Thứ Năm, ngày 5 tháng 12 năm 2024

Những danh nhân tuổi Rắn

* Tuổi Ất Tỵ:

Triệu Thị Trinh (225 - 248): Là nữ anh hùng dân tộc, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Đông Ngô trong thời Bắc thuộc.

Bà còn được gọi với tên Triệu Trinh Nương hay Triệu Ẩu. Khi khởi nghĩa bà được tôn xưng là Nhụy Kiều tướng quân hay Lê Hải Bá Vương.

Quê ở Cửu Chân, huyện Nông Cống (nay thuộc vùng núi Quan Yên, miền Định Công - Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa). Từ nhỏ bà đã giỏi võ nghệ, có chí lớn. Năm 19 tuổi, có người hỏi việc chồng con, bà nói: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể Đông, đánh đuổi quân Ngô, cỡi ách nô lệ, há chịu cúi đầu làm tỳ thiếp người ta ư?". Bà cùng anh là Triệu Quốc Đạt chiêu tập nghĩa quân, quyết lòng đánh đuổi quân Ngô cứu nước, cứu dân.

Năm 248, cuộc khởi nghĩa bùng nổ. Giữa lúc cuộc chiến đang ác liệt, anh bà đột ngột lâm bệnh rồi mất, bà vẫn tiếp tục chỉ huy dân quân đánh đuổi giặc Ngô. Tướng Ngô là thứ sử Lục Dận dùng của cải quyền tước mua chuộc một số tù trưởng khiến họ rời bỏ cuộc chiến đấu, thừa lúc rối ren giặc Ngô đàn áp nghĩa quân dữ dội. Thất bại, bà chạy đến Bộ Điền (Phú Điền, Mỹ Hóa) tự đâm cổ hy sinh trên đỉnh núi Tùng.

Về sau, vua Nam Đế nhà Tiền Lý khen bà là người trung dũng sai lập miếu thờ, phong là “Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân”. Nay ở xã Phú Điền tỉnh Thanh Hóa còn đền thờ bà.

Đào Tấn (1845 – 1907): Danh sĩ, nhà soạn tuồng cận đại.

Ông còn có tên là Đào Tăng Tiến, Đào Tiến, tự Chỉ Thúc, hiệu Mộng Mai, Mai Tăng; Sinh tại làng Vĩnh Thạnh, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Lúc nhỏ, ông là học trò của cụ tú Nguyễn Diêu, tác giả của nhiều vở tuồng có tiếng. Chịu ảnh hưởng của thầy học, ông tập viết tuồng từ thuở còn bé. Năm 22 tuổi, ông đậu cử nhân, 4 năm sau ông làm Hiệu thư ở Huế, chuyên soạn các vở tuồng theo lệnh vua Tự Đức.

Năm 1874, ông được bổ làm Tri phủ Quảng Trạch, sau thăng chức Thừa chỉ, Thị độc, rồi Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên. Khi vua Tự Đức mất (năm 1883), ông cáo quan về nhà, nhưng sau đó lại ra làm quan dưới triều vua Đồng Khánh. Năm 1889, ông được bổ làm Tổng đốc An - Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh), rồi lần lượt làm Thượng thư bộ Công, bộ Binh, bộ Hình.

Vì mâu thuẫn với tên Việt gian Nguyễn Thân, Thượng thư bộ Lại, một kẻ thân Pháp, ông xin về hưu khoảng năm 1902.

Suốt đời làm quan, ông nổi tiếng thanh liêm, công minh, đuợc hầu hết sĩ phu trọng vọng, lại giỏi văn chương, thích soạn tuồng hát. Chính ông lập ra môn hát bộ ở Bình Định, soạn nhiều vở tuồng xuất sắc như Trần Hưng Các, Hồ sanh đàn…. Tại quê nhà ông còn lập một trường dạy kịch nghệ gọi là Học bộ đình. Ông mất năm 1907, thọ 62 tuổi.

Ngoài ra, tuổi Ất Tỵ còn có Lý Văn Phức (1785 – 1849): Làm quan đời Gia Long, Minh Mạng, là tác giả nhiều truyện Nôm như Nhị Thập Tứ Hiếu, Ngọc Kiều Lê…; Dương Bạch Mai (1905 – 1964): là nhà hoạt động chính trị, đảng viên Đảng Cộng sản bị đày ở Côn Lôn.

* Tuổi Đinh Tỵ:

Lê Văn Thới (1917- 1983): Nhà khoa học, giáo sư.

Ông sinh ngày 3/9/1917 tại Gò Dầu, Tây Ninh, trong một gia đình thanh bần. Ông rất siêng năng, chất phác; Sau khi đỗ tú tài toàn phần, ông được học bổng du học ở Pháp. Năm 1942, ông đỗ cử nhân khoa Lý Hóa, rồi đỗ đầu kỹ sư hóa học (1943); đến 1947, đỗ tiến sĩ quốc gia, hạng tối danh dự với lời ban khen của Hội đồng Giám khảo.

