Báo cáo tình hình và nhiệm vụ

Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, do đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Thành ủy trình bày tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ III - đợt 2 ngày 7 tháng 11 năm 1983

PHẨN I

TÌNH HÌNH VÀ NHIỆM VỤ CHUNG

I. TÌNH HÌNH THÀNH PHỐ TỪ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ LẦN THỨ II ĐẾN NAY (10-1980 – 10-1983)

Ba năm qua, thực hiện các nghị quyết của Trung ương và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ II, chúng ta đã trai qua một chặng đường phấn đấu đầy khó khăn, thử thách và đã giành được những thắng lợi quan trọng đáng phấn khởi trong công cuộc cải tạo, xây dựng và bảo vệ thành phố.

Từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng, đất nước ta đã có những chuyển biến tích cực theo hướng đi lên ngày càng vững chắc. Thành tích nổi bật là lần đầu tiên “tự trang trải được nhu cầu tối thiểu về lương thực trong phạm vi cả nước”. Sự chuyển biến bước đầu trong một số ngành công nghiệp, trong phân phối lưu thông đã có tác động thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã được cụ thể hoá bằng nhiều nghị quyết sát đúng của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Đặc biệt Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của thành phố.

Mặt khác, ba năm qua đất nước ta vẫn phải tiếp tục đương đầu quyết liệt với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của bọn bành trướng bá quyền Trung Quốc câu kết với đế quốc Mỹ và các thế lực phản động khác. Nền kinh tế chung của cả nước vẫn còn nhiều mặt mất cân đối lớn, vật tư nguyên liệu thiếu thốn, nguồn thủy điện vì hạn hán đã giảm sút nghiêm trọng… Những khó khăn khách quan nêu trên cộng với một số thiếu sót tồn tại đã làm cho thắng lợi chung bị hạn chế.

Trước những thuận lợi và khó khăn đó, Đảng bộ và nhân dân thành phố đã phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu do Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ II đề ra.

1/ Trên mặt trận kinh tế - đời sống, với tinh thần cách mạng tiến công, phát huy mạnh mẽ tiềm năng của cơ sở, Đảng bộ và nhân dân lao động thành phố đã liên tục phấn đấu khắc phục những khó khăn hết sức gay gắt và đã đạt được những kết quả quan trọng.

Về công nghiệp:

Từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IV) và Quyết định 25/CP của Hội đồng Chính phủ, thành phố đã tăng nhanh tốc độ phát triển công nghiệp: năm 1981 so với 1980 tăng 26%, năm 1982 so với 1981 tăng 43,5%, cao hơn nhiều so với chỉ tiêu phát triển từ 10 – 15% năm do Đại hội Đảng bộ lần thứ II đề ra. Tốc độ tăng bình quân hàng năm:

- Công nghiệp quốc doanh trung ương tăng 15,2%;

- Quốc doanh và công tư hợp doanh thành phố tăng 30,5%;

- Tiểu công nghiệp - thủ công nghiệp tăng 61,5%.

Các khoản nộp ngân sách Nhà nước của xí nghiệp quốc doanh mỗi năm mỗi tăng:

Năm 1980: 1,139 tỷ đồng.

Năm 1981: 2,712 tỷ đồng.

Năm 1982: 8,538 tỷ đồng.

Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì năm 1982 đã tăng gấp 4 – 5 lần so với năm 1980.

Công nghiệp trên địa bàn thành phố đã tạo ra khối lượng hàng tiêu dùng và xuất khẩu lớn, có một số mặt hàng mới, chất lượng một số sản phẩm có tiến bộ hơn. Nhiều xí nghiệp trung ương và thành phố được phục hồi, năng lực sản xuất có phát huy tốt hơn. Một số cơ sở mới về cơ khí, về sản xuất hàng xuất khẩu được xây dựng. Ngành điện tuy còn nhiều khó khăn khách quan, nhưng đã cố gắng từng bước khắc phục thiết sót, tích cực đóng góp vào thắng lợi của sản xuất công – nông nghiệp. Ở những xí nghiệp có nguyên liệu, vật tư, sản xuất tương đối ổn định thì đời sống công nhân có được cải thiện, hiện tượng tiêu cực có giảm bớt.

Thành phố đã tiến hành thí điểm hình thức công tư hợp doanh chia lãi, hình thức hợp doanh giữa Nhà nước với tiểu chủ trong một số ngành hàng thiết yếu, tổ chức lại công nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp theo các ngành kinh tế - kỹ thuật, đang tiến hành chấn chỉnh một bước các hợp tác xã và tổ hợp, đã ban hành quy chế gia công, kiểm tra và đăng ký chất lượng sản phẩm, đã phân cấp quản lý tiểu, thủ công nghiệp cho quận, huyện và phường, xã.

Nhờ phát huy tốt hơn quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động và kết hợp được ba lợi ích nên sản xuất phát triển, hàng vạn lao động có việc làm, nhiều điển hình tập thể và cá nhân tiên tiến tiếp tục xuất hiện. Từ khi có Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị, Quyết định 120 của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị quyết 19 của Thành ủy, công tác cải tạo, tổ chức lại sản xuất trong công nghiệp đã và đang tiến hành tích cực.

Tuy nhiên, do tổ chức chỉ đạo còn thiếu sót, việc cung cấp vật tư không bảo đảm, nên ba năm liền nhiều sản phẩm chủ yếu đạt thấp, sản xuất chưa ổn định, chất lượng chưa bảo đảm, sản phẩm làm ra Nhà nước chưa nắm được toàn bộ, công suất công nghiệp quốc doanh mới sử dụng khoảng 40 – 50% . Cơ chế hành chính bao cấp trong sản xuất công nghiệp còn khá nặng, nhiều chính sách chế độ, thủ tục chậm sửa đổi, chế độ hạch toán kinh tế không rõ ràng đã kềm hãm sự phát triển của công nghiệp quốc doanh. Bộ máy quản lý xí nghiệp chưa được củng cố. Công nghiệp chưa gắn bó chặt chẽ và phục vụ tốt cho nông nghiệp. Ngành cơ khí trên địa bàn thành phố chưa được chú ý phối hợp, khai thác và phát triển đúng mức. Công tác cải tạo và tổ chức lại sản xuất công nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp làm chưa tốt. Một số hợp tác xã và tổ hợp chỉ là hình thức, còn quan hệ bóc lột, chủ thợ. Tệ trốn thuế, làm hàng giả, móc ngoặc với cán bộ hư hỏng bòn rút vật tư nguyên liệu Nhà nước còn diễn ra hàng ngày. Những thiếu sót trên đây đã ảnh hưởng không tốt đến năng suất lao động, hiệu quả kinh tế, chất lượng sản phẩm và cũng ảnh hưởng không tốt đến đời sống của người lao động.

9 tháng đầu năm do khó khăn gay gắt về điện, vật tư nguyên liệu, do xuất nhập khẩu giảm, nên tốc độ phát triển công nghiệp đã chậm lại, tuy so cùng kỳ 1982 có tăng 6,2% nhưng mới đạt 67,7% kế hoạch năm. Tháng 10 tình hình có phát triển tốt hơn, thành phố đang quyết tâm phấn đấu hoàn thành kế hoạch 1983.

Công tác xây dựng cơ bản có tiến bộ. Thực hiện phương châm “Trung ương, địa phương và cơ sở cùng làm”, “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nên đã sửa chữa, xây dựng mới được nhiều bệnh viện, trường học, nhà văn hoá, cầu đường, công trình thủy lợi, công trình phúc lợi công cộng…, trong đó nhân dân đã đóng góp hàng trăm triệu đồng và hàng chục vạn ngày công lao động. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã tập trung cho công nghiệp 32,7%, nông nghiệp 25,5%. Thiếu sót lớn là việc đầu tư xây dựng các công trình vẫn còn phân tán, nhiều công trình xây dựng còn kéo dài, một số công trình đã xây dựng xong nhưng chưa phát huy hiệu quả. Cơ sở hạ tầng và nhà ở chưa được sửa chữa và bảo dưỡng tốt, bị xuống cấp nhanh. Hệ thống cầu - đường, cấp thoát nước đang hư hỏng nặng chưa được sửa chữa kịp thời.

Ngành giao thông vận tải đã cố gắng trong công tác cải tạo, nhiều năm liên tục vượt mức kế hoạch vận tải hàng hoá và hành khách. Đã xây dựng mới đội tàu vận tải biển, phát triển vận tải đường sông. Tuy nhiên việc sản xuất phục tùng sửa chữa, xây dựng cơ sở vật chất, bến bãi làm còn chậm. Trong giao thông vận tải nhiều tiêu cực chưa được khắc phục tốt.

Về nông nghiệp:

Sản lượng lương thực năm 1982 đạt mức cao nhất kể từ sau ngày giải phóng (trên 236.000 tấn, tăng 18,9% so với năm 1980). Năm 1983 tuy hạn hán kéo dài, vụ lúa hè thu vẫn đạt năng suất và sản lượng cao nhất từ trước tới nay. Phong trào xây dựng vùng lúa cao sản, cánh đồng mẫu đang phát triển. Thành phố đã tự bảo đảm phần lớn nhu cầu rau và trồng được rau xuất khẩu. Gần đây vùng cây công nghiệp, cây chất đốt phát triển nhanh. Đã xuất hiện những điển hình tốt về kết hợp nông nghiệp với công nghiệp ở cơ sở. Kinh tế tập thể được củng cố. Từ sau Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị, Đảng bộ tăng cường chỉ đạo mọi mặt công tác nông thôn. Phong trào ngoại thành đang có chuyển biến quan trọng. Nhiều nông dân tự nguyện đăng ký điều chỉnh ruộng đất và xin vào làm ăn tập thể. Đã phát triển thêm 200 tập đoàn sản xuất và 2 hợp tác xã nông nghiệp, nâng tổng số tập đoàn sản xuất hiện nay lên 662 tập đoàn và 15 hợp tác xã, với 20.179 ha canh tác tập thể, chiếm 26,1% diện tích canh tác và 35,4% số hộ nông dân. Nếu tính cả đất nông trường thì đất đai do Nhà nước và tập thể quản lý chiếm gần 50%. Đến đầu tháng 10-1983, thành phố đã điều chỉnh được 11.249 ha chia cấp cho hơn 15.200 hộ nông dân không ruộng hoặc thiếu ruộng, hoàn thành công tác điều chỉnh ruộng đất trước thời hạn. Đã kéo 130 km đường điện trung - hạ thế, tập trung xây dựng hệ thống thủy lợi cho vùng chuyên canh rau, cây công nghiệp, lúa cao sản và nông trường; đã xây dựng một số trạm cơ khí nông nghiệp và đang xây dựng Trung tâm giống.

Thiếu sót lớn trong chỉ đạo nông nghiệp là chưa tập trung đúng mức đầu tư toàn diện, chưa phát huy hết thế mạnh của nội thành kết hợp với ngoại thành, sớm hình thành cơ cấu công – nông nghiệp vững mạnh trên địa bàn thành phố. Chưa đồng thời tiến hành 3 cuộc cách mạng để đẩy nhanh tốc độ cải tạo và xây dựng toàn diện nông thôn ngoại thành. Công tác quy hoạch, tổ chức lại sản xuất, hình thành vành đai thực phẩm, cây công nghiệp, cây chất đốt, cây thức ăn gia súc, vùng chuyên canh rau, lúa cao sản chưa tiến hành khẩn trương và có kế hoạch đồng bộ. Năng suất cây trồng, vật nuôi và vòng quay của đất chưa cao. Chỉ tiêu một số cây công nghiệp và chăn nuôi đạt thấp so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ II đề ra. Mức huy động lương thực, thực phẩm có khá hơn những năm trước nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu. Đã có thành tích trồng 2 vạn ha rừng Duyên Hải nhưng bảo vệ chưa tốt. Việc phủ xanh đồi trọc để cải thiện môi sinh và bảo vệ đất chưa làm được bao nhiêu. Đất hoang hoá còn nhiều. Các công trình thủy lợi lớn chưa được tiếp tục xây dựng đồng bộ để đưa vào sử dụng.

Trên mặt trận phân phối lưu thông, Thành phố đã có nhiều cố gắng, phát triển hệ thống thương nghiệp và dịch vụ xã hội chủ nghĩa, đấu tranh cải tạo và quản lý thị trường; nhất là từ sau khi có Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 17 của Thành ủy, công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong phân phối lưu thông có tập trung hơn. Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn đã tích cực tham gia vào mặt trận này. Quan điểm kinh doanh và phục vụ có tiến bộ, tình trạng kinh doanh đơn thuần chạy theo chênh lệch giá, tranh mua tranh bán đã từng bước được ngăn chặn. Doanh số mua vào bán ra hàng năm đều tăng. Tỷ trọng hàng hoá bán lẻ của thị trường có tổ chức đã từ 25,6% năm 1981 tăng lên 30% năm 1982. 9 tháng đầu năm 1983 đạt 34%. Trong cải tạo, đã thực hiện có kết quả bước đầu việc sắp xếp lại 5 ngành hàng thiết yếu: gạo, rau, thịt, cá, chất đốt; đã đưa được 77% tiểu thương ở các chợ và tổ ngành hàng và bước đầu thí điểm hình thức liên doanh giữa thương nghiệp quốc doanh với một số người buôn bán có tay nghề, phương tiện và vốn liếng. Riêng mặt hàng gạo kinh doanh đã mở rộng mạng lưới bán lẻ từ 400 lên gần 2.000 điểm, bảo đảm đưa gạo trực tiếp đến tay người lao động, kềm giữ không để giá gạo tăng đột biến trên thị trường. Những mô hình về quản lý thị trường, cải tạo tư thương, tổ chức dịch vụ trên địa bàn dân cư đang xuất hiện ngày càng nhiều, mở ra nhiều triển vọng tốt đẹp.

Tuy nhiên, trên mặt trận nóng bỏng này, sự tập trung lực lượng và chỉ đạo chưa thật đúng mức. Việc nắm hàng, nhất là các mặt hàng tiểu, thủ công nghiệp và nông sản thực phẩm trên địa bàn thành phố chưa tốt, chưa gắn chặt cải tạo với việc xây dựng phát triển ngành. Do có thời gian buông lơi cải tạo, một bộ phận tư sản thương nghiệp trước đây bị xóa bỏ, nay hoạt động trở lại cùng với số tư sản mới, trong đó có một số tư sản người Hoa, đã câu kết với những phần tử thoái hoá, biến chất trong bộ máy Nhà nước và khai thác mặt tiêu cực trong trung, tiểu thương để hàng ngày đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường. Lực lượng thương nghiệp xã hội chủ nghĩa chưa được xây dựng đủ mạnh, nhất là chưa tổ chức tốt mạng lưới bán lẻ. Một số nơi, có lúc chạy theo lợi nhuận đã đẩy giá lên để thu chênh lệch làm ảnh hưởng tai hại tới thị trường và cũng làm phát sinh nhiều tiêu cực trong nội bộ.

Mặt khác, tình trạng ngăn sông cấm chợ còn rất nặng nề, các trạm xét hỏi trên các trục đường giao thông quá nhiều, phương tiện lưu thông khó khăn, đường sá hư hỏng đã làm cho giá gốc và giá ngọn chênh lệch nhau cực kỳ phi lý, có khi chỉ cách 50 – 70 cây số, giá hàng hoá tăng lên 2 – 3 lần.

Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả có cố gắng phục vụ tốt hơn cho sản xuất và đời sống. Bắt đầu từ 1983 thành phố đã chấm dứt tình trạng bội chi và liên tục bội thu tiền mặt trong 9 tháng qua. Vòng quay đồng tiền đã từ 3,5 vòng/năm 1982 tăng lên 4,2 vòng/năm 1983. 9 tháng đầu năm 1983, thuế công thương nghiệp thu tăng gấp 2,5 lần so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, việc phân công phân cấp về tài chính, ngân hàng giá cả chưa dứt khoát, chưa thể hiện phương châm 3 cấp làm kế hoạch, 3 cấp làm chủ, ảnh hưởng đến tính chủ động sáng tạo của cơ sở, đồng thời cũng dễ tạo thêm lý do để bao che những hành động tùy tiện, vô tổ chức, vô kỷ luật. Khung giá quy định chưa thật hợp lý, gây cản trở cho việc thu mua sản phẩm. Mức thuế và phân phối lợi nhuận chưa vẫn chưa thực hiện được sự điều tiết thu nhập hợp lý giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, giữa khu vực sản xuất, kinh doanh và hành chánh, sự nghiệp. Một số nơi vận dụng chính sách thuế chưa tốt nên ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh. Thuế vẫn còn thất thu trong một số hộ kinh doanh, nhất là hộ kinh doanh lớn, nhưng cũng có tình trạng gán ép về mức thuế đối với một số hộ kinh doanh nhỏ. Một khối lượng lớn tiền tệ vẫn còn nằm trong tay tư nhân và lưu thông ngoài sự kiểm soát của hệ thống ngân hàng Nhà nước.

Về xuất nhập khẩu, ngoài nghĩa vụ giao nộp hàng hoá xuất khẩu cho Trung ương, thành phố đã mở rộng thị trường và đẩy mạnh xuất nhập khẩu trực tiếp, góp phần tích cực vào việc cân đối bổ sung vật tư kỹ thuật, nguyên liệu cho sản xuất nông nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp và nông nghiệp. Đã tạo ra một khối lượng dự trữ khá về nguyên liệu và một số quỹ hàng hoá để đối lưu với các tỉnh. Đã tích cực đóng góp vào việc xây dựng đội tàu biển, đầu tư chiều sâu và xây dựng thêm một số cơ sở chế biến hàng xuất khẩu, đầu tư mở rộng sản xuất trên địa bàn thành phố và khu vực, giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động. Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nhanh, vượt chỉ tiêu do Đại hội Đảng bộ lần thứ II đề ra: năm 1981 tăng 64,5% USĐ/R so với năm 1980 và năm 1982 tăng 89% USĐ/R so với năm 1981. Năm 1983, do cần chấn chỉnh lại tổ chức, quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu và do còn một số khó khăn về cơ chế nên kim ngạch có thấp hơn năm 1982. Tuy nhiên, những mặt tiêu cực đã được ngăn chặn và hoạt động xuất nhập khẩu đang phát triển đúng hướng hơn.

Hoạt động xuất nhập khẩu thành phố trong thời gian qua đã mắc một số khuyết điểm lớn mà Thành ủy đã tự phê bình: cho phép thành lập nhiều công ty xuất nhập khẩu, nhưng việc bố trí cán bộ, kiểm tra, kiểm soát thiếu chặt chẽ. Hoạt động của các công ty chưa theo một quy chế thống nhất nên có nhiều sơ hở trong việc quản lý tài chính, ngoại tệ, giá cả và trong việc giao dịch với thương nhân nước ngoài. Các công ty đã tranh mua tranh bán, đẩy giá lên, tác động xấu đến giá cả chung. Bọn tư sản và những phần tử xấu đã khai thác sơ hở thiếu sót này để làm giàu, phá rối thị trường.

Chấp hành nghiêm túc Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố đã kiểm điểm toàn diện công tác xuất nhập khẩu và vạch ra các biện pháp uốn nắn sửa chữa. Từ đó đến nay hoạt động xuất nhập khẩu của thành phố đã được chấn chỉnh cả về tổ chức lẫn phương thức hoạt động.

Về mặt đời sống:

Thành phố đã cố gắng giải quyết việc làm cho trên 120.000 lao động, nhưng số người chưa có việc làm hiện nay hãy còn nhiều, nhất là số ở các nơi khác đến và số cư trú bất hợp pháp vẫn chưa có biện pháp giải quyết tốt. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể đã tích cực giải quyết việc làm, nuôi dạy trẻ em nghèo, chăm sóc người già, giáo viên, gia đình thương binh liệt sĩ v.v… Việc cung cấp 9 mặt hàng cho khu vực hưởng lương Nhà nước có tiến bộ hơn. Hai năm 1981 – 1982 sản xuất phát triển, các cấp tích lũy được một số ngân quỹ, bằng những nỗ lực sáng tạo ở cơ sở, đã phát huy được nhiều sáng kiến chăm lo đến các phúc lợi công cộng, nên đời sống của cán bộ, công nhân viên và nhân dân lao động tuy còn nhiều khó khăn nhưng có một số mặt được cải thiện so với năm 1979 – 1980. Năm 1983 một số khó khăn mới xuất hiện, tốc độ sản xuất có cậm lại, giá cả tiếp tục tăng, đời sống càng khó khăn gay gắt hơn, nhất là trong khu vực hành chính, lực lượng vũ trang, nhân viên y tế, giáo dục, cán bộ hưu trí, những người không có việc làm ổn định và lao động nghèo. Đối với ngành giáo dục, y tế, trong các năm 1981, 1982 thành phố có thực hiện chế độ bán thêm vải, đường, sữa nhưng đến năm 1983 do khó khăn chung nên không giữ được mức giải quyết như trước đây. Những khó khăn về đời sống vẫn là mục tiêu cấp bách hàng đầu mà Đảng bộ ta phải tập trung giải quyết.

2/ Công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp và nông nghiệp đã được tiến hành tích cực hơn sau Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị:

Thực hiện phương châm cải tạo gắn với xây dựng, lấy xây dựng làm chính, thành phố đang củng cố và phát triển các cơ sở kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể. Trong công nghiệp đang tiến hành tổ chức sắp xếp lại thành từng ngành kinh tế - kỹ thuật theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá, nhằm phát huy vai trò đầu đàn của các xí nghiệp quốc doanh, đưa các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể vào quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Đối với một số ngành thiết yếu trong công nghiệp như cơ khí, xe đạp, hoá chất, dệt, hồ nhuộm, giấy, sản xuất thuốc tây, ngành in v.v… đang tiến tới quản lý thống nhất những khâu sản xuất chủ yếu và những mặt hàng chủ yếu.

Trong thương nghiệp, thành phố đang tập trung củng cố và phát triển nhanh thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã, tiến hành tổ chức lại theo ngành hàng đối với những mặt hàng thiết yếu như lương thực, rau, thịt, cá, chất đốt… Đã làm tương đối tốt mặt hàng gạo và đang nhân rộng ra các mặt hàng khác. Thành phố đang đẩy mạnh hợp tác với các tỉnh nước bạn Cam-pu-chia trong việc trao đổi hàng hoá và đầu tư sản xuất để củng cố trận địa xã hội chủ nghĩa, loại dần tư thương đường dài.

Về hình thức cải tạo, ngoài công ty hợp doanh, thành phố đã vận dụng thêm một số hình thức quá độ thích hợp như hợp doanh, xí nghiệp hợp tác v.v…

Theo chỉ thị 18 của Thành ủy, công tác điều tra cơ bản đối với các hộ kinh doanh công thương nghiệp đang làm cơ sở tốt cho việc thực hiện thuế công thương nghiệp và cho công cuộc cải tạo sắp tới. Qua điều tra bước đầu ở một số quận thì số hộ sản xuất kinh doanh có quy mô lớn, nhất là các hộ kinh doanh ăn uống và dịch vụ đã tăng lên 3 lần so với 1979. Kiểm điểm công tác cải tạo vừa qua cho chúng ta thấy:

- Lúc đầu thì nôn nóng nhưng sau đó – khi chưa có Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị, chúng ta lại buông lơi công tác cải tạo, chưa thấy rõ tính chất gay go, quyết liệt của cuộc đấu tranh giai cấp giữa 2 con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.

Chưa thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa cải tạo xã hội chủ nghĩa với cuộc đấu tranh chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch.

- Chưa gắn chặt cải tạo với xây dựng và lấy xây dựng làm chính.

- Chưa tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng văn hoá và tư tưởng, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, nhất là đối với một trung tâm khoa học và kỹ thuật như thành phố Hồ Chí Minh.

- Chưa phát huy tốt vai trò làm chủ tập thể của nhân dân lao động nhất là của giai cấp công nhân trong cải tạo và xây dựng.

- Chưa thấy mối quan hệ gắn bó giữa cải tạo công thương nghiệp và nông nghiệp, chưa thấy hết vai trò, vị trí, khả năng của nội thành trong việc kết hợp với ngoại thành để đẩy nhanh hơn nữa tốc độ cải tạo và xây dựng ngoại thành; mặt khác chưa thấy hết khả năng và trách nhiệm của mình đối với công cuộc cải tạo và xây dựng trong khu vực. Trong đấu tranh quản lý thị trường chưa có sự phối hợp kịp thời và đồng bộ giữa các ngành, các cấp ở thành phố và giữa thành phố với các tỉnh trong khu vực.

Về cải tạo nông nghiệp và xây dựng nông thôn với ngoại thành gần đây có chuyển biến quan trọng. Phong trào hợp tác hoá đang phát triển tốt, tuy nhiên chưa tương xứng với những điều kiện thuận lợi về công nghiệp và khoa học - kỹ thuật của thành phố.

3/ Công tác khoa học và kỹ thuật đã có bước phát triển mới trong việc ứng dụng những thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Nhưng những tiến bộ đó chưa tương xứng với vị trí then chốt của khoa học, kỹ thuật trong 3 cuộc cách mạng, nhất là đối với một trung tâm khoa học - kỹ thuật như thành phố chúng ta.

Việc ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống đã làm nảy nở hàng chục ngàn sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, thực hành tiết kiệm, đã hoàn thành trên 200 đề tài, bước đầu ứng dụng vào thực tế, mang lại lợi ích kinh tế hàng trăm triệu đồng. Công tác điều tra cơ bản và phân vùng quy hoạch đang được xúc tiến để đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên và các đặc điểm kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố. Đã bước đầu triển khai nghiên cứu khoa học xã hội như điều tra cơ cấu kinh tế và dân cư ở quận 1 và quận 11. Đang tiến hành nghiên cứu một số đề tài khác nhằm phục vụ công tác quản lý kinh tế, xã hội. Đã liên kết với các tỉnh để thực hiện một số dịch vụ kỹ thuật, nghiên cứu một số đề tài và đào tạo cán bộ.

Qua các hoạt động đó, đã bước đầu phát huy tốt hơn lực lượng khoa học và kỹ thuật của thành phố. Đã rút ra được một số kinh nghiệm như dùng hình thức hợp đồng nghiên cứu theo chương trình đề tài để tập hợp và phát huy lực lao động, kỹ thuật.

Tuy nhiên, những việc làm trên mới là bước đầu. Nhiều tài năng về khoa học và kỹ thuật chưa được tập hợp và phát huy, số chưa được sắp xếp việc làm hoặc có việc làm nhưng không đúng ngành nghề. Khoa học và kỹ thuật chưa trở thành một bộ phận thiết yếu của các ngành, các cấp và chưa trở thành bộ phận hữu cơ trong kế hoạch kinh tế - xã hội của thành phố. Bộ máy quản lý công tác khoa học và kỹ thuật còn yếu kém. Thông tin về khoa học và kỹ thuật thế giới thiếu và chưa kịp thời. Việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ trí thức khoa học và kỹ thuật, cán bộ quản lý chưa được quy hoạch tốt và chính sách cũng chưa thật thỏa đáng. Nhìn chung trong chỉ đạo, chúng ta chưa thể hiện vai trò then chốt của cách mạng khoa học - kỹ thuật trong 3 cuộc cách mạng như đường lối của Đảng.

4/ Trong cuộc đấu tranh quyết liệt về văn hoá, tư tưởng, chúng ta đã phát động phong trào văn hoá văn nghệ quần chúng, xây dựng nếp sống mới ở cơ sở, từng bước đẩy lùi văn hoá văn nghệ phản động, đồi truỵ và lối sống cũ. Nhưng tồn tại còn nặng nề và dai dẳng; sự chỉ đạo của chúng ta còn nhiều mặt lỏng lẻo, chưa kết hợp chặt chẽ 3 cuộc cách mạng:

Việc tuyên truyền giáo dục và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước trong các tầng lớp quần chúng đã tạo được sự chuyển biến trong nhận thức, tình cảm của nhân dân lao động đối với chế độ mới. Nhận thức chính trị và sự hiểu biết về chủ nghĩa xã hội được thể hiện sinh động trong nhiều phong trào hành động cách mạng sôi nổi, liên tục của quần chúng trong sản xuất, tổ chức đời sống, an ninh quốc phòng và trong các hoạt động văn hoá, xã hội v.v… Tình đoàn kết, tương trợ trong phường, xóm gắn bó hơn, đã khơi dậy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và từng bước hình thành lối sống mới xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh để cải tạo, xây dựng và bảo vệ thành phố trong 8 năm qua chẳng những đã làm nảy nở nhiều nhân tố của con người mới xã hội chủ nghĩa mà còn cải tạo một số người vốn là nạn nhân của chế độ cũ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tiêu cực, tồn tại vừa dai dẳng, vừa gay gắt do chế độ cũ để lại và do âm mưu và thủ đoạn mới của địch gây ra. Mặt khác những thiếu sót, khuyết điểm của ta trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, những hiện tượng tiêu cực trong một số cán bộ, đảng viên thoái hoá biến chất đã ảnh hưởng không tốt đến sự nhận thức của một bộ phận quần chúng về tính ưu việt của chế độ mới.

Các hoạt động văn hoá văn nghệ đã góp phần phục vụ nhiệm vụ chính trị của thành phố, đáp ứng một phần nhu cầu văn hoá ngày càng tăng của nhân dân lao động. Phong trào văn hoá văn nghệ quần chúng phát triển mạnh mẽ, sôi nổi liên tục ở cơ sở, thu hút hàng triệu lượt người tham gia, đã thiết thực phục vụ cho sản xuất, vui chơi, giải trí lành mạnh, góp phần xây dựng tình đoàn kết, chống tập tục mê tín dị đoan, đẩy lùi văn hoá cũ. Chúng ta đã tích cực sửa chữa và xây dựng mới một số cơ sở văn hoá văn nghệ. Mặc dầu còn nhiều khó khăn thiếu thốn trong đời sống và trong sáng tác, đội ngũ văn nghệ sĩ chuyên nghiệp đã cố gắng phục vụ công cuộc cải tạo, xây dựng và bảo vệ thành phố, đào tạo dìu dắt những mầm non văn nghệ, đóng góp tích cực vào phong trào văn nghệ của thành phố và cả nước. Chỉ thị 05 của Ban Thường vụ Thành ủy về văn hóa văn nghệ đã củng cố và tăng cường vai trò chủ đạo của văn hoá, văn nghệ xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, nhận thức về tính chất quyết liệt của cuộc đấu tranh giữa địch – ta, đấu tranh giai cấp giữa hai con đường trên mặt trận văn hóa, văn nghệ trong Đảng bộ chưa sâu sắc, cảnh giác chưa cao. Chúng ta chưa lường hết tính chất phức tạp dai dẳng của những tàn dư văn hoá, văn nghệ cũ, chưa tiến hành đấu tranh liên tục và triệt để, chưa kịp thời nghiêm trị bọn phản động, đầu cơ, lợi dụng hoạt động văn hoá để chống phá cách mạng, đầu độc quần chúng. Chưa kiên quyết ngăn chặn và xóa bỏ các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan để cho các hiện tượng này có chiều hướng phát triển. Chưa khẩn trương cải tạo ngành in và ngành sân khấu. Chưa tiến hành tốt các hoạt động bảo tồn, bảo tàng và giáo dục truyền thống. Chưa triệt để khắc phục hiện tượng kinh doanh trong hoạt động văn hoá, văn nghệ. Việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ văn nghệ sĩ chưa được coi trọng đúng mức. Việc hướng dẫn, chỉ đạo sáng tác, xuất bản ấn phẩm văn hoá, văn nghệ chưa được chặt chẽ. Việc củng cố và tăng cường các cơ quan chỉ đạo và quản lý các hoạt động văn hoá, văn nghệ chưa được chú ý đúng mức.

Hoạt động báo chí, truyền thanh, truyền hình, xuất bản có cố gắng bám sát nhiệm vụ chính trị của thành phố và phản ánh tương đối kịp thời những chuyển động mới trong các phong trào cách mạng của quần chúng, bảo đảm một phần nhu cầu sách báo cho nhân dân. Các tờ báo: Sài Gòn Giải phóng, Tuổi Trẻ, Khăn Quàng Đỏ, Phụ Nữ, Công Nhân Giải phóng, Khoa học Phổ thông, v.v… có những chuyên mục được bạn đọc ưa thích. Tuy nhiên số lượng chưa đáp ứng yêu cầu của quần chúng, chất lượng còn nhiều mặt chưa tốt.

Ngành giáo dục có nhiều cố gắng trong việc phát triển trường lớp, lập thêm các trung tâm hướng nghiệp, thu hút hơn phân nửa số trẻ em nghèo thất học đến lớp. Chất lượng giảng dạy được nâng cao ở các đơn vị tiên tiến và các lớp 1, 2, 3 cải cách giáo dục. Đã xuất hiện nhiều cá nhân và tập thể điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua 2 tốt. Phong trào nhân dân và Nhà nước cùng tu bổ trường lớp, chăm lo cho giáo viên và học sinh đang phát triển tốt. Tuy nhiên, giáo viên vẫn còn thiếu, chất lượng giáo dục còn thấp, nhất là giáo dục lý tưởng và đạo đức cho học sinh. Nhận thức chính trị của một số bộ phận khá đông giáo viên còn kém. Giáo dục ở ngoại thành phát triển chậm, tình trạng học ba, bốn ca vẫn chưa chấm dứt. Một số trường lớp tiếp tục xuống cấp. Đời sống giáo viên còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Các lớp dạy tư chưa được quản lý chặt chẽ. Sự phối hợp giữa Đoàn Thanh niên và ngành giáo dục chưa thật gắn bó. Sự chỉ đạo của Đảng bộ chưa tập trung đúng mức đối với khu vực giáo dục.

Hoạt động thể dục thể thao tuy có được đẩy mạnh lên một quy mô lớn, song chưa trở thành phong trào quần chúng mạnh mẽ, nhất là trong thanh niên, học sinh và lực lượng vũ trang. Giữa các ngành thể dục thể thao, giáo dục và Đoàn Thanh niên chưa có sự phối hợp thật chặt chẽ. Việc giáo dục đạo đức thể thao xã hội chủ nghĩa còn yếu.

Ngành y tế đã khắc phục khó khăn, cố gắng đáp ứng các yêu cầu phòng, chống dịch và khám trị bệnh. Phong trào “5 dứt điểm” được đẩy mạnh hơn. Đã giảm được tỷ lệ tăng dân số từ 2,2% xuống 1,9%. Việc khai thác, sử dụng các nguồn dược liệu trong nước có tiến bộ. Tuy nhiên, chất lượng điều trị, tình trạng vệ sinh và tinh thần thái độ phục vụ bệnh nhân ở một số bệnh viện còn yếu. Tình trạng thuốc men, vật tư y tế, giường bệnh… đang thiếu trầm trọng.

Công tác thương binh xã hội đã có nhiều tiến bộ trong việc giải quyết chính sách, trong việc phát động phong trào nhân dân cùng Nhà nước chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, cán bộ nghỉ hưu và trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên việc quản lý, giáo dục, chăm sóc thương binh còn nhiều mặt chưa tốt nên gần đây một số thương binh bị những phần tử xấu kích động, đã gây ra một số việc ảnh hưởng xấu đến trật tự của thành phố.

Phong trào toàn Đảng, toàn dân bảo vệ, chăm sóc giáo dục thiếu niên nhi đồng đã phát triển mạnh, mang lại hiệu quả thiết thực. Năm