(do đồng chí Mai Chí Thọ, quyền Bí thư Thành uỷ trình bày)
Ba năm qua, thành phố có nhiều biến đổi quan trọng. Từ tháng 9 năm 1985 về trước, tuy có nhiều khó khăn, phức tạp nhưng tình hình chung phát triển tương đối thuận lợi theo sự chuyển hướng chiến lược về lãnh đạo và quản lý kinh tế của Trung ương, từ khi có các sai lầm vể tiền và tổng điều chỉnh giá tình hình càng phức tạp hơn và có nhiều khó khăn nghiêm trọng nhất là trên lĩnh vực giá cả, thị trường tiền tệ và đời sống.
Những khó khăn mới đã hạn chế thắng lợi đồng thời cũng dễ làm cho nhiều người khó nhận ra những thành quả đã đạt được.
Đại hội Đảng bộ thành phố lần này có nhiệm vụ nặng nề là hải đánh giá đúng những thành quả đã đạt được, những thiếu sót sai lầm đã mắc phải, vạch ra phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ đúng đắn để đưa thành phố vượt qua khó khăn, tiếp tục đi lên một cách mạnh mẽ và vững chắc trong công cuộc cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc góp phần tích cực tháo gỡ những khó khăn chung nhằm ổn định tình hình, thực hiện có kết quả nghị quyết Đại hôi toàn quốc lần thứ IV của Đảng.
PHẦN THỨ NHẤT
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI V NGHỊ QUYẾT 01 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VÀ NGHỊ QUYẾT ĐẠi HỘi III CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ
Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, trong điều kiện phải vượt qua rấy nhiều khó khăn, đã liên tục đạt được các chỉ tiêu về giá trị tổn sản lượng và tốc độ phát triển do Đại hội II đề ra (14,9%/10 – 15%). Các cơ quan công nghiệp trên địa bàn thành phố cả xí nghiệp trung ương và địa phương) đã chú ý đầu tư chiều sâu, trang bị thâm một số thiết bị phụ tùng, xây dựng một cơ sở mới để sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng.Riêng công nghiệp địa phương trong 3 năm đả đầu tư trên 30 triệu R/USD để xây dựng và mở rộng các cơ sở dệt, đay, chế biến hàng xuất khẩu, mở rộng liên kết kinh tế với một số tỉnh để tạo nguồn hàng xuất khẩu. Có những cơ sở công nghiệp đã sản xuất được một số tư liệu sản xuất phục vụ công nghiệp nông nghiệp trước đây phải nhập khẩu. Một số ngành công nghiệp của thành phố đã kiên trì thực hiện chủ trương giao quyền chủ động cho cơ sở, bước đầu mở rộng liên kết kinh tế tạo ra một số sản phẩm mới, Tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp tiếp tục phát triển thu hút được nhiều lao động, sản xuất thêm nhiều mặt hàng đa dạng và phong phú. Quyết định 34 của Ủy ban Nhân dân thành phố, tuy mới triển khai đã khơi dậy thêm tiềm năng sản xuất trong nhân dân, tạo việc làm cho gần 1 vạn lao động.
Tuy nhiên, sản xuất vẫn bấp bênh, quản lý sản xuất chưa mặt, năng suất và hiệu quả đầu còn thấp. chất lượng nhiều sàn phẩm ngày càng sút, kém, là, giả, uy tính ở trong nước và đới với khách hàng nước ngoài. Công nghiệp quốc doanh chưa thật sự phát huy được vai trò chủ đạo. Một số sản phẩm tiểu thủ công nghiệp như thuốc lá, nước trái cây lên men, mỹ phẩm … phát triển tự phát nhiều nơi. Vật tư nguyên liệu thiếu và không đồng bộ, phân phối chưa hợp lý, chạy lòng vòng, bị đẩy giá lên quá cao, tình trạng hư hòng, thất thoát cònnghiêm trọng. Tuy ngành vật tư đã cố gắng phục vụ sản xuất, nhưng những khuyết điểm trên vẫn chưa khắc phục được. Các sản phẩm chủ yếu thường không đạt được chỉ tiêu. Sáu tháng đầu năm 1986, 20% công nhân thuộc Sở Công nghiệp thành phố phải nghỉ việc hưởng 70% lương. Cả công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đều gặp rất nhiều khó khăn về năng lượng, nguyên liệu, giá, tiền mặt. Việc đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất công nghiệp còn nhiều hạn chế. Chưa làm tốt công tác định mức kinh tế kỹ thuật. Chưa kết hợp chặt sản xuất với bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là đời sống của người lao động trong công nghiệp và tiểu thủ công về cả vật chất lẫn tinh thần chưa được chăm lo đúng mức. Các ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố chưa kết hợp chặt chẽ với nhau, chưa thực hiện tốt chuyên môn hoá, hiệp tác hoá, nên sử dụng năng lực của các cơ sở công nghiệp còn thấp. Công nghiệp thành phố chưa phục vụ tốt sự phát triển nông nghiệp ngoại thành, Công nghiệp thành phố chưa phát huy đúng mức vai trò trung tâm của mình để phục vụ cho sự phát triển nông nghiệp trong khu vực nên chưa góp phần tích cực trong việc thực hện đường lối “coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”.
Ba năm qua, cũng như suốt hơn 10 năm từ sau giải phóng, công nghiệp tàhnh phố (kể cả công nghiệp Trung ương và địa phương) vẫn chưa khai thá tốt năng lực hiện có, đồng thời cũng hưa xác định rõ phương hướng phát triển có tính chiến lược để thực hiện đúng Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị về vai trò trung tâm công nghiệp của thành phố đối với khu vực.
Cáa ngành xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, điện lực, bưu điện, nhà đất và công trình công cộng … đều có mức củng cố và phát triển. Ngành xây dựng cơ bản thực hiện phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” “ thành phố và quận huyện cùng lo” đã xây dựng được một số công trình phục vụ sản xuất và đời sống. Nhung đầu tư chưa thật đúng hướng; vốn liếng đầu tư dồn quá nhiều cho khu vực không trực tiếp sản xuất: nhà hàng, nhà hát, hội trường, chợ, siêu thị .. Chủ trương xây dựng khu hội chợ Quang Trung là đúng, nhưng trong chỉ đạo xây dựng và quản lý không chặt, mức đầu tư quá lớn. Chưa ngăn chặn được tình trạng xuống cấp nghiêm trọng của hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là nhà cửa, đường sá, cầu cống .. Ngành giao thông vận tải có tiến bộ trong vận chuyển (tăng 7,7% khối lượng vận chuyển hàng năm, đạt chỉ tiêu Đại hội III đề ra), nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hoá và đi lại của nhân dân. Hàng hoá mất mát hư hỏng còn nhiều, thái độ phục vụ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nhất là nông nghiệp ngoại thành nhưng do thiếu nguồn phát điện, duy tu sửa chữa chưa đảm bảo kịp thời, nhiên liệu không đủ nên chưa nhu cầu sản xuất, an ninh quốc phòng và đời sống Mạng lưới điện trong thành phố chưa được cải tạo nên chưa đảm bảo cung cấp điện cho các đơn vị trọng điểm, chưa tiết kiệm điện trong tiêu dùng. Ngành bưu điện có cố gắng trong việc sửa chữa mạng cáp, phát triển hệ thống thông tin liên lạc ngoại thành, song chưa đáp ứng tốt các phương tiện thông tin điều hành, thư tín và bưu kiện của quần chúng. Kết cấu hạ tầng, nhà đất, cấp thoát nước và công trình công cộng còn tồn tại rất nhiều vấn đề về xây dựng, điều chỉnh, sửa chữa, quy hoạch tổng thể và xây dựng các công trình đô thị vv… Ngành nhà đất đã cùng với các ngành quận huyện điều chỉnh, xây dựng mới hơn 14.000 căn hộ, giải quyết cho các gia đình chính sách, công nhân viên chức và mỗt số lao động nghèo và đã xây dựng một số công trình phúc lợi công cộng. Song tồn tại lớn là việc phân phối nhà ở chưa thất công bằng, chưa kiên quyết xử lý nhà chiếm dụng bất hợp pháp và nhà sử dụng bất hợp pháp. Chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của nhân dân, các ngành các cấp để thực hiện công tác nhà đất theo tinh thần là một cuộc cách mạng thật sự.
Sản xuất nông nghiệp và xây dựng vùng nông thôn ngoại thành đã có một số biến đổi lớn, xây dựng quy hoạch, hợp tác hoá nông nghiệp (đưa được trên 80% hộ nông dân và diện tích canh tác vào các hình thức làm ăn tập thể, chủ yếu là tập đoàn sản xuất). Đã phát triển một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và bước đầu xây dựng được mô hình nông – công – thương –tin trên địa bàn xã, . Các huyện đã hoàn thành việc quy hoạch vùng, hình thành các vùng chuyên canh. Thành phố đã tập trung sức xây dựng thêm một số công trình lớn phục vụ ngoại thành có ý nghĩa như đường Nhà Bè – Duyên Hải, kinh đông Củ Chi, hệ thống điện phục vụ các vùng trồng lúa năng suất cao, trồnng rau và cây công nghiệp ngắn ngày. Việc trồng và bảo vê rừng đã vượt chỉ tiêu kế hoạch. Việc xây dựng vành đai xanh, vành đai thực phẩm, cây công nghiệp, cây chất đốt, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản để phục vụ cho nội thành và xuất khẩu tuy có tiến bộ nhưng chưa đạt chỉ tiêu Đại hội III đề ra . Đặc biệt, do giá cả không hợp lý và đầu tư chưa đúng mức nên đàn heo và sản lượng mía giảm sút nghiêm trọng. Nhiều chính sách đòn bẩy đối với ngoại thành chưa phù hợp đã ảnh hưởng trực tiếp đến viêc củng cố khối liên minh công nông. Sự phối hợp giữa nội và ngoại thành chưa thật gắn bó để từng bước hình thành rõ nét cơ cấu công – nông nghiệp trên địa bàn thành phố.
Tuy còn nhiều khó khăn, khuyết điểm,nhưng nhìn chung sau hơn 11 năm, ngoại thành là nơi có nhiều biến đổi rõ rệt về kết cấu hạ tầng, về sản xuất và đời sống, nhất là ở các vùng trồng cây công nghiệp ngắn ngày, các vùng phát triển tiểu thủ công và làm hàng xuất khẩu.
Phân phối lưu thông vẫn là khu vục diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa 2 con đường, có nhiều biến động lớn ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống.
Trước đổi tiền, hoạt động phân phối lưu thông đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc nắm hàng, tạo quỹ hàng hoá, vương lên làm chủ thị trường với tỷ trọng khá cao về một số mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống như: gạo, thịt heo, đường, rau, nước mắm … và đã mở rộng mạng lưới bán lẻ xuống đến từng địa bàn dân cư.
Việc cải tạo tư thương bằng các hình thức quá độ, được cấp uỷ Đảng và chính quyền các ấp tập trung chỉ đạo có đạt một số kết quả các cấp tập trung chỉ đạo có đạt được một số kết quả bước đầu, nhưng công tác cải tạo vẫn còn nặng bề rộng, chưa đi vào chiều sâu, có lúc đã buông lơi công tác quản lý. Tình trạng tranh mua tranh bán, tuỳ tiện nâng giá, phá giá, không tôn trọng kỷ luật giá tiếp tục kéo dài và phổ biến. Nhiều cơ quan đơnvị của thành phố, trung ương, các tỉnh và lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn, không có chức năng kinh doanh cũng tuỳ tiện tổ chức mua bán để kiếm lời. Nhiều cửa hàng hợp tác kinh doanh bị lợi dụng trở thành bình phong cho tư thương hoạt động trái phép và đã làm hư hỏng một số cán bộ. Hiện tượng tiêu cực trong đội ngũ nhân viên thương nghiệp chậm được khắc phục đã làm ảnh hưởng xấu đến thương nghiệp xã hội chủ nghĩa xã hội. Cho đến nay thương nghiệp xã hội chủ nghĩa vẫn chưa xác lập được vai trò chủ đạo trên thị trường xã hội.
Các cửa hàng ăn uống phát triển quá mức. Tình trạng ăn nhậu đã gây ảnh hưởng xấu về mặt tâm lý và đạo đức. Các ngành ngân hàng, tài chính, vật gía, quản lý thị trường đã có cố gắng tháo gỡ một phần những vướng mắc của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nhưng cơ chế cũ vẫn còn ảnh hưởng nặng nề làm cho vật tư , tiền, hàng quay chậm. Nhà nước thiếu tiền mặt rất nghiêm trọng, trong khi đó khối lượng tiền quay ngoài ngân hàng còn rất lớn. Chu trình sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng và sự giao lưu hàng hoá giữa các địa phương bị chia cắt làm cho sản xuất, kinh doanh thường bị ách tắc. Tài chính bước đấu thực hiện được việc phân cấp ngân sách cho quận huyện, phường xã, Thuế thu được tuy có tăng, nhưng vẫn còn thấp thu lớn (trên 30%). Một số chính sách đã lạc hậu chưa kịp thời sửa đổi để khuyến khích sản xuất. Hệ thống thuế thường tách rời sự lãnh đạo của địa phương. Trong đội ngũ cán bộ, nhân viên thiế còn có nhiều hiện tượng tiêu cực. Vấn đề tích luỹ cho ngân sách địa phương rất quan trọng, nhưng chưa được bàn kỹ để có phương hướng chỉ đạo đúng đắn và biện pháp cụ thể, dẫn đến tình trạng tích luỹ tự phát, phân tán, chạy theo chênh lệch giá, gâu ảnh hưởng xấu cho phân phối lưu thông. Chưa có chính sách phù hợp để qua ngân sách phân phối lại thu nhập của các ngành nghề và điều tiết hợp lý thu nhập quá chênh lệnh giũa các tầng lớp dân cư. Rõ ràng trên trận địa phân phối lưu thông nhiều mặt đã buông lỏng, chưa trừng trị thật nghiêm khắc bọn đầu cơ , buôn lậu, phá rối thị trường, bọn ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, chưa kiên quyết tước đoạt tài sản của bọn làm ăn bất chính.
Kinh tế đối ngoại đã tiếp tục phát huy những mặt làm được, đồng thời khắc phục một số khuyết điểm được Bộ Chính trị chỉ rõ trong Nghị quyết 01, như đã tập trung đầu mối giao dịch với nước ngoài, mở rộng quan hệ mua bán với nhiều thị trường thế giới, nhất là Liên Xô, Campuchia, Lào và các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa. Có quan tâm nhiều hơn trong việc đầu tư vào khâu sản xuất chế biến hàng xuất khẩu. Nhưng xuất khẩu vẫn chưa đạt được mục tiêu của Đại hội III đề ra (1985 kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 82,5%, kim ngạch nhập khẩu chỉ đạt 56,1%) và chưa bằng mức 1982.
Thành uỷ đã có Nghị định 04 về xuất khẩu để phát huy thế mạnh của thành phố, nhưng tổ chức thực hiện chưa tốt, chưa đáp ứng được dịch vụ xuất khẩu cho khu vực như tinh chế, bao bì, vận chuyển kho tàng, bến bãi vv… Việc tiếp cận với thị trường thế giới qua quá nhiều khâu trung gian nên còn nhiều hạn chế. Thiếu các chính sách thoả đáng khuyến khích các cơ sở à người sản xu6át hàng xuất khẩu. Chậm có chính sách huy động kiều hối, chậm có chính sách đầu tư vốn để tạo ra nguồn hàng xuất khẩu chủ lực về công nghiệp và nông sản ngoại thành. Hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn thành phố chưa được tô chức hợp lý, chưa có quy chế rõ rệt và quản lý chặt chẽ. Nhiều cơ quan đơn vị không có chức năng cũng làm xuất nhập khẩu lên cao vẫn tiếp tục diễn ra. Du lịch và cung ứng tàu biển phát triển chậm, đặc biệt là du lịch còn quá nhiều hạn chế. Do đó, thành phố chưa thể hiện được vai trò trung tâm giao dịch quốc tế của khu vực như Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ.
Hoạt động khoa học và kỹ thuật từng bước có gắn được với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.Việc ứng dụng tiến độ kỹ thuật trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp đã mang lại kết quả thiết thực và bước đầu phát triển ở một số đơn vị quận huyện, phường xã. Phong trào phát huy sáng kiến, cải cải tiến kỹ thuật tiếp tục phát triển ở các cơ sở sản xuất, góp phần giải quyết nguyên liệu, vật tư, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Nhưng sự đóng góp đó chưa tương xứng với qui mô và chất lượng của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật chưa gắn chặt với khoa học xã hội, nhất là khoa học quản lý. Chưa làm tốt công tác thông tin khoa học. Cách mạng khoa học kỹ thuật chưa thể hiện được vai trò then chốt trong 3 cuộc cách mạng. Những hạn chế trên đây là do sự lãnh đạo của Đảng bộ về khoa học và kỹ thuật chưa có chiến lược, chính sách, tổ chức hợp ký và hiệu quả để phát huy tốt chất xám trên địa bàn, cho nên thành phố chưa thể hiện được tốt vai trò trung tâm khoa học kỹ thuật đối với khu vực.
Công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đã đạt được một số thành tích đáng kể trong việc xoá tư sản mại bản, tư sản thương nghiệp; đưa từ 60% đến 80% cơ sở và hộ sản xuất kinh doanh cá thể trong công, nông, thương nghiệp vào những hình thức kinh tế quá độ thích hơp: củng cố và tăng cường đáng kể khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể: bước đầu xây dựng con người lao động mới xã hội chủ nghĩa. Trong chỉ đạo cải tạo cải tạo đã tập trung vào những ngành và khu vực trọng điểm, đã quan tâm nghiên cứu và ban hành một số chính sách phục vụ cải tạo. Tuy nhiên, trong cải tạo còn nặng dùng biện pháp hành chính, nhiều nơi còn gò ép, mệnh lệnh, chạy theo hình thức, thiên về số lượng, coi nhẹ chất lượng và hiệu quả. Nhiều nơi lại buông lỏng quản lý để có một bộ phận kinh tế tư nhân phát triển tự phát, nhất là trong thương nghiệp. Các ngành có liên quan chưa gắn công tác cải tạo với hoạt động thường xuyên của ngành. Chưa coi trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác cải tạo và quản lý. Trong quá trình cải tạo tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, coi nhẹ biện pháp kinh tế, coi nhẹ giáo dục xây dựng con người mới, thiếu bàn bạc dân chủ với quần chúng. Nhiều nơi coi người được cải tạo như là kẻ đối lập, không làm cho họ thấy rõ cải tạo xã hội chủ nghĩa vừa có lợi cho họ, cho gia đình họ, vừa có lợi cho đất nước, để tự giác cùng với chính quyền bàn bạc, tìm ra hình thức phù hợp, nhất là trong lĩnh vực công thương nghiệp và dịch vụ. Vì không thực hiện đúng phương châm “cải tạo để sử dụng, sử dụng để cải tạo tốt hơn”, vừa phát huy mặt tích cực, vừa hạn chế mặt tiêu cực của họ, nên chưa đạt được 3 yêu cầu phát triển sản xuất, nâng cao đời sống và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa như kết luận mới đây của Bộ Chính trị đã vạch rõ.
Khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhất là kinh tế quốc doanh chưa được tập trung đầu tư chiều sâu và đổi mới cơ chế quản lý, chưa tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, nên chưa cũng cố được quanhệ sản xuất mới. Tác dụng của kinhh tế xã hội chủ nghĩa đối với công cuộc cải tạo còn hạn chế, trước hết là do chưa phát huy được yếu tố con người, tính cách mạng của quần chúng và năng lực quản lý của cán bộ. Sản xuất không phát triển, năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp thì không thể hiện được tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, như Lênin từng nói: “Chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với các giai cấp bóc lột, cũng không phải là bạo lực đối với các giai cấp bóc lột, cũng không phải chủ yếu là bạo lực. Cơ sở kinh té của bạo lực đó, cái bảo đảm cho sức sống và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội là việc giai cấp công nhân có thể đề ra và thực hiện được một kiểu tổ chức xã hội về lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản”.
Việc giải quyết đời sống vật chất đối với cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng vũ trang, những người trong diện chính sách và nhân dân lao động nghèo trên cơ sở phát triển sản xuất là mục tiêu được quan tâm thường xuyên của Đảng bộ và chính quyền các ấp. Trong ba năm đã giải quyết việc làm cho hơn 20 vạn người (chỉ tiêu Đại hội III: 15 vạn người). Đối với công nhân, đã giải quyết đời sống theo hướng tăng thu nhập bằng cách tăng năng suất hạ giá thành sản phẩm, thực hiện lương khoán tiền thưởng, bữa ăn giữa ca… Thực hiện chế độ trợ cấp đối với những nhân viên đời sống khó khăn, ưu tiên cho thương binh, người nghỉ hưu, giáo viên, nhân viên y tế, các gia đình chính sách.. Giải quyết một phần khó khăn về đi lại, học hành, chữa bệnh và nhà ở ( trong ba năm 9ã giải quyết được trên 14.000 căn hộ). Những việc làm đó đã ảnh hưởng tốt trong quần chúng, nhưng vì nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm không ổn định, vật giá leo thang quá nhanh, nên đời sống của người lao động nhất là những người có đồng lương cố định từ sau đổi tiền và tổng điều chỉnh giá (9/1985) đến nay đã giảm sút rất nghiêm trọng.
Nhìn chung việc giải quyết đời sống tuy có nhiều cố gắng nhưng còn chắp vá bị độn, chưa tạo được đầy đủ các điều kiện cơ bản để quần chúng tự giải quyết mà còn nặng các biện pháp trợ cấp, cứu tế, tạo ra tâm lý ỷ lại quần chúng, do đó kết quả bị hạn chế.
Công tác giáo dục đào tạo có mức chuyển về phương thức đào tạo, bước đầu gắn yêu cầu phát triển giáo dục với hoạt động kinh tế - xã hội, gắn đào tạo với sử dụng, nhất là đổi mới nhân thức từ nhà trường “dạy chữ” thành nhà trường” dạy chữ, dạy người và dạy nghề”, đã xoá được việc học ca 4. Số người học bổ túc văn hóa tăng gần 2 lần so với nhiệm kỳ trước. Bước đầu có quan tâm bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ KHKT, cán bộ quản lý, đội ngũ công nhân. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục toàn diện còn thấp. Hệ giáo dục mầm non tuy có nhiều cố gắng nhưng chế độ chính sách chưa hợp lý nên việc nuôi dưỡng các cháu chưa tốt, tình trạng suy dinh dưỡng nghiêm trọng. Chất lượng đào tạo cán bộ KHKT, nhân viên nghiệp vụ và công nhân lành nghề còn thấp, chưa thật gắn chặt quy hoạch đào tạo với quy hoạch, kế hoạch kinh tế - xã hội. Trường lớp và cơ sở vật chất của ngành giáo dục suống cấp nghiêm trọng. Đời sống vật chất và điều kiện làm việc của giáo viên còn quá khó khăn, chưa được chăm sóc đúng mức. Chính sách thi tuyển vào lớp 10, vào đại học, có những quy định chưa hợp lý, gây tâm trạng bất bình trong quần chúng, như điểm thi vào đại học quá chênh lệch giữa thí sinh thường và thí sinh được ưu tiên.
Hoạt động văn học nghệ thuật, nhất là phong trào văn hoá nghệ thuật quần chúng tiếp tục phát triển tốt. Các hoạt động văn hoá, thông tin đã phục vụ tốt các ngày lễ lớn và phát triển xuống tận cơ sở. Đến năm 1985 đã có trên 3000 đội văn nghệ và thông tin ở cơ sở; 278 nhà văn hoá và câu lạc bộ, có gần 25% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá mới. Nhiều tiết mục văn nghệ và một số tác phẩm văn học nghệ thuật mới đã tác động tốt vào đời sống tinh thần của nhân dân thành phố. Một số tiết mục nghệ thuật đã được giải thưởng trong và ngoài nước. Nhưng hoạt động văn hoá - nghệ thuật chưa được cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp quan tâm đúng mức, công tác quản lý có trường hợp chưa chặt chẽ. Một số tiết mục biểu diễn, một số tác phẩm chưa thật gắn với cuộc sống, nhất là chưa gắn với cuộc đấu tranh hiện tại. Hoạt động văn hoá nghệ thuật còn có những biểu hiện chạy theo danh thu đơn thuần, còn có hiện tượng lai căng, “hát chui, diễn lậu”, sử dụng phim video-cassette không lành mạnh. Chưa kết hợp chặt chẽ giữa chức năng giáo dục và chức năng giải trí. Tính tư tưởng và tính thực tiễn trong hoạt động văn hoá nghệ thuật chưa cao. Chưa có chuính sách và biện pháp chăm ở đời sống văn nghệ sĩ và cán bộ văn hoá cơ sở. Sinh hoạt văn hoá ở ngoại thành, nhất là vùng căn cứ kháng chiến trước đây vẫn chưa đạt được quan tâm đúng mức.
Các công cụ thông tin đại chúng và xuất bản đã góp phần phổ biến ác chủ trương chính sách của Đảng, giới thiệu các mô hình làm ăn giỏi, phục vụ tốt kỷ niệm 10 năm giải phóng làm ăn giỏi, phục vụ tốt kỷ niệm 10 năm giải phóng tàhnh phố. Hệ thống phát thanh, truyền thanh và đài truyền hình thành phố có nhiều cố gắng trong công tác tuyên truyền, giáo dục. Chương trình của Đài Hoa sen II là nét mới trong hoạt động truyền hình thành phố. Gần đây báo, đài đã có nhiều cố gắng phục vụ đợt tự phê bình – phê bình trong Đảng, khơi dậy sinh hoạt dân chủ, góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh chống tiêu cực trong nội bộ và ngoài xã hôi. Tuy nhiên, có một số bài và tin thiếu chính xác, thiếu chặt chẽ và xây dựng, bị cuốn hút theo tính “hấp dẫn”, nặng mô tả các vụ việc tiêu cực. Hoạt động của báo đài chưa kết hợp thật chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền và đoàn thể các cấp trong việc đưa tin. Việc in và phát hành sách trên địa bàn thành phố chưa được quản lý chặt chẽ.
Các ngành y tế , thể dục thể thao, bảo vệ bà mẹ và trẻ em đã có nhiều cố gắng góp phân tích cực trong việc chăm sóc, giáo dục, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ cho nhân dân.Ngành y tế khắc phục khó khăn về thuốc men, dụng cụ y tế, kinh phí, giường bệnh, vật tư, nguyên liệu sản xuất thuốc… đã đáp ứng được một phần quna trọng nhu cầu phòng chữa bệnh cho nhân dân thành phố và một bộ phận nhân dân các tỉnh trong khu vực. Trong ba năm đã tăng thêm 1.000 giường nhi và sản, đã mở rộng và sửa chữa 3 bệnh viện: Bình Dân, Phụ Sản, Nhi đồng 2 (đạt chỉ tiêu Đại hội III đề ra). Mạng lưới y tế phường xã bước đâu được củng cố, có khoảng 40% phường xã đạt 5 dứt điểm. Đã hạ tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên từ 19% xuống 1,7% Song chất lượng điều trị chưa cao, một số loại thuốc còn thiếu. Trong điều kiiện đời sống và phương tiện làm việc còn khó khăn, nhiều thầy thuốc và nhân viên y tế vẫn hết lòng chăm sóc người bệnh. Tuy nhiên vẫn còn một số không giữ vững lương tâm nghề nghiệp làm ảnh hưởng không tốt đến chất lượng và tái độ phục vụ. Hoạt đông thể dục thể thao có nhiều tiến bộ trong việc vận dộng, tổ chức phong trào quần chúng rèn luyện thânthể. Nhiều bộ môn thể thao tàhnh phố đã ngành được những phần thưởng ứng đáng. Tuy nhiên, hoạt động thể dục thể thao vẫn chưa phát huy đúng mức tiềm năng và thế mạnh của thành phố. Việc đào tạo vận động chưa thật chú trọng giáo dục chính trị và đạo đức. Phong trào thi đấu có những trường hợp chưa thể hiện đúng đạo đức thể thao xã hội chủ nghĩa, Hoạt động của ngành bảo vệ bà mẹ và trẻ em tuy có phát triển, đưa được 60% con cán bộ công nhân viên chức vào nhà trẻ nhưng mới đạt 12% so với tổng số các cháu trong độ tuổi.
Công tác thương binh – xã hội có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chính sách đối với người nghỉ hưu, thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình đối với cách mạng, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, gia đình nghèo khó. Một số trường giáo dục lao động đạt được kết quả tốt, nhất là các trường do lực lượng TNXP phụ trách. Nhưng chính sách đối với thương binh nhiều mặt còn hạn chế. Đời sống của thương binh và người nghỉ hưu còn rất khó khăn. Tệ nạn xã hội có mức phát triển.
Công tác an ninh quốc phòng đạt được những kết quả tốt trong việc giữ gìn an ninh chính trị, tuyển quân làm nghĩa vụ quốc tế, bảo vệ tổ quốc và góp phần đánh bại một bước kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch trên địa bàn thành phố.
Về an ninh trật tự, đã tiếp tục phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Công an đã tổ chức phong trào học tập và làm theo 6 điều Bác Hồ dạy, củng cố công an khu vực. Đã phát hiện và xử lý một số vụ án chính trị phản động lớn, bắt và trừng trị nghiêm khắc một số tên tổ chức vượt biên, đầu cơ tích trữ, làm hàng giả , bán hàng lậu. Về quốc phòng đã xây dựng được lực lượng dân quân tự vệ ở cơ sở đạt tỷ lệ 8% dân số (vượt chỉ tiêu Đại hội III). Đã bước đầu tập hợp quân dự bị. Tuyển quân hàng trăm đạt và vượt chỉ tiêu, chất lượng tân binh có khá hơn. Con em thành phố đã làm tốt nghĩa vụ quốc tế với nhân sân Campuchia anh em.
Tuy nhiên, công tác an ninh kinh tế còn yếu, ý thức cảnh giác đối với âm mưu phá hoại kinh tế của địch còn kém, chưa đánh bật trúng bọn đầu sỏ, lũng đoạn thị trường. Công tác bảo vệ nội bộ chưa nghiêm. Việc bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa chưa tốt. Có nơi, có lúc hoạt động an ninh chưa gắn chặt với hoạt động các cấp, các ngành, với công tác vận động quần chúng. Chưa xây dựng được một độ ngũ cán bộ công nhân giỏi về nghiệp vụ, vững về phẩm chất, có kỷ luật cao, đặc biệt là đội ngũ cảnh sát giao thông có những biểu hiện chưa tiêu biểu cho bộ mặt của một thành phố trung tâm văn hoá. Công tác giáo dục quốc phòng trong nhân dân, nhất là trong thanh niên, học sinh chưa coi trọng. Đặc biệt là việc tập hợp, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, quân dự bị chưa được các cấp Đảng bộ là Đoàn thanh niên cộng sản quan tâm đúng mức. Đến nay còn khoảng 100 cơ qua, đơn vị tổ chức tự vệ. Đời sống của lực lượng vũ trang còn quá khó khăn. Nhiều thanh niên xung phong trở thành nghĩa vụ quân sự và thanh niên xung phong trở về vẫn chưa được sắp xếp, bố trí làm việc. Mối quan hệ chỉ đạo về an ninh quốc phòng trên địa bàn khu vực chưa được chặt chẽ.
Các cơ quan kiểm sát, toà án, thanh tra, tư pháp có cố gắng thực hiện nhiệm vụ của ngành, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhưng tổ chức và cán bộ chưa được củng cố và tăng cường đúng mức. Nhiều vụ án tồn đọng kéo dài. Một số vụ quan trọng chưa được xét xử kịp thời để phụ vụ nhiệm vụ chính trị của thành phố. Trong việc thi hành pháp luật có quan điểm giai cấp công nhân.
Tình hình chuyển đổi các giai cấp, các tầng lớp dân cư và các phong trào hành động cách mạng của quần chúng.
Mười một năm qua, cơ cấu xã hội ở thành phố đã trải qua những biến đổi cách mạng sâu sắc. Các giai cấp bóc lột đã xoá bỏ về cơ bản, xuất hiện những tiền đề xã hội cho các giai cấp và tầng lớp quần chúng đoàn kết, lao động trong sự nghiệp xây dựnng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.Tình trạng đang chéo các loại lao động làm thay đổi kết cấu xã hội và thái độ dân cư, theo hướng ngày càng gắn bó với xã hội mới. Ngày nay đã có 64% lao động xã hội tham gia các lãnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân, hơn 10 vạn gia đình có con em gia nhập lực lượng vũ trang, gần 3 vạn gia đình có con em đi thanh niên xung phong, trên 20 vạn đoàn viên thanh niên thanh niên cộng sản và gần 1 triệu rưỡi hội viên các đoàn thể quần chúng. Quá trình bổ sung nguồn lao động mới từ thế hệ trẻ, năng động, có trính độ học vấn khá, đang làm trẻ hoá nhanh chóng các giai cấp cơ bản. Đội ngũ công nhân công nghiệp gần 15 vạn người đang phấn đấu khắc phục khó khăn, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, là đội quân chủ lực của nền kinh tế thành phố. Ý thức về vai trò chính trị - xã hội của giai cấp mình ngày càng được nâng cao. Đội ngũ lao động tiểu thủ công nghiệp gần 20 vạn người là lực lượng sản xuất xã hội, một bộ phận đi vào làm ăn tập thể và gắn bó với kinh tế quốc doanh. Nông dân ngoại thành với 27 vạn lao động, đại bộ phận đã đi vào làm ăn tập thể, từng bước xây dựng nông thông mới. Gần 5 vạn trí thức xã hội chủ nghĩa hình thành từ 4 nguồn đào tạo, mặc dù còn nhiều tâm tư, khó khăn trong đời sống và điều kiện làm việc nhưng đều mong muốn được sống cống hiến nhiều cho xã hội mới. Một số anh chị em đã có những công trình nghiên cứu có giá trị.
Nhìn chung, trong khó khăn, công nhân,nông dân, trí thức,các tầng lớp nhân dân lao độn, các giới đồng bào, tín đồ các tôn giáo, các dân tộc dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đã tiếp tục phát huy truyển thống đoàn kết đấ tranh cách mạng hăng hái thi đua lao động sản xuất, thưc hành tiết kiệm, giữ gìn anninh trật tự, củng cố quốc phòng, đã kiên trì chịu đựng, vượt qua mọi khó khăn, đóng góp tích cực vào sự nghiệp cải tạo, xây dựng và bảo vệ thành phố. Gương mặt vănhóa của thành phố với các lớp học ban đêm, các “lớp tình thương”, các tụ điểm sinh hoạt thiếu nhi,các hoạt động văn nghệ quần chúng, các cuộc thi thể thao và biểu diễn thể dục.. thường xuyên diễn ra hào hứng và sôi nổi. Tuy nhiên, do tàn dư của chủ nghĩa đế quốc thực dân và hậu quả của cuộc chiến tranh xâm lược để lại, do tập quán làm ăn cá thể và lối sống vị kỷ, chỉ nghĩ tới mình, mạnh được yếu thua, thậm chí có người coi thường mạng sống, dẫn đến nhiều tiêu cực trong xã hội. Nhiều người dễ dàng nghe theo những luận điệu tác động tâm lý của bọn phản động, bọn xấu, mua gom hàng dữ trữ, mê tín dị đoan, vọng ngoại, vượt biên, làm hại cho chính bản thân mình, con cái mình, và cho cả xã hội vẫn còn nhiều và sự phân hoá giàu nghèo có chiều hướng phát triển.
Mặt khác, do quan tâm chưa đúng mức của các cấp uỷ đảng đối với các phong trào quần chúng nên tính tự giác của phong trào chưa cao. Sự nghiệp cải tạo, xây dựng và bảo vệ thành phố chưa thực sự bắt nguồn sâu từ quần chúng và càng chưa thể nói là “ngày hội quần chúng”. Nhiều hoạt động thường thông qua những chỉ thị mệnh lệnh từ trên xuống, thay thế cho việc bàn bạc dân chủ với quần chúng, thiếu sâu sát cơ sở còn nặng nề và phổ biến. Quyền làm chủ tập thể của quần chúng lao đông còn bị vi phạm nghiêm trọng. Một số chủ trương, chính sách kinh tế chưa phù hợp, việc phân phối không công bằng, tình trạng thoái hoá, biến chất, ức hiếp quần chúng của một số cán bộ đảng viên làm ảnh hưởng tiêu cực tâm lý, niềm tin và phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Trong Đảng bộ còn có đồng chí vừa mất cảnh giác nghiêm trọng đối với âm mưu địch lợi dụng tôn giáo, người Hoa lại vừa còn định kiến, hẹp hòi đối với đồng bào lao động trong tôn giáo và người Hoa, chưa thể hiện đúng lập trường giai câp công nhân, quan điểm dân tộc đúng đắn và chính sách của Đảng, làm ảnh hưởng xấu đến khối đoàn kết toàn dân. Việc phát triển đoàn viên, hội viên chưa thật sự bắt nguồn từ phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, nên chất lượng chưa cao. Đặc biệt các cấp lãnh đạo và các ban, ngành đoàn thể chưa quan tâm xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân tương xứng với vị trí trung tâm công nghiệp của thành phố. Các đoàn thề quần chúng và mặt trận Tổ quốc là thế mạnh của chế đô xã hội chủ nghĩa, nhưng cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp chưa quan tâm đúng mức xây dựng các lực lượng này làm công cụ vững chắc để quần chúng phát huy quyền làm chủ tập thể của mình. Phương thức hoạt động của các đoàn thể bị hành chánh hoá, bộ máy cồng kềng, chưa bám sát cơ sở và quần chúng lao động. Ở một số khu vực như: thương nghiệp, sản xuất tiểu thủ công, người Hoa, tôn giáo.. tổ chức và hoạt động của các của các đoàn thể chưa mạnh. lực lượng cốt cán mỏng và yếu. Nhiều vần đề xã hội đặt ra trong các tầng lớp quần chúng chưa được cấp uỷ Đảng, chính quyền và đoàn thể các cấp nghiên cứu, đề xuất những chính sách thoả đáng, phù hợp với tâm sự nguyện vọng của từng đối tượng. Thành phố có gần 20 vạn hộ có thân nhân ở nước ngoài, đại bộ phận các gia đình này nhận được tiền hàng của thân nhân gởi về. Đây là một tình trạng vừa đau khổ vừa phức tạp, có nhiều tiêu cực do địch gây ra và lịch sử để lại, liên quan đến hàng triệu người thành phố. Kẻ địch lại không ngừng dùng mọi thủ đạn xảo quyệt khi thác vấn đề này trên nhiều khía cạnh. Trong nhân dân thì còn nhiều người chưa nhận thức được thấu đáp tính chất phức tạp của vấn đề và âm mưu thâm độc của kẻ thù. Còn một số đồng chí thường chú ý khía cạnh phức tạp, tiêu cực nên thụ động đối phó, hoặc thiên về khai thác kiều hối không thấy vấn đề một cách toàn diện cả vè xã hội, chính trị, kinh tế, văn hoá. Do đó, chưa nghiên cứu sâu sắc để có chính sách và biện pháp toàn diện, từng bước lành mạnh hoá mối quan hệ này, đáp ứng yêu cầu chính đáng của bộ phận đông đảo đồng bào thành phố, hạn chế các mặt tiêu cực, làm thất bại âm mưu của kẻ thù, khơi dậy và động viên lòng yêu nước của kiều bào, phát huy chính nghĩa và thế mạnh của ta.
- Bộ máy chính quyền các cấp đã trải qua nhiều lần củng cố, có bước trưởng thành trong việc quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, chăm lo đời sống quần chúng. Hoạt động Hội đồng nhân dân các cấp đã có tiến bộ trong việc tiếp xúc, phản ánh nguyện vọng của cử tri, nhất là Hội đồng nhân dân cấp thành đã bước đầu phối hợp với mặt trận và các đoàn thể kiểm tra một số hoạt động của Uỷ ban nhân dân. Tuy nhiên, bộ máy từ trên xuống dưới còn quá cồng kềnh, trùng lắp, chư phân định rõ giữa chức năng quản lý hành chánh - kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh. Nhiều thủ tục rườm rà, hoạt động thiếu đồng bộ, chồng chép nhau, gây phiền hà trong nhân dân và ách tắc trong sản xuất, lưu thông. Phong cách làm việc quan liêu, hành chính còn nặng. Bộ máy chính quyền vừa qua chưa thực hiện tốt việc thể chế hóa kịp thời và tổ chức thực hiện có hiệu quả một số chủ trương của Thành ủy. Việc phân công phân cấp chưa thực hiện triệt để nhằm phát huy đúng mức tiềm năng của cơ sở, đồng thời các ngành chức năng cũng thiếu hướng dẫn, kiểm tra chặt chẽ để gây ra tình trạng quá phân tán và tùy tiện ở bên dưới. Chính quyền phường, xã phần lớn chưa thực hiện được chức năng là cấp có kế hoạch và ngân sách như quyết định 30/QÐ của Thành ủy.
Hội đồng nhân dân các cấp nói chung hoạt động vẫn còn nặng hình thức, chưa phát huy đầy đủ vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương.
- Công tác đối ngọoại đã thực hiện tốt việc đón tiếp và làm việc với các đoàn khách quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ đối với các tỉnh, thành phố kết nghĩa, góp phần đáng kể vào thành tích đối ngoại chung của cả nước. Riêng đối với Pnômpênh, tuy đã có cố gắng giúp đỡ bạn trong việc phục hồi và xây dựng thành phố, nhưng sự cố gắng này cha đáp ứng kịp yêu cầu của bạn và sự chỉ đạo của Trung ương Ðảng ta.
- Công tác xây dựng Ðảng: Sau hơn 11 năm phấn đấu, Ðảng bộ thành phố đã từng bước xây dựng được một Ðảng bộ năng động, đoàn kết nhất trí, bước đầu phát huy tiềm năng của cơ sở và quần chúng, đặc biệt đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ trẻ có triển vọng. Trong 3 năm, đã bồi dưỡng, đào tạo hơn 14.000 cán bộ , đảng viên theo các chương trình lý luận chính trị, quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước. Thành ủy và các cấp ủy đảng đã quan tâm đến việc củng cố các loại hình cơ sở, tăng cường cán bộ lãnh đạo cho một số ngành kinh tế quan trọng. Từng bước phát huy vai trò chủ độg của cấp quậ, huyện và phường xã. Ðã chú ý việc phát triển Ðảng trong lực lượ trẻ, nữ và công nhân trực tiếp sản xuất. Ðã phát triển hơn 13.000 đảng viên mới, trong đó có trên 2.000 đảng viên trực tiếp sản xuất. Bước đầu đã tiến hành công tác kiểm tra việc thực hiện các quyết định, nhất là ở cấp quận, huyện. Ðã xử lý 2.257 trường hợp đảng viên vi phạm kỷ luật, trong đó có 731 trường hợp đưa ra khỏi Ðảng.
Tuy nhiên, bước vào giai đoạn cách mạng mới, Ðảng bộ chưa được trang bị, giáo dục đầy đủ về mặt kiên định lập trường giai cấp công nhân, quan điểm quần chúng, sự vận dụng nhuần nhuyễn lập trường quan điểm ấy trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ. Trong cuộc đấu tranh này, chúng ta vừa sử dụng các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể, nhưng lại vừa kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; vừa kiên định lập trường giai cấp công nhân, song lại phải rất thực tế, biết nắm và vận dụng nhuần nhuyễn quy luật kinh tế xã hội trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ ở một nước từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội mà điểm xuất phát còn ở mức quá thấp; vừa chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ sang cách mạng xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn phải tiến hành cuộc đấu tranh chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch gắn chặt với cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Vì không được chuẩn bị kỹ những vấn đề nói trên nên có lúc, có mặt nôn nóng, tả khuyên, bất chấp qui luật, có lúc có mặt lại hữu khuynh, buông lơi chuyên chính vô sản, buông lợi cải tạo, chưa kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo và bảo vệ tổ quốc, thiếu cảnh giác, không dự kiến đầy đủ kế hoạch đối phó có hiệu quả với các mặt tiêu cực trong xã hội, để các mặt tiêu cực này tác động ngay cả trong Ðảng. Từ một Ðảng bộ hoạt động bí mật, du kích là chủ yếu trở thành một Ðảng bộ cầm quyền, thành ủy đã không cảnh giác đầy đủ với mọi biểu hiện của bệnh quan liêu là nguy cơ lớn nhất. Ðó là bệnh quan liêu xa rời quần chúng, dùng mệnh lệnh hành chánh thay thế cho việc bàn bạc dân chủ, vận động và giác ngộ quần chúng. Ðó là bệnh quan liêu cửa quyền, tổ chức cồng kềnh, nặng giấy tờ, ức hiếp quần chúng, gây phiền hà cho nhân dân. Ðó là bệnh quan liêu tập trung bao cấp trong các mặt quản lý kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, không lấy xuất phát điểm là phát huy tiềm năng cách mạng của quần chúng lao động và của cơ sở. Do không cảnh giác đầy đủ với những biểu hiện phát sinh của bệnh quan liêu, chúng ta đã để cho kỷ cương sinh hoạt của Ðảng lỏng lẻo, kỷ luật thiếu nghiêm minh, chưa đảm bảo tốt chế độ tập trung dân chủ, coi nhẹ tự phê bình và phê bình... Từ đó ảnh hưởng đến tinh thần cách mạng triệt để, lập trường giai cấp công nhân kiên định và quan điểm quần chúng vững chắc. Và cũng từ đó mà phát sinh nhiều biểu hiện suy thoái tiêu cực khác, như: tham ô, hối lộ, tự tư tự lợi, thu vén cá nhân, công thần địa vị, cục bộ địa phương, bảo thủ trì trệ, bao che, cửa quyền, trấn áp, trù dập, vi phạm quyền làm chủ tập thể của quần chúng...
Thành phố Hồ Chí Minh có những đặc điểm mà ít có địa phương nào trong cả nước lại tiêu biểu đầy đủ và đa dạng như thế. Ðó là sự hình thành cơ cấu dân cư bao gồm những người từ hầu hết các địa phương trong cả nước hội tụ lại, với nhiều dân tộc, tôn giáo (gần 1/2 số người Hoa, và 1/4 số người theo đạo Thiên chúa của cả nước). Ðó là nơi tồn tại rõ nét 5 thành phần kinh tế. Ðó là sự tập hợp 5 lực lượng cán bộ (cán bộ từ chiến khu về, cán bộ được đào tạo từ miền Bắc và các nước xã hội chủ nghĩa về sau giải phóng, cán bộ hoạt động bí mật tại chỗ trước giải phóng, cán bộ được đào tạo tại chỗ sau giải phóng, cán bộ nghỉ hưu). Ðó là vị trí trung tâm của thành phố đối với khu vực, đòi hỏi sự đoàn kết hợp tác nhiều mặt với cả nước và quốc tế, đặc biệt đối với các nước bạn Campuchia và Lào...
Ðặc điểm trên đây đòi hỏi Ðảng bộ và nhân dân thành phố phải thấy rõ trách nhiệm xây dựng thành phố thực sự tiêu biểu cho sự đoàn kết nhân dân lao động, không phân biệt dân tộc và ôn giáo để cải tạo, xây dựng và bảo vệ thành phố; tiêu biểu cho sự phát huy cả 5 thành phần kinh tế trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội; tiêu biểu cho sự đoàn kết trong Ðảng, đoàn kết và phát huy tốt cả 5 lực lượng cán bộ, đoàn kết, hợp tác chặt chẽ với các địa phương bạn trong khu vực, trong cả nước và phía Nam. Ðông Dương thể hiện đầy đủ tinh thần quốc tế vô sản của Ðảng ta.
Năm lực lượng cán bộ được quy tụ ở thành phố đều là vốn quý. Mỗi lực lượng có những ưu, nhược điểm khác nhau nhưng đều bổ sung và làm phong phú cho nhau:
- Các đồng chí từ chiến khu về được trui rèn thử thách nhiều trong thực tế đấu tranh lâu dài và gian khổ ở miền Nam, có nhiệt tình cách mạng, có quan điểm quần chúng tốt, là lực lượng nòng cốt trong quá trình cải tạo và xây dựng thành phố, nhưng nhiều đồng chí trình độ học vấn thấp, chưa được đào tạo đồng bộ và có hệ thống về lý luận chính trị, kinh tế và văn hóa..., 11 năm qua, tuy đã cố gắng khắc phục nhược điểm trên nhưng trình độ nhiều đồng chí vẫn chưa đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ. Dấu ấn du kích trong suy nghĩ và hành động vẫn còn là vấn đề cần phải đề phòng và khắc phục trong các đồng chí này.
- Các đồng chí từ miền Bắc về sau giải phóng được đào tạo cơ bản, có hệ thống và đồng bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, có nhiệt tình cách mạng, đã đóng góp quan trọng về mặt quản lý hành chánh, kinh tế xã hội cho công cuộc khôi phục, cải tạo và xây dựng thành phố. 11 năm qua, các đồng chí này cũng đã được trui rèn, tích lũy sự hiểu biết về quần chúng và đã góp phần tích cực vào việc tháo gỡ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp ở thành phố. Tuy nhiên, tình hình xã hội thành phố khá phức tạp, các đồng chí này cần đi sâu tìm hiểu thông cảm với quần chúng hơn nữa, đồng thời cần đề phòng và khắc phục những tồn tại của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, vì cơ chế này đã tác động đối với các đồng chí trong một thời gian nhất định.
- Các đồng chí tại chỗ trước giải phóng được thử thách trong hoạt động bí mật, nhiều đồng chí bị tù đày, tra tấn ác liệt. Phần lớn là những đồng chí còn trẻ, có trình độ học vấn khá, có nhiệt tình cách mạng, có quan điểm quần chúng tốt, hăng hái sôi nổi trong công việc; có nhiều đóng góp cho phong trào chung của thành phố, nhất là ở cơ sở quận, huyện, phường, xã. Phần lớn các đồng chí trưởng thành trong phong trào học sinh, sinh viên trước đây lại hoạt động trong hoàn cảnh bí mật. Hơn 11 năm qua nhiều đồng chí tích cực tu dưỡng rèn luyện đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn cần đề phòng và khắc phục tính tực phát tiểu tư sản, nôn nóng chủ quan, ít chú ý cách làm việc theo nguyên tắc, theo hệ thống... các đồng chí có khả năng vừa làm việc vừa học, cần phải ra sức đào tạo, bồi dưỡng.
- Các đồng chí được đào tạo và trưởng thành sau giải phóng xuất thân từ phong trào quần chúng gắn bó chặt chẽ với quần chúng, hiểu được quần chúng, lại rất trẻ, có nhiệt tình cách mạng. Trừ một số đồng chí hoàn thành nghĩa vụ quân sự và thanh niên xung phong trở về, còn phần lớn mặc dù đã trải qua 11 năm lăn lộn với phong trào nhưng chưa được thử thách trong đấu tranh gian khổ, quyết liệt như các đồng chí đã chiến đấu trước giải phóng. Phải quan tâm giúp đỡ rèn luyện các đồng chí này trong công việc hàng ngày, trau dồi phẩm chất cách mạng, lập trường giai cấp công nhân kiên định và quan điểm quần chúng vững chắc. Trong hoàn cảnh một Ðảng đang nắm chính quyền, việc gia nhập Ðảng dễ có những động cơ không chính xác, cơ hội... Do đó cần giúp đỡ giáo dục, rèn luyện các đồng chí mới vào Ðảng sau giải phóng tính chiến đấu và tính Ðảng.
- Các đồng chí nghỉ hưu là lực lượng rất quý, đã được thử thách qua nhiều chặng đường hoạt động cách mạng phần lớn có trình độ lý luận và kinh nghiệm, lại là lực lượng chiếm đa số hiện nay ở nhiều đảng bộ, chi bộ phường xã. Nhiều nơi phát huy tốt, các đồng chí đã thành chỗ dựa vững chắc của đảng bộ chi bộ địa phương, là lực lượng hỗ trợ đắc lực cho các đồng chí trẻ. Nhưng các đồng chí tuổi cao, sức yếu, nguồn thông tin ít và các cấp cũng không cung cấp đủ lượng thông tin cần thiết cho các đồng chí, nên hoạt động của các đồng chí bị hạn chế. Hầu hết các đồng chí là những tấm gương tốt về đạo đức tác phong. Nhưng trong một số đồng chí cần đề phòng và đấu tranh chống biểu hiện công thần, chưa thật tin tưởng và thông cảm đầy đủ đối với các cán bộ trẻ. Phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để các đồng chí phát huy những ưu điểm, khắc phục nhược điểm để có thể tiếp tục đóng góp cho cách mạng phù hợp với sức khỏe và tuổi tác của mình.
Từ những đặc điểm nói trên đòi hỏi mỗi lực lượng phải thấy hết mặt ưu điểm để phát huy, mặt nhược điểm để khắc phục, thông cảm, hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Phải bảo vệ sự đoàn kết trong Ðảng, trong đội ngũ cán bộ như bảo vệ con ngươi của mắt mình theo lời Bác Hồ dạy. Chúng ta không thể chấp nhận sự mất đoàn kết nội bộ ở bất cứ đâu và bất cứ trường hợp nào. Sự phân tách trên đây là rất cần thiết để xây dựng củng cố Ðảng bộ. Trong công tác cán bộ, chúng ta không nên nhấn mạnh nguồn này hay nguồn kia, điều quan trọng là chú ý phát hiện, mạnh dạn đào tạo, đề bạt và sử dụng cán bộ có phẩm chất và năng lực, chú ý cán bộ xuất thân từ giai cấp công nhân, cán bộ trẻ và nữ.
Vừa qua, nhân dân lao động và Ðảng bộ thành phố tỏ ra xứng đáng với vinh dự và trách nhiệm của mình, xứng đáng với thành phố mang tên Bác Hồ vô cùng kính mến. Tuy nhiên, phải nghiêm khắc nhận rằng nơi này hay nơi khác, mặt này hay mặt khác trong Ðảng bộ cũng còn một số biểu hiện tư tưởng nông dân và tiểu tư sản thành thị như: tình cục bộ, địa phương, hẹp hòi, bản vị, thành kiến.. .. mà chúng ta chưa kịp thời đấu tranh đúng mức thông qua tự phê bình và phê bình trên lập trường giai cấp công nhân và đường lối chính sách của Ðảng, để tăng cường hơn nữa sự đoàn kết nhất trí trong Ðảng và trong nhân dân thành phố. Tình trạng mất đoàn kết xảy ra ở mốt số đơn vị là biểu hiện không lành mạnh, trái với quan điểm đường lối của Ðảng ta. ở đây cần nhắc lại câu nói có ý nghĩa giáo dục sâu sắc của đồng chí Lê Duẩn trong đại hội lần thứ III của Ðảng bộ thành phố:
- Vì cả nước, cùng cả nước, thành phố Sài Gòn hôm qua đã được giải phóng.
- Vì cả nước, cùng cả nước, thành phố Hồ Chí Minh hôm nay nhất định xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Ðảng bộ ta cũng chưa xây dựng được về mặt nhận thức, trình độ tổ chức và phong cách làm việc ngang tầm với vị trí là trung tâm công nghiệp, trung tâm văn hóa, trung tâm khoa học kỹ thuật và giao lưu quốc tế.. .. của khu vực phía Nam, có quan hệ chặt chẽ với cả nước và phía Nam Ðông Dương.
Công tác tổ chức và cán bộ tuy có tiến bộ so với trước, nhưng vẫn còn làm theo đường mòn, chậm đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu xóa bỏ cơ chế quản lý cũ, xác lập cơ chế quản lý mới. Chưa có quy hoạch cán bộ. Việc đào tạo bồi dưỡng bố trí cán bộ còn nhiều chắp và, chất lượng, hiệu quả còn thấp. Còn quan liêu cửa quyền trong công tác cán bộ. Thậm chí có nơi bố trí, cất nhắc cán bộ theo cảm tính cá nhân, hối lộ, trù dập một cách tinh vi. Ðối với những cán bộ có năng lực, nhiều thành tích thường đề cao, khen thưởng một nhiều, ít chú ý giáo dục, đề phòng tư tưởng thành tích, tự mãn, lạm dụng chức quyền, thu vén cá nhân.. .. Công tác tổ chức kiểm tra việc thực hiện các chỉ thị nghị quyết, sơ kết, tổng kết còn rất yếu. Việc xử lý các vụ kỷ luật có trường hợp chư nghiêm và kéo dài.
Ðoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã có nhiều hoạt động sáng tạo, xung kích trên nhiều lĩnh vực; chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và khoa học kỹ thuật.. ..; đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ năng nỗ nhiệt tình. Lực lượng thanh niên xung phong đã trở thành mô hình trường vừa học vừa làm lớn nhất của thành phố, là một trong những phương thức đào tạo cán bộ rất to của Ðảng và Nhà nước. Nhưng có lúc các cấp ủy Ðảng còn buông lơi trong việc chăm sóc, xây dựng và phát triển lực lượng thanh niên xung phong, không giữ được chất lượng của phong trào thanh niên xung phong, lẫn lộn giữa lực lượng thanh niên xung phong với số thanh niên cưỡng bức lao động và thanh niên chậm tiến. Ðoàn thanh niên công sản Hồ Chí Minh thành phố cũng chưa quan tâm đúng mức chỉ đạo lực lượng này. Nhìn chung, lực lượng đoàn phát triển nhan, nhưng việc củng cố về mặt chất lượng chưa tương xứng. Một số hoạt động xung kích chưa được Ðoàn đầu tư chăm sóc tốt, nên phong trào chưa thật vững chắc, liên tục và có chiều sâu. Ðoàn chưa chú ý đưa vào quy hoạch đào tạo những đoàn viên đã được thử thách qua các phong trào, nhất là số đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự và thanh niên xung phong trở về thành lực lượng nòng cốt của Ðoàn.
Những ưu khuyết điểm của Ðảng bộ thành phố
a) Trong bối cảnh không bình thường, có nhiều khó khăn gay gắt, phức tạp hơn nhiệm vụ kỳ trước, ưu điểm nổi bật của Ðảng bộ thành phố là:
1) Ðã kiên trì giữ vững và tiếp tục phát huy nhiệt tình cách mạng tiến công, không chịu lùi bước trước khó khăn, nỗ lực phát huy ưu điểm và khắc phục thiếu sót, tìm mọi cách vươn lên để thực hiện cho kỳ được đường lối chính sách của Trung ương Ðảng, nhất là Nghị quyết 01 của Bộ chính trị và các chính sách chuyển hướng lãnh đạo kinh tế của Ðảng thể hiện từ Nghị quyết 6 (khóa IV) cho đến các nghị quyết 6, 7, 8 (khóa V); kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện cơ chế quản lý tập trung dân chủ, giao quyền chủ động về kế hoạch, tự chủ về tài chính cho cơ sở sản xuất, kinh doanh, thực hiện hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Với tinh thần đó, trong tình hình có nhiều khó khăn Ðảng bộ và nhân dân thành phố đã liên tục tìm mọi cách đẩy mạnh sản xuất, tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa làm cho sản xuất tiếp tục phát triển, phân phối lưu thông đã giữ được mức độ không bị ách tắc, đời sống của người lao động trước đổi tiền từng lúc, từng mặt được ổn định hơn; đã đưa đại bộ phân nông dân ngoại thành vào các hình thức làm ăn tập thể, chủ yếu là tập đoàn sản xuất; một số hình thức quá độ phù hợp được hình thành và một số mô hình tiên tiến với cách làm ăn mới có hiệu quả đã đóng góp có ý nghĩa cho sự chỉ đạo chung trong việc đổi mới cơ chế quản lý.
2) Ðã giữ được an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội trong tình hình rất phức tạp, góp phần đánh bại một bước kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt mà thành phố là một trọng điểm đánh phá của địch; góp phần tích cực trong việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với nước bạn Campuchia, cùng với cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
3) Ðã kiên trì thực hiện việc phân công phân cấp quản lý, tăng cường và củng cố cơ sở. Từng bước phát huy được vai trò chủ động của quân huyện, các đơn vị phường, xã, xí nghiệp và công ty.. .. Qua đó đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ cơ sở trẻ, có trình độ chính trị, văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực quản lý theo cơ chế mới.
Những ưu điểm của Ðảng bộ đã được Ban Bí thư khẳng định trong dịp làm việc với Ban Thường vụ Thành ủy (ngày 8/10/86) để chuẩn bị đại hội Ðảng bộ thành phố lần thứ IV như sau:
Trước hết, cần khẳng định rằng Ðảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh có tinh thần cách mạng tiến công, ý thức tự lực cao, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Trung ương Ðảng và nhân dân địa phương, năng động, sáng tạo, chủ động torng việc vận dụng đường lối, chủ trương của Ðảng, của Nhà nước sát hợp với thực tiễn địa phương, với cuộc sống nhân dân lao động, được đông đảo quần chúng đồng tình ủng hộ.
Thời gian qua, thành phố đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Ðảng và Nhà nước đã đạt được những thành tựu đáng kể trên nhiều lĩnh vực công tác, tiếp tục làm chuyển biến từ một thành phố ăn chơi, tiêu thụ từng bước trở thành một thành phố sản xuất, với một lớp người lao động mới. Mặc dù có rất nhiều khó khăn, phức tạp do tác động của tình hình chung của cả nước, do hậu quả của chiến tranh và chế độ cũ để lại, do hoạt động phá hoại của địch, qua cuộc đấu tranh giữa hai con đường, giữa ta và địch, thành phố vẫn có bước phát triển đi liên và tiến bộ về nhiều mặt. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, các hoạt động văn hóa xã hội đạt nhiều kết quả; an ninh chính trị, trật tư an toàn xã hội nói chung được bảo vệ tốt; công tác xây dựng Ðảng, xây dựng chính quyền các cấp, xây dựng các đoàn thể chính trị có tiến bộ; thành phố thường xuyên có những phong trào hành động cách mạng của quần chúng.
Về mặt quản lý kinh tế, thành phố có một số mô hình sinh động, đã góp một phần đáng kể vào việc tháo gỡ những ràng buộc của cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp để chuyển dần sang cơ chế hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Một trong những ưu điểm của thành phố là sớm quyết định vấn đề phân cấp quản lý, biết dựa vào cơ sở (phường, xã), khơi động sức sáng tạo của quần chúng trong sản xuất, lưu thông phân phối và cả trong các hoạt động văn hóa, xã hội, giữ gìn trật tự an ninh.
Thành ủy đã có thái độ nghiêm chỉnh chấp hành sự lãnh đạo của Trung ương. Sau khi Bộ Chính trị có Nghị quyết 01, thành phố đã tích cực khắc phục những khuyết điểm và những mặt yếu kém, đồng thời tiếp tục phát huy những suy nghĩa đúng và cung cách làm ăn có hiệu quả. Thành phố đã đóng góp có hiệu quả và những công trình của khu vực như thủy điện Trị An, như làm nhiệm vụ quốc tế tại chỗ và đối với các nước bạn Campuchia và Lào.
Nguyên nhân của những ưu điểm nói trên:
1) Trước hết là do thành phố có giai cấp công nhân giác ngộ cách mạng, có giai cấp nông dân ngoại thành một lòng đi theo Ðảng, có đội ngũ tri thức xã hội chủ nghĩa nhiệt tình cống hiến, có lực lượng vũ trang kiên cường đấu tranh và các tầng lớp nhân dân đã nổ lực cao, kiên trì chịu đựng, khắc phục khó khăn, nêu cao tinh thần năng động sáng tạo, giữ vững các phong trào hành động cách mạng, thực hiện các chủ trương chính sách của Ðảng và Nhà nước
2) Có sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Trung ương nhất là của Bộ Chính trị. Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị là ngọn đuốc soi đường cho thành phố tiếp tục đi lên trong suốt cả thời kỳ quá độ. Sự chỉ đạo của Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng, sự hướng dẫn giúp đỡ của các ban ngành Trung ương, sự hỗ trợ của các địa phương bạn đã góp phần tích cực vào những thành tựu của thành phố.
3) Những thành tự đó gắn chặt với sự lãnh đạo của Thành ủy, sự tổ chức thực hiện và quản lý của ủy ban Nhân dân thành phố, của cấp ủy đảng, ban ngành, đoàn thể, mặt trận và chính quyền các cấp, đoàn kết nhất trí, thực hiện được một mức mối quan hệ Ðảng tin Dân, Dân tin Ðảng, tạo thành sức mạnh tổng hợp để thành phố vượt qua những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua nổi.
Thành ủy đã nghiêm túc chấp hành và cố gắng vận dụng sáng tạo đường lối chủ trương của Trung ương vào điều kiện cụ thể của thành phố; dám nghĩa, dám làm, thành khẩn, dũng cảm nhận và sửa chữa những sai sót: kiên trì bảo vệ và kiến nghị với Trung ương những ý kiến đúng từ thực tiễn đặt ra.
b) Bên cạnh những ưu điểm nói trên, Ðảng bộ và nhân dân thành phố đang đứng trước tình hình cực kỳ nghiêm trọng có phần do tình hình chung của cả nước tác động, nhưng đồng thời cũng bộc lộ đậm nét những thiếu sót va khuyết điểm mà trước hết là của Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy và Thường trực ủy ban Nhân dân Thành phố.
Những khuyết điểm chủ yếu là:
1) Ðảng bộ và các cấp có phần buông lơi chuyên chính vô sản trên nhiều lĩnh vực: phân phối lưu thông văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng, đặc biệt là trong phân phối lưu thông và quản lý thị trường. Thành ủy có quan tâm, chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên chức, những người thuộc diện chính sách và lao động nghèo, nhưng chưa kiên quyết chỉ đạo thực hiện việc tước đoạt lại tài sản của những kẻ làm ăn phi pháp, chưa điều tiết hợp lý thu nhập của các tầng lớp dân cư, để một số người làm giàu bất chính, ăn chơi phung phí, còn cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức liêm chính và người lao động làm ăn lương thiện lại gặp vô vàn khó khăn trong đời sống. Chưa tập trung tháo gỡ những vướng mắc để đẩy mạnh sản xuất và phân phối lưu thông. Do đó đã ảnh hưởng có hại đến nhiều mặt đời sống xã hội.
Trong tình trạng rối ren hiện nay trên mặt trận phân phối lưu thông ở thành phố có phần do những sai lầm chung trong việc thực hiện chính sách giá - lương tiền, nhưng đồng thời còn do sự lãnh đạo của Thành ủy và việc quản lý của ủy ban Nhân dân Thành phố chưa chặt chẽ, nên đã làm cho khó khăn thêm trầm trọng. Ðã buông lỏng quản lý phân phối lưu thông đối với các ngành các cấp của thành phố cũng như đối với các cơ quan của các địa phương bạn và các ngành trung ương hạot động trên địa bàn thành phố. Có lúc, có nơi còn buông lỏng cải tạo tư thương, đống thời không ngăn chăn kịp thời khuynh hướng kinh doanh đơn thuần, chạy theo chênh lệnh giá, đầy giá lên.
Thành ủy cũng chưa tăng cường đúng mức chuyên chính vô sản trong hoạt động văn hóa xã hội. Công tác quản lý xã hội chưa đặt ngang tầm với quy mô rộng lớn và tính chất phức tạp của thành phố. Các hiện tượng văn hóa đồi trụy, lai căng, các tệ nạn xã hội, lối sống vị kỷ, vứt bỏ đạo lý, coi thường pháp luật và kỷ cương xã hội còn tiếp tục diễn ra. Ðạo đức cộng sản chủ nghĩa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà tiêu biểu là đạo đức của Hồ Chủ tịch chưa được kết hợp chặt chẽ và chưa được phát huy đầy đủ để tạo thành một sức mạnh áp đảo trong sinh hoạt xã hội, Thành ủy cũng chưa chỉ đạo thật đúng mức việc tôn trọng luật pháp, việc xét xử nghiêm minh và kịp thời của tòa án để bảo đảm cho mọi người an tâm trong cuộc sống và lao động.
2) Bệnh quan liêu xa rời thực tiễn, duy ý chí, nóng vội, đốt cháy giai đoạn, không nắm vững và vận dụng tốt quy luật; quan liêu mệnh lệnh, cửa quyền, xa rời quần chúng, chưa coi trọng đúng mức các tổ chức đoàn thể, mặt trận, Hội đồng nhân dân; quan liêu tập trung bao cấp, tổ chức cồng kềnh, nặng giấy tờ, gây phiền hà cho nhân dân, ách tắc cho sản xuất; không phát huy tiềm năng của cơ sở, của quần chúng lao động là những thiếu sót phổ biến và trầm trọng.
3) Công tác chỉ đạo điều hành, tổ chức thực hiện rất yếu, không tôn trọng đúng mức quy chế, quy trình, quy phạm khoa học. Tình trạng hội họp nhiều, quyết định nhiều nhưng thiếu kiểm tra, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm là hiện tượng phổ biến khá nghiêm trọng trong hầu hết các cấp, các tổ chức, thể hiện cả trong hoạt động của Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy và Thường trực ủy ban Nhân dân Thành phố.
4) Kỷ cương của Ðảng trên một số mặt còn bị buông lỏng. Sinh hoạt Ðảng nhiều nơi còn tùy tiện, chất lượng kém, chế độ tự phê bình và phê bình chưa thành nề nếp. Nguyên tắc tập trung dân chủ và chế độ làm việc tập thể, theo đúng quy chế, chưa được chấp hành nghiêm chỉnh. Trong nội bộ Ðảng còn có tình trang vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu tập trung. Một số vấn đề quan trọng còn có ý kiến khác nhân chưa được bàn thảo đến nơi đến chốn, có kết luận dứt khoát; có biểu quyết rõ ràng để bảo đảm sự nhất trí cao trong Ðảng. Do đó khi tổ chức thực hiện thường xảy ra tình trạng có một số chủ trương thi hành không thống nhất, thậm chí có nơi không thực hiện. Kỷ luật của Ðảng không giữ được nghiêm minh, chặt chẽ. Công tác giáo dục phẩm chất đạo đức cho cán bộ đảng viên chưa được coi trọng để các hiện tượng tiêu cực có cơ hội phát triển. Một số tổ chức Ðảng để tình trạng mất đoàn kết nội bộ kéo dài. Thành ủy tuy đã phát hiện sớm nhưng giải quyết không kịp thời và đến nơi đến chốn. Các ban đảng chưa được Thành ủy quan tâm chăm sóc và tăng cường, nên chưa làm tốt chức năng tham mưu về chủ trương, biện pháp, tổ chức, cán bộ và kiểm tra việc thực hiện. Ðội ngũ chuyên viên chưa tương xứng với công việc được giao.
5) Công tác tổ chức, cán bộ chưa được các ngành các cấp và từng đồng chí lãnh đạo quan tâm đúng mức. Công tác này còn làm theo đường mòn, chậm đổi mới, ứng phó nhất thời đối với từng nơi từng lúc. Chưa quy hoạch, tiêu chuẩn hóa cán bộ theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn và đáp ứng đòi hỏi của thành phố là trung tâm về nhiều mặt của khu vực.
6) Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị đã ghi rõ vai trò, vị trí trung tâm của thành phố đối với khu vực và cả nước. Nhưng đến nay đảng bộ và nhân dân thành phố nhất là các cơ quan trong bộ máy điều hành của Ðảng và chính quyền vẫn chưa nhận thức sâu sắc với quan điểm đúng đắn, chưa nghiên cứu nắm vững tình hình và yêu cầu, chưa có tổ chức và quy chế làm việc tương ứng để bảo đảm phát huy tốt nhất vai trò và vị trí đã được xác định.
Vì chưa thật thông suốt quan điểm đúng đắn về vấn đề này nên có ngành, có đơn vị khi đi vào công việc làm ăn đã thiên về lợi ích bản vị, không coi trọng đúng mức lợi ích địa phương bạn hoặc lợi ích chung. Do nhận thức chưa đầy đủ nên việc liên kết của thành phố với các tỉnh trong khu vực cũng thường nặng về mua bán, trao đổi hàng hóa đơn thuần, mà chưa chú ý đúng mức việc liên kết sản xuất, đề giúp đỡ nhau cùng đi lên trong việc hình thành cơ cấu công nông nghiệp khu vực.
Những khuyết điểm của Ðảng bộ được Ban Bí thư nhận xét như sau:
Bên cạnh những ưu điểm và thành tích đó, thành phố cũng bộc lộ những yếu kém và khuyết điểm không phải nhỏ. Trong khi nhấn mạnh năng động, chủ động, sáng tạo thì chú ý chưa đúng mức những mặt tiêu cực, chưa lường hết những tác hại do nó gây ra. Thành phố có lúc đã buông lơi cải tạo trên nhiều mặt, nhất là cải tạo về kinh tế; tổ chức kỷ luật trong đảng không được đề cao đúng mức, luật pháp Nhà nước không được tuân thủ nghiêm chỉnh. Trong kinh doanh cũng như trong sản xuất, còn xảy ra nhiều sự lộn xộn, rối ren, không kiểm soát được. Gần đây một số ngành phát triển kinh doanh bừa bãi, tư tưởng kinh doanh chạy theo chênh lệch giá nghiêm trọng, chẳng những trên lĩnh vực kinh doanh mà cả trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ... Tình hình tranh mua, tranh bán, tùy tiện nâng giá, không tôn trọng kỷ luật giá, chưa chưa được ngăn chặn có hiệu quả, nhất là từ sau đổi tiền tháng 9/1985.
Những sơ hở trong công tác quản lý sản xuất và kinh doanh đã tạo điều kiện cho kẻ địch, bọn xấu ngoài xã hội cùng sống cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất lợi dụng phá hoại, gây nhiều tổn thất lớn về của cải vật chất của Nhà nước và hạn chế sức phát triển của thành phố. Tiêu cực trong kinh tế đã tác động xấu đến văn hóa, xã hội, làm cho tệ nạn xã hội, tội phạm hình sự có lúc đã bị chặn lại nay có chiều hướng tăng lên.
Có tình hình đó, có phần do tác động của những khuyết điểm của Trung ương trong công tác giá, lương, tiền vừa qua và do những khó khăn chung của cả nước, nhưng thành phố phải thấy trách nhiệm trực tiếp của mình. Khuyết điểm lớn nhất là thiếu kiên quyết và chỉ đạo chưa tốt công tác quản lý thị trường và cải tạo thương nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tình hình tiêu cực trong nội bộ cũng khá nghiêm trọng, nhưng giải quyết không kiên quyết. Nhiều cán bộ, đảng viên kém phẩm chất, thiếu năng lực chưa được xử lý nghiêm minh và thay thế kịp thời.
Nguyên nhân của những khuyết điểm là:
1) Thành ủy chưa quan tâm đúng mức trong việc phân tích sâu sắc những đặc điểm về cơ cấu, thành phần giai cấp xuất thân của đảng viên trong Ðảng bộ (đa số đảng viên xuất thân từ nông dân và tiểu tư sản thành thị, thành phân công nhân chiếm 22% trong tổng số đảng viên, trong đó chỉ có 5% trực tiếp sản xuất) chưa phân tích sâu sắc đặc điểm của nền kinh tế thành phố (sản xuất tiểu thủ công nghiệp còn giữ vị trí quan trọng: chiếm gần 50% giá trị sản lượng công nghiệp và 2/3 trên tổng số công nhân lao động của thành phố) để có biện pháp giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên về quan điểm lập trường giai cấp công nhân kiên định, chống những biểu hiện của tư tưởng phi vô sản như: tính tự phát tiểu tư sản, tự do tản mạn, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, cục bộ bản vị, tư hữu thu vén cá nhân, khi tả khi hữu... Chưa quán triệt tốt đường lối chung do Ðại hội lần thứ IV và lần thứ V của Ðảng vạch ra: Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làn chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt...
2) Chưa cảnh giác đúng mức đối với nguy cơ lớn nhất của một Ðảng cầm quyền là bịnh quan liêu. Chưa có quy chế toàn diện thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Những quy chế, cơ chế đã ban hành cũng chưa được thực hiện đầy đủ.
3) Do sự yếu kém về trình độ lý luận, trình độ khoa học, đã làm cho sự chỉ đạo của Ðảng bộ có những trường hợp chưa nắm chắc và tôn trọng quy luật, chỉ đạo chủ quan, cảm tính, dẫn đến việc ra một số quyết định thiếu căn cứ khoa học, chưa thật phù hợp với thực tế tình hình, nên có một số chủ trương không thực hiện được, hoặc thực hiện không đạt hiệu quả cao, hoặc mang lại hậu quả tai hại như một số vấn đề trong cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý và xây dựng cơ bản.
4) Từ cách mạng dân tộc dân chủ chuyển qua cách mạng xã hội chủ nghĩa, Ðảng bộ thành phố và bản thân Thành ủy cũng chưa được chuẩn bị tốt về nhận thức, yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ của chặng đường đầu, cũng như những vấn đề căn cơ của thời kỳ quá độ để tự xác lập cho mình một lập trường giai cấp và quan điểm đúng đắn.
5) Trong phong cách lãnh đạo thường bị lôi cuốn vào những công việc trước mắt, lợi ích nhất thời, buông lơi các vấn đề cơ bản, có tính lập trường nguyên tắc, toàn diện và toàn cục. Trong chỉ đạo thực hiện, công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, phổ biến kinh nghiệm chưa được quan tâm đúng mức, công tác thông tin chậm cải tiến.
6) Công tác tổ chức và cán bộ chưa đổi mới kịp với yêu cầu nên đã ảnh hưởng đến hiệu quả lãnh đạo và tổ chức thực hiện đường lối chính sách. Ðây là một trong những nguyên nhân quan trọng của các khuyết điểm thiếu sót của Ðảng bộ trong thời gian qua.
Những mặt làm được và chưa làm được, những ưu khuyết điểm chủ yếu, những nguyên nhân chính được kiểm điểm và phân tích trên đây, đồng thời là những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn cách mạng của thành phố trong ba năm qua, trong đó còn có một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn hơn 11 năm cải tạo và xây dựng thành phố đi lên chủ nghĩa xã hội ở chặng đường đầu của thời kỳ quá độ.
Phần thứ hai
Phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu của
Ðảng bộ thành phố trong thời gian từ 1986 - 1990
Thời gian tới, cách mạng nước ta tiếp tục phát triển trong tình hình trong nước, trên thế giới và ba nước Ðông Dương có những thuận lợi cơ bản, đồng thời cũng còn rất nhiều khó khăn phức tạp.
Thuận lợi cơ bản trước hết là Ðại hội Ðảng các cấp, nhất là Ðại hội lần thứ VI của Ðảng tổng kết được những bài học kinh nghiệm quý báu trên cơ sở những thành tựu đã đạt được và những sai lầm khuyết điểm trong quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những bài học kinh nghiệm quý báu này sẽ là những nhân tố mới rất quan trọng, tạo ra chuyển biến mạnh mẽ trong sự lãnh đạo toàn diện của Ðảng ta, nhất là trên lĩnh vực kinh tế xã hội.
Ðại hội lần thứ 27 của Ðảng Cộng sản Liên Xô và của Ðảng anh em đang tạo ra bước ngoặt mới trong việc phát huy sức mạnh của cộng đồng xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới tiếp tục tiến công vào các thế lực phản động đứng đầu là đế quốc Mỹ, chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân, bảo vệ hòa bình, phát triển nhanh nền kinh tế văn hóa xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa để bảo đảm sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội.
Sự phát triển thuận lợi của phong trào cách mạng 3 nước Ðông Dương sẽ có tác động trực tiếp đến phong trào cách mạng của thành phố.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản đó, tình hình trước mắt còn rất nhiều khó khăn. Nền kinh tế chung còn mất cân đối rất nghiêm trọng. Việc khắc phục những thiếu sót, sai lầm về quản lý kinh tế, đổi mới tư duy và đấu tranh chống bệnh quan liêu, bảo thủ, trì trệ để xây dựng một cơ chế quản lý mới theo Nghị quyết của Ðại hội VI đều đòi hỏi phải có thời gian. Kẻ địch còn tiếp tục tiến hành kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt với những âm mưu thủ đoạn xảo quyệt hơn. Chúng đang tìm mọi cách khoét sâu những sơ hở của ta trong lĩnh vực kinh tế và bằng các tác động tâm lý tạo ra sự nghi ngờ, chia rẽ trong nội bộ Ðảng ta. Do đó, trong lãnh đạo kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, công tác tổ chức và cán bộ... tránh được những sai lầm, khuyết điểm, giữ được đoàn kết nội bộ, chính là những điều quan trọng nhất để làm thất bại âm mưu đánh phá của địch.
Thời gian tới, Ðảng bộ thành phố phải ra sức phát huy những kinh nghiệm đã có, những thành tựu đã đạt được, những thuận lợi của tình hình thế giới, trong nước, nhất là những thuận lợi mà Ðại hội VI sẽ mang lại; ra sức phát huy tiềm năng mọi mặt của quần chúng, của cơ sở để thực hiện tốt Nghị quyết Ðại hội VI và Nghị quyết Ðại hội Ðảng bộ thành phố lần này; vững tin vào lý tưởng cộng sản, vào Ðảng, vào quần chúng lao động; cảnh giác cao độ, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống có thể xảy ra, quyết tâm đập tan mọi âm mưu thâm độc và xảo quyệt của kẻ thù.
Trong thời gian quyết định này, mỗi cán bộ đảng viên, mỗi đảng bộ đều phải nổ lực giành cho được từng thắng lợi dù nhỏ nhất, từng ngày, từng giờ ở mỗi đơn vị, mỗi cơ sở; ra sức sửa chữa những sai sót, từng bước khắc phục khó khăn, tiến lên giành thắng lợi một cách vững chắc.
Trên tình hình đó, phương hướng mục tiêu bao trùm của thành phố đến năm 1990 là:
Ra sức ổn định tình hình kinh tế xã hội mà quan trọng nhất là ổn định và phát triển sản xuất, ổn định thị trường giá cả, ổn định và cải thiện một bước đời sống, giữ vững an ninh và trật tư xã hội, tạo điều kiện tích lũy để đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong nhưng năm tiếp theo, trên cơ sở kiên định lập trường giai cấp công nhân, tăng cường chuyên chính vô sản, lấy dân làm gốc, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động.
Cụ thể là:
- Tập trung đầu tư, tháo gỡ mọi vướng mắc cho sản xuất phát triển, thực hiện khẩu hiệu: Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. Phát triển mạnh kinh tế đối ngoại, khoa học kỹ thuật, thực hành tiết kiệm, ngăn chặn, hạn chế và đẩy lùi có hiểu quả tệ tham ô, lãng phí để phục vụ tốt cho sản xuất.
- Thiết lập trật tư trong phân phối lưu thông từng bước ổn định giá cả thị trường, tăng cường thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, thực hiện việc cân đối ngân sách, tập trung nắm hàng, nắm tiền, bảo đảm quay nhanh đồng vốn, vật tư và hàng hóa để phục vụ tốt sản xuất và đời sống.
- ổn định và cải thiện một bước đời sống trên cơ sở đẩy mạnh phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, làm tốt phân phối lưu thông, điều tiết thu nhập trong các tầng lớp dân cư, thực hiện công bằng xã hội.
- Bảo đảm vững chắc an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội trên cơ sở khắc phục những khó khăn về kinh tế, đời sống, tiến hành cải tạo đúng hướng, giáo dục ý thức cảnh giác cho nhân dân, duy trì phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng lực lượng tự vệ, quân dự bị, chăm lo đời sống chiến sĩ và thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.
- Thực sự lấy cách mạng khoa học kỹ thuật làm then chốt trong quá trình thực hiện đồng thời ba cuộc cách mạng. Có chính sách đúng đắn để phát huy tốt lực lượng khoa học và kỹ thuật, gắn chặt khoa học kỹ thuật với các cơ sở sản xuất kinh doanh. Tổ chức hoạt động dịch vụ khoa học kỹ thuật trong từng ngành, từng cấp phục vụ sản xuất.
- Bảo đảm công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đúng hướng. Phải lấy phát triển làm mục đích, cải tạo làm phương tiện, gắn phương tiện với mục đích. Tiến hành cải tạo phải nhằm mục đích làm cho sản xuất nói chung phát triển hơn trước khi cải tạo. Cải tạo đi đôi với xây dựng, lấy xây dựng làm chính, cải tạo để sử dụng, sử dụng để cải tạo tốt hơn. Gắn chặt công tác cải tạo với việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa trong suốt quá trình cải tạo.
- Ðổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới tổ chức, đổi mới cán bộ, đổi mới phong cách làm việc trong tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng nhằm đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, nhất là trong sản xuất và kinh doanh.
- Phát huy đúng mức vai trò, vị trí trung tâm của thành phố trên địa bàn khu vực và phía nam Ðông Dương.
Nhân tố quyết định để thực hiện thắng lợi mục tiêu, phương hướng nói trên là phải tập trung sức củng cố, tăng cường chất lượng và nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng bộ, lập lại và giữ vững kỷ cương; tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình... Trong sinh hoạt Ðảng; lập lại và giữ vững những nguyên tắc tư tưởng chỉ đạo hoạt động cách mạng của Ðảng: lập trường giai cấp công nhân, quan điểm và đường lối quần chúng... làm cho Ðảng bộ triệt để cách mạng và trong sạch vững mạnh.
Phương hướng, mục tiêu nói trên được cụ thể hóa trong 14 nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
1) ổn định và phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và nông đi đôi với thực hành tiết kiệm chống tham ô, lãng phí.
Ðời sống là vấn đề nóng bỏng hiện nay, nhưng để giải quyết vần đề này không có cách nào khác hơn là phát triển sản xuất với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, quản lý tốt thị trường, ổn định giá cả, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát.
Thực hiện kết luận của Bộ Chính trị Về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế, phương hước bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư của thành phố trong 5 năm 1986-1990 là: Ra sức phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm, tạo nguồn hàng xuất khẩu lớn, tạo thêm việc làm cho người lao động, tạo dần tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Phát triển công nghiệp nhóm A, nhất là cơ khí và công nghiệp nguyên liệu một cách có lựa chọn, với quy mô nhỏ và vừa, phát huy hiệu quả nhanh, phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển nông nghiệp ngoại thành và khu vực, phục vụ công nghiệp hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Ðẩy mạnh phát triển sản xuất, nhất là khu vực kinh tế quốc doanh, đồng thời đẩy mạnh việc sắp xếp lại các cơ sở sản xuất phù hợp với điều kiện thực tế để sản xuất ổn định và có hiệu quả.
Vấn đề then chốt và cấp bách để đẩy mạnh sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là giải quyết nguyên liệu, điện, vật tư. Bằng mọi biện pháp tích cực khai thác các nguồn vật tư, nguyên liệu sản xuất trong nước và Trung ương cân đối, nhất là đẩy mạnh xuất nhập khẩu, kể cả vay vốn nước ngoài, nhập thêm nguyên liệu để sử dụng và phát huy tốt năng lực sản xuất hiện có. Phải có chính sách động viên mọi khả năng của nhân dân để nhập nguyên liệu, máy móc cho sản xuất, khuyến khích Việt kiều thay vì gửi hàng tiêu dùng, hàng xa xỉ thì gửi tiền hoặc nguyên liệu, thiết bị máy móc về cho thân nhân sản xuất, hoặc khuyến khích họ đầu tư sản xuất.
Kiên quyết chấn chỉnh công tác cung ứng nguyên liệu, vật tư, chăm lo đầu vào tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở phát triển sản xuất, qua đó quản lý và nắm tốt sản phẩm hàng hóa. Phải tập trung đầu tư vào sản xuất hàng tiêu dùng, những sản phẩm đem lại hiệu quả kinh tế cao, cả về giá trị và giá trị sử dụng, có vòng quay nhanh để tích lũy vốn được nhiều, nhất là các sản phẩm thiết yếu phục vụ đời sống: dệt, may, công nghiệp chế biến nông sản, hàng xuất khẩu bao bì, hóa chất, dược, nhựa, cơ kim khí tiêu dùng, vật liệu xây dựng... Phát triển gia công hàng xuất khẩu, với nước ngoài, trước hết là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Xây dựng có chọn lọc cơ sở tinh chế và chế biến hàng xuất khẩu cao cấp từ sản phẩm nông lâm ngư nghiệp. Phát triển mạnh công nghiệp dịch vụ xuất nhập khẩu như bao bì đóng gói, vận chuyển, bảo quản, kho bãi... đáp ứng nhu cầu của thành phố và khu vực. Tổ chức lại các cơ sở hiện có, đầu tư và tranh thủ đầu tư của Trung ương xây dựng cơ sở cơ khí sửa chữa, sản xuất phụ tùng và tư liệu sản xuất phục vụ nông nghiệp, công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng và giao thông vận tải trên địa bàn thành phố và khu vực. Khuyến khích các cơ sở nghiên cứu sản xuất thử hoặc nhập kỹ thuật và công nghệ phát triển công nghiệp nguyên liệu, hóa chất quy mô nhỏ từ tài nguyên trong nước thay thế nhập khẩu.
Ðến năm 1990 công nghiệp hóa chất trên địa bàn thành phố phấn đấu bảo đảm sản xuất phần lớn thuốc trừ sâu bệnh, thuốc thú y cho thành phố và khu vực. Phát triển nhanh sản xuất phân bón từ nguồn phế thải nông nghiệp; triển khai nghiên cứu sản xuất thử phân bón vi sinh.
Phát triển nhanh và có lựa chọn điện tử ứng dụng phục vụ sản xuất và tiêu dùng, phát triển sản xuất linh kiện điện tử, mở rộng dịch vụ sửa chữa cho thành phố và khu vực. Ðào tạo chuyên gia phần mềm máy vi tính phục vụ cho trước mắt và sau năm 1990.
Thành phố tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các cơ sở công nghiệp trung ương, nhất là trong lĩnh vực sản xuât hàng xuất khẩu và cơ khí, làm tốt trách nhiệm ngành đối với các xí nghiệp địa phương, chung sức xây dựng các cơ sở quốc doanh đủ mạnh để thực hiện tốt vai trò chủ đạo về kinh tế trên địa bàn thành phố và khu vực, tạo điều kiện để đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong những năm về sau. Phát triển mạnh mẽ công nghiệp quốc doanh trung ương, quốc doanh địa phương và tiểu thủ công nghiệp, tăng cường kinh tế tập thể và kinh tế gia đình liên kết với nhau. Kiên quyết sắp xếp lại sản xuất theo ngành kinh tế kỹ thuật do xí nghiệp quốc doanh đóng vai trò đầu đàn, thực hiện tốt việc chuyên môn hóa và hiệp tác hóa sản xuất đối với các thành phần kinh tế, xây dựng nhiều mô hình xí nghiệp mẹ và xí nghiệp vệ tinh, thực hiện tốt quản lý ngành đối với các cơ sở tập thể, gia đình, tư nhân, cá thể. Tích cực cải tiến quản lý kinh tế, ứng dụng mạnh mẽ các tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, phấn đấu hạ giá thành, không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Có kế hoạch, biện pháp cụ thể tổ chức thực hiển việc phân công và hiệp tác trên địa bàn thành phố, trong khu vực, hình thành vững chắc cơ cấu công nông nghiệp giữa nội ngoại thành và khu vực.
Tháo gỡ các khó khăn, tiếp tục triển khai nhanh quyết định 34 của ủy ban Nhân dân thành phố, có theo dõi kiểm tra đôn đốc, sơ kết, rút kinh nghiệm, nân rộng ra. Giáo dục, động viên các thành phần kinh tế: tư nhân, cá thể, kinh tế gia đình đi vào sản xuất đúng hướng, kể cả các cổ đông trong các cửa hàng hợp tác kinh doanh mà hướng kinh doanh không còn phù hợp. Ðộng viên họ làm tốt trách nhiệm của mình đối với xã hội, chịu sự quản lý của Nhà nước. Khuyến khích các cơ quan tổ chức sản xuất để cải thiện đời sống nhưng phải đăng ký làm ăn đúng quy định. Vừa phát huy cả năm thành phần kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, vừa phải hướng những người sản xuất tập thể, tư nhân, cá thể làm ăn lành mạnh, chống các hiện tượng tiêu cực. Phải giúp họ tạo nguồn nguyên liệu, ngăn chặn việc tạo nguồn nguyên liệu không chính đáng. Cần giáo dục tốt chính trị cho họ, hướng họ từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tốc độ phát triển sản xuất công nghiệp, bình quân hàng năm trong 5 năm tới là từ 15% trở lên, đến 1990 giá trị tổng sản lượng đạt trên 65 tỷ đồng theo giá cố định 1982, trong đó giá trị công nghệ phẩm xuất khẩu tăng gấp 3 lần so với năm 1985.
Sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm. Trong xí nghiệp, cửa hàng, từng cơ quan, đơn vị, các đoàn thể; Công đoàn, Ðoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh... cần tổ chức thảo luận xem ở cơ quan, đơn vị, địa phương mình có cái gì còn lãng phí, cái gì còn có thể tiết kiệm thêm được, và làm thế nào để tiết kiệm có hiệu quả, nhất là tiết kiệm về thời gian, lao động, ngân sách, nguyên liệu, lương thực, điện, xăng dầu, mua sắm trong cơ quan, cả trong ăn uống và tiêu dùng. Phải xây dựng quy chế tiết kiệm ở mỗi cơ quan, đơn vị và có chính sách khen thưởng thỏa đáng những nơi tiết kiệm tốt, cũng như xử phạt nghiêm minh đối với những lãng phí, tổn thất nghiêm trọng.
Trên cơ sở phát động thi đua đẩy mạnh sản xuất tăng năng suất, thực hành tiết kiệm, hạ giá thành sản phẩm, giảm nhẹ biên chế gián tiếp, sản xuất với chất lượng, hiệu quả cao, thực hiện hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa để ổn định và từng bước cải thiện đời sống của công nhân.
Ðưa công tác xây dựng cơ bản vào nền nếp, hiệu qaủ đồng vốn cao, bám sát các mục tiêu kinh tế xã hội 1990. Kiên quyết sửa tình trạng đầu tư tràn lan, đình chỉ và không đầu tư vào những công trình không có hiệu quả và chưa cấp thiết. Phải đổi mới quản lý theo hướng chủ đầu tư hoàn toàn chịu trách nhiệm về hiệu quả của đầu tư, các công trình đầu tư phải theo đúng quy hoạch tổng thể kinh tế đã được duyệt. Khắc phục lãng phí trong tất cả các khâu từ lựa chọn phương án, sử dụng đất đai, thiết kế và thi công. Phải dành vốn cần thiết để duy trì cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, không để kết cấu hạ tầng tiếp tục xuống cấp, bảo đảm có mức phát triển ở các ngành đòi hỏi phải đi trước một bước như điện, công nghiệp nguyên liệu. Ðặc biệt coi trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị và công nghệ sản xuất.
Phân công phân cấp hợp lý, tạo quyền chủ động cho các ngành, quận, huyện và đơn vị cơ sở trong công tác xây dựng cơ bản, song phải bảo đảm quản lý thống nhất, chặt chẽ về các mặt quy hoạch, phương hướng đầu tư, chất lượng công trình, định mức kinh tế kỹ thuật và hiệu quả kinh tế. Phải sắp xếp lại lực lượng khảo sát thiết kế và xây lắp trên địa bàn thành phố một cách hợp lý.
Dự kiến tổng vốn đầu tư 1986 1990 khoảng 12 tỷ đồng. Nguồn vốn được tạo ra từ ngân sách, vay ngân hàng Nhà nước, vay vốn tư nhân, vay nước ngoài và vốn từ các nguồn khác. Cơ cấu đầu tư xây dựng cơ bản cho khu vực trực tiếp sản xuất khoảng 74% và khu vực văn hóa xã hội, nhà ở, công trình phúc lợi công cộng 26%. Nghiên cứu xây dựng và kiến nghị chính sách để các ngành xây dựng cơ bản thực hiện hạch toán kinh doanh. Huy động mọi nguồn vốn: trong dân, Việt kiều, liên doanh với nước ngoài, thực hiện cho được các mục tiêu đầu tư cho công nghiệp, nông nghiệp ngoại thành, ưu tiên cho các công trình tinh chế các loại nông sản và sản xuất hàng xuất khẩu, cơ khí nông cụ, phụ tùng dệt, sửa chữa và đóng mới tàu biển, tham gia công nghiệp dầu khí, giao thông vận tải, nhà ở, trường học, bệnh viện và một số kết cấu hạ tầng trọng điểm. Phải có chương trình kế hoạch, biện pháp phát triển sản xuất vật liệu xây dựng.
Thực hiện một bước chỉnh trang quận trung tâm của thành phố và phân bổ lại khu vực sản xuất kinh doanh, hành chính, dân cư. Các công trình cải tạo và xây dựng mới phải chấp hành nghiêm chỉnh quy hoạch của thành phố. Giải quyết xong vấn đề thoát nước rạch Thị Nghè Nhiêu Lộc và một số nơi thờng bị ngập úng. Duy tu, bảo dưỡng, cải tạo và mở rộng hệ thống cấp nước. Phải chú trọng xử lý tình trạng nhiễm bẩn và mùi hôi nguồn nước do việc ngăn sông Ðồng Nai gây ra. Hết sức chú ý giải quyết điện nước cho huyện Duyên Hải và nước cho Nhà Bè.
- Phát triển nguồn điện và các dạng năng lượng khác: Triệt để tiết kiệm trong tiêu dùng và sản xuất, dành điện tối đa cho sản xuất. Thành phố góp sức với Trung ương hoàn thành tổ máy số 1 Trị An vào cuối năm 1987; cải tạo và xây dựng đồng bộ mạng lưới điện thành phố từ nguồn đến hộ tiêu dùng, đón nguồn điện Trị An, sửa chữa điện Chợ Quán và các cụm diesel khác. Khuyến khích các xí nghiệp trang bị máy phát điện dự phòng. Sau Trị An các tỉnh phía nam và thành phố vẫn còn thiếu điện nghiêm trọng, kiến nghị Trung ương xây dựng thủy điện Hàm Thuận, Thác Mơ, mở rộng nhiệt điện Thủ Ðức, Cần Thơ và xây dựng nhiệt điện dầu khí. Cần có bộ phận nghiên cứu việc phát triển và sử dụng năng lượng gió, trấu, than, bùn, bio gaz, mặt trời. Từ nay đến 1990 mở rộng xí nghiệp sản xuất cột điện, thiết bị dụng cụ điện như: cầu dao, máy ngắt, công tơ, bóng đèn, sứ, dây và cáp điện,... giảm nhập khẩu.
Về giao thông vận tải: dành khoảng 10% vốn xây dựng cơ bản, cộng với đầu tư của Trung ương, chuyển mạnh sang hạch toán kinh doanh. Từng bước xóa bao cấp trong sử dụng hệ thống giao thông, tạo quỹ duy tu, bảo dưỡng cầu đường. Phân cấp cầu đường cho quận, huyện đi đôi với tăng cường quản lý ngành. Sửa chữa thường xuyên và nâng cấp một phần các cầu và tuyến đường quan trọng. Xây dựng cảng biển, cảng sông, khai thông đường sông, củng cố đường Nhà Bè Duyên Hải, làm một số đường bộ nhất là ở ngoại thành. Tăng thêm phương tiện giao thông công cộng, phương tiện vận tải, nhất là vận tải thủy, và cơ sở hậu cần kỹ thuật. Ðến 1990 tăng gấp đôi lượng vận chuyển hành khách trên địa bàn thành phố; tốc độ bình quân hàng năm về tấn vận chuyển hàng hóa từ 7% trở lên. Phát triển dịch vụ vận tải, hợp lý hóa vận chuyển khu vực, chất lượng phục vụ tốt, giảm hư hỏng, mất mát đến mức thấp nhất.
Ngành công an và giao thông vận tải phải khắc phục ngay sự buông lỏng an toàn và trật tư giao thông, phải thực hiện nghiêm ngặt việc giảm tiếng ồn và lượng xã khí độc của các loại phương tiện giao thông.
Cảng Sài Gòn, sân bay dân dụng Tân Sơn Nhất, đường sắt có vị trí kinh tế đặc biệt quan trọng đối với thành phố và khu vực. Ðề nghị Trung ương có quy chế cho phép thành phố phối hợp với Bộ Giao thông vận tải, Tổng cục hàng không dân dụng quản lý và khai thác các cơ sở nói trên; có kế hoạch củng cố, mở rộng và hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật, phát huy mạnh và cải tiến hoạt động, nhằm đáp ứng tốt nhiệm vụ kinh tế nhất là kinh tế đối ngoại, xuất nhập khẩu kịp thời, an toàn, phục vụ đắc lực cho sản xuất và đời sống, bảo đảm văn minh trong giao lưu quốc tế. Kiến nghị với Trung ương cho phép sử dụng Tân cảng phục vụ kinh tế.
Thông tin bưu điện: Thành phố tham gia với Trung ương đầu tư sửa chữa mạng lưới điện thoại, thay mới các tuyến cáp xung yếu, bảo đảm thông tin thông suốt giữa thành phố và Trung ương, quận, huyện, phường, xã. Phát triển viễn thông ngoại thành. Từng bước trang bị tổng đài điện tử thay thế dần các tổng đài quá cũ hiện nay, phát triển điện thoại công cộng, đến năm 1990 tăng thêm 1000 máy điện thoại. Ðề nghị Trung ương trang bị hệ thống thông tin phục vụ hàng không và kinh tế đối ngoại. Xóa bao cấp và xây dựng bưu điện thành phố an toàn, văn minh.
Nhà đất: Nhà ở là một trong những nhu cầu bức thiết nhất của nhân dân lao động trong thành phố mà những năm qua chưa có biện pháp giải quyết tốt. Phải kiên quyết điều chỉnh, phân phối sử dụng nhà đất đúng chính sách, bảo đảm công bằng hợp lý theo tinh thần Nghị quyết 12 của thường vụ Thành ủy. Xử lý nghiêm những trường hợp chiếm và sử dụng nhà không đúng luật pháp và các vụ tiêu cực về nhà đất. Do nhu cầu rất lớn và để có mức cải thiện về nhà ở, việc xây dựng mới nhà ở là hướng cơ bản, vừa cấp bách vừa lâu dài, phải được đặt ra một cách tích cực từ nay về sau. Phân cấp quản lý hợp lý từ phân phối, sửa chữa, thiết kế thi công cho quận huyện. Giao cho ngành nhà đất quỹ nhà cộng với phần đầu tư thêm của ngân sách để xây dựng mới nhà ở, lấy kinh doanh làm chính để phát triển và bù lỗ trong việc giải quyết nhà ở cho các đối tượng chính sách. Ngành nhà đất đề xuất các chính sách giao quyền sử dụng đất, sản xuất và phân phối vật liệu xây dựng để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi huy động sức mạnh tổng hợp của các cơ sở sản xuất kinh doanh, các ngành, các đơn vị và nhân dân xây dựng và sửa chữa nhà ở. Mục tiêu từ nay đến 1990 là điều chỉnh và xây mới 25.000 căn hộ (trong đó có khoảng 20.000 căn hộ xây mới) để giải quyết nhà ở cho cán bộ công nhân viên, các gia đình chính sách và những người lao động nghèo, giải tỏa nhà trên một số kênh rạch. Phải đặc biệt coi trọng và đảm bảo vật liệu xây dựng sửa chữa nhà. Trong nội thành ưu tiên giải quyết việc chống dột, không để nhà cửa Nhà nước quản lý tiếp tục xuống cấp. ở ngoại thành, ưu tiên giải quyết nhà cho thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng. Giải quyết xong các loại nhà lụp xụp, dột nát, lợp ngói hoặc fibrociment phần lớn nhà ở nông thôn.
Phát triển nhanh, toàn diện nông nghiệp và nông thôn ngoại thành, hình thành và ổn định cho được vành đai thực phẩm tạo nguồn hàng xuất khẩu đi liền với cơ cấu nông nghiệp, có chăn nuôi, phát triển cây công nghiệp và cây chất đốt.
Cần khẳng định đầu tư cho ngoại thành chính là phục vụ cho nội thành, cho công nghiệp, hình thành cơ cấu công nông nghiệp của thành phố. Ðây là sự đầu tư mà hiệu quả tổng hợp rất cao, cả về mặt kinh tế và xã hội chẳng những phục vụ tốt cho nội thành mà trước hết sẽ làm cho vùng nông thôn ngoại thành phát triển nhanh, đời sống của nông dân sẽ được cải thiện và ổn định hơn. Sắp tới các ngành, các quận phải có chương trình cụ thể thực hiện tốt Nghị quyết 18, Nghị quyết 21 của Thành ủy đưa ngoại thành từng bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, có đời sống văn hóa phát triển. Các huyện ngoại thành phải hướng sự phát triển kinh tế của mình phục vụ ngày càng tốt hơn cho nội thành. Phát triển giao thông hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi hiện có, nhất là thủy lợi đồng nội, tăng thêm nguồn điện, nước. Phấn đấu đến nâm 1990 về cơ bản đưa điện đến tất cả các vùng sản xuất chủ yếu của các huyện ngoại thành. Bảo đảm thuốc trừ sâu và phần lớn phân bón, cây con giống mới, định hình các vùng lúa cao sản, hình thành cơ cấu sản phẩm nông lâm ngư nghiệp xuất khẩu ổn định, phát triển cơ sở chế biến và ngành nghề tiểu thủ công nghiệp thích hợp ở từng khu vực. Tổ chức các liên hiệp sản xuất công nông nghiệp từ trồng trọt, chăn nuôi, chế biến đối với ngành chăn nuôi, thủy hải sản, rau, một số cây công nghiệp và cây chất đốt. Ngoài lúa, màu, phát triển thơm, đậu phộng, mía, tiêu, thuốc lá, dược liệu, tre trúc, điều, dừa, cói, cao su, cây chất đốt. Phát triển đàn heo, bò, gia cầm cho nhu cầu thành phố và xuất khẩu. Ðầu tư vốn và khoa học kỹ thuật, bước đầu xây dựng huyện Duyên Hải trở thành một khu vực quan trọng về nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và xuất khẩu thủy hải sản, một khu vực hậu cần quan trọng của nghề đánh bắt thủy hải sản phục vụ cho thành phố và một số tỉnh bạn. ở đây cần chú ý xây dựng nghề rừng, muối và du lịch. ~ến năm 1990, nông thôn ngoại thành phải thay đổi rõ rệt về kinh tế, văn hóa và xã hội, phục vụ có hiệu quả cho nội thành, hình thành cơ cấu công nông nghiệp, củng cố và tăng cường khối công nông liên minh trên địa bàn thành phố.
Phấn đấu đến năm 1990 đạt 320.000 tấn lương thực, lấy thâm canh, tăng vụ làm chính; 320.000 tấn rau, 27.000 tấn đậu phộng, 280.000 tấn mía, 36.000 tấn thơm, 3.500 tấn thuốc lá; 450.000 con heo với sản lượng 38.000 tấn heo hơi, 70.000 bò, trong đó có 10.000 bò sữa (4.000 con bò vắt sữa), trên 700 tấn thịt gà công nghiệp; đánh bắt 42.000 tấn thủy hải sản, 6.000 tấn cá nuôi. Về lâm nghiệp, đảm bảo che phủ 30% diện tích tự nhiên, trồng thêm 10.000 ha rừng tập trung, và 30 triệu cây phân tán, khai thác 100.000 m3 gỗ. Tổng kim ngạch xuất khẩu khu vực nông lâm ngư nghiệp đạt khoảng 60 triệu rúp/đô-la/năm.
Coi trọng phát triển lực lượng sản xuất, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, củng cố và nâng cao chất lượng các tập đoàn, hợp tác xã nông nghiệp hiện có, phát triển hợp tác xã mới, sơ kết, nhân mô hình kinh tế nông - công thương, tín dịch vụ và xuất khẩu trên địa bàn xã.
Nhiệm vụ phát triển nông thôn toàn diện đặt ra không phải chỉ trong phạm vi của khối nông thôn mà còn là nhiệm vụ của cả nội và ngoại thành, của các cấp đảng bộ, các ban ngành, đoàn thể và nhân dân thành phố. Trong chương trình kế hoạch của mình, các bộ phận nói trên phải có phần nói về nhiệm vụ và cách thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ này.
2) Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, kiên quyết lập lại trật tự trong phân phối lưu thông, trong quản lý thị trường trên địa bàn thành phố, nghiêm trị bọn đầu cơ tích trữ, nâng giá, làm và bán hàng giả, phá hoại kinh tế...
Trong hai năm đầu 1987-1988 phải thiết lập cho được trật tư trong phân phối lưu thông, trong quản lý thị trường trên địa bàn đối với tất cả các đơn vị được phép kinh doanh.
Củng cố và phát triển thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, theo hướng đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức, cán bộ; đổi mới phương thức kinh doanh để nắm được hàng ngày càng dồi dào phục vụ tốt sản xuất, đời sống và làm cho thương nghiệp xã hội chủ nghĩa thật sự giữ được vai trò chủ đạo trên thị trường.
Ðến cuối năm 1990, phải nắm đại bộ phận bán buôn, chi phối bán lẽ, nâng tỷ trọng bán lẽ của thương nghiệp xã hội chủ nghĩa đối với các mặt hàng thiết yếu: gạo, thịt, đường, nước mắm,... trên 90% so với nhu cầu xã hội thành phố; chất đốt phải chiếm tỷ trọng từ 75-80%, rau từ 60% trở lên, nâng tỷ trọng bán lẻ của thị trường có tổ chức trên 75% so với tổng mức bán lẻ xã hội.
Ðẩy mạnh công tác cải tạo và tăng cường quản lý các hình thức quá độ trong thương nghiệp.
Ðối với bọn đầu cơ, buôn lậu, bọn làm và bán hàng giả, bọn ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc móc ngoặt tuồn hàng hóa, vật tư của Nhà nước ra ngoài, phải truy tố trước pháp luật và trừng trị thật nghiêm khắc, coi đây là tội phá hoại kinh tế. Phát động rộng rãi phong trào quần chúng tham gia quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, chống bọn ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Khen thưởng thỏa đáng những người có công phát hiện và truy bắt. Trích một tỷ lệ thích đáng giá trị những hàng hóa bị xử lý tịch thu và tiền phạt chuyển sang quỹ cứu tế xã hội của thành phố và quận huyện để trợ cấp cho các gia đình thuộc diện chính sách, gia đình nghèo đang gặp khó khăn.
Chấn chỉnh ngay ngành ăn uống: Ngành ăn uống nội địa phải lấy phục vụ nhân dân lao động làm chính với những món ăn, bữa cơm bình dân. Phải dẹp bỏ tình trạng nhậu nhẹt, văn nghệ không lành mạnh trong các cửa hàng. Ðình chỉ kinh doanh những cửa hàng ngụy trang, làm ăn bất chính, không tuân thủ các quy định của Nhà nước, hướng dẫn họ chuyển sang sản xuất. Những cửa hàng kinh doanh ăn uống đắt tiền phải chuyển hướng phục vụ cho sự phát triển của ngành du lịch. Phân cấp cho quân, huyện quản lý các của hàng ăn uống trên địa bàn quận, huyện.
Ðối với các hộ kinh doanh ăn uống bình dân, những người lao động bán hàng rong cần có sự chiếu cố thích đáng, nhất là những người chưa có việc làm, nhưng không phát triển quá mức và phải bảo đảm vệ sinh, trật tự và giá cả. Nghiêm cấm tư nhân và tập thể sản xuất rượu, bia, nước giải khát lên men và thuốc lá.
Về lương thực, thực hiện độc quyền quản lý trong phạm vi thành phố. Bảo đảm tiêu chuẩn định lượng, chất lượng lương thực phân phối cho cán bộ, công nhân viên, lực lượng vũ trang và các đối tượng đã được quy định. Phấn đấu có lực lượng dự trữ lương thực cần thiết cho thành phố. Ðẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến các loại hoa màu, lương thực, nghiên cứu thực hiện từng bước bữa ăn công nghiệp và thay đổi cơ cấu bữa ăn cho công nhân viên chức, lực lượng vũ trang, học sinh các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề.
Phát triển mạng lưới dịch vụ quốc doanh kết hợp với cải tạo, sắp xếp lại dịch vụ tư nhân, cá thể, nâng cao chất lượng phục vụ và có chính sách thống nhất về giá cả, tiền công, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt hơn các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của nhân dân thành phố. Phân cấp cho quận, huyện cải tạo và quản lý các cửa hàng dịch vụ trên địa bàn.
Các ngành ngân hàng, tài chính, vật giá có vai trò hết sức quan trọng trong ổn định tình hình kinh tế xã hội ở thành phố. Trong những năm tới, ngân hàng phải đổi mới cơ chế quản lý, phục vụ ngày càng tốt hơn cho sản xuất, kinh doanh và làm cho đồng tiền đi qua ngân hàng ngày một nhiều hơn, hạn chế việc thanh toán bằng tiền mặt, mở rộng hình thức chuyển khoản, kiểm soát đồng vốn và có biện pháp kích thích tăng vòng quay đồng vốn. Gấp rút nghiên cứu và có kiến nghị với Trung ương về chính sách lãi suất thích hợp và bảo đảm giá trị đồng tiền để huy động được tiền tiết kiệm và nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, đồng thời tránh tình trạng bao cấp tràn lan trong tín dụng. Cải tiến mối quan hệ với các ngân hàng nước ngoài và mạnh dạn bảo đảm vay vốn của các đơn vị sản xuất, kinh doanh ở thành phố để tạo quỹ vật tư, hàng hóa ổn định, phục vụ đắc lực cho sản xuất kinh doanh và đời sống.
Ngành tài chính, cùng với ủy ban kế hoạch và các ngành có liên quan phải có kế hoạch, biện pháp thực hiện tích lũy ngân sách thành phố theo hướng phát triển mạnh sản xuất, nhất là khu vực kinh tế quốc doanh, đi vào những mặt hàng có hiệu quả kinh tế cao, quay vốn nhan, khuyến khích mở rộng sản xuất trong nhân dân và đẩy mạnh kinh doanh thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1988 phải phấn đấu thực hiện thăng bằng thu chi ngân sách. Quy định nghĩa vụ của các quận, huyện, các ngành sản xuất, kinh doanh đóng góp vào ngân sách thành phố. Hoàn chỉnh việc phân cấp ngân sách cho quận, huyện, phường, xã. Hướng dẫn giúp đỡ bên dưới bảo đảm yêu cầu thi chi, tránh những lệch lạc, những đòi hỏi phiến diện, cũng như sự thiếu thông cảm đối với những yêu cầu chi tiêu cần thiết của địa phương và cơ sở. Ðẩy mạnh công tác thuế, củng cố và tăng cường các đơn vị thu thuế, gắn chặt ngành thuế với địa phương với sự chỉ đạo nghiệp vụ của ngành dọc, bảo đảm chống thất thu thuế. Tăng cường biện pháp trừng trị đối có số trốn thuế, lậu thuế và các mặt tiêu cực trong ngành thuế. Rà soát các chủ trương chính sách về thuế để đề nghị Nhà nước sửa đổi, bổ sung nhằm khuyến khích sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và góp phần vào công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa ở thành phố. Thực hiện các biện pháp và chính sách điều tiết thu nhập hợp lý giữa các thành phần kinh tế và có chính sách phân phối lại thu nhập qua ngân sách bảo đảm tính hợp lý giữa khu vực kinh doanh, sản xuất với khu vực hành chính sự nghiệp, kiên quyết tước đoạt những thu nhập bất chính. Kiểm soát chặt chẽ, chống ghim hàng, vật tư, lưu kho lưu bãi quá hạn của các đơn vị kinh tế. Tăng cường việc kiểm tra, kiểm soát và có sự hướng dẫn của ngành tài chính đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn thành phố về công tác tài vụ và hạch toán kinh tế.
Ngành giá quán triệt và thực hiện tốt kết luận của Bộ Chính trị về những biện pháp cấp bách về giá - lương tiền (số 372/TLHN ngày 16/9/86) tiếp tục triển khai để hoàn chỉnh việc phân công, phân cấp quản lý giá và bảo đảm kỷ luật giá. Cùng các ngành liên quan xác định đúng đắn các định mức kinh tế kỹ thuật và tính lại giá thành các loại sản phẩm. Bảo đảm mối quan hệ giá hợp lý giữa công nghệ phẩm và nông sản phẩm. Việc xét duyệt giá phải nhanh chóng, kịp thời, sát đúng, phục vụ đắc lực cho sản xuất, kinh doanh và đời sống. Coi đấu tranh giá cả như chỉ đạo tác chiến, bảo đảm thông tin và chỉ đạo thường xuyên liên tục theo chế độ trực ban. Phối hợp với Tổng Công ty xuất nhập khẩu thành phố xây dựng kịp thời giá mua và giá bán hàng xuất nhập khẩu; điều chỉnh kịp thời giá gia công, giá nông sản phẩm... để bảo đảm thu nhập hợp lý của người thợ thủ công và nông dân. Phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp nhanh chóng thiết lập trật tự giá trên địa bàn thành phố. Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và có quy hoạch đào tạo cán bộ của ngành giá đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chính trị của ngành.
3) Tập trung giải quyết đời sống cho cán bộ, công nhân viên chức, nhất là thương bệnh binh, bộ đội, công an, giáo viên, nhân viên y tế, công nhân vệ sinh, người nghỉ hưu, các gia đình thuộc diện chính sách, những người lao động nghèo, neo đơn gặp khó khăn.
Vấn đề cơ bản nhất trong việc giải quyết đời sống là phải ra sức phát triển sản xuất công nông nghiệp trên địa bàn thành phố, để thu hút số lao động chưa có việc làm. Theo dự báo từ nay đến năm 1990 số người cần bố trí việc làm có trên 40 vạn. Do đó thành phố phải sớm có quy hoạch phân bổ lại các khu dân cư, nắm chắc nguồn lao động, tạo việc làm để có thể bố trí hàng năm ít nhất cũng đạt khoảng 8 vạn người. Uỷ ban kế hoạch thành phố, sở lao động cùng các ngành, các cấp phải có phương án cụ thể giải quyết vấn đề này theo hướng mở rộng thêm ngành nghề. Có kế hoạch bố trí, sử dụng lao động trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của phường xã, quận, huyện, thành phố và trung ương đóng trên địa bàn thành phố. Mặt khác, phải có kế hoạch tốt trong liên kết kinh tế, phân bổ mạnh dân cư đến các địa bàn Duyên Hải và Nam Tây Nguyên để xây dựng vùng kinh tế mới. Ưu tiên giải quyết cho số thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, thanh niên xung phong trở về, những người có tay nghề và số học sinh tốt nghiệp đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp chưa có việc làm. Có kế hoạch cụ thể phấn đấu giải quyết ngày càng tốt hơn các nhu cầu về ăn, mặc, ở, học tập, đi lại, học hành, văn hóa văn nghệ của nhân dân thành phố. Ðặc biệt phải chú ý chăm sóc đời sống cho cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng vũ trang và các đối tượng chính sách đã được xác định.
Mức sống trong những năm tới từng bước phải đạt được như sau:
Về ăn ở: TNXHCN phải đảm bảo đủ những mặt hàng thiết yếu phục vụ bữa ăn hàng ngày như: gạo, thịt, cá, đường, chất đốt, nước mắm và nước chấm, rau với giá cả từng bước ổn định... Ðối với công nhân viên chức thực hiện việc bù giá kịp thời, bảo đảm mua được các mặt hàng theo định lượng.
Phấn đấu đến cuối năm 1988, thu nhập thực tế của cán bộ, công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang và các đối tượng chính sách ít nhất cũng bằng mức lúc bắt đầu áp dụng chế độ lương mới.
Về mặc: TNXHCN phải đảm bảo đủ vải bán cho nhu cầu của nhân dân.
Về ở: Thực hiện cho kỳ được các chỉ tiêu về nhà ở đã nêu ở phần nghị quyết về nhà đất.
Về học hành: Ðến niên khóa 1988-1989 phải xóa hết các lớp ca 3. Tạo mọi điều kiện để lứa tuổi thanh thiếu niên được học hành, kể cả các lớp học ban đêm; mở rộng trường vừa học vừa làm và các trường, lớp dạy nghề.
Về đi lại: Ðến nâm 1990 tăng lượng vận chuyển hành khách bằng phương tiện công cộng lên gấp đôi so với năm 1985, tạo điều kiện cho việc đi lại của nhân dân thêm thuận lợi và dễ dàng hơn.
Về văn hóa văn nghệ: Phấn đấu nâng cao số lần phục vụ phim ảnh, sân khấu... ở các khu vực tập trung đông dân cư, các xóm lao động và vùng nông thôn ngoại thành, nhất là ở các khu căn cứ kháng chiến cũ. Tổ chức tốt việc đoàn kết tương trợ xây dựng quỹ cứu tế xã hội ở từng đơn vị phường, xã, khu phố. Các phường, xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh, các cơ quan phải thường xuyên nắm tình hình những người có khó khăn về những mặt trên đây, vạch kế hoạch giúp đỡ thiết thực. Công đoàn cùng các đoàn thể, mặt trận và các cơ quan chức năng phải làm nòng cốt trong việc chăm lo đời sống, cần có chính sách khen thưởng thỏa đáng đối với những đơn vị địa phương có thành tích giải quyết tốt đời sống về các mặt nêu trên.
4) Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại mũi nhọn của kinh tế thành phố.
Xuất nhập khẩu là mũi nhọn chiến lược của kinh tế thành phố. Trong những năm tới phải tổ chức lại toàn bộ công tác xuất nhập khẩu và ngành ngoại thương thành phố. Tập trung nghiên cứu, có kế họach làm tốt công tác dịch vụ xuất nhập khẩu thật hấp dẫn, có sức thuyết phục, thể hiện đúng mức vai trò trung tâm giao lưu quốc tế của khu vực. Tập trung đầu tư vào các chương trình phát triển nguồn hàng xuất khẩu trực tiếp của thành phố, nguồn hàng gia công cho nước ngoài, nhất là Liên Xô. Ðầu tư cơ sở vật chất làm dịch vụ xuất nhập khẩu như tinh chế, đóng gói, bao bì, bảo quản, kho tàng, bến bãi, phương tiện vận chuyển; đồng thời củng cố và mở rộng liên doanh liên kết kinh tế với các tỉnh. Coi trọng việc hợp tác xuất nhập khẩu với hai nước anh em Campuchia và Lào, đặc biệt là liên doanh đầu tư vào sản xuất để tạo nguồn hàng xuất khẩu. Có quan hệ kinh tế thiết thực với các tỉnh và thành phố kết nghĩa: Phnompênh, Lêningrát, Laixích, Braxtilava. Mở rộng các dịch vụ có thu ngoại tệ. Có chính sách thỏa đáng huy động kiều hối và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, thiết bị, kỹ thuật choc ác chương trình mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thành phố. Phấn đấu đến năm 1990 doanh số xuất khẩu đạt 450 triệu R/USD và doanh số nhập khẩu đạt 550 triệu R/USD.
Trước mắt, bằng mọi cách nhập trước, xuất trả sau, tìm nguồn viện trợ hoặc vay trung, ngắn hạn có ưu đãi, khoảng 150-200 triệu R/USD cho chương trình ổn định khẩn cấp trong hai năm 1987-1988 của thành phố.
Trong các loại hình dịchv ụ có thi ngoại tệ, đặc biệt chú trong mở rộng hoạt động du lịch với nước ngoài. Ðề nghị Trung ương mở rộng cơ chế cho Việt kiều về thăm quê hương bằng con đường du lịch. Phát triển mạnh trao đổi khách du lịch giữa các nước xã hội chủ nghĩa với thành phố, mở rộng diện cho đồng bào và cán bộ đi tham quan du lịch ở các nước xã hội chủ nghĩa. Ðề nghị Trung ương xem xét và sớm bổ sung một cách toàn diện hệ thống chính sách về kinh tế đối ngoại phù hợp với tinh thần các Nghị quyết 6, 7, 8 của Trung ương và Nghị quyết 31 của Bộ Chính trị, nhất là các chính sách về tài chính, ngân hàng, tỷ giá hối đoái... nhằm thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật, chất xám vào sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Có chế độ ưu đãi khuyến khích sản xuất những mặt hàng có hiệu quả kinh tế cao đi đôi với chính sách bảo hộ các mặt hàng sản xuất trong nước. Riêng đối với kiều hối và hàng quà biếu của kiều bào gửi về cho thân nhân cần nghiên cứu đề nghị với Trung ương một chính sách toàn diện, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội.
5) Thực hiện đổi mới cơ chế quản lý và đổi mới tổ chức trong hoạt động sản xuất và kinh doanh:
Phải thực hiện tốt nhất các Nghị quyết 6, 7, 8 của Trung ương khóa V và kết luận của Bộ Chính trị về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế, kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế hoạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lập lại cho được trật tự trong phân phối lưu thông, đồng thời chống tự do vô kỷ luật trong quản lý.
Tập trung chỉ đạo thực hiện có sơ kết, tổng kết nghị quyết (dự thảo) 306 của Bộ Chính trị về đảm bảo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và phân phối lưu thông. Trong hai năm 1987-1988, trên cơ sở phấn đấu ổn định được tình hình sản xuất và giá cả, đại bộ phận các cơ sở thực hiện được hạch toán kinh tố, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, tự chịu trách nhiệm về lời lỗ trong sản xuất kinh doanh, tự hoàn vốn và phát triển, nộp ngân sách tăng, cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của tập thể lao động. Tiến hành đồng thời đổi mới tổ chức sản xuất kinh doanh, đổi mới phương thực quản lý, đổi mới kỹ thuật. Coi trọng và bồi dưỡng đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế đối với cán bộ từ giám đốc, bí thư đảng, thư ký công đoàn, bí thư đoàn thanh niên cộng sản. Kiên quyết thay thế những cán bộ không đảm đương được nhiệm vụ, nhằm bảo đảm cơ chế quản lý mới được thực hiện thông suốt và có hiệu quả.
Cấp sở và ngành thành phố phải thực hiện đúng chức năng quản lý hành chánh kinh tế Nhà nước, giảm biên chế gián tiếp và các bộ phận hành chính tới mức tối thiểu cần thiết. Làm rõ chức năng quản lý của các cơ quan quản lý sản xuất, kinh doanh cấp trên cơ sở, như liên hiệp các xí nghiệp, các công ty... Hợp lý hóa và tinh gọn bộ máy quản lý của các tổ chức này. Xây dựng quy chế làm việc và sự phân cấp quản lý trong nội bộ theo hướng xóa bỏ những tổ chức và việc làm chồng chéo, bảo đảm hiệu quả kinh tế cao, hạ giá thành sản phẩm tới mức thấp nhất. Kịp thời sơ kết việc chỉ đạo điểm thực hiện cơ chế quản lý cấp cơ sở. Tiếp tục phân cấp quản lý cho quận, huyện, phường, xã và các đơn vị kinh tế trên nguyên tắc bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy được sự chủ đựng sáng tạo của các cấp và cơ sở. Nghiên cứu thí điểm việc phân cấp quản lý và bảo đảm thống nhất tập trung dân chủ; nghiên cứu thí điểm cơ chế kinh tế vùng và liên kết kinh tế, sơ kết, thể chế hóa để nhân rộng ra.
Kiến nghị với Trung ương về các chính sách và biện pháp cụ thể để thực hiện có hiệu quả việc đổi mới cơ chế trong kế hoạch hóa, cung ứng vật tư, giá, tự chủ tài chánh phù hợp với điều kiện nền kinh tế còn nhiều thành phần, bảo đảm Nhà nước quản lý ngày càng tốt hơn. Ðổi mới cơ chế quản lý phải bảo đảm sản xuất phát triển, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, chất lượng sản phẩm tốt, giá thành hạ; vai trò lãnh đạo của Ðảng, quyền làm chủ tập thể của công nhân viên chức và hiệu lực quản lý Nhà nước được tăng cường. Ðó là những vấn đề trung tâm và là phương hướng quan trọng nhất trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Thực hiện đổi mới cơ chế quản lý phải gắn liền sản xuất với lưu thông phân phối tiêu dùng, làm cho chu trình sản xuất và tái sản xuất gắn bó khắng khít với nhau, quay vòng nhanh nhất; bảo đảm cho được tái sản xuất mở rộng. Chỉ có như thế mới ngày càng nâng tích lũy cho ngân sách, tiến tới ổn định tiền tệ, ổn định phân phối lưu thông, cải thiện đời sống và góp phần xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
6) Củng cố quan hệ sản xuất mới, nâng cao chất lượng các tổ chức kinh tế tập thể, tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng những hình thức và bước đi thích hợp.
Cách mạng quan hệ sản xuất được thực hiện thông qua công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân nhằm cải tạo quan hệ sản xuất củ, xây dựng quan hệ sản xuất mới, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tái sản xuất mở rộng, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội.
Cần quán triệt tư tưởng chỉ đạo công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới đã được nêu ra trong Kết luận của hội nghị Bộ Chính trị về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế:
“Một là, cải tạo xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải tuân theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất của ta còn nhỏ yếu, trình độ xã hội hóa sản xuất còn thấp, lại phát triển không đều. Vì vậy, trong việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới, phải lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp, trên quy mô cả nước cũng như đối với từng vùng, từng lĩnh vực. Phải đi qua những bước trung gian, quá độ, từ thấp lên cao, từ quy mư nhỏ đến trung bình, rồi tiến lên quy mô lớn. Và tùy theo sự phát triển của lực lượng sản xuất mà tiếp tục cải tạo với những hình thức cao hơn, quy mô rộng lớn hơn để từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới.
“Hai là, cải tạo xã hội chủ nghĩa là một bộ phận trọng yếu của cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ quá độ. Ðặc trưng cần nắm vững là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần...
“ Cải tạo xã hội chủ nghĩa phải nhằm xây dựng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng vững mạnh, làm cho kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm ưu thế và phát huy tính hơn hẳn thông qua việc không ngừng nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế và mức sống của người lao động. Ðồng thời thừa nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa và một bộ phận kinh tế tư bản tư nhân ở mức độ nhất định trong một thời gian tương đối dài, coi đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao động. Phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế đó, vì lợi ích của chủ nghĩa xã hội.
“ Ba là, cải tạo xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu mà là giải quyết vấn đề quan hệ sản xuất một cách đồng bộ, cả trên ba mặt: chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối. Cải tạo bao hàm nội dung chủ yếu là xây dựng, nhằm từng bước làm cho ba mặt đó thật sự mang bản chất xã hội chủ nghĩa. Cải tạo xã hội chủ nghĩa là một quá trình gắn liền với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất, vì không thể chỉ làm một lần hay trong một thời gian ngắn là xong.
Theo tinh thần đó, Ðảng ta coi đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất luôn luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở mỗi quá trình phát triển”.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị, phương hướng cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất mới của thành phố trong thời gian tới là:
Tăng cường kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhất là kinh tế quốc doanh, làm cho kinh tế quốc doanh thật sự phát huy vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể chiếm vị trí chi phối trong nền kinh tế quốc dân, thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Khâu có ý nghĩa quyết định là phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo tinh thần nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị; sắp xếp lại sản xuất, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng mạnh mẽ tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh; thực hiện sự liên kết giữa kinh tế quốc doanh với các thành phần kinh tế khác nhằm hướng các thành phần kên tế đó vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội; chăm lo xây dựng, giáo dục để nâng cao tính tự giác và phát huy sức mạnh làm chủ tập thể của giai cấp công nhân để phát triển sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ.
Củng cố và nâng cao chất lượng các tổ chức kinh tế tập thể (trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và thương nghiệp), trong đó những khâu có ý nghĩa quyết định là: từng bước tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, chăm lo giải quyết tốt nguyên liệu, vật tư, năng lượng, giá cả và tiền mặt; nâng cao hiệu quả công tác quản lý; đào tạo, bồi dưỡng và tăng cường cán bộ có năng lực cả về quan điểm chính trị, kiến thức quản lý và phẩm chất đạo đức; coi trọng việc trao đổi bàn bạc với quần chúng và giáo dục nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm năng suất, chất lượng và hiệu quả lối làm ăn tập thể phải hơn hẳn lối làm ăn cá thể. Riêng trong nông nghiệp cần chú ý hoàn thiện phương thức khoán sản phẩm cuối cùng đền nhóm và người lao động. Phải ý thức đầy đủ rằng, nếu không nỗ lực phấn đấu bảo đảm cho được những yêu cầu này thì sẽ tác hại cho chính công cuộc cải tạo, cho xã hội và cho cả bản thân người lao động.
Một số hình thức kinh tế quá độ như xí nghiệp hợp doanh, cửa hàng hợp tác kinh doanh... đã hình thành là phù hợp với đặc điểm của chặng đường đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, trước mắt cần rà soát lại các hình thức kinh tế này theo hướng: những cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý ngành hàng hoặc những cơ sở không cần thiết sử dụng hình thức kinh tế quá độ thì chuyển thành kinh tế quốc doanh hay kinh tế tập thể, hoặc chuyển sang sản xuất theo quyết định 34. Những cơ sở còn lại thì củng cố về mọi mặt: thật sự bàn bạc với các cổ đông, cùng với họ tìm cách đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh đúng hướng, vừa có lợi cho đất nước, vừa có lợi cho bản thân và gia đình họ. Tăng cường công tác quản lý, có chính sách thỏa đáng giúp các cơ sở này giải quyết nguyên liệu, vật tư và tiêu thụ sản phẩm. Xem xét lại đội ngũ cán bộ và nhân viên tham gia cải tạo và quản lý, loại bỏ những phần tử thoái hóa biến chất, đào tạo bồi dưỡng, xây dựng quan điểm chính trị đúng đắn và nâng cao trình độ nghề nghiệp cho anh chị em. Từng bước xây dựng vững chắc lực lượng chính trị (công đoàn, đoàn thanh niên cộng sản,...) trong các cơ sở này. Mặt trận và các đoàn thể phải coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho các cổ đông, hướng họ đi vào con đường làm ăn đúng đắn. Trước mắt, phải kiên quyết xử lý và ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực trong các cơ sở hợp doanh này.
Trong lĩnh vực thương nghiệp tiếp tục cải tạo theo hướng: xóa thương nghiệp tư bản tư nhân, sắp xếp, tổ chức tiểu thương tham gia các hình thức quá độ thích hợp do các công ty chợ, hợp tác xã mua bán và tổ ngành hàng quản lý, nhằm cải tạo và sử dụng họ thành lực lượng bổ sung cho thương nghiệp XHCN, từng bước chuyển một bộ phận sang sản xuất, dịch vụ.
Ðối với thợ thủ công cá thể thì từng bước tổ chức họ tham gia các hình thức kinh tế quá độ thông qua các hình thức liên kết với kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và có chính sách kinh tế phù hợp để hướng họ đi vào con đường làm ăn đúng đắn. Riêng đối với một số nghề truyền thống trong thủ công mỹ nghệ thì phải tính toán kỹ hiệu quả kinh tế để có chủ trương thích hợp tránh làm mai một những sản phẩm và tay nghề có giá trị. Không nên có thành kiến gây khó khăn cho những người lao động cá thể chưa muốn tham gia vào các tổ chức kinh tế tập thể hoặc xin rút khỏi các tổ chức đó. Có chính sách khuyến khích phát triển mạnh kinh tế phụ gia đình ở nội thành và kinh tế vườn ở ngoại thành.
Trong nông nghiệp, vài năm trước mắt mỗi huyện chọn một số hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, mỗi xã chọn 1 HTX hoặc 1 TÐSX tập trung chỉ đạo thực hiện tốt các biện pháp chủ yếu nêu trên để rút kinh nghiệm, nhân rộng ra. Phấn đấu đến năm 1990 giảm tới mức tối đa những HTX và TÐSX yếu kém.
Việc thực hiện các nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa trên đây là trách nhiệm trực tiếp của các ngành các cấp, phải gắn chặt cải tạo kinh tế với cải tạo văn hóa xã hội. Trong biện pháp thực hiện phải đặc biệt coi trọng việc bàn bạc với quần chúng, làm cho quần chúng nhận rõ lợi ích của công tác cải tạo mà tự giác tham gia đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, xóa bỏ các tổ chức kinh tế tập thể trá hình, củng cố và nâng cao chất lượng các tổ chức kinh tế tập thể và các hình thức kinh tế quá độ.
7) ứng dụng mạnh mẽ tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào các ngành sản xuất, coi trọng nghiên cứu, áp dụng khoa học xã hội và khoa học quản lý vào các lĩnh vực hoạt động của thành phố.
Ðể góp phần thực hiện các chương trình và chỉ tiêu kinh tế thành phố nêu ra trên đây, công tác khoa học kỹ thuật phải kết hợp chặt chẽ với kế hoạch kinh tế - xã hội của từng cấp, từng ngành, lực lượng khoa học kỹ thuật phải gắn với từng ngành sản xuất kinh doanh và cơ sở, nhất là những ngành kinh tế mũi nhọn. Quan tâm áp dụng khoa học trong các khâu quản lý (kinh tế, xã hội, hành chính và lao động), trong việc đổi mới công nghệ, tạo ra nhiều sản phẩm mới có chất lượng cao, được tín nhiệm trên thị trường trong và ngoài nước. Từ tổ chức chỉ đạo đến chi tiêu ngân sách cho hoạt động khoa học và kỹ thuật đều phải đáp ứng đúng yêu cầu này. Theo yêu cầu trên, từ nay đến năm 1990, cần tập trung làm tốt những việc sau đây:
- Triển khai và hoàn thành các chương trình nghiên cứu về chiến lược kinh tế xã hội, chiến lược khoa học và kỹ thuật, chiến lược con người... để làm cơ sở cho những quyết định về chủ trương, chính sách, công tác qui hoạch và kế hoạch hóa của thành phố
- Hòan thành một số chương trình điều tra cơ bản trọng điểm, phát triển một số ngành khoa học mũi nhọn (điện toán, nhất là phần mềm, sinh học, hóa học...), nghiên cứu tận dụng công suất thiết bị hiện có, nghiên cứu đổi mới thiết bị kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tập trung trước hết cho sản xuất hàng tiêu dùng và sản phẩm xuất khẩu, lập các phương án kinh tế, kỹ thuật để giải quyết các vấn đề năng lượng, nguyên liệu, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất công nghiệp, xây dựng vững chắc vành đai thực phẩm của thành phố, góp phần phát triển công nghiệp và nông nghiệp của khu vực. Khuyến khích và chú ý đầu tư cho việc nghiên cứu và sản xuất thử nguyên liệu vật tư từ nguyên liệu trong nước. Tổ chức tốt hoạt động dịch vụ khoa học kỹ thuật trong các ngành các cấp để phục vụ sản xuất và đời sống. Ðẩy mạnh hơn nữa các hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý sản xuất.
- Coi trọng nghiên cứu khoa học xã hội và áp dụng các khoa học quản lý: các ngành khoa học xã hội tổ chức nghiên cứu các đặc điểm kinh tế xã hội và con người thành phố có liên quan đến các mặt quản lý; cùng với hệ thống trường lớp của thành phố tổ chức bồi dưỡng những kiến thức cơ bản cần thiết về khoa học xã hội và quản lý cho cán bộ chủ chốt từ thành phố đến cơ sở.
- Các cấp, các ngành khi xây dựng kế hoạch kinh tế - xã hội nhất thiết phải đề ra các biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và khoa học quản lý, Ban Khoa giáo Thành ủy; ủy ban Khoa học kỹ thuật, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật thành phố phối hợp nghiên cứu đề xuất các chính sách, các biện pháp tổ chức phù hợp về hoa học và kỹ thuật để sử dụnng, phát huy tốt lực lượng cán bộ khoa học và kỹ thuật trên địa bàn. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng tốt đội ngũ này để phục vụ cho yêu cầu trước mắt và lâu dài. Tổ chức tốt công tác thông tin. Kiện toàn khoa học Kỹ thuật thành phố. Quản lý chặt chẽ việc sử dụng có hiệu quả 2% ngân sách dành cho nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật (cả khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và khoa học quản lý). Thành lập Hội đồng khoa học thành phố và các Hội đồng khoa học chuyên ngành. Lập nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật. Tạo điều kiện chăm lo đời sống cho cán bộ KHKT. Thi hành chính sách khen thưởng thỏa đáng đối với những cán bộ khoa học có những công trình nghiên cứu giá trị.
8) Ðẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa:
Cách mạng tư tưởng và văn hóa phải gắn chặt với quá trình tiến hành cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật và nhằm phục vụ tốt nhất nhiệm vụ chính trị của từng cấp, từng ngành. Công tác quản lý xã hội ở thành phố phải được nâng lên ngang tầm với công tác quản lý kinh tế.
Trong thời gian tới, cần coi trọng giáo dục những quan điểm tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê-nin và đường lối quan điểm của Ðảng gắn liền với các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng nêu ra trong báo cáo này để nâng cao tính tự giác của nhân dân thành phố, trước hết là công nhân, nông dân và thanh niên. Coi trọng giáo dục những vấn đề về đặc điểm, tính chất và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ, quan điểm và bước đi của quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, quan điểm hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa; thái độ lao động mới, ý thức coi trọng chất lượng sản phẩm, ý thức tiết kiệm và tinh thần bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục giáo dục chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn với việc phát huy truyền thống cách mạng của Ðảng bộ và nhân dân thành phố. Thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh, học tầp, công tác và chiến đấu mà tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng và lối sống xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc phát huy những giá trị đạo đức và tinh thần của dân tộc, những phẩm chất tốt đẹp trong tính cách của con người thành phố để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa lao động sáng tạo, có tinh thần tập thể, có lối sống văn minh, lịch sự, xứng đáng là người dân của thành phố mang tên Bác. Thái độ quan tâm đến con người, tôn trọng lẫn nhau phải trở thành một tiêu chuẩn đạo đức trong xã hội. Phê phán và đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong xã hội như tâm lý thực dụng, làm hàng gian, hàng giả, làm ăn bất chính, thái độ coi thường pháp luật, lối sống vị kỷ, sinh hoạt buôn thả, tâm lý vọng ngoại, các hủ tục mê tín dị đoan và mọi tàn dư khác của chế độ cũ. Lấy những việc làm tốt và những kinh nghiệm hay của quần chúng để giáo dục quần chúng. Lấy việc bàn bạc, trao đổi và hội thảo với quần chúng làm phương thức giáo dục. Ngoài các phương tiện thông tin đại chúng, cần hết sức coi trọng công tác tuyên truyền miện của cán bộ, đảng viên, đoàn viên và hội viên các đoàn thể, lấy lực lượng báo cáo viên và tuyên truyền viên làm nòng cốt. Củng cố hoạt động tuyên huấn ở các cấp, nhất là các đơn vị cơ sở.
Các hoạt động văn hóa văn nghệ phải góp phần thiết thực vào việc xây dựng con người mới, nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, phục vụ đắc lực công cuộc cải tạo, xây dựng, bảo vệ thành phố, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Tiếp tục đấu tranh quét sạch các tàn dư văn hóa, văn nghệ phản động lai căng, kiên trì đấu tranh chống khuynh hướng thương mại hóa trong hoạt động văn hóa văn nghệ, khuyến khích và tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ đi vào cuộc sống để nâng cao chất lượng sáng tác và phê bình văn học nghệ thuật. Chú trọng xây dựng những tác phẩm có giá trị, phản ánh sâu sắc với tính tư tưởng và trình độ nghệ thuật cao cuộc đấu tranh cách mạng phong phú của nhân dân thành phố trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, nhất là công cuộc cải tạo, xây dựng và bảo vệ thành phố hiện nay, khẳng định những mô hình tiên tiến, mạnh dạn phê phán những mặt tiêu cực và những hiện tượng còn bất công trong xã hội. Ðặc biệt cần đẩy mạnh hơn nữa phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng ở các cơ sở sản xuất, kinh doanh, phường, xã..., nhất là các khu lao động và vùng ngoại thành. Phải tạo điều kiện cho nhân dân thật sự làm chủ về văn hóa, sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa. Xây dựng tốt mạng lưới thư viện, phòng đọc sách, câu lạc bộ, nhà truyền thống... ở cơ sở. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và ổn định đội ngũ cán bộ văn hóa phường xã. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức chỉ đạo, quản lý công tác văn hóa văn nghệ và các hội nghệ thuật chuyên ngành. Coi trọng giáo dục chính trị, nâng cao trình độ nghề nghiệp và có chính sách đãi ngộ thỏa đáng với văn nghệ sĩ và cán bộ văn hóa cơ sở. Nghiên cứu lập quỹ văn hóa.
Hệ thống báo đài và xuất bản phải đổi mới cả nội dung và hình thức thể hiện, theo phương hướng phù hợp với sự đổi mới trong lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước. Phát hiện và biểu dương mạnh mẽ các mô hình làm ăn giỏi, những người lao động gương mẫu. Với phương châm nói thẳng, nói thật, nói chính xác, kết hợp chặt với cấp ủy Ðảng, chính quyền, đoàn thể và mặt trận các cấp, hệ thống báo đài cần tích cực góp phần đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong nội bộ và ngoài xã hội. Phải nhận rõ việc phê bình công khai trên báo là quyền chính đáng của mọi công dân và phải được thực hiện có nền nếp. Ðó là đặc điểm của dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng phải bảo đảm tính chuẩn mực của cơ quan hướng dẫn dư luận, quán triệt tính đảng và giữ đúng kỷ luật bảo mật quốc gia. Các nhà xuất bản phải vừa phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị của Ðảng bộ, vừa làm tốt việc phổ biến những tri thức cần thiết để góp phần nâng cao hiểu biết của nhân dân thành phố. Tổ chức tốt và quản lý chặt chẽ việc xuất bản, in và phát hành sách báo trên địa bàn thành phố. Tăng cường phương tiện vật chất như giấy, vật tư in cho sách báo và thiết bị phụ tùng cho hệ thống đài để tăng số lượng và nâng cao chất lượng hoạt động. Coi trọng bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ và có chính sách thỏa đáng đối với đội ngũ phóng viên, biên tập viên.
9) Nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục, y tế, thể dục thể thao...
Công tác giáo dục là sự nghiệp của toàn Ðảng bộ và nhân dân thành phố. Phải làm tốt hơn nữa việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc dạy chữ, dạy người và dạy nghề. Ra sức nâng cao chất lượng dạy và học. Ðặc biệt coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng kết hợp chặt chẽ với đạo đức truyền thống của dân tộc, tiêu biểu là đạo đức Bác Hồ. Phát triển và nâng cao chất lượng nhà trẻ và trường mẫu giáo. Chỉ đạo thực hiện tốt cải cách giáo dục theo nghị quyết 14 của Bộ Chính trị (khóa IV), thực hiện phổ cập cấp 1, từng bước phổ cập cấp 2. Mở rộng các loại trường BTVH, trường vừa học vừa làm, tạo điều kiện cho lứa tuổi thanh thiếu niên đều được học tập. Trường phổ thông phải thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, hình thành toàn diện nhân cách XHCN, đào tạo học sinh thành những con người có lòng yêu nước, có lý tưởng XHCN, có kiến thức văn hóa, có sức khỏe, có kỹ năng làm tốt một nghề phù hợp với sự phân công lao động trong địa phương và trong cả nước. Phải từng bước tổ chức việc giảng dạy ở các trường phổ thông theo hướng dạy những kiến thức văn hóa cơ bản, kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và mở rộng việc dạy nghề.
đầu tư xây dựng trường lớp, chú trọng ngoại thành, vùng tập trung dân cư lao động. Xóa bỏ việc học ca ba. Bảo đảm đủ sách giáo khoa và tập vở cho học sinh. Ðẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục chuyên nghiệp nhằm đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, nhân viên kỹ thuật nghiệp vụ. Mở rộng công tác dạy nghề bằng nhiều hình thức thích hợp. Sắp xếp mạng lưới các trường chuyên nghiệp trên địa bàn thành phố nhằm phục vụ có hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Xây dựng các mô hình liên kết đào tạo, thực nghiệm nghiên cứu khoa học và sản xuất giữa các trường chuyên nghiệp, đại học với các cơ quan nghiên cứu khoa học và các cơ sở sản xuất. Thực hiện tốt việc giáo dục quốc phòng và pháp luật trong học sinh. Công tác bổ túc văn hóa phải bảo đảm cho cán bộ lãnh đạo và quản lý thuộc diện cấp thành quản lý học hết chương trình cấp 3. Bảo đảm thu nhận vào các loại trường lớp đại bộ phận các cháu không được tuyển vào cấp ba. Kiến nghị xóa bỏ các bất hợp lý trong công tác tuyển sinh vào Ðại học. Coi trọng giáo dục tư tưởng chính trị, nâng cao vị trí xã hội và tích cực chăm lo đời sống tinh thần lẫn vật chất cho cán bộ, giáo viên và CNV ngành giáo dục.
Ngành y tế có trách nhiệm tăng cường bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho mọi người dân, trên cơ sở triển khai chiến lược săn sóc sức khỏe ban đầu, đặc biệt ở tuyến cơ sở, không ngừng nâng cao chất lượng của mạng lưới phòng chữa bệnh, xây dựng và kiện toàn các chuyên khoa sâu đầu ngành, vừa làm nhiệm vụ phòng bệnh, điều trị, phục hồi, đồng thời nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ.
Phát huy mạnh mẽ việc thừa kế y học cổ truyền, kết hợp ngày càng tốt hơn hai nền y học hiện đại và y học cổ truyền dân tộc.
Tích cực triển khai chương trình công nghiệp nguyên liệu (dược liệu và chế biến), hóa dược và bào chế thuốc, nhằm xây dựng 1 ngành công nghiệp y tế hoàn chỉnh, đảm bảo đủ thuốc trị bệnh thông thường, thuốc cấp cứu và trang thiết bị y tế thiết yếu, nhất là giường bệnh và phương tiện giải phẫu. Tổ chức tốt mạng lưới phân phối thuốc trị bệnh. Chấn chỉnh việc thăm nuôi ở các bệnh viện.
Cùng các ngành có liên quan (công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, công trình đô thị...), triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường trên cơ sở pháp lý và quy tắc vệ sinh, an toàn xã hội.
Xây dựng 1 trung tâm đào tạo cán bộ y tế, nhằm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cho ngành y tế thành phố. Ðẩy mạnh liên kết với các tỉnh, thành phố bạn trong nghiên cứu khoa học, sản xuất thuốc và trang bị cơ sở vật chất cho ngành y tế.
Phát huy vai trò của Hội chữ thập đỏ và các hội y học chuyên ngành. Cố gắng chăm lo đời sống cán bộ, nhân viên y tế và có chính sách biểu dương khen thưởng thích đáng đối với những thầy thuốc có thái độ phục vụ tận tụy.
Các cấp ủy, chính quyền và đoàn thể các cấp cần chỉ đạo chặt chẽ cuộc vận động quần chúng hưởng ứng kế hoạch dân số và phong trào kế hoạch hóa gia đình, nhằm đạt tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới 1,5% vào cuối năm 1990.
Họat động thể dục thể thao phải tổ chức và phát động sâu rộng phong trào quần chúng rèn luyện thân thể, nâng cao sức khỏe, lấy Ðoàn thanh niên làm nòng cốt. Tăng cường giáo dục thể chất trong các trường học. Trên cơ sở đó phát hiện và bồi dưỡng các tài năng. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục đội ngũ làm công tác thể dục thể thao, nhất là đội ngũ huấn luyện viên, vừa có tài năng vừa có trình độ văn hóa, đặc biệt coi trọng việc giáo dục đạo đức và phong cách thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa. Phát triển đồng bộ các loại hình và câu lạc bộ thể dục thể thao. Chú trọng các môn thể thao trọng điểm, thể thao truyền thống. Tăng cường cơ sở vật chất để nâng cao khả năng phục vụ của các cơ sở tập luyện và thi đấu.
Ðảng bộ, chính quyền đoàn thể và mặt trận các cấp cần quan tâm hơn nữa việc chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần cho người nghỉ hưu, anh chị em thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, quân nhân phục viên... Phải thực hiện đầy đủ các chính sách, chế độ của Ðảng và Nhà nước, chấm dứt tình trạng gây phiền hà trong phân phối hàng tiêu dùng, phát lương hưu trí và các khỏan trợ cấp cho các đối tượng này. Phải ưu tiên bố trí việc làm cho thương binh và quân nhân phục viên. Tạo điều kiện cho những người nghỉ hưu tham gia các hoạt động chính trị, xã hội phù hợp với sức khỏe mỗi người, nhất là tham gia giáo dục thế hệ trẻ. Ðề cao và phát huy vai trò, trí tuệ, kinh nghiệm của cán bộ cach mạng lão thành, cán bộ đảng viên nghỉ hưu trong việc xây dựng phố phường làng xóm. Làm tốt việc chăm sóc trẻ mồ côi, những người tàn phế, những người già yếu không nơi nương tựa.
đối với nạn nhân các tệ nạn xã hội, cần dựa vào dân để quản lý, giáo dục, cảm hóa, tạo việc làm tại cơ sở; đồng thời nghiêm trị bọn chủ chứa, bọn buôn bán xì-ke, ma túy...
10) Tăng cường công tác an ninh quốc phòng, bảo vệ thành phố, bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện nghiêm chỉnh pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, bảo đảm an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội là trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể và nhân dân thành phố, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy Ðảng thông qua phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc và quốc phòng toàn dân.
Về an ninh chính trị: lực lượng công an và phong trào an ninh nhân dân phải vừa làm tốt công tác quản lý an ninh cơ sở theo địa bàn dân cư, vừa tập trung vào các đối tượng và địa bàn trọng điểm, chú ý đúng mức đến các địa bàn và đối tượng kinh tế. Gắn liền với việc đẩy mạnh sản xuất, tổ chức tốt đời sống và tiến hành đúng đắn công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa mà phát động sâu rộng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Nắm chắc tình hình các loại phản động và các đối tượng cần thiết. Nâng cao cảnh giác, tiến công liên tục, mạnh mẽ chống các tác động tâm lý và các âm mưu khác của bọn phản cách mạng, bọn phản động lợi dụng tôn giáo, lợi dụng người Hoa và số quần chúng lạc hậu để chống phá cách mạng. Có biệt kích, tình báo, gián điệp, vượt biên, buôn lậu qua biên giới. Tuy quét bọn đầu sỏ tác động chiến tranh tâm lý, chia rẽ nội bộ, xuyên tạc các chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước.
Tăng cường công tác bảo vệ kinh tế, trước hết là bảo vệ sản xuất, cải tạo quản lý thị trường, bảo vệ tài sản của Nhà nước và của nhân dân. Phải nâng cao nghiệp vụ để đánh sâu, đánh trúng, đánh tận gốc bọn đầu sỏ đầu cơ buôn lậu, làm và bán hàng giả, phá rối thị trường, làm giàu bất chính, nhất là bọn buôn vàng, đá quý, ngoại tệ. Ngăn chặn các vụ ăn cắp vật tư, tiền của và hàng hóa của Nhà nước. Xử lý nghiêm khắc những cán bộ, công nhân viên thoái hóa biến chất, móc ngoặc với gian thương. Truy tận gốc các vụ phá hoại các cơ sở kinh tế, phá giá, lũng đoạn thị trường. Phấn đấu giảm các vụ lãng phí, các vụ cháy nổ,v.v...
Trên cơ sở nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể, mặt trận và lực lượng công an ở cơ sở, xóa bỏ những thành kiến hẹp hòi đối với quần chúng lao động người Hoa, đồng bào các tôn giáo, khắc phục những hiện tượng vi phạm chính sách tự do tín ngưỡng của Ðảng Và Nhà nước mà phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Giải quyết tốt công tác quản lý nhân hộ khẩu, quản lý vũ khí, chất nổ, chất cháy. Thường xuyên kiểm tra an toàn các phương tiện giao thông, thực hiện nghiêm ngặt luật lệ đi đường. Phấn đấu nâng số cơ sở an toàn, giảm số vụ phạm pháp hình sự, nhất là các vụ trọng án.
Kết hợp với công tác xây dựng Ðảng, xây dựng các đoàn thể, dựa hẳn vào quần chúng, thực hiện tốt 6 điều Bác Hồ dạy để củng cố lực lượng công an nhân dân trong sạch vững mạnh về tổ chứa, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức. Chú ý chăm lo đời sống cán bộ, chiến sĩ và kiên quyết khắc phục hiện tượng tiêu cực trong công an.
- Công tác quốc phòng địa phương, tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, từng bước hình thành thế bố trí chiến lược mới nền kinh tế quốc phòng, xây dựng thành phố thành đơn vị chiến lược vững mạnh, toàn diện. Có kế hoạch xây dựng công nghiệp quốc phòng của thành phố để có thể sản xuất được các loại vũ khí thông thường cho lực lượng vũ trang địa phương, đồng thời tận dụng năng lực của các xí nghiệp quốc phòng sản xuất thêm hàng tiêu dùng đáp ứng cho nhu cầu quốc phòng và xã hội. Thực hiện nghiêm luật nghĩa vụ quân sự, đạt chỉ têu giao quân hàng năm với chất lượng ngày càng cao. Củng cố, mở rộng thế trận chiến tranh nhân dân địa phương. Từng bước hoàn chỉnh phương án phòng thủ của thành phố, quận, huyện, xây dựng củng cố phường, xã chiến đấu. Ðưa công tác huấn luyện quân sự bắt buộc vào các trường học. Phát triển thể thao quốc phòng. Kết hợp thi hành luật nghĩa vụ quân sự với nghĩa vụ lao động. Chuẩn bị cho toàn dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành phố và làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Xây dựng lực lượng bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng, dân quân tự vệ vững mạnh toàn diện. Củng cố và quản lý chặt các khung đơn vị thường trực và lực lượng quân dự bị, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng trong mọi tình huống. Xây dựng trường quân sự địa phương để đào tạo bồi dưỡng cán bộ sát với tình hình thành phố. Ðặc biệt chú ý xây dựng, củng cố dân quân tự vệ và tổ chức huấn luyện, thực tập quân dự bị.
Phát triển rộng rãi lực lượng dân quân tự vệ trong các cơ quan, xí nghiệp, nông, lâm trường, phường, xã... Ðến năm 1990 đạt 12% dân số được huấn luyện tốt, có khả năng hoạt động chiến đấu tại chỗ. Bảo đảm 15% đảng viên trong độ tuổi và 50% đoàn viên ở cơ sở tham gia dân quân tự vệ. Các phường, xã đội trưởng phải là đảng viên, hầu hết được cấu tạo và cấp ủy. Phải có biện pháp tích cực chăm lo đời sống cán bộ chiến sĩ, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.
Tăng cường giáo dục pháp chế xã hội chủ nghĩa, để mọi người sống và làm việc theo pháp luật, giữ vững kỷ cương, trật tự an toàn xã hội. Quan tâm đúng mức đến việc củng cố các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm sát, trọng tài kinh tế, tư pháp để làm tốt việc giữ gìn kỹ cương, tôn trọng pháp luật, phục vụ kịp thời cho công tác đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Phải xử phạt thật nghiêm, kịp thời bọn phá hoại về chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Giải quyết nhanh những vụ án tồn đọng, cải tiến công tác làm án. Những người dùng quyền lực ức hiếp quần chúng, trù dập người tố cáo và cả những người vu cáo, gây rối, những người bao che cho những tên tội phạm đều phải bị xét xử công khai, trừng trị theo pháp luật, bất kể ở cương vị nào. Nghiêm trị những người làm sai pháp luật trong việc khám xét, bắt, giam và tha tội phạm. Cải thiện một mức chế độ nhà tù, các trường cải tạo. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động trong việc thực hiện, bảo vệ pháp luật. Tổ chức tốt việc tiếp dân, giải quyết nhanh chóng thư tố cáo và khiếu nại.
11) Thấu suốt quan điểm lấy dân làm gốc, nêu cao vai trò của các đoàn thể và mặt trận, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Những nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng do Ðại hội lần này đề ra chỉ có thể thực hiện thắng lợi khi toàn Ðảng bộ nhận thức sâu sắc rằng, mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân, do nhân dân thực hiện, phải quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Phát động phong trào quần chúng tự giác thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế là trách nhiệm của toàn Ðảng bộ, các cấp chính quyền, các đoàn thể và mặt trận.
Gắn với việc xác định và triển khai thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội, các cấp ủy Ðảng phải đề ra nội dung công tác vận động quần chúng. Việc xác định đúng đắn các chủ trương, chính sách kinh tế, việc phát huy động lực của cơ sở xã hội mới, việc chăm lo tốt đời sống vật chất và văn hóa của người lao động có ý nghĩa vận động quần chúng rất quan trọng. Các cấp ủy Ðảng phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn thể và mặt trận, phân công cấp ủy viên và đảng viên có phẩm chất và năng lực phụ trách công tác dân vận mặt trận và các đoàn thể. Xây dựng quy chế cụ thể bảo đảm việc lãnh đạo tập thể của toàn BCH và ban thường vụ của mỗi cấp ủy đối với công tác vận động quần chúng, không khoán trắng cho các đồng chí cấp ủy viên phụ trách. Chi bộ phải giáo dục, phân công và kiểm tra Ðảng viên làm công tác quần chúng để tuyên truyền, vận động quầnchu1ng tham gia vào các phong trào hành động cách mạng. Thường xuyên kiểm tra, sơ kết tổng kết việc thực hiện nghị quyết về công tác quần chúng của Thành ủy khóa 3. Hành động gương mẫu, phẩm chất trong sáng, lối sống giản dị, ý thức quan tâm đến con người và đời sống người lao động của cán bộ đảng viên có tác dụng thuyết phục, củng cố lòng tin của quần chúng đối với Ðảng và Nhà nước.
Các cấp chính quyền, các ngành, các cơ sở sản xuất, kinh doanh phải cụ thể hóa cơ chế Ðảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ tập thể. Nhà nước quản lý trước hết xây dựng và tổ chức thực hiện cơ chế làm chủ tập thể ở cơ quan, đơn vị mình. Bộ máy chính quyền các cấp phải gọn nhẹ, mọi hoạt động của chính quyền phải xuất phát từ quyền lợi của nhân dân và nhằm phục vụ cho nhân dân lao động, không gây phiền hà cho quần chúng. Triển khai thực hiện các chủ trương chính sách và pháp luật Nhà nước, phải lấy việc bàn bạc, vận động và thuyết phục quần chúng làm phương thức chủ yếu. Kiên quyết đấu tranh chống tệ nạn quan liêu cửa quyền, bao che, trù dập, ức hiếp quần chúng. Dứt khoát loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi cơ quan Nhà nước. Giáo dục cho cán bộ, nhân viên, chiến sĩ, nhất là những người thường xuyên tiếp xúc với dân có thái độ tôn trọng nhân dân và biết làm công tác vận động quần chúng. Ðịnh kỳ tổ chức các hội nghị liên tịch giữa cơ quan chính quyền với các đoàn thể và mặt trận để kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc do quần chúng đặt ra.
Các đoàn thể và mặt trận phải chủ động trong việc phát huy vai trò của mình là người đại diện lợi ích và quyền làm chủ tập thể của quần chúng. Trách nhiệm của các đoàn thể và Mặt trận là giáo dục phát huy lòng yêu nước, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và tinh thần tự giác của quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Các đoàn thể phải chủ động tích cực tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ quan chính quyền, mở rộng mô hình tổ chức đời sống xã hội trên địa bàn dân cư. Nâng cao chất lượng, tính thiết thực và hiệu quả của các hội nghị công nhân viên chức, của các đội kiểm tra công nhân và thanh tra nhân dân. Kết hợp chặt chẽ nghĩa vụ và quyền lợi, lấy việc tôn trọng quyền làm chủ tập thể của quần chúng và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ về lợi ích kinh tế làm động lực thúc đẩy phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Bộ máy các đoàn thể và mặt trận cấp trên phải gọn nhẹ, có hiệu lực, hướng mạnh xuống cơ sở, cùng cơ sở làm công tác vận động quần chúng. Cần quan tâm củng cố tổ chức cơ sở của các đoàn thể và mặt trận để tránh tình trạng dậm đạp nhau, bớt cho quần chúng những sinh hoạt trùng lắp không cần thiết. Nếu các tổ chức đoàn thể, không phát huy được sức mạnh của quần chúng thì chính các tổ chức này sẽ làm cho bộ máy gián tiếp thêm cồng kềnh, quan liêu, làm trở ngại cho sản xuất và công tác. Bàn bạc, trao đổi và hội thảo với quần chúng là phương thức hoạt động chủ yếu của cán bộ đoàn thể và mặt trận. Các đoàn thể cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công tác quần chúng. Thông qua phong trào hành động cách mạng của quần chúng, các đoàn thể lựa chọn bồi dưỡng những người ưu tú để giới thiệu kết nạp vào Ðảng. Thường xuyên kiện toàn nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Ban Chấp hành đoàn thể các cấp. Có chính sách thỏa đáng đối với cán bộ đoàn thể và mặt trận.
Công đoàn phải tăng cường công tác tổ chức, giáo dục nâng cao giác ngộ chính trị cho giai cấp công nhân thật sự là giai cấp lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với vị trí trung tâm công nghiệp của thành phố. Xây dựng thái độ lao động mới, đề cao kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp, đấu tranh khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong công nhân, viên chức và ngoài xã hội. Tham gia đấu tranh xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng và thực hiận cơ chế quản lý mới nhằm đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Vận động công nhân, viên chức dấy lên phong trào thi đua liên tục, đều khắp, thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế xã hội của thành phố, chống mọi biểu hiện tiêu cực, móc ngoặc, tuồn hàng ra ngoài. Công đoàn phải là người tiêu biểu cho quyền làm chủ tập thể và tích cực bảo vệ lợi ích chính đáng của công nhân, viên chức và người lao động; kiểm tra các cơ quan chính quyền và các ngành có liên quan thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách của Ðảng và Nhà nước về quyền lợi của công nhân, viên chức và người lao động. Phát huy vai trò nồng cốt của công nhân viên chức ở nơ cư trú và ngoài xã hội. Vận động công nhân viên chức và người lao động tương trợ giúp đỡ nhau giải quyết những khó khăn trong đời sống.
Các cấp công đoàn phải cải tiến tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động hước mạnh xuống cơ sở, sâu sát công nhân viên chức.
Kiện toàn tổ chức công đoàn các cấp, tăng cường cán bộ có năng lực và có nhiệt tình làm công tác công đoàn. Củng cố và phát huy vai trò của Hội lao động hợp tác; tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với Hội trong cải tạo và phát triển sản xuất Tiểu thủ công nghiệp.
Hội nông dân tập thể cần góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế của các tập đoàn và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, đi đôi với phát triển lực lượng sản xuất. Thông qua các cuộc vận động về khoán sản phẩm, cải tiến cơ chế quản lý trong nông nghiệp, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, xây dựng nếp sống mới, con người mời xã hội chủ nghĩa ở nông thôn mà giáo dục, thuyết phục nông dân tự giác đi theo con đường làm ăn tập thể. Hội nông dân tập thể cần chủ động tham gia xây dựng và kiểm tra việc thực hiện các chính sách kinh tế xã hội có quan hệ đến lợi ích chính đáng của nông dân như chính sách giá cả, qua đó tăng cường củng cố khối liên minh công nông. Vận động nông dân phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và mở rộng kinh tế gia đình để tăng thu nhập, nâng cao đời sống; đồng thời góp phần tích cực vận động bài trừ mê tín dị đoan, các hủ tục trong ma chay, cưới hỏi, nhất là tệ nạn rượu chè, cờ bạc...
Ðoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và tổ chức quần chúng rộng rãi của mình là Hội Liên hiệp thanh niên, có nhiệm vụ tập hợp, giáo dục các tầng lớp thanh niên ngoài Ðoàn, dìu dắt họ đi theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Các ngành các cấp và toàn xã hội có trách nhiệm giáo dục thanh niên, tạo điều kiện và môi trường tốt giúp thanh niên tiến bộ. Tập trung giải quyết những yêu cầu bức thiết của thanh niên như việc làm, học tập, đời sống, sinh hoạt văn hóa... Chú ý giúp đỡ những thanh niên có khó khăn trong cuộc sống. Ðoàn thanh niên và các ngành liên quan cần có biện pháp đồng bộ giáo dục thanh niên chậm tiến. Bằng các hình thức thích hợp và sinh động, thu hút đông đảo thanh niên tham gia lao động sản xuất, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, khoa học kỹ thuật, thể dục thể thao, công tác xã hội. Thông qua đó, xây dựng cho thanh niên lối sống lành mạnh có lao động, có văn hóa, có đạo đức, có trách nhiệm với xã hội, có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội. Không phân biệt đối xử với các tầng lớp thanh niên.
Hội liên hiệp phụ nữ có nhiệm vụ đoàn kết giáo dục, động viên các tầng lớp phụ nữ phát huy vai trò làm chủ tập thể, phấn đấu thực hiện nam nữ bình đẳng, tiếp tục đẩy mạnh phong trào người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vận động chị em thi đua sản xuất, công tác, thực hành tiết kiệm, phát triển kinh tế gia đình, tích cực tham gia cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp và nông nghiệp, tham gia phân phối lưu thông, quản lý thị trường, làm tốt công tác hậu phương quân đội. Tăng cường giáo dục, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa và nghề nghiệp cho chị em, giảm đến mức thấp nhất số phụ nữ chậm tiến. Phát triển và củng cố Hội vững mạnh từ tiểu tổ trở lên. Các cấp Hội phải tích cực chăm lo quyền lợi mọi mặt của phụ nữ và trẻ em, xây dựng gia đình văn hóa mới, người phụ nữ mới xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Ðảng, Hội phối hợp với các ngành chính quyền thực hiện tốt. Luật hôn nhân và gia đình, Chỉ thị 44 của Ban Bí thư về công tác cán bộ nữ, Nghị quyết 176a của Hội đồng Bộ trưởng về chính sách đối với lao động nữ.
Ðối với các hội chuyên ngành như Hội liên hiệp khoa học kỹ thuật, Hội liên hiệp văn học nghệ thuật, Hội nhà báo... cần có nội dung hoạt động thiết thực nhằm tập hợp giáo dục và phát huy khả năng chuyên môn, nhiệt tình cống hiến của hội viên.
ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp trong thành phố cần tăng cường củng cố và mở rộng khối đoàn kết toàn dân, thực hiện tốt sự phối hợp thống nhất hành động các tổ chức thành viên trong mặt trận. Các cấp ủy Ðảng chỉ đạo thực hiện tốt chỉ thị 17 của Ban Bí thư, đẩy mạnh giáo dục, động viên các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc, trí thức, nhân sĩ ở thành phố và kiều bào tích cực góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Ðại hội Ðảng bộ lần này đề ra.
Ðộng viên lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ tích cực tham gia vác hoạt động văn hóa, khoa học kỹ thuật, đào tạo cán bộ... Tạo các điều kiện thuận lợi (cơ sở vật chất, điều kiện nghiên cứu, sáng tác, cung cấp thông tin...), chăm lo tốt đời sống vật chất và tinh thần để anh chị em cống hiến nhiều cho sự nghiệp cải tạo và xây dựng thành phố, xây dựng đất nước.
Ðộng viên giáo dục và khuyến khích các nhà công thương phát triển sản xuất, bảo đảm quyền công dân và các lợi ích chính đáng của họ trước pháp luật và trong xã hội.
Tiếp tục phát huy vai trò các cụ phụ lão trong việc động viên giáo dục con cháu tham gia cách mạng, xây dựng đoàn kết trong phố phường, xóm ấp. Có kế hoạch chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho các cụ, nhất là đối với các cụ già yếu, neo đơn.
Ðối với đồng bào các tôn giáo, cần có chính sách, biện pháp giúp đỡ công ăn việc làm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao giác ngộ chính trị, làm cho giáo dân ngày thêm gắn bó với sự nghiệp chung và hòa hợp trong cộng đồng dân tộc. Giải tỏa những thành kiến, mặc cảm của đồng bào các tôn giáo đối với cách mạng, đồng thời đề cao cảnh giác, kịp thời phát hiện và nghiêm khắc trừng trị những phần tử phản động, ngăn chặn làm thất bại âm mưu và hành động của chúng lôi kéo giáo dân vào những hoạt động phản cách mạng. Chú ý đúng mức công tác vận động quần chúng và xây dựng cốt cán trong vùng tôn giáo.
Ðối với người Hoa, phải đứng trên quan điểm giai cấp của Ðảng mà xem xét; không nên đem tinh thần dân tộc hẹp hòi đối chọi lại với chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh vì làm như vậy chỉ đẩy người Hoa vào âm mưu của địch. Phải đào tạo cán bộ người Hoa để làm công tác vận động người Hoa.
Hết sức tỉnh táo đề phòng và nghiêm khắc trừng trị bọn tay sai của bành trướng Bắc Kinh có nhiều thủ đoạn xảo quyệt sử dụng các hình thức công khai hợp pháp để hoạt động phản cách mạng trong kinh tế, văn hóa, xã hội.
Quan tâm giáo dục nghĩa vụ công dân và động viên lòng yêu nước đối với những gia đình có quan hệ thân nhân nước ngoài.
Ðối với những gia đình có người thân là nhân viên cao cấp của chính quyền cũ đi học tập cải tạo về cần quan tâm giáo dục, giúp đỡ họ nhanh chóng xây dựng cuộc sống bình thường của người dân thành phố.
ủy ban bảo vệ và chăm sóc thiếu niên nhi đồng các cấp trong thành phố, tăng cường và phát huy tốt hơn nữa vai trò của tổ chức mình. Huy động sức mạnh tổng hợp các ban ngành, đoàn thể, mặt trận... tham gia tích cực vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; bảo đảm thực hiện tốt 5 quyền lợi cơ bản (đời sống, sức khỏe, học tập, vui chơi, nhân phẩm) của trẻ em từ sơ sinh đến 15 tuổi theo pháp lệnh nhà nước. Ðặc biệt chủ yếu giáo dục chăm sóc con em liệt sỹ, thương binh, thiếu nhi thất học và số trẻ em khuyết tật, lang thang bụi đời.
12) Tăng cường củng cố chính quyền cáo cấp vững mạnh, làm tốt chức năng quản lý kinh tế - xã hội và quản lý Nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Tăng cường hiệu lực quản lý và điều hành của bộ máy Nhà nước, đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức bộ máy chính quyền các cấp ở thành phố. Nâng cao tính quần chúng và tính cách mạng của bộ máy chính quyền, khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng.
Thực hiện đầy đủ chức năng quản lý của Nhà nước theo nguyên tắc “Ðảng lãnh đạo nhân dân làm chủ, chính quyền quản lý…, chăm lo mọi mặt cho nhân dân, trước hết cần chăm lo phát triển sản xuất và thực hiện công bằng xã hội. Có chính sách phù hợp để khuyến khíc sản xuất, thực hành tiết kiệm, bảo đảm nguyên liệu, vật tư, tiêu thụ sản phẩm và phân phối hợp lý.
Xây dựng chế độ việc làm theo pháp luật, chấm dứt tình trạng tùy tiện tự đề ra quy định trái với pháp luật. Mặt khác, phải tăng cường tuyên truyền giải thích trong nhân dân, giáo dục sâu sắc quan điểm lợi ích gắn liền với nghĩa vụ, hướng dẫn và tổ chức cho nhân dân thực hiện đúng pháp luật và giám sát phát hiện các cấp làm sai pháp luật, bảo đảm mọi công dân bình đẳng trước pháp luật.
Tổ chức cho Hội đồng nhân dân các cấp hoạt động ngày càng thiết thực, có hiệu quả đúng là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Ðại biểu Hội đồng Nhân dân phải thường xuyên tiếp xúc với dân, giải thích vận động nhân dân thực hiện chủ trương chính sách của Ðảng và Nhà nước, nói lên tiếng nói của dân, hiến kế lo cho dân, đồng thời phải thường xuyên giám sát hoạt động của các cơ quan chính quyền Nhà nước cùng cấp, Chấm dứt tình trạng chỉ nghe cử tri phản ánh nguyện vọng mà không báo cáo lại kết quả giải quyết cho cử tri biết.
Tiếp tục thực hiện và hoàn chỉnh việc phân công, phân cấp toàn diện cho quận huyện và cơ sở. Sắp xếp tổ chức các đơn vị sản xuất kinh doanh theo hướng hình thành các ngành kinh tế, kỹ thuật trên địa bàn thành phố. Phân định rõ chức năng quản lý hành chánh - kinh tế của các cơ quan Nhà nước (ủy ban Nhân dân các cấp, các sở, phòng...) và chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, đơn vị kinh tế (liên hiệp xí nghiệp, xí nghiệp liên hợp, tổng công ty và các công ty kinh doanh...), sắp xếp lại bộ máy, tinh giản lực lượng gián tiếp, giảm bớt các tầng nấc trung gian.
Xây dựng phong cách làm việc sâu sát quần chúng, sâu sát cơ sở, lời nói đi đôi với việc làm, nhạy bén, khẩn trương giải quyết nhanh chóng những yêu cầu của bên dưới, của cơ sở và của quần chúng. Mọi quyết định chủ trương của chính quyền phải xuất phát từ lợi ích thiết thực của nhân dân lao động. Khắc phục lối làm việc thiếu cụ thể, không quyết đoán, hình thức phô trương, thủ tục rườm rà. Phải tạo mọi điều kiện để tiếp tục thực hiện có kết quả hai Nghị định: 182/CP, 217/CP của Hội đồng Chính phủ trước đây về thực hiện quyền làm chủ tập thể và 4 chế độ: chế độ trách nhiệm, chế độ kỷ luật, chế độ bảo vệ của công và chế độ phục vụ nhân dân trong tất cả các cơ quan Nhà nước ở thành phố.
13) Xây dựng Ðảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực hiện tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ và vị trí của thành phố. Xây dựng Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh.
Công tác xây dựng Ðảng trong thời gian tới phải đạt các yêu cầu sau đây:
a) Xây dựng một Ðảng bộ có lập trường giai cấp công nhân kiên định, triệt để cách mạng, có kỷ cương tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình, chống mọi biểu hiện của tử tưởng phi vô sản nhất là tư tưởng tiểu tư sản thành thị và nông dân: tự do, tản mạn, tự phát tiểu tư sản, thiếu tổ chức kỷ luật, gặp khó khăn thường bi quan dao động, thiếu tin tưởng vào Ðảng, vào lý tưởng cộng sản, buông lơi vai trò tiên phong của người đảng viên cộng sản, không đi sâu tìm hiểu, xây dựng giai cấp công nhân đúng với vai trò là giai cấp lãnh đạo, đi đầu trong phong trào cách mạng thành phố.
b) Xây dựng một Ðảng bộ thực sự gắn bó với quần chúng, lấy dân làm gốc, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Ðảng, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân nhằm cải tạo và xây dựng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Chống mọi biểu hiện quan liêu, cửa quyền xa rời quần chúng.
c) Xây dựng một Ðảng bộ sâu sát cơ sở, sâu sát thực tế, có đầu óc thực tiễn, nắm vững quy luật và biết vận dụng quy luật, có trình độ khoa học và áp dụng đúng mức khoa học vào thực tiễn công tác nhằm bảo đảm việc quản lý kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội có hiệu quả nhất. Từ đó mà đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, đổi mới phong cách, đổi mới tổ chức và cán bộ cho phù hợp với tình hình và yêu cầu của nhiệm vụ chính trị.
Trong công tác xây dựng Ðảng, phải thấy hết các mối quan hệ phức tạp của thực tiễn ở thành phố mà ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí, khi thì tả khuynh nôn nóng, đốt cháy giai đoạn, vận dụng lập trường nguyên tắc một cách cứng nhắc, khi lại hữu khuynh thụt lùi; khi thì tập trung quan liêu bao cấp, tổ chức cồng kềnh lãng phí, khi lại phân tán, tản mạn, chia cắt. Trong quản lý, lãnh đạo phải dựa trên sự hiểu biết khoa học, tôn trọng qui luật trong mọi mặt quản lý, tổ chức thực hiện và lề lối làm việc.
d) Xây dựng một Ðảng bộ vững mạnh, trong sạhc, gắn liền với việc xây dựng nền văn hóa mới, con người mới trên cơ sở kết hợp đạo đức truyền thống dân tộc và đạo đức xã hội chủ nghĩa. Chống các hiện tượng tiêu cực trong Ðảng, đi đôi với tích cực chống và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội, làm cho hai mặt này tác động tích cực lẫn nhau. Tránh khuynh hướng tách rời việc chống tiêu cực trong nội bộ với chống tiêu cực ngoài xã hội, cũng như tránh khuynh hướng tách rời giáo dục đạo đức cách mạng với đạo đức truyền thống dân tộc. Phát huy truyền thống đoàn kết nhất trí của Ðảng bộ, chống tư tưởng cục bộ, bản vị, địa phương.
e) Xây dựng một Ðảng bộ tương xứng với một trung tâm công nghiệp, khoa học kỹ thuật, giao lưu quốc tế của khu vực và phía Nam Ðông Dương, một Ðảng bộ xứng đáng với thành phố được vinh dự mang tên Bác Hồ vĩ đại. Do đó phải xây dựng Ðảng bộ cả về trình độ nhận thức, năng lực, đến tổ chức thực hiện. Phải làm cho Ðảng bộ thấy rõ vinh dự phải đi đôi với trách nhiệm, vinh dự càng cao, trách nhiệm càng nặng. Phải phát huy tinh thần quốc tế vô sản, đoàn kết chặt chẽ giữa ba nước Ðông Dương anh em, đoàn kết chặt chẽ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, đoàn kết mọi lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Ðể thực hiện được các yêu cầu nói trên, công tác xây dựng Ðảng phải làm tốt các việc sau đây:
Trước hết phải củng cố và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Ðảng, làm cho cơ sở Ðảng vừa trong sạch về tổ chức, vừa có năng lực lãnh đạo, bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở đi đúng đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước. Ngoài cơ sở Ðảng ở phường, xã, cần phải nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở Ðảng trong khu vực sản xuất, kinh doanh, sự nghiệp, văn hóa, xã hội.
Cơ sở Ðảng phải bảo đảm sinh hoạt định kỳ, cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt, thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình. Cơ sở Ðảng phải thực sự là nơi đấu tranh, rèn luyện nâng cao trình độ giác ngộ, phẩm chất và sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ Ðảng. Cơ sở Ðảng phải là nơi ngăn ngừa và đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, chịu trách nhiệm về mọi biểu hiện tiêu cực trong phạm vi công tác của mình.
Hàng năm tổ chức ít nhất một lần cho quần chúng góp ý kiến xây dựng Ðảng và đảng viên trong phạm vi toàn thành phố, ở cơ sở 6 tháng 1 lần. Qua đó chi bộ quản lý chặt chẽ đảng viên, thường xuyên kiểm tra phẩm chất đạo đức, tác phong của người đảng viên và khắc phục những mặt yếu kém của tổ chức cơ sở Ðảng.
Chi bộ phải trực tiếp lãnh đạo quần chúng, quan tâm chăm sóc các đoàn thể quần chúng, phải từ phong trào cách mạng của quần chúng để xây dựng Ðảng Chi bộ phải nắm chắc tình hình quần chúng, sâu sát từng người, từng hộ, hiểu rõ đời sống, tâm tư nguyện vọng của họ. Sinh hoạt chi bộ nhất thiết phải dành thời gian để kiểm điểm công tác quần chúng. Mỗi đảng viên, ngoài nhiệm vụ công tác chuyên môn phải làm tốt công tác quần chúng do chi bộ phân công, coi đó là nhiệm vụ cơ bản của người đảng viên.
đến cuối năm 1987, phải xây dựng cho được tổ chức cơ sở Ðảng và các tổ trung kiên có chất lượng ở các đơn vị quản lý tổng hợp, các cơ sở kinh tế hạch toán độc lập, các trường phổ thông cấp II, các hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp và các đơn vị cơ sở quan trọng khác hiện chưa có cơ sở Ðảng; phấn đấu không còn cơ sở trắng. Vài năm tới xóa hết cơ sở kém và đưa tỷ lệ số cơ sở Ðảng đạt tiêu chuẩn vững mạnh, trong sạch hàng năm chiếm từ 30% trở lên so với tổng số cơ sở Ðảng của thành phố. Cải tiến việc bình chọn và xét cơ sở Ðảng vững mạnh, chú ý bồi dưỡng, phát huy nhân rộng những điển hình tiên tiến. Thực hiện tốt Quyết định 48 và Chỉ thị 49 của Ban bí thư Trung ương về công tác Ðảng trong các đơn vị kinh tế quốc doanh. Bố trí đội ngũ bí thư chuyên trách công tác Ðảng có đủ năng lực và phẩm chất. Xây dựng tổ chức Công đoàn, Ðoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân tập thể vững mạnh.
Tổng kết cơ chế tổ chức phường xã, triển khai xây dựng cơ chế tổ chức ở các đơn vị sản xất, kinh doanh.
Gắn liền với xây dựng tổ chức cơ sở Ðảng, tiếp tục củng cố, kiện toàn cấp quận, huyện để phát huy hơn nữa tính chủ động, sáng tạo trong việc chỉ đạo, điều hành mọi hoạt động ở địa phương. Ðối với các đảng ủy cấp trên cơ sở, cần tổng kết kinh nghiệm, nâng cao chất lượng hoạt động. Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy thông qua các khối và tăng cường sự phối hợp giữa Thành ủy với các ngành Trung ương trong việc quản lý cán bộ đãng viên và cơ sở đảng của các ngành Trung ương đóng trên địa bàn thành phố.
Phấn đấu làm thay đổi và chuyển biến rõ rệt cơ cấu đảng viên:
Trước hết phải đặc biệt coi trọng phát triển Ðảng trong giai cấp công nhân, nhất là công nhân trực tiếp sản xuất. Từ 1986-1990 phấn đấu nâng tỷ lệ đảng viên công nhân trực tiếp sản xuất trong Ðảng bộ từ 5% lên 10%. Ðồng thời rút một lực lượng đảng viên là công nhân ở các xí nghiệp để đào tạo trở thành cán bộ đảng, chính quyền và tăng cường cho các khu vực khác. Ðẩy mạnh phát triển đảng viên trẻ, nử, cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quần chúng tốt đang giữ vai trò nòng cốt trong các đoàn thể. Quan tâm phát triển đảng trong công nhân lao động người Hoa và công nhân lao động trong các tôn giáo. Thông qua việc sắp xếp tổ chức, bố trí lại lực lượng đảng viên, đưa một số đảng viên ở các khâu hành chánh, gián tiếp về cơ sở, nhất là những nơi trực tiếp sản xuất và kinh doanh hiện chưa có hoặc rất ít đảng viên.
Ðấu tranh khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong nội bộ, gắn liền với đấu tranh chống tiêu cực ngoài xã hội là một việc làm bức bách, đòi hỏi phải có quyết tâm cao ở tất cả cá cấp, các ngành. Ngoài việc phải đi sâu tổng kết, đánh giá, tìm nguyên nhân, thống nhất quan điểm và biện pháp đấu tranh chống tiêu cực, còn các biện pháp đồng bộ, phối hợp chặt chẽ có hiệu lực trong từng cơ sở Ðảng, từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Phải lấy ngăn ngừa làm chính, thông qua việc rèn luyện giáo dục con người, tăng cường công tác quản lý, xây dựng và củng cố tổ chức. Thực hiện nguyên tắc mọi đảng viên bình đẳng trước kỷ luật của Ðảng. Tổ chức kiểm tra, phân loại và nâng cao chất lượng đảng viên. Kiên quyết loại trừ những phần tử tham nhũng, thoái hóa, biến chất, đưa ra khỏi Ðảng những người không còn đủ tư cách đảng viên.
Ðổi mới cơ chế quản lý và bố trí đúng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý. Các cơ quan Ðảng, chính quyền và đoàn thể từ cấp thành đến cơ sở phải được sắp xếp gọn nhẹ, xác định chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, không trùng lắp, làm việc có hiệu quả, nhất là phải sát cơ sở, giải quyết nhanh chóng các yêu cầu của cơ sở. Ngòai việc kiện toàn các cấp ủy Ðảng cần khẩn trương soát xét lại toàn bộ đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành. Thay ngay số cán bộ sai phạm, năng lực yếu, không hoàn thành nhiệm vụ. Ðổi mới cán bộ theo yêu cầu của cơ chế quản lý mới, ngang tầm với nhiệm vụ. Muốn đổi mới đội ngũ cán bộ trước hết phải đổi mới tư duy của những người làm công tác tổ chức cán bộ, đổi mới quan điểm về đánh giá cán bộ. Phải lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất và năng lực, lấy nhu cầu, nhiệm vụ làm căn cứ để bố trí, đề bạt cán bộ.
Mạnh dạn đề bạt những cán bộ trẻ nữ, có năng lực, phẩm chất tốt và có sức vươn lên. Khẩn trương xây dựng quy hoạch và thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ. Phải lên danh sách những cán bộ, đảng viên ưu tú có triển vọng để có kế hoạch bồi dưỡng đào tạo cụ thể. Phấn đấu có từ 2 đến 3 cán bộ kế cận cho từng chức danh ở các cấp, các ngành. Phấn đấu trong vài năm tới bố trí ban lãnh đạo các ngành, các cấp, các công ty, xí nghiệp có đủ ba độ tuổi và có tỷ lệ nữ thích đáng. Ðến năm 1990 tất cả các quận, huyện, ban ngành, cơ sở có đội ngũ cán bộ dự bị và đưa công tác quy hoạch cán bộ vào nền nếp. Cải tiến công tác quản lý cán bộ để nắm chắc được đội ngũ và từng cán bộ. Thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ lớn tuổi, cán bộ nghỉ hưu, cán bộ nữ. Phát huy năng lực của cán bộ nghỉ hưu, nhất là ở cơ sở.
Phải làm cho công tác kiểm tra thực sự là một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu của Ðảng. Phải tổ chức tốt công tác kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương của Ðảng, trách nhiệm của các cơ quan đơn vị gắn chặt với việc kiểm tra đạo đức phẩm chất của cán bộ đảng viên. Những đảng viên vi phảm kỷ luật Ðảng, pháp luật nhà nước đều phải được xem xét, kết luận kịp thời, xử lý nghiêm minh, trước mắt phải giải quyết xong các vụ tiêu cực lớn còn tồn đọng. Tăng cường công tác kiểm tra trong lĩnh vực sản xuất, phân phối lưu thông, xuất nhập khẩu, nhất là những nơi quản lý tiền, hàng, vật tư, những nơi có nhiều quan hệ trực tiếp với dân như công an, thương nghiệp, thuế, nhà đất, giao thông vận tải, hải quan...
Công tác kiểm tra của Ðảng phải kết hợp chặt chẽ với công tác thanh tra Nhà nước và hoạt động của các tổ chức thanh tra nhân dân, các đội kiểm tra công nhân,v.v... Xây dựng các cơ quan làm công tác kiểm tra của Ðảng bộ các cấp thực sự là một hệ thống vững mạnh. Thực hiện nghiêm chỉnh các quy chế làm việc trong các tổ chức của Ðảng, bảo đảm chấp hành đúng đắn và triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ, bài trừ mọi biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng.
Ðổi mới phong cách lãnh đạo, sâu sát quần chúng, sâu sát cơ sở, phát huy dân chủ, tôn trọng thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm. Làm việc theo chế độ tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Xây dựng cách làm việc khoa học, có quy chế, quy trình quy phạm. Phải bảo đảm chất lượng của các hội nghị, có chuẩn bị tốt và thông tin đầy đủ, kịp thời, có thảo luận, biểu quyết. Trong chỉ đạo có làm điểm, có kiểm tra, sơ kết, tổng kết. Các cấp ủy Ðảng đều phải củng cố bộ phận tiếp dân, chọn lực những cán bộ có năng lực công tác Ðảng, biết lắng nghe ý kiến quần chúng, phản ảnh trung thực ý kiến quần chúng với lãnh đạo. Tổ chức cho cán bộ lãnh đạo trực tiếp nghe ý kiến và giải quyết nguyện vọng của quần chúng trong những trường hợp cần thiết.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên: Yêu cầu quan trọng nhất của việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên hiện nay là củng cố niềm tin và xây dựng tinh thần quyết tâm thực hiện các nhiệm vụ để làm chuyển biến tình hình. Ðồng thời trang bị cho cán bộ, đảng viên vốn kiến thức cần thiết về nhận thức, phương pháp luận đúng đắn, khoa học, để quán triệt và thực hiện đầy đủ các đường lối chính sách của Ðảng, trước hết là những quan điểm được nêu ra ở Ðại hội lần thứ VI của Ðảng, nhất là những quan điểm kinh tế.
Giáo dục lập trường giai cấp công nhân, quan điểm lấy dân làm gốc để định hướng cho mọi suy nghĩ hành động cách mạng của mình. Xây dựng ý thức chăm lo các đoàn thể quần chúng, mặt trận, coi trọng công tác vận động quần chúng.
Phải hết sức chú ý giáo dục cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ tính gay go, phức tạp của người cộng sản, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, có tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, nói và làm theo nghị quyết Ðảng, dũng cảm bảo vệ cái đúng, bảo vệ người tốt, phê phán cái sai, sống giản dị lành mạnh, chống mọi biểu hiện của tư tưởng cá nhân, kèn cựa, địa vị, phe nhóm, cơ hội, xu nịnh... Phát động phong trào học tập trong Ðảng về lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về khoa học quản lý và học tập văn hóa theo tiêu chuẩn cán bộ. Có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo cán bộ các đoàn thể, cán bộ quản lý kinh tế, quản lý xã hội của các cấp chính quyền, kết hợp với quy hoạch cán bộ của Ðảng... đảm bảo các chế độ, chính sách hợp lý cho cán bộ đi học. Phấn đấu đến năm 1990, tất cả đảng viên của Ðảng bộ thành phố phải học xong chương trình lý luận chính trị phổ thông; tất cả cán bộ lãnh đạo và quản lý từ cơ sở trở lên phải học xong chương trình lý luận chính trị cơ bản; tất cả cán bộ chủ chốt ở các ngành phải học xong chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ ngành theo yêu cầu tiêu chuẩn hóa cán bộ; cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp thành và quận huyện phải học xong chương trình lý luận chính trị cao cấp. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, đổi mới chương trình, nội dung giảng dạy đáp ứng đúng yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế và thường xuyên rèn luyện phẩm chất cách mạng. Tăng thêm cơ sở vật chất và kinh phí cho các trường Ðảng thành phố, quận, huyện, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được giao.
Thực hiện phương châm toàn Ðảng bộ và cả hệ thống chuyên chính vô sản làm công tác tư tưởng. Từ nay, tất cả số cán bộ chủ chốt từ quận, huyện và tương đương trở lên đều phải tổ chức định kỳ làm việc ở cơ sở và tiếp xúc với quần chúng. Phải đưa hình thức sinh hoạt này vào quy chế làm việc của Thành ủy. Ban tổ chức và văn phòng Thành ủy có trách nhiệm hướng dẫn, sơ kết rút kinh nghiệm sinh hoạt này.
Ðòan Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phải được tăng cường xây dựng để thực sự trở thành cánh tay đắc lực và đội hậu bị của Ðảng bộ thành phố. Trong những năm tới phải hết sức coi trọng chất lượng của Ðoàn. Xây dựng Ðoàn thanh niên vững mạnh về chính trị, có lý tưởng, có nhiệt tình cách mạng, thể hiện rõ là lực lượng xung kích trong các phong trào hành động cách mạng.
Nhiệm vụ cơ bản của Ðoàn là giáo dục chủ nghĩa cộng sản và giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh niên. Ðoàn phải tập trung mọi cố gắng cải tiến nội dung, hình thức giáo dục thật isnh động và phù hợp với các tầng lớp thanh niên, góp phần đắc lực vào việc đào tạo một đội ngũ thanh niên có đủ phẩm chất chính trị, có lý tưởng, kiến thức văn hóa, khoa học kỹ thuật và năng lực công tác để tham gia tích cực vào quá trình đổi mới và phát triển trên các lĩnh vực hoạt động của thành phố.
Trong giáo dục thanh niên trước hết phải bằng các phong trào hành động cách mạng, thu hút và giáo dục cho thanh niên về tinh thần trách nhiệm đối với công việc, đối với tập thể và xã hội; có hoài bão, ước mơ cao đẹp; giáo dục dũng khí đấu tranh bảo vệ cái đúng, cái mới, chống tiêu cực, bảo thủ trì trệ; giáo dục lối sống trong sạch, lành mạnh, có lý tưởng, có đạo đức... Ðoàn phải làm nòng cốt trong việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đời sống, tham gia đổi mới cơ chế quản lý, đấu tranh chống tiêu cực, tình nguyện đi xây dựng các vùng đất mới, thực hiện nghĩa vụ quân sự... Phải duy trì và phát triển mạnh phong trào thanh niên xung phong, vì thanh niên xung phong vừa là lực lượng xung kích của thanh niên thành phố, vừa là mô hình tốt để giáo dục, đào tạo thanh niên. Tạo việc làm cho số thanh niên hoàng thành nghĩa vụ quân sự và thanh niên xung phong trở về. Chăm sóc, bồi dưỡng đào tạo anh chị em này thành lực lượng nòng cốt của Ðoàn.
Cần thông quan phong trào hành động cách mạng của thanh niên để phát triển Ðoàn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, xây dựng tổ chức Ðoàn vững mạnh. Chú trọng phát triển Ðoàn trong thanh niên công nhân, nông dân, nhất là lực lượng trực tiếp sản xuất và trong các khu vực trọng điểm như phân phối lưu thông, cải tạo, giới thiệu cho Ðảng ngày càng nhiều đoàn viên ưu tú để kết nạp vào Ðảng. Ði đôi với xây dựng Ðoàn ở cơ sở phải tích cực kiện toàn tổ chức Ðoàn cấp thành phố và quận huyện nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu suất công tác, tăng cường hiệu lực chỉ đạo đối với phong trào.
Tiến hành kiểm tra phân loại chất lượng đoàn viên, chất lượng cơ sở đoàn, có kế hoạch củng cố, bồi dưỡng nâng cao chất lượng, đưa ra khỏi Ðoàn những đoàn viên không đúng chuẩn chất.
Ðoàn phải chú ý xây dựng Hội liên hiệp thanh niên, tăng cường cán bộ cho Hội và nâng cao hoạt động của Hội. Ðoàn phải tăng cường chỉ đạo và phân công cán bộ có năng lực để chăm lo phong trào thiếu nhi và hoạt động của Ðội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Ðội Nhi đồng Hồ Chí Minh. Trong 5 năm tới, tất cả cán bộ Ðoàn cơ sở đều phải được quy hoạch hợp lý và đào tạo có hệ thống. Ðến năm 1988 tất cả các bí thư Ðoàn cơ sở đều phải là đảng viên và được đào tạo để đưa vào cấp ủy. Các cấp ủy Ðảng có trách nhiệm và thực sự chăm sóc công tác Ðoàn của cấp mình. Có chế độ làm việc định kỳ với Ðoàn, mạnh dạn giao và tạo điều kiện cho Ðoàn thực hiện những công trình thanh niên. Bí thư Ðảng bộ cơ sở trực tiếp phụ trách Ðoàn thanh niên. Khi xét công nhận Ðảng bộ cơ sở vững mạnh thì ở Ðảng
bộ đó tổ chức Ðoàn thanh niên phải đạt tiêu chuẩn cơ sở Ðoàn vững mạnh.
14) Tăng cường mối quan hệ giữa thành phố với các tỉnh trong khu vực, với cả nước và khu vực phía nam Ðông Dương:
Cần làm cho Ðảng bộ và nhân dân thành phố có nhận thức sâu sắc về vai trò và trách nhiệm trung tâm của thành phố. Nhận thức về trách nhiệm này phải được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực sản xuất, khoa học kỹ thuật, phân phối lưu thông, xuất nhập khẩu, trong đó sản xuất công nghiệp và khoa học kỹ thuật giữ vị trí hàng đầu. Chỉ có trên cơ sở phát huy thế mạnh của thành phố là sản xuất ngày càng nhiều hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu và sản phẩm cơ khí (phụ tùng và cơ khí sửa chữa) có chất lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu của khu vực thì mới từng bước thể hiện được vị trí trung tâm, mới củng cố được khối công - nông liên minh. Trên cơ sớ đó từng bước hình thành cơ cấu công nông nghiệp của khu vực. Vì vậy, phải đặt lên hàng đầu sự đoàn kết hợp tác liên doanh, liên kết trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong sản xuất và khoa học kỹ thuật. Quan hệ với các tỉnh và thành phố bạn phải thể hiện được tinh thần hợp tác bình đẳng, các bên cùng có lợi, trong đó cái lợi lớn nhất là làm cho sản xuất của các tỉnh và thành phố cùng phát triển, cùng đi lên, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm hàng hóa phục vụ sản xuất, đời sống và xuất khẩu. Thành phố chỉ có thể phát triển tốt trên cơ sở cả khu vực phát triển tốt, và ngược lại. Ðó là mối quan hệ hữu cơ mang tính qui luật. Với tinh thần đó, chúng ta nghiêm khắc phê phán và đấu tranh loại trừ tư tưởng cục bộ, bản vị trước hết là ở một số cán bộ, cơ quan đơn vị của thành phố. Cần chấm dứt tình trang trao đổi mua bán đơn thuần để hưởng chênh lệch giá. Phải xây dựng cơ chế tổ chức và chế độ sinh hoạt để bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ trong vùng.
Mặt khác, các ngành, các cấp của thành phố cần có kế hoạch hợp tác và liên kết tích cực để tận dụng tối đa các khả năng hiện có về cơ sở vật chất kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, khả năng tay nghề các cơ sở sản xuất kinh doanh và các cơ quan nghiên cứu KHKT của các ngành trung ương (kể cả của quân đội) đóng trên địa bàn thành phố, tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế xã hội của thành phố phát triển.
Trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của thành phố, sự lãnh đạo của Trung ương Ðảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và sự chỉ đạo của Hội đồng Bộ trưởng có ý nghĩa quyết định. Song sự hướng dẫn, giúp đỡ của các ban, ngành Trung ương là hết sức quan trọng. Với thái độ khiêm tốn và tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần tranh thủ đúng mức sự giúp đỡ của các ban, ngành Trung ương. Cái gì chưa sát với điều kiện, đặc điểm của thành phố thì cùng nhau trao đổi, tìm biện pháp giải quyết có hiệu quả nhất để vừa đưa các mặt công tác của thành phố tiến lên, vừa góp phần phục vụ sự nghiệp cách mạng chung của cả nước. Những gì mà thành phố sai sót thì chúng ta phải dũng cảm thừa nhận và kiên quyết khắc phục. Những gì mà chúng ta thấy đúng và hợp lý thì thẳng thắn trình bày và kiên trì bảo vệ.
Thành phố Hồ Chí Minh không những là trung tâm khu vực phía Nam của đất nước mà còn là trung tâm giao lưu quốc tế, đặc biệt có mối quan hộ chặt chẽ với khu vực phía Nam Ðông Dương. Trước hết, chúng ta phải xây dựng Ðảng bộ và nhân dân thành phố ngang tầm với vị trí và trách nhiệm đó cả về mặt nhận thức, trình độ và tổ chức. Phải giáo dục sâu sắc hơn nữa tinh thần quốc tế vư sản trong Ðảng bộ và nhân dân, làm thật tốt nghĩa vụ quốc tế, trước hết đối với hai nước anh em Lào và Cam-pu-chia.
Những bài học kinh nghiệm đã đúc kết, những mục tiêu phương hướng, nhiệm vụ đã xác định là kết tinh của lao động, chiến đấu và trí tuệ của hàng vạn đảng viên và hàng triệu quần chúng thành phố trong 11 năm qua. Ðây cũng là tổng hợp ý kiến đóng góp của Ðại hội Ðảng bộ các cấp, của quần chúng tham gia xây dựng Ðảng và là kết quả bước đầu của đợt tự phê bình và phê bình vừa qua. Ðây còn là sự quán triệt những quan điểm kinh tế của Bộ Chính trị được vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của thành phố.
Trong cuộc đấu tranh cực kỳ khó khăn và phức tạp này, chúng ta rất tự hào về sự trưởng thành của Ðảng bộ thành phố.
Tuy khó khăn còn nhiều, nhưng mục tiêu, phương hướng đã rõ; tư duy, phong cách và tổ chức của chúng ta đang được đổi mới; sức mạnh đoàn kết, nhất trí của Ðảng bộ, sức mạnh tổng hợp của cách mạng trên cơ sở lấy dân làm gốc đang được nhân lên. Ðó chính là những nhân tố quyết định bảo đảm cho việc hoàn thành thắng lợi những mục tiêu đã đề ra.
Chúng ta hoàn toàn tin tưởng sự tất thắng bắt nguồn từ Ðại hội hôm nay.
Ban chấp hành Ðảng bộ Thành phố khóa III