Từ 1947-1956, ông phụ trách nhiều đề tài Hóa học hữu cơ, là Trưởng ban Khảo cứu cây thông của Viện Đại học Bordeaux Pháp. Từ 1956-1958, ông làm Trưởng phòng Khảo cứu sinh học tại Sở Khai thác thuốc lá và diêm quẹt ở Paris và khảo cứu các chất gây ung thư của khói thuốc lá.

Sau khi về nước vào năm 1958, ông giữ nhiều chức vụ trong khối đại học và trong khảo cứu khoa học. Ông luôn theo dõi và nghiên cứu hóa học hiện đại, làm giáo sư tại Trường Đại học Khoa học Sài Gòn (sau là Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, từ 1995 được tách thành 2 trường: Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Đại học Khoa học Tự nhiên).

Điều ông đặc biệt quan tâm là đặt nền móng tân tiến cho nền thuật ngữ Việt Nam, tiếp tục công trình mà Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã khởi sự năm 1930. Từ năm 1970, ông cùng các đồng nghiệp xây dựng Ủy ban Soạn thảo danh từ chuyên môn, đề ra nguyên tắc soạn thảo danh từ chuyên môn. Dù bận rộn đến đâu, ông cũng đến chủ trì buổi họp của Ủy ban Danh từ vào mỗi sáng thứ bảy tại Bộ Giáo dục Sài Gòn.

Sau 1975, ông là Chủ tịch Hội Trí thức yêu nước TPHCM, giáo sư Đại học Tổng hợp TPHCM. Năm 1983 ông mất, thọ 66 tuổi. Giới khoa học, văn hóa và mọi người đều thương tiếc ông.

Trần Hữu Trí (1917 – 1951): Nhà văn, bút danh Nam Cao. Ông sinh ngày 29/10/1917 tại làng Đại Hoàng, Cao Đà, huyện Nam Song, nay là xã Nhân Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Trước Cách mạng tháng Tám, ông dạy học tư, sáng tác văn học, nổi tiếng với các truyện ngắn, tiểu thuyết xã hội. Năm 1943, ông gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc.

Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông tham gia hoạt động tích cực ở quê ông. Năm 1946, tham gia đoàn quân Nam tiến vào miền Nam Trung bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm công tác tuyên truyền, báo chí và văn nghệ ở Việt Bắc. Ngày 30/11/1951 ông hy sinh tại bót Hoàng Đan, Gia Viễn, Ninh Bình trên đường đi công tác vào vùng địch.

Các tác phẩm chính của ông đã được xuất bản: Chí Phèo, Sống mòn, Đôi mắt, Truyện ngắn Nam Cao,....

Ngoài ra, tuổi Đinh Tỵ còn có Vũ Hữu (1437 – 1530: Đỗ Hoàng giáp, là một nhà toán học; Trương Quốc Dụng (1797 – 1864): Làm quan đến Thượng thư, tham gia việc nghiên cứu lịch sử. Là tác giả Thoái thực ký văn; Lê Ninh (1857 – 1886): Người xướng cờ khởi nghĩa chống Pháp đầu tiên ở Nghệ Tĩnh.

* Tuổi Kỷ Tỵ:

Cao Bá Quát (1809-1854): Danh sĩ đời Tự Đức, tự Chu Thần, hiệu Cúc Đường.

Ông sinh ra ở làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Quyết Chiến, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Ông là anh em sinh đôi với Cao Bá Đạt. Cả 2 anh em đều nổi tiếng văn chương đương thời. Tổ xa đời là Cao Bá Hiên làm quan đến Thượng thư bộ Binh đời Hậu Lê. Cha ông là Cao Cửu Chiến, cũng là bậc tài danh đương thời.

Năm 1831, ông 22 tuổi, đậu Á nguyên trường thi Hà Nội nhưng thi hội 2 năm đều bị trượt, ông không thi nữa, ngao du non nước. Năm 1841, quan đầu tỉnh Bắc Ninh đề cử ông với triều đình, ông được triệu vào kinh sung chức Hành tẩu bộ Lễ.

Ít lâu sau, ông được cử chấm thi ở trường Hương - Thừa Thiên, ông và bạn đồng hội là Phan Nhạ dùng khói đèn sửa một ít quyển văn hay mà phạm húy, toan cứu vớt thí sinh giỏi. Việc bị phát giác, ông bị khép tội khi quân nhưng vua Thiệu Trị giảm tội cho ông, chỉ cách chức và điều vào Quảng Nam. Gặp khi có sứ bộ Đào Tri Phú sang Singapore công cán, ông được tha, theo sứ bộ đi công cán chuộc tội. Xong việc trở về, ông được phục chức cũ, rồi thăng làm Chủ sự.

Năm 1854, ông phải đổi lên Sơn Tây, làm Giáo thọ ở phủ Quốc Oai. Buồn chán, phẫn chí, ông bỏ quan theo làm quân sư cho Lê Duy Cự chống lại triều đình. Việc khởi nghĩa ở Mỹ Lương thất bại, ông bị bắt rồi bị hành quyết cùng với hai con là Cao Bá Phùng và Cao Bá Phong. Anh ông là Cao Bá Đạt cũng bị liên lụy.

Ông để lại cho đời bộ sách Chu thần chi tập và bài phú Tài tử đa cùng. Thơ văn ông dùng bằng chữ Hán hay chữ quốc văn đều hay. Nổi tiếng cùng với Nguyễn Văn Siêu, được người thời đó tôn là Thần Siêu Thánh Quát.

* Tuổi Tân Tỵ:

Nguyễn Khắc Nhu (1881 : 1930): Lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng.

Ông sinh tại làng Song Khê, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Năm 1912, ông đỗ đầu xứ trong kỳ thi khảo hạch tại Bắc Ninh (vì thế ông được gọi là Xứ Nhu). Ông sang Quảng Tây gia nhập Việt Nam Quang phục quân để đánh đuổi thực dân.

Ý nguyện không thành, ông trở về quê mở trường dạy học và tổ chức lực lượng chống Pháp.

Ông tổ chức Hội Việt Nam Dân quốc có cơ sở ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang. Năm 1927, Hội dự định đánh chiếm Bắc Ninh rồi tiến về Hà Nội, nhưng kế hoạch bị bại lộ. Năm 1928, ông đưa hết người trong tổ chức gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học thành lập. Từ đó, ông trở thành một trong những lãnh tụ chủ chốt của đảng này, được bầu là Trưởng ban Lập pháp; Nguyễn Thái Học làm Phó ban.

Năm 1929, sau khi Việt Nam Quốc dân Đảng ám sát được chủ sở mộ phu Bazil, thực dân Pháp đã kết tội ông và các lãnh tụ khác của Đảng. Ông bị kết án vắng mặt 20 năm cấm cố. Ngày 10/2/1930, ông cùng Nguyễn Thái Học quyết định khởi nghĩa nhưng không thành. Ông bị thương, bị giặc Pháp bắt. Ông tự tử trong nhà giam ngày 11/02/1930.

Tuổi Tân Tỵ còn có Nguyễn Bá Lân (1701 – 1785): Đỗ Tiến sĩ, nổi tiếng là Tràng An tứ hổ. Tác giả bài Ngã ba hạnh phúc; Nguyễn Huy Oánh (1713 – 1789): Đỗ Thám hoa, làm quan đến Thượng thư. Gia đình có truyền thống văn học ở vùng Trường Lưu, cùng nổi tiếng với vùng Tiên Điền quê Nguyễn Du, đều ở Hà Tĩnh; Phạm Duy Tốn (1881 – 1924): Viết báo Nam Phong, tác giả truyện ngắn Sống chết mặc bay.

* Tuổi Quý Tỵ

Ngô Chân Lưu (933 – 1011):

Đại Sư Khuông Việt có tướng mạo khôi ngô, tính tình phóng khoáng. Lúc nhỏ theo học Nho, lớn lên quy y Phật. Năm 40 tuổi, danh Sư vang danh được triều đình phong làm Tăng thống vào năm 969. Đây là lần đầu tiên chức Tăng thống - chức vụ cao nhất trong giới tu hành của Phật giáo trong nước, được nói đến trong lịch sử Việt Nam.

Đại sư Khuông Việt là một nhà chính trị, nhà ngoại giao tài ba của nước Việt. Công lao của ông gắn với 2 triều Đinh và Tiền Lê. Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng ban cho ông chức Đại Sư Khuông Việt đã nói lên tầm quan trọng và công lao của ông trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao đối với nền độc lập của đất nước.

Đến thời Tiền Lê, vua Lê Đại Hành rất kính trọng đại sư, phàm những việc quân quốc trong triều đình đều đưa ra bàn bạc.

Khi phái bộ ngoại giao của Lý Giác (nhà Tống) đến nước ta vào năm 987. Trước khi Lý Giác ra về, vua Lê Đại Hành đã sai Khuông Việt viết một khúc nhạc tiễn đưa phái bộ. Và bài Vương lang quy - một từ khúc ngoại giao lời lẽ hết sức mềm mỏng, khéo léo, vừa thể hiện sự cương nghị, đã được Đại sư ứng tác trong dịp này.

Vương lang quy được xem là tác phẩm văn học đầu tiên của lịch sử ngoại giao Việt Nam, cũng là một từ khúc xưa nhất không những của văn học Việt Nam mà còn là của văn học thế giới. Vị thế của Vương lang quy có thể nói có một không hai trong lịch sử ngoại giao Việt Nam.

Hà Minh Châu (sưu tầm)

Ý kiến bạn đọc

refresh
 

Tổng lượt bình luận

Tin khác

Thông báo