỉnh lân cận có chương trình bảo vệ nguồn nước mặt, nước ngầm, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, hệ thống công viên cây xanh; đánh giá và xử lý tác động môi trường của những công trình lớn, các khu công nghiệp. Phấn đấu đến năm 2000 môi trường thành phố có sự cải thiện rõ rệt so với hiện nay.
Biện pháp quan trọng hàng đầu và xuyên suốt để thực hiện phương hướng nhiệm vụ trên là chăm lo phát triển năng lực nội sinh về khoa học, công nghệ để tiến đến phát triển công nghệ cho thành phố; đồng thời vận động người Việt Nam định cư ở nước ngoài chuyển giao tri thức, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Đến năm 2000, năng lực về khoa học, công nghệ phải phát triển bằng 1,5 đến 2 lần hiện nay. Có quy hoạch và kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, trước hết là các ngành mũi nhọn có sức tiếp thu tri thức của thời đại và vận dụng vào điều kiện cụ thể ở thành phố và khu vực. Có chính sách khuyến khích và sử dụng nhân tài, bảo đảm thông tin, tạo điều kiện làm việc thuận lợi để quy tụ và phát huy đội ngũ. Mở rộng thị trường các “sản phẩm chất xám”.
Kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu ứng dụng và triển khai để đưa nhanh các kỹ thuật, công nghệ thích hợp vào sản xuất, đời sống, đáp ứng yêu cầu bức bách trước mắt gắn với việc tổ chức nghiên cứu, sớm nắm bắt và làm chủ những thành tựu khoa học hiện đại, kỹ thuật cao phù hợp với vị trí, đặc điểm thành phố, điều kiện từ nhiên, tài nguyên Việt Nam.
Huy động các nguồn vốn phát triển khoa học, công nghệ. Nâng tỷ lệ đầu tư từ ngân sách để phát triển một số ngành trọng yếu Nhà nước cần phải nắm giữ. Thực hiện tốt Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và có chính sách huy động vốn từ các thành phần kinh tế và trong nhân dân, cả người Việt Nam ở nước ngoài; khuyến khích các doanh nghiệp chủ động đầu tư đổi mới công nghệ và nghiên cứu khoa học ứng dụng bằng nguồn vốn tự tích luỹ, hoặc nguồn vốn tín dụng trung dài hạn (thành lập các quỹ hỗ trợ phát triển khoa học, công nghệ, tín dụng, quỹ hỗ trợ phát triển khoa học, công nghệ, tín dụng, phi ngân hàng); mở rộng liên doanh liên kết, hợp tác đầu tư trong và ngoài nước. Xây dựng các đề án nhằm thu hút các nguồn tài trợ quốc tế cho phát triển khoa học, công nghệ.
Tổ chức lại mạng lưới khoa học, công nghệ. Sớm hình thành khu công nghệ cao với các chính sách ưu đãi nhằm thu hút kỹ thuật cao của nước ngoài. Tổ chức tốt mối liên kết giữa các cơ sở thành phố với các cơ sở Trung ương, giữa các doanh nghiệp với các trường đại học, các viện nghiên cứu trên địa bàn. Củng cố và tăng cường các tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ. Hoàn chỉnh hệ thống giám định công nghệ, giám định chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Phát triển các tổ chức tư vấn dịch vụ chuyển giao công nghệ, các cơ quan thiết kế, chế tạo, các trung tâm dịch vụ chuyên môn cao.
Thường xuyên kiến nghị Trung ương ban hành chính sách khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ, đổi mới công nghệ, đầu tư mạo hiểm khai phá xây dựng những ngành kinh tế kỹ thuật mới, hoặc sản xuất sản phẩm có hàm lượng khoa học, công nghệ cao. Bảo hộ mậu dịch đối với hàng nội địa có áp dụng công nghệ mới. Mở rộng dân chủ trong sáng tạo khoa học và quan hệ hợp tác với nước ngoài; bảo đảm bản quyền và quyền sở hữu công nghệ.
Về giáo dục – đào tạo:
Nâng trình độ dân trí, đưa mặt bằng học vấn trong nhân dân ngày càng cao; bồi dưỡng nhân tài nhằm xây dựng đội ngũ chuyên viên khoa học, nhà quản lý và lãnh đạo giỏi phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đổi mới sự nghiệp giáo dục, đa dạng hoá trường lớp, coi trọng cả 3 mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Xây dựng đủ trường lớp theo yêu cầu. Tiếp tục công tác xoá mù chữ và phổ cập tiểu học; phấn đấu đến năm 2000 nâng mặt bằng học vấn của người dân thành phố trong độ tuổi từ 18 đến 35 đạt lớp 7, phổ cập cấp II đối với người dân các quận nội thành, thị trấn và các khu quy hoạch xây dựng đô thị mới theo độ tuổi quy định. Duy trì và phát triển hệ thống giáo dục bổ túc văn hoá. Huy động phần lớn thanh niên (cả nội thành và ngoại thành) có trình độ văn hoá lớp 9 vào các trường bổ túc văn hoá có dạy nghề.
Phối hợp với Bộ Giáo dục - Đào tạo xây dựng hệ trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Mở rộng quy mô đào tạo cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề đáp ứng quy hoạch dài hạn và đồng bộ với quá trình công nghiệp hoá, điện đại hoá. Quan tâm đúng mức công tác chính trị tư tưởng của Đảng và Đoàn trong các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề. Phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động các trường chuyên, lớp chọn và trung tâm chất lượng cao. Bồi dưỡng, đào tạo, xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý ngành đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Có chế độ thích hợp giảm bớt khó khăn về đời sống để ổn định đội ngũ giáo viên, nhất là ở ngoại thành. Nâng dần tỷ trọng đầu tư cho giáo dục – đào tạo từ ngân sách, đồng thời huy động nguồn lực của các thành phần kinh tế và viện trợ quốc tế. Khuyến khích các doanh nghiệp (quốc doanh và ngoài quốc doanh) tổ chức bồi dưỡng, nâng cao và thi tay nghề hàng năm cho lực lượng lao động của mình, ưu tiên cho số công nhân nòng cốt, tích cực. Triển khai thực hiện các chương trình giáo dục quốc gia. Cùng với việc học tập văn hoá, khoa học, phải coi trọng giáo dục đạo đức, rèn luyện thân thể, giáo dục lòng yêu nước, giáo dục chính trị, nuôi dưỡng hoài bão lý tưởng vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phục vụ nhân dân của học sinh, sinh viên.
III.CÁC VẤN ĐỀ VỀ VĂN HOÁ - XÃ HỘI
Đi đôi với tăng trưởng kinh tế, phải giải quyết tốt các vấn đề văn hoá – xã hội; gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong suốt quá trình phát triển.
Dân số: Phấn đấu giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đến năm 2000 còn dưới 1,5%, phối hợp với các tỉnh và sự trợ giúp của Trung ương để hạn chế tăng dân số cơ học. Đaư công tác giáo dục dân số vào các trường phổ thông và trường chuyên nghiệp. Công tác kế hoạch hoá gia đình cần được thực hiện đến các vùng sâu, vùng xa, đến từng gia đình; đưa dịch vụ kế hoạch hoá gia đình đến các cụm dân cư, tăng đầu tư cho lĩnh vực dân số - kế hoạch hoá gia đình từ nguồn ngân sách, nguồn tài trợ nhân đạo quốc tế.
Việc làm: Khuyến khích mọi người dân, mọi thành phần kinh tế ở trong nước cũng như các nhà doanh nghiệp nước ngoài bỏ vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh tạo việc làm (theo quan niệm mọi hoạt động tạo ra thu nhập hợp pháp đều được coi là có việc làm). Chính quyền thành phố hỗ trợ một phần từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, từ ngân sách và các nguồn khác. Khuyến khích các hội, đoàn thể quần chúng và các hội nghề nghiệp mở trường đào tạo lao động kỹ thuật cho các hội viên của mình và nhiều người khác. Giao đất cho hộ nông dân sử dụng ổn định, lâu dài, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Mỗi năm giải quyết 160.000 lao động có việc làm. Dự báo đúng các yêu cầu về các loại lao động, nhất là công nhân kỹ thuật để có kế hoạch đào tạo cung cấp đủ cho các lĩnh vực, trong đó có các khu chế xuất, khu công nghiệp, các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Đời sống: Tiếp tục nâng mức thu nhập các tầng lớp dân cư, nhất là nhân dân lao động. Tạo điều kiện bằng cơ chế, chính sách để huy động các thành phần kinh tế và nhân dân cùng nhà nước thực hiện các chương trình nhà ở; đẩy nhanh tiến độ bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước. Mở rộng và đẩy nhanh hơn nữa cuộc vận động thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Có chính sách vay vốn với lãi suất ưu đãi và thực hiện một số chính sách khuyến khích giúp đỡ các hộ nghèo như miễn giảm thuế, miễn giảm viện phí, học phí... Đề phòng tái đói, mở rộng diện giảm nghèo bằng các hình thức làm ăn hợp tác. Đối với hộ không còn khả năng tạo ra nguồn thu nhập, Nhà nước thực hiện trợ cấp và vận động các hội đoàn quần chúng, các đơn vị sản xuất kinh doanh, các nhà hảo tâm, tranh thủ nguồn viện trợ nhân đạo của nước ngoài để giúp đỡ họ giải quyết khó khăn một cách căn cơ. Các cấp uỷ Đảng cần có Nghị quyết chuyên đề về cuộc vận động này và tổ chức kiểm tra, sơ - tổng kết việc thực hiện trong từng thời gian.
Tổ chức thực hiện Pháp lệnh về người có công với nước, nâng cao chất lượng các phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, chăm sóc các đối tượng chính sách. Xây dựng “quỹ đền ơn đáp nghĩa” chăm lo thường xuyên các đối tượng chính sách.
Tăng cường chăm sóc sức khoẻ nhân dân, đặc biệt là chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Thực hiện tiêm chủng 6 loại vắc-xin phòng bệnh cho trẻ em. Đẩy mạnh công tác bảo vệ và chăm sóc bà mẹ, trẻ em. Phấn đấu thanh toán bệnh phong vào năm 2000. Tiếp tục hạ thấp tỷ lệ sốt rét, nhiễm lao, quản lý bệnh lao chặt chẽ, phát hiện và điều trị kịp thời các nguồn lây. Nghiêm chỉnh chấp hành Chỉ thị của Ban Bí thư và Pháp lệnh của Chính phủ về phòng chống HIV-AIDS, giám sát quản lý nguồn lây, thực hiện an toàn trong tiêm chích, truyền máu. Xây dựng Viện thần kinh, Trung tâm thận niệu, Trung tâm y tế chuyên sâu, Trung tâm kiểm nghiệm dược liệu... đáp ứng yêu cầu phát triển mới của thành phố và khu vực.
Đầu tư xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế. Phát triển dịch vụ khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của Thành phố, nhất là vùng sâu, vùng xa. Từng bước nâng cấp cơ sở và trang thiết bị hiện đại, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ y tế. Đổi mới tổ chức ngành dược và dụng cụ y tế, nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về thuốc chữa bệnh của nhân dân. Khuyến khích hoạt động đông y và kết hợp đông – tây y một cách phù hợp. Cải thiện hệ thống chính sách đối với cán bộ y tế, nhất là cán bộ trung – sơ cấp, y tế cơ sở. Phát triển đội ngũ cán bộ y tế, đổi mới nội dung và hình thức đào tạo với cơ cấu thích hợp từng giai đoạn phát triển, chú trọng chất lượng chuyên môn và giáo dục y đức. Đa dạng hoá các loại hình bảo hiểm y tế, tiếp tục thực hiện chính sách miển giảm viện phí cho các đối tượng bệnh nhân nghèo. Chấn chỉnh và hợp lý hoá công tác bảo hiểm y tế và việc thu viện phí; quy hoạch và tổ chức lại hợp lý ngành Y, Dược trên địa bàn; liên kết chặt chẽ giữa cơ sở trung ương và địa phương. Quản lý chặt chẽ hoạt động y tế tư nhân vào thị trường thuốc tây trên địa bàn thành phố.
Hoạt động thể dục thể thao theo hướng đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia tập luyện; tạo sự chuyển biến tích cực về chất lượng và hiệu quả giáo dục thể chất trong trường học, góp phần tăng cường thể lực cho học sinh. Có cơ chế phù hợp để đảm bảo kinh phí cho việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ vận động viên, huấn luyện viên có đẳng cấp cao; rút ngắn khoảng cách so với các nước trong khu vực về thành tích một số môn thể thao; củng cố các liên đoàn đã có và hình thành một số liên đoàn mới; quy hoạch xây dựng mạng lưới thể dục thể thao cơ sở. Đề cao giá trị nhân văn, ngăn chặn tiêu cực trong hoạt động thể thao.
Trong hoạt động văn hoá – văn nghệ, thông tin báo chí, cần chú trọng phát huy ưu điểm, khắc phục những tồn tại yếu kém vừa qua. Quan tâm bồi dưỡng phát huy nhân tố con người, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, kiến thức văn hoá, sức cảm thụ thẩm mỹ hướng vào mục tiêu xây dựng và bảo vệ thành phố, đất nước; xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh, xây dựng nền văn hoá iên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Chống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Phải vừa phát huy hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông tin báo chí của đội ngũ chuyên nghiệp, vừa phát huy quần chúng tham gia hoạt động văn hoá văn nghệ, báo chí và tổ chức tốt các hoạt động văn hoá cơ sở. Đầu tư thích đáng xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động văn hoá ở nông thôn ngoại thành và các khu dân cư mới.
Nâng nhanh mức sống văn hoá ở ngoại thành. Tạo vành đai xung quanh thành phố cùng những thị trấn nằm giữa công viên cây xanh với kiến trúc văn hoá nhà vườn có nét đặc sắc riêng của mỗi huyện, có sức thu hút dân nội thành đến định cư, vui chơi giải trí lành mạnh; tạo môi trường văn hoá phong phú đa dạng để thu hút khách du lịch trong nước và nước ngoài. Quy hoạch xây dựng một trung tâm văn hoá lớn của khu vực phía Nam, góp phần mở rộng ảnh hưởng văn hoá Việt Nam ra khu vực ASEAN và thế giới. Xây dựng tốt mối quan hệ giao lưu văn hoá với cộng đồng người Việt định cư ở nước ngoài, hướng họ về cội nguồn văn hoá dân tộc, góp phần tích cực xây dựng đất nước. Xây dựng quần thể công trình lịch sử - văn hoá dân tộc tại Thủ Đức theo dự án tổng thể đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận.
Xây dựng khu trung tâm triển lãm nghệ thuật có quy mô tương xứng. Đầu tư thích đáng cho các bảo tàng. Nâng cấp, khai thác, xây dựng mới một số nhà hát. Quy hoạch hệ thống tượng đài. Xây dựng thành phố theo đúng quy hoạch, chú trọng mỹ thuật kiến trúc mang bản sắc dân tộc và sắc thái riêng của thành phố.
Tạo điều kiện để sáng tác nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, điện ảnh, sấn khấu có giá trị và được phổ biến rộng rãi. Tổ chức tốt việc lưu giữ các tác phẩm có giá trị lớn về nghệ thuật. Nâng cao nhận thức trong Đảng, trong nhân dân về vai trò, nhiệm vụ chống chiến lược xâm lược bằng văn hoá của các thế lực thù địch liên kết với các phần tử xấu trong nước; hướng dẫn thị hiếu thẩm mỹ đúng đắn trong nhân dân, trước hết cho thanh niên.
Phê phán và uốn nắn các hiện tượng tiêu cực trong hoạt động văn hoá – văn nghệ, thông tin, quảng cáo đã làm tổn hại lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, pha 1hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc. Quản lý chặt chẽ việc mua bán và cho thuê băng hình, hoạt động vũ trường, Karaoke, nhà văn hoá, câu lạc bộ... Xây dựng gia đình hoà thuận, tiến bộ, văn minh. Xây dựng tác phong công nghiệp trong laođ ộng, đề cao kỷ luật lao động. Vận động rèn luyện đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, xây dựng nếp sống văn minh, lịch sự, nhất là nơi công cộng.
Nâng cao chất lượng hoạt động báo chí, phát huy vai trò quan trọng của báo chí, xuất bản, đồng thời đề cao vai trò lãnh đạo chính trị của các tổ chức đảng và trách nhiệm của từng đảng viên trong cơ quan báo chí, xuất bản, nhất là giám đốc, Tổng biên tập. Tất cả mọi hoạt động báo chí, xuất bản phải hướng vào mục tiêu xây dựng và bảo vệ thành phố, đất nước theo đúng đường lối của Đảng và pháp luật của nhà nước. Nâng cấp Đài truyền hình, Đài phát thanh, mở rộng phạm vi phát sóng, tăng thêm kênh và có nội dung tốt, hấp dẫn.
Chú trọng quy hoạch đào tạo, bổ sung cán bộ văn hoá – văn nghệ, thông tin, báo chí, xuất bản về chính trị và nghiệp vụ, bảo đảm phục vụ tốt cho sự nghiệp phát triển văn hoá – văn nghệ, thông tin, báo chí, xuất bản của thành phố với tầm nhìn xa, rộng luôn giữ thế chủ động tấn công trên mặt trận tư tưởng trong mọi tình huống.
Củng cố Sở Văn hoá Thông tin đủ sức quản lý nhà nước đối với các hoạt động văn hóa – văn nghệ, thông tin, báo chí, xuất bản. Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước với các hội chuyên ngành văn học - nghệ thuật.
Phát huy vai trò các hội trí thức, văn nghệ sĩ, Hội nhà báo. Nâng cấp trụ sở các Hội trí thức, văn nghệ sĩ khang trang hơn, cải thiện đời sống và điều kiện làm việc cho trí thức, văn nghệ sĩ, trước hết đối với những tài năng lớn, ngưới có cống hiến lớn. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng và các cơ quan tham mưu giúp cấp uỷ trong lĩnh vực rất quan trọng, rộng lớn và rất phức tạp này, trên cơ sở nhận thức sâu sắc về vai trò động lực của văn hoá trong qúa trình phát triển toàn diện của thành phố.
Giải quyết tệ nạn xã hội phải kết hợp nhiều biện pháp kinh tế, giáo dục, hành chính, trong đó chú trọng biện pháp hành chính, xử lý nghiêm minh theo luật pháp những vụ việc vi phạm. Bên cạnh việc tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong nhân dân về tác hại của tệ nạn xã hội, các ngành chức năng có kế hoạch nắm và phân loại từng đối tượng để có hướng giải quyết đúng đắn; phải nghiêm trị đối với các chủ chứa, ma cô và những đối tượng chuyên nghiệp khác. Đầu tư xây dựng, sửa chữa các cơ sở giáo dục lao động, dạy nghề cho các đối tượng để họ tìm được việc làm ổn định, trở lại cuộc sống bình thường. Đến năm 2000, giảm rõ rệt tệ nạn xã hội so với năm 1995, nhất là mại dâm, ma tuý.
IV.AN NINH - QUỐC PHÒNG VÀ ĐỐI NGOẠI
Trên cơ sở quán triệt mục tiêu tổng quát về giữ vững và tăng cường ổn định chính trị, các cấp uỷ đảng phải quán triệt sâu sắc nhiệm vụ an ninh - quốc phòng trong tình hình mới; tăng cường giáo dục cán bộ, đảng viên nâng cao cảnh giác, có ý thức chống lại một cách chủ động, hiệu quả mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà bình" của địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá xã hội...
Trên cơ sở tổng kết thực hiễn, cần xây dựng chuyên đề an ninh kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại; quản lý theo pháp luật mọi hoạt động của các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài, các cơ quan của tổ chức quốc tế. Phát hiện và xử lý kịp thời những mầm móng có nguy cơ gây thiệt hại kinh tế và những tổ chức, cá nhân đội lốt kinh tế để hoạt động chính trị.
Xây dựng chuyên đề an ninh tư tưởng – văn hóa. Các cơ quan chức năng có biện pháp phối hợp chặt chẽ để ngăn chặn và xử lý kịp thời sự xâm nhập các tài liệu phản động, các sản phẩm văn hoá độc hại, đấu tranh và xử lý kịp thời những sai trái trong lĩnh vực xuất bản, báo chí, văn học - nghệ thuật, giáo dục – đào tạo, viễn thông... giành thế chủ động đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc đầy nham hiểm của các thế lực thù địch, của những phần tử lợi dụng "tự do, dân chủ nhân quyền" từ bên trong và bên ngoài để chống Đảng và chế độ.
Tăng cường công tác an ninh đối ngoại và bảo vệ chính trị nội bộ. Cấp uỷ trực tiếp lãnh đạo công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Từng ngành, từng đơn vị phải chủ động tự bảo vệ mình; phải làm cho đảng viên và nhân dân thấy rõ nguy cơ "diễn biến hoà bình" từ trong nội bộ là đáng lo ngại. Có kế hoạch phòng chống sự cài cắm, móc nối, mua chuộc của bọn phản động; đấu tranh phê phán và xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên có quan điểm sai trái, viết và tán phát tài liệu chống Đảng, gây chia rẻ nội bộ, đầu độc dư luận, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo.
Thực hiện tốt chính sách tôn giáo và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Có đối sách phù hợp kịp thời đối với những phần tử lợi dụng, đội lốt tôn giáo, dân tộc để tổ chức hoạt động chính trị trái với pháp luật. Cần có biện pháp xử lý nghiêm, kịp thời những hoạt động bất hợp pháp của các tổ chức này.
Hoàn chỉnh và triển khai thực hiện quy chế quản lý người nước ngoài, Việt kiều trong hoạt động và lưu trú. Thực hiện quản lý nội bộ, cán bộ được cử đi tham quan, du lịch, công tác, học tập ở nước ngoài, bảo đảm an toàn chính trị. Chấn chỉnh các đầu mối dịch vụ visa; quản lý chặt chẽ hoạt động của các tổ chức Phi Chính phủ (NGO) và hoạt động đối ngoại nhân dân. Lựa chọn cán bộ tin cậy, có phẩm chất và bản lĩnh chính trị, chuyên môn giỏi để bố trí ở các đơn vị có quan hệ nước ngoài.
Xây dựng vững chắc khu vực phòng thủ của nền quốc phòng toàn dân. Chủ động ngăn ngừa và sẵn sàng đối phó với các tình huống bạo loạn. Thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu nghĩa vụ quân sự hàng năm. Xử lý theo luật định tình trạng thanh niên trốn nghĩa vụ quân sự, quân nhân đào bỏ ngũ.
Phát huy phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Có kế hoạch kiểm tra, sơ kết, tổng kết định kỳ để nâng cao chất lượng và đẩy mạnh phong trào; xây dựng và phát triển lực lượng chính trị nòng cốt tại địa bàn dân cư, nhất là nơi trọng yếu. Tiếp tục củng cố, tổ chức lại tổ dân phố, tổ nhân dân chặt chẽ với số lượng hộ hợp lý. Tăng cường biện pháp quản lý nhân hộ khẩu, nhất là số di dân tự do.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, trước hết là trong nội bộ đảng, chính quyền, cơ quan bảo vệ pháp luật. Cơ quan bảo vệ pháp luật phối hợp với các đoàn thể và Mặt trận đấu tranh phòng ngừa các loại tội phạm; ngăn chặn, xử lý nghiêm các băng nhóm xã hội đen. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật theo tinh thần Chỉ thị 29/BBT. Tiếp tục kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị 15/Bảo vệ CT ở một số cơ quan bảo vệ pháp luật.
Kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tư pháp (bắt, giam giữ, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án...). Phân công, phân cấp rõ ràng, đồng thời có biện pháp lãnh đạo phối hợp chặt chẽ các cơ quan pháp luật.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, tích cực góp phần xây dựng hệ thống văn bản pháp luật ngày càng hoàn thiện.
Tập trung đầu tư thoả đáng về đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, pháp luật, nghiệp vụ..., cho lực lượng vũ trang, cán bộ nhân viên các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan chính quyền. Căn cứ vào tính chất và khối lượng công việc của mỗi ngành mà kiến nghị Trung ương tăng cường biên chế, trang bị phương tiện kỹ thuật thích hợp đi đôi với cải thiện đời sống nhằm phục vụ tốt công tác và chiến đấu. Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách hậu phương quân đội, giải quyết việc làm cho bộ đội xuất ngũ.
Hết sức coi trọng các hoạt động đối ngoại trong thời kỳ mới. Trong quá trình mử rộng quan hệ với các nước, cần có quy chế về mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan ngoại vụ, liên hiệp các tổ chức hoà bình hữu nghị thành phố với cơ quan an ninh, các ban ngành, đoàn thể thành phố nhằm ngăn ngừa những sơ hở, bị lợi dụng trong hoạt động đối ngoại trên các lĩnh vực, kể cả đối ngoại nhân dân.
V.CÔNG TÁC QUẦN CHÚNG:
Nằm trong hệ thống chính trị, công tác quần chúng phải nhằm vào mục tiêu phục vụ lợi ích nhân dân. Thông qua việc chăm lo lợi ích thiết thực của nhân dân mà giáo dục, khơi dậy lòng yêu nước, khai thác tiềm lực của mọi tầng lớp nhân dân vào các phong trào hành động cách mạng, thực hiện thắng lựi mục tiêu xây dựng và bảo vệ thành phố, đất nước.
Xây dựng hệ thống cơ chế thích hợp để bảo đảm và phát huy quyền "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tạo điều kiện để nhân dân hiểu rõ hiện tình đất nước, thành phố, tham gia xây dựng chính quyền và các chính sách chủ trương phù hợp với thực tế cuộc sống. Thông qua các tổ chức quần chúng, xây dựng mạng lưới nắm bắt dư luận xã hội, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân; phân công cấp uỷ viên định kỳ tiếp xúc và giải quyết những vấn đề từ trong công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp quần chúng đặt ra.
Đa dạng hoá các loại hình tập hợp quần chúng theo nhu cầu, sở thích và các hoạt động nghề nghiệp; gắn kết chặt các hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội với các đoàn thể quần chúng; tăng cường phát triển đoàn viên, hội viên. Chú trọng xây dựng tổ chức và lực lượng nòng cốt của hội, đoàn trong tôn giáo, dân tộc và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Mở rộng tập hợp quần chúng, nhân rộng loại hình tốt đi đôi với tăng cường quản lý và kịp thời uốn nắn những lệch lạc. Tăng cường đội ngũ cán bộ có đức, có tài, được rèn luyện thử thách, được quần chúng tín nhiệm, tin cậy cho các đoàn thể, nhất là cho Công đoàn và Đoàn Thanh niên, làm cho mỗi đoàn thể thực sự có bản lĩnh, có sức tập hợp và vận động quần chúng thực hiện các chủ trương của Đảng, chống âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch.
Chuyển mạnh trọng tâm công tác quần chúng và hoạt động của các đoàn thể xuống cơ sở, hướng về cơ sở; củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở, nhất là chi đoàn, chi hội. Xây dựng các mô hình hoạt động ở cơ sở, biểu dương kịp thời và nhân rộng các mô hình tiên tiến.
Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho đoàn viên, hội viên; tập trung bồi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và ý chí tự cường. Chú trọng công tác đối ngoại nhân dân của các đoàn thể quần chúng trong lĩnh vực xã hội, nhân đạo, từ thiện.
Củng cố kiện toàn Ban Dân vận các cấp. Đầu tư xây dựng đội ngũ và có chính sách hợp lý đối với cán bộ làm công tác quần chúng; bố trí đảng viên có năng lực, nhiệt tình và uy tín tham gia công tác mặt trận, đoàn thể. Cấp uỷ đảng phường, xã, khu phố, ấp cần phân công tổ đảng và đảng viên phụ trách công tác quần chúng ở từng tổ dân phố, tổ nhân dân, tổ đoàn thể.
Mặt trận Tổ quốc củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân theo tinh thần Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị. Chú trọng tập hợp những người tiêu biểu, có uy tín và năng lực trong các tầng lớp xã hội; tạo điều kiện phát huy năng lực trí tuệ của tầng lớp trí thức, tiềm năng của giới công thương gia, đồng bào dân tộc, đồng bào tín đồ các tôn giáo và các gia đình có người thân định cư ở nước ngoài. Có biện pháp phối hợp với các đoàn thể và chính quyền đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới trên địa bàn dân cư" theo Thông tri 04 của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Liên đoàn Lao động phối hợp với các ban, ngành liên quan thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VII) về xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới; giáo dục công nhân tinh thần yêu nước, không ngừng nâng cao ý thức giai cấp, tính tổ chức kỷ luật, nắm vững Luật Công đoàn, Luật Lao động. Có kế hoạch nâng cao trình độ văn hoá, tay nghề và cải thiện đời sống công nhân, lao động. Củng cố tổ chức công đoàn cơ sở, chú trọng xây dựng công đoàn trong khu vực tư doanh và đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài. Chấn chỉnh và phát huy hiệu lực công tác thanh tra công nhân, tăng cường vai trò công đoàn trong việc giám sát và tham gia quản lý xí nghiệp, cơ quan nhà nước; bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân, lao động ở các khu vực kinh tế. Nắm và phản ảnh kịp thời những bức xúc của công nhân, lao động trên mọi lĩnh vực để đề xuất các biện pháp bảo vệ công nhân trước những tiêu cực nảy sinh từ mặt trái của cơ chế thị trường.
Hội Nông dân chú trọng phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết giúp đỡ nhau trong sản xuất, tổ chức đời sống, xây dựng nông thôn mới. Có biện pháp khai thác các nguồn vốn giúp nông dân phát triển sản xuất và xây dựng ý thức làm ăn hợp tác; bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan; tổ chức nông dân tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện Luật đất đai, Luật thuế nông nghiệp, giải quyết tranh cấp đất đai; củng cố tổ chức hội ở cơ sở, phát triển hội viên mới.
Hội Liên hiệp Thanh niên và Hội Sinh viên, với vai trò nòng cốt của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện phong trào "Thanh niên lập nghiệp" và "Tuổi trẻ giữ nước”; chăm lo việc học, việc làm và sinh hoạt văn hoá lành mạnh cho thanh niên; mở cuộc vận động "thanh niên tiến quân vào khoa học - kỹ thuật"; khơi dậy nhiệt tình cống hiến và tinh thần xung kích của thanh niên trên các lĩnh vực; khôi phục lại chức năng xã hội của lực lượng Thanh niên xung phong, phát triển các đội hình lớn của thanh niên tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội; mở rộng mặt trận tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp thanh niên vào đoàn, hội, vào các đội, nhóm, chú trọng lực lượng sinh viên - học sinh.
Hội Liên hiệp Phụ nữ tiếp tục thực hiện Nghị quyết 04/BBT về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới và Chỉ thị 37/BBT về công tác cán bộ nữ. Đẩy mạnh phong trào tự rèn luyện, phấn đấu vì sự bình đẳng và tiến bộ của phụ nữ. Tổ chức tốt các phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, chăm lo đời sống, xây dựng gia đình hạnh phúc. Tích cực tham gia phòng chống các tệ nạn xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng và nhân phẩm phụ nữ, trẻ em. Đoàn kết các tầng lớp phụ nữ, củng cố và nâng chất lượng hoạt động của Hội, phát triển hội viên và xây dựng cơ sở hội vững mạnh.
Hội Cựu chiến binh, Câu lạc bộ Cựu kháng chiến, hưu trí tập trung vận động lực lượng cựu chiến binh, cán bộ nghỉ hưu đoàn kết giúp nhau trong cuộc sống; tích cực giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ; hăng hái tham gia các mặt công tác ở địa phương; chú trọng phát huy cán bộ nghỉ hưu còn sức khoẻ và số cựu chiến binh trẻ hoàn thành tốt nghĩa vụ tiếp tục cống hiến, đi đôi với quan tâm chăm sóc tốt lực lượng hưu trí và cựu chiến binh.
Liên hiệp các hội khoa học - kỹ thuật và các Hội văn học - nghệ thuật tổ chức nghiên cứu, nắm vững tình hình giới trí thức thành phố và kiến nghị các chính sách nhằm động viên anh chị em trí thức hăng hái đem tài năng trí tuệ góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và thành phố, góp sức đào tạo thế hệ trẻ, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chống văn hoá lai căng, độc hại.
Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tiếp tục cuộc vận động và hỗ trợ kiều bào đang sinh sống ở nước ngoài nâng cao ý thức cộng đồng, mở rộng và tăng cường đoàn kết, tương thân, tương trợ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời tiếp tục góp phần xây dựng quê hương đất nước, xây dựng thành phố.
VI.XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ
Khắc phục yếu kém, phát huy vai trò và hiệu lực của chính quyền các cấp vừa là nhiệm vụ trung tâm, vừa là giải pháp quan trọng coý nghĩa quyết định sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và ổn định chính trị trong những năm tới.
Các cấp uỷ đảng cần phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, xác định mối quan hệ trách nhiệm, chế độ phân công và kiểm tra quá trình triển khai mọi chủ trương, chính sách của Đảng đối với cơ quan chính quyền, vừa phát huy hiệu lực của chính quyền, vừa khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng.
Để các nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống phải thể chế hoá thành các nghị quyết của Hội đồng Nhân dân, thành các quy định, kế hoạch, chương trình... của cơ quan chính quyền để tổ chức chỉ đạo các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân thực hiện. Trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh và đối ngoại cần làm rõ và phát huy tốt vai trò chức năng quản lý, điều hành của chính quyền và sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng. Trong lĩnh vực tư pháp, Đảng lãnh đạo đường lối xét xử, đồng thời bảo đảm cho Toà án, Viện Kiểm sát Nhân dân tuân thủ pháp luật khi thi hành nhiệm vụ. Nâng cao vai trò, xác định rõ trách nhiệm của Đảng đoàn HĐND và Ban cán sự đảng UBND các cấp. Đảng lãnh đạo chính quyền thực hiện tốt nhiệm vụ là cơ quan chính quyền địa phương; bảo đảm mọi quy định hành chính trên địa bàn phải thống nhất và phù hợp với các văn bản pháp luật của cấp trên.
Củng cố mối quan hệ mật thiết giữa chính quyền với nhân dân. Hoạt động của chính quyền phải thể hiện được “Nhà nước của dân, do dân và vì dân", lấy nguyện vọngvà quyền lợi chính đáng của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu và nội dung hoạt động của mình. Chính quyền phải thực sự là "công bộc của nhân dân” trong quản lý mọi hoạt động xã hội, xây dựng pháp luật và đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật. Hội đồng Nhân dân các cấp phải bảo đảm đủ năng lực thế chế hoá các nghị quyết của Đảng, thể hiện được vai trò cơ quan quyền lực nhà nước của dân, đại biểu ý chí, lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Trong khi chưa có đại biểu HĐND chuyên trách, cần nghiên cứu chế độ công vụ cho các đại biểu không phải là công chức để họ có điều kiện về kinh phí, thông tin và thời gian... làm tốt chức trách tại các kỳ họp và thực hiện chức năng giám sát bộ máy hành chính, tham gia giải quyết các khiếu tố của công dân.
Củng cố và xây dựng quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền với UBMTTQ, các đoàn thể và các tổ chức xã hội, để các tổ chức này hỗ trợ đắc lực cho chính quyền trong việc triển khai thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các quyết định của chính quyền; phản ánh ý kiến nhân dân đối với chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Tiếp tục thực hiện chương trình hành động của Thành uỷ (Khóa V) thực hiện Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương 8 về cải cách một bước nền hành chánh Nhà nước ở thành phố:
Xây dựng mối quan hệ quản lý đúng đắng, chặt chẽ trên cơ sở phân công trách nhiệm thực hiện công vụ cụ thể giữa cơ quan chính quyền với nhau và giữa cấp trên với cấp dưới; bảo đảm hoạt động quản lý nhà nước được thông suốt, liên tục và có hiệu quả.
Khẳn trương cải tiến tổ chức, sắp xếp lại bộ máy hành chính, xác định nội dung hoạt động theo hướng tinh gọn, tăng cường hiệu lực và hiệu quả công tác, nâng cao trách nhiệm trước công việc được giao, thực hiện chế độ uỷ nhiệm công vụ thích hợp để giảm số lượng các cơ quan hành chính và giảm bớt đầu mối.
Nghiên cứu đề xuất với Trung ương một cơ cấu tổ chức chính quyền đô thị phù hợp với quy mô, đặc điểm và phương hướng phát triển của Thành phố trong thời gian 5 năm tới và những năm tiếp theo. Trước mắt, tập trung xây dựng cấp phường, xã đủ sức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Tiếp tục tách chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh. Sắp xếp, kiện toàn và có cơ chế phối hợp hoạt động của các ngành chức năng, làm cho từng ngành có đủ năng lực chuyên sâu, đồng thời tạo sự đồng bộ, nhạy bén và hiệu quả trong công tác quản lý kinh tế - xã hội của chính quyền thành phố. Gắn liền việc cải tiến tổ chức bộ máy với việc sắp xếp lại công sở cấp Quận, Huyện, Thành phố và trang bị phương tiện hiện đại, nâng cao chất lượng hoạt động bộ máy hành chính.
Cải cách thể chế hành chính, trước hết là thủ tục hành chính phải đi đôi với cải cách tổ chức và cán bộ là biện pháp quan trọng cấp bách hiện nay. Trước hết , cần tập trung cải cách thủ tục hành chính ở các lĩnh vực có yêu cầu cấp bách và liên quan nhiều nhất đến đời sống của nhân dân, các khâu có tínhđ ột phá để tiếp tục cải cách toàn diện nền hành chính nhà nước ở thành phố (trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhà đất, xây dựng, đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài...). Thực hiện chế độ công khai, giảm bớt đầu mối trong thủ tục hành chính. Gỉai quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Xây dựng lại quy chế, kiện toàn tổ chức tiếp dân ở từng cấp, từng ngành, bố trí cán bộ lãnh đạo các cấp tiếp dân theo định kỳ. Chấn chỉnh thái độ, phong cách làm việc, tiếp xúc nhân dân của cán bộ viên chức nhà nước.
Thực hiện việc kiểm tra, giám sát của cơ quan chuyên môn (Thanh tra, Kiểm sát...), đồng thời kết hợp với sự kiểm tra, giám sát của nhân dân và đại biểu cử tri. Coi trọng đúng mức và tổ chức tốt việc kiểm tra, giám sát, xem đây là công cụ then chốt trong hoạt động xây dựng nhà nước ở thành phố trong giai đoạn mới. Xử lý kịp thời và nghiêm minh những vi phạm của các cơ quan và viên chức hành chính, cũng như đối tượng quản lý. Cải cách hệ thống các cơ quan kiểm tra giám sát; giảm các đầu mối đang phân tán trong hoạt động kiểm tra giám sát hiện nay. Củng cố các cơ quan xét xử và thi hành án từ thành phố đến quận huyện. Chỉ đạo xây dựng và hoạt động các Toà án hành chính, Toà án lưu động...
Thực hiện chế độ trách nhiêm công vụ của công chức, cơ sở của việc tuyển dụng và quản lý hoạt động đội ngũ công chức. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, viên chức, tăng cường cán bộ đủ trình độ, năng lực và phẩm chất chính trị cho các cấp, các ngành trọng yếu. Công chức nhà nước phải trung thành với chế độ, tận tuỵ phục vụ nhân dân, có phẩm chất liêm khiết, chí công vô tư. Đổi mới chế độ tuyển dụng công chức; đào tạo mới và đào tạo bổ sung bảo đảm có đủ năng lực, phẩm chất và tâm huyết phục vụ chính quyền, phục vụ nhân dân trong thời gian tới; quan tâm thích đáng sự kế thừa giữa các thế hệ cán bộ, viên chức. Đến năm 2000, tất cả viên chức trong các cơ quan Nhà nước phải thực hiện đúng quy chế công chức Nhà nước về trình độ, năng lực chuyên môn và chế độ trách nhiệm.
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào quần chúng tham gia 4 cuộc vận động: đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu, chống lãng phí thực hành tiết kiệm, giảm phiền hà nhân dân. Định kỳ sơ kết từng cuộc vận động để rút kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện có hiệu quả hơn. Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban chỉ đạo từng cuộc vận động ở các cấp. Sớm tổ chức nghiên cứu, tổng kết nắm chắc cán dạng tham nhũng, buôn lậu, lãng phí, chỉ rõ nguyên nhân, làm cơ sở đề ra các biện pháp hữu hiệu để phát hiện, ngăn ngừa và đấu tranh mang lại kết quả rõ rệt.
Phần thứ ba
Xây dựng Đảng bộ và Đoàn thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh
Công tác xây dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt; gắn liền với xây dựng Đảng, phải chăm lo bồi dưỡng xây dựng đội hậu bị của Đảng là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ngày càng phát triển về số lượng, nâng cao về chất lượng. Mấy năm qua, mặc dù công tác xây dựng Đảng và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có nhiều nỗ lực và có những tiến bộ đáng kể, những vẫn còn những khuyết điểm lớn, trong đó có vấn đề đòi hỏi phải giải quyết cơ bản là xây dựng Đảng bộ và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân và nhân dân lao động, khắc phục bệnh quan liêu trong nội bộ của Đảng, của Đoàn, đủ sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong tình hình đổi mới.
Xuất phát từ thực trạng và yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành phố, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng bộ và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của thành phố trong những năm tới là: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong sạch về phẩm chất đạo đức, đoàn kết thống nhất nội bộ và gắn bó mật thiết với nhân dân,... Phát huy truyền thống kiên cường, sáng tạo của Đảng bộ, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò đội dự bị và xung kích của Đoàn, bảo đảm thực hiện thắng lợi các mục tiêu do Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VI và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đề ra, góp phần quyết định thành công trong công cuộc đổi mới của Đảng.
I. CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, cán bộ, đảng viên dễ bị lôi cuốn vào những hoạt động không lành mạnh, tạo thêm điều kiện cho các nhân tố tự phát tư bản chủ nghĩa phát triển và những sơ hở cho các thế lực thù địch tấn công vào Đảng. Vì vậy, công tác chính trị tư tưởng phải nhằm:
Thấm nhuần bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng, nhận rõ sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân trong tình hình mới, bảo đảm cho Đảng bộ thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, là hạt nhân lãnh đạo chính trị các phong trào hành động cách mạng của nhân dân thành phố; kết hợp nhuần nhuyễn tư tưởng tiên tiến của giai cấp công nhân với tinh hoa, truyền thống và bản sắc dân tộc. Có chương trình giáo dục bản chất giai cấp công nhân cho đảng viên, nhất là đảng viên mới được kết nạp.
Xây dựng trong toàn Đảng bộ tinh thần tự giác và ý chí cách mạng tiến công, dấy lên phong trào học tập, rèn luyện (học tập lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, học quản lý, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ...) nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, kiến thức, năng lực trí tuệ, hoàn thành tốt nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành phố.
Tăng cường giáo dục phẩm chất, đạo đức cách mạng, giữ gìn lẽ sống và lối sống đẹp, lành mạnh của cán bộ, đảng viên; khắc phụ tệ chủ nghĩa ca 1nhân, cơ hội chủ nghĩa biểu diện dưới mọi hình thức; ngăn ngừa những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường vào nội bộ Đảng. Trong sinh hoạt chi bộ và sinh hoạt các cấp uỷ, cần đưa việc đấu tranh xây dựng đoàn kết nội bộ, chấp hành nghiêm túc điều lệ đảng, đóng góp xây dựng Đảng thành nề nếp.
Giáo dục ý thức cảnh giác cách mạng, kịp thời đấu tranh với những âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; khắc phục sự mơ hồ, bàng quan trước cuộc đấu tranh giai cấp đang diễn ra dưới nhiều hình thái khác nhau, vừa quyết liệt vừa phức tạp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Định kỳ báo cáo thời sự và nhận định tình hình thành phố, đất nước và thế giới, định hướng nhận thức cho đảng viên.
Làm cho Đảng bộ gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân và nhân dân, khơi dậy và phát huy năng lực sáng tạo của giải cấp công nhân và nhân dân thành phố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh công – nông – trí với vai trò nòng cốt của Đảng, đưa sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh không ngừng tiến lên.
Tổ chức cho toàn Đảng bộ nghiên cứu quán triệt những định hướng lớn về công tác tư tưởng nêu trong Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị (Khoá VII), Nghị quyết Đại hội VIII, gắn với việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VI và những bài học qua tổng kết thực tiễn đổi mới. Bằng những hình thức phù hợp với trình độ từng đối tượng, tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới; đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, nêu cao ý thức tự giác rèn luyện, tu dưỡng của đảng viên; có chương trình học tập bắt buộc và biện pháp giáo dục phẩm chất cộng sản cho cán bộ, đảng viên, có sự kiểm tra giám sát của chi bộ.
Kiện toàn và sắp xếp hợp ý các tổ chức làm công tác tư tưởng, công tác giáo dục lý luận chính trị; tăng cường và củng cố Trường chính trị thành phố; xây dựng Trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện; đưa giáo dục lý luận chính trị vào các trường trung học, cao đẳng, đại học và trường dạy nghề, trường của các đoàn thể một cách thích hợp. Có chính sách thu hút để tăng số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác chính trị tư tưởng, giảng viên và báo cáo viên lý luận – chính trị, thời sự.
II.CÔNG TÁC TỔ CHỨC:
Cùng với việc tăng cường chỉ đạo xây dựng các loại hình tổ chức cơ sở, bảo đảm làm hạt nhân lãnh đạo chính trị ở địa phương, cơ quan hành chính sự nghiệp, cần tập trung chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là các doanh nghiệp có vốn và doanh số lớn, có đông công nhân và lĩnh vực quan trọng.
Để nâng cao chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng, trước hết phải củng cố xây dựng tốt nội bộ từng cơ sở, xác định được nhiệm vụ phải làm từng thời gian trong nhiệm kỳ. Trong điều kiện hiện nay, ngoài nhiệm vụ thường xuyên theo quy định của Điều lệ Đảng, yêu cầu chủ yếu của việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng là phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, bảo đảm cho đảng bộ, chi bộ cơ sở phát huy được vai trò hạt nhân lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị đối với địa phương, đơn vị mình đúngđ ịnh hướng xã hội chủ nghĩa và đúng pháp luật. Nâng cao tính chiến đấu trong sinh hoạt và hoạt động của cơ sở tổ chức đảng, nhất là cơ sở đảng ở các đơn vị doanh nghiệp, cơ quan hành chính sự nghiệp, đồng thời coi trọng rút kinh nghiệm về phương thức lãnh đạo đối với loại hình tổ chức cơ sở này. Kiên quyết khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng, chống thoái hoá biến chất, lối sống sa đoạ trong cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng và hoạt động của các cấp uỷ. Thước đo chất lượng lãnh đạo của đảng bộ cơ sở là phải có sự chuyển biến tích cực về mọi mặt trong từng thời gian ở địa phương, đơn vị mình.
Tiếp tục kiện toàn các cấp uỷ cơ sở, nhất là bí thư. Cấp uỷ viên phải có năng lực, có tâm huyết với công tác đảng, có uy tín đối với đảng viên và quần chúng; định kỳ bồi dưỡng nhận thức chính trị và nghiệp vụ công tác đảng cho cấp uỷ cơ sở.
Tổ chức sơ kết rút kinh nghiệm, bổ sung các quy định, quy chế làm việc của các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Coi trọng việc chỉ đạo thực hiện công tác xây dựng đảng ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trước hết ở những đảng bộ có nhiều doanh nghiệp và có đông công nhân lao động.
Đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; đưa việc bình chọn đi dần vào nền nếp, có hcất lượng và có tác dụng giáo dục động viên các cơ sở đảng phấn đấu đạt danh hiệu “Cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh”.
Đổi mới nội dung, phương thức sinh hoạt đảng, sinh hoạt chi bộ có hcất lượng và hiệu quả thiết thực (mỗi chi bộ cần phải có sổ ghi chép sinh hoạt và phản ánh nội dung sinh hoạt thường kỳ); coi trọng củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của chi bộ bộ phận (đường phố, ấp, phân xưởng, phòng, khoa, cửa hàng...) bảo đảm đưa đường lối, quan điểm của Đảng vào quần chúng một cách đầy đủ và nhanh nhất; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng quần chúng, góp phần giải quyết những yêu cầu bức xúc của quần chúng và báo cáo lên cấp trên.
Sơ kết rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đảng đoàn, ban cán sự, đảng uỷ khối để tiếp tục thành lập ở các ngành, sở còn lại; nghiên cứu tổ chức lại một số đảng uỷ cấp trên cơ sở phù hợp với việc cải cách nền hành chính nhà nước. Tập trung sắp xếp, tăng cường cán bộ nhằm nâng cao chất lượng hoạt động các Ban của Thành uỷ.
Trong công tác đảng viên, cần nghiên cứu cụ thể hoá tiêu chuẩn chính trị gắn với cương vị công tác khác nhau, làm cơ sở cho việc phấn đấu nâng cao chất lượng đảng viên. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung nội dung và biện pháp phân tích chất lượng đảng viên theo hướng đơn giản, có tác dụng giáo dục và động viên. Từng tổ chức cơ sở có kế hoạch bồi dưỡng phát huy đảng viên phấn đấu tốt, đồng thời có biện pháp cụ thể, tích cực giúp đỡ đảng viên “trung bình”, đảng viên “yếu kém” phấn đấu vươn lên. Thực hiện nghiêm túc định kỳ chế độ tự phê bình và phê bình thành nền nếp, tự giác đi đôi với biện pháp quản lý đảng viên. Đảng viên làm kinh tế phải đúng luật pháp và điều lệ Đảng, nhưng không được làm kinh tế tư bản tư nhân.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác phát triển đảng, đặc biệt trong thanh niên, để tăng sức chiến đấu và trẻ hoá đội ngũ đảng viên. Chú ý phát triển đảng trong công nhân, trí thức, sinh viên, cán bộ quản lý và quần chúng lao động ưu tú ở cơ sở, những nơi chưa có hoặc có ít đảng viên, những địa bàn trọng yếu, những nơi có đông người Hoa, đồng bào có đạo, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài... Có quy chế sinh hoạt cho đảng viên hoạt động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đến năm 2000, có 2/3 tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh; có 70% cơ sở Đảng có phát triển đảng viên mới.
III. CÔNG TÁC CÁN BỘ
Mục tiêu quan trọng nhất của công tác cán bộ từ nay đến năm 2000 là phải gấp rút quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý chủ chốt các ngành, các cấp. Phải thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại do cán bộ tốt hay kém”. Trong quy hoạch, phải chú ý chọn lựa cán bộ bảo đảm sự kiện định về quan điểm chính trị, có tâm huyết vì lợi ích và sự nghiệp cách mạng, có năng lực, trí tuệ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới, có phẩm chất và lối sống trong sáng, có uy tín trong đảng và quần chúng; chống những thiên kiến hẹp hòi trong lý lịch, nhưng cũng không buôn lỏng quản lý qua lý lịch. Các cấp uỷ phải có kế hoạch cụ thể nhằm lựa chọn, quản lý, bồi dưỡng, đào tạo, thử thách cán bộ hiện tại bảo đảm tính kế thừa. Có chương trình đào tạo cơ bản và đồng bộ đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp, các chuyên gia, cán bộ cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ luật pháp, cả về quan điểm chính trị, đạo đức phẩm chất và nghiệp vụ chuyên môn. Cần coi trọng quy hoạch cán bộ làm công tác Đảng, nhất là công tác tổ chức, công tác tư tưởng; quan tâm đào tạo cán bộ làm công tác vận động quần chúng, công tác tôn giáo, dân tộc, cán bộ làm báo chí, cán bộ nữ. Song song việc đào tạo, phát huy số cán bộ trẻ, cần có kế hoạch sử dụng tốt số cán bộ tuy lớn tuổi nhưng còn sức khoẻ, nhiệt tình, có bản lĩnh chính trị và có năng lực.
Gắn liền với việc xác định chiến lược kinh tế - xã hội đến những năm sau 2000, cần xây dựng một chiến lược cán bộ của thời kỳ mới theo hướng bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển của đội ngũ cán bộ trẻ. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo qui hoạch và kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ chuẩn bị cho những năm sau 2000 từ trong công nhân, con em gia đình cán bộ, gia đình chính sách, trong đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, sinh viên và trí thức trẻ ưu tú, cán bộ cơ sở, bộ đội làm xong nghĩa vụ quân sự... Đây là vấn đề chiến lược có ý nghĩa quyết định. Để giúp cấp uỷ làm tốt nhiệm vụ này, các cấp, các ngành cần có bộ phận chuyên lo, có phân công đặc trách về công tác quy hoạch, phát hiện, tạo nguồn, đào tạo cán bộ lâu dài, do Thường vụ cấp uỷ, Ban cán sự đảng, Đảng đoàn trực tiếp chỉ đạo.
Đổi mới nội dung và phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Ngoài yêu cầu bồi dưỡng quan điểm chính trị đúng đắn và xây dựng phẩm chất cộng sản, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ còn phải nhằm tạo ra những cán bộ có kiến thức rộng, có năng lực lãnh đạo, quản lý và thực hành giỏi, có nghiệp vụ cao, năng động sáng tạo, đồng thời được trui rèn trong thực tiễn. Đến năm 2000, đảng viên là cán bộ lãnh đạo và quản lý từ cấp quận, huyện trở lên trong độ tuổi 45 trở xuống phải qua lớp lý luận chính trị cao cấp và có một bằng đại học.
Đổi mới quan niệm và phương pháp đánh giá, bố trí cán bộ. Phải xét theo tiêu chuẩn cán bộ thông qua thử thách thực tiễn và hiệu quả công tác; bảo đảm dân chủ, tập thể và tuân theo một qui trình chặt chẽ; tránh chủ quan, gượng ép, áp đặt, vị nể cá nhân... Bố trí cán bộ phải trên cơ sở quy hoạch, bố trí đúng sở trường, đúng ngành nghề đã được đào tạo bồi dưỡng.
Cần có quy chế phân cấp quản lý và bảo vệ cán bộ. Có những quy định và biện pháp chủ động ngăn chặn, đề phòng cán bộ bị mua chuộc, sa ngã, ngăn ngừa tình trạng “chảy máu chất xám” từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Trong thời kỳ phát triển mới rất phức tạp, nhiều cạm bẩy, phải đặc biệt chú trọng việc bảo vệ cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ.
Thực hiện đúng, đủ các chính sách cán bộ, như chính sách tiền lương, chính sách đối với cán bộ cơ sở, cán bộ nữ, cán bộ đi học, cán bộ nghỉ hưu. Một mặt, phải nghiêm túc chấp hành đúng quy định của Trung ương; mặt khác cần kiến nghị Trung ương sửa đổi, bổ sung những điều chưa hợp lý (chú ý cán bộ đầu đàn, lao động trong hoàn cảnh phức tạp...), đồng thời tự chịu trách nhiệm giải quyết những chính sách hợp lý mà thành phố có khả năng, không trái với quy định chung.
Nghiên cứu đề xuất chính sách đãi ngộ cho cán bộ phường, xã, khu phố, ấp, cán bộ chuyên trách làm công tác đảng, đoàn thể ở các xí nghiệp.
IV. CÔNG TÁC KIỂM TRA
Tăng cường biện pháp giáo dục đảng viên và tổ chức đảng chấp hành nghiêm túc Điều lệ Đảng, kiểm tra việc chấp hành chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Đảng; kiểm tra việc thực hiện quy chế làm việc và nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, giáo dục nhắcnhở đảng viên thường xuyên rèn luyện giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng, coi trọng việc ngăn ngừa sai phạm trong nội bộ đảng, tích cực đấu tranh chống tiêu cực, chống tham nhũng, làm trong sạch nội bộ đảng. Phải xử lý nghiêm minh, kịp thời những trường hợp cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước; bảo đảm tính khách quan, chính xác, kịp thời, công minh; đồng thời khuyến khích và nâng cao tinh thần tự giác sửa chữa khuyết điểm của đảng viên. Việc giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo phải góp phần xây dựng, củng cố nội bộ, không để xảy ra tình hình mất đoàn kết nội bộ, bảo đảm tính tổ chức kỷ luật, kỷ cương thống nhất trong Đảng. Tiến hành kiểm tra thường xuyên công tác tài chính của Đảng, nhất là các đơn vị làm kinh tế Đảng, kịp thời uốn nắn và ngăn chặn không để tiêu cực xảy ra.
Quan tâm giáo dục, giúp đỡ đảng viên bị kỷ luật để các đồng chí đó sửa chữa khuyết điểm, phấn đấu vươn lên. Phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp thực hiện tốt công tác kiểm tra, giải quyết nhanh những trường hợp đảng viên vi phạm pháp luật. Củng cố hệ thống kiểm tra các cấp, nhất là kiểm tra cơ sở có đủ phẩm chất chính trị, có đảng tính, trong sạch và khách quan; đồng thời bồi dưỡng nâng cao nhận thức, đạo đức và trình độ nghiệp vụ công tác kiểm tra cho cán bộ kiểm tra bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ.
V. ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Cấp uỷ đảng lãnh đạo các cơ quan chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội bằng nghị quyết, quyết định, bằng việc xác định quan điểm, phương hướng, nguyên tắc giải quyết, xử lý những vấn đề cụ thể có ý nghĩa quan trọng, quan hệ đến nhiều tầng lớp nhân dân. Khi chuẩn bị ra nghị quyết về một ngành hoặc lĩnh vực nào, thì cấp uỷ lấy ý kiến của ngành hoặc cơ quan, đoàn thể có liên quan, hoặc giao cho ngành, đoàn thể đó trực tiếp chuẩn bị dự thảo, có sự thẩm định của Ban Đảng trước khi trình cấp uỷ thảo luận và quyết định. Trong cùng một lĩnh vực, một nghị quyết nào đó chưa thực hiện xong thì không ra nghị quyết mới mà phải có biện pháp kiểm tra tìm hiểu nguyên nhân và vạch kế hoạch cụ thể, phân công chịu trách nhiệm tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt nghị quyết đã có.
Khi có nghị quyết, quyết định hoặc phương hướng chỉ đạo của cấp uỷ, các Đảng đoàn, Ban Cán sự nghiên cứu cụ thể hoá thành chương trình cộng tác, thành văn bản pháp quy, kế hoạch cụ thể để tổ chức các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân thực hiện. Thành uỷ định kỳ làm việc với Ban Cán sự Đảng ngành trung ương đóng trên địa bàn thành phố.
Trong những năm tới, các cấp uỷ đảng phải coi trọng lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII) về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính”, coi đó là khâu quyết định để sự lãnh đạo của Đảng tác động có hiệu quả vào các lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua hệ thống nhà nước. Các cấp uỷ đảng phải nghiêm túc thực hiện Quyết định 44 của Bộ Chính trị thống nhất lãnh đạo và quản lý công tác tổ chức cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể.
Thông qua việc kiểm tra các tổ chức đảng (đảng đoàn, ban cán sự, đảng uỷ cấp trên cơ sở và đảng bộ, chi bộ cơ sở) và đảng viên (kể cả đảng viên là cấp uỷ viên, là thủ trưởng), các cấp uỷ đảng phát huy những việc làm tốt, đúng đường lối, Nghị quyết của Đảng và pháp luật nhà nước, phê bình, uốn nắn những lệch lạc, việc làm sai trái, thúc đẩy các mặt công tác của cơ quan nhà nước và các đoàn thể phát triển đúng định hướng lãnh đạo của cấp uỷ. Đặc biệt, cần phải đi sâu đột phá đối với các Đảng bộ hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp, tổ chức đảng ở cơ sở ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, để xây dựng phương thức lãnh đạo có hiệu quả ở các loại hình tổ chức này.
Bám sát cơ sở, hiểu đúng tình hình, có phương pháp phù hợp, chỉ đạo làm thử, sơ kết, tổng kết, phát hiện và nhân rộng nhân tố mới có tính sáng tạo... là phong cách lãnh đạo không thể thiếu được của mỗi cấp uỷ đảng, của từng cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành.
VI. XÂY DỰNG ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH THẬT SỰ VỮNG MẠNH VỀ TƯ TƯỞNG VÀ TỔ CHỨC XỨNG ĐÁNG LÀ ĐỘI DỰ BỊ TIN CẬY CỦA ĐẢNG.
Đảng có nhiệm vụ chăm lo xây dựng Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh thật sự trở thành môi trường giáo dục lý tưởng yêu nước, lý tưởng cộng sản của thanh niên; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ, xây dựng lớp thanh niên có giác ngộ chính trị, có hoài bão lớn, có tri thức và năng lực hoạt động thực tiễn cao, thật sự là lực lượng rường cột, xung kích thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục đưa Nghị quyết 4 (khoá VII) về công tác thanh niên vào cuộc sống.
Xây dựng Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh thật sự vững mạnh về tổ chức; nâng cao chất lượng hoạt động của cơ sở đoàn và đoàn viên, đủ sức làm nòng cốt trong Hội Liên hiệp thanh niên và Hội sinh viên nhằm mở rộng tập hợp, đoàn kết các tầng lớp thanh niên, phụ trách tốt Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh..., thông qua đó mà phát hiện, giáo dục, bồi dưỡng đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng.
Các cấp uỷ và mỗi đảng viên cần nhận rõ vai trò của Đoàn để có ý thức trách nhiệm giáo dục, giúp đỡ đoàn viên thanh niên và tổ chức đoàn ở cơ sở không ngừng rèn luyện ý chí cách mạng tiến công, phẩm chất chính trị, tư tưởng, giỏi về khoa học xã hội, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới; tinh thông về khoa học - kỹ thuật, đủ sức làm hạt nhân nòng cốt cho phong trào hành động cách mạng của các tầng lớp thanh niên ở cơ sở luôn có định hướng.
Các cấp uỷ và các ban, ngành chức năng thường xuyên lắng nghe và giải quyết các kiến nghị của Đoàn, tạo điều kiện cho đoàn viên và thanh niên lao động và học tập; có chương trình công tác thanh niên lao động và học tập; có chương trình công tác thanh niên, định kỳ làm việc với ban chấp hành đoàn, mạnh dạn giao cho Đoàn những “công trình” cụ thể, qua đó phát hiện tạo nguồn bồi dưỡng và quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở. Chú trọng lãnh đạo củng cố tổ chức đoàn ở cơ sở, nhất là các địa bàn xung yếu, các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh. Bồi dưỡng, đào tạo cán bộ đoàn, hình thành nguồn cán bộ cho Đảng, phấn đấu nâng tỷ lệ kết nạp đảng viên mới từ đoàn viên thanh niên trên 50%.
Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VI ý thức sâu sắc trách nhiệm một thành phố trung tâm của khu vực và của các nước đang chuyển sang thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với xu hướng có nhiều thuận lợi, nhưng không ít khó khăn và chứa đựng nhiều nhân tố phức tạp. Với truyền thống đoàn kết và cách mạng, Đảng bộ thành phố ra sức khắc phục những yếu kém, tồn tại, bám sát thực tiễn và gắn bó với quần chúng, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, động viên toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân thành phố phát huy tính năng động sáng tạo, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mục tiêu Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VI và Đại hội VIII của Đảng ở thành phố mang tên Bác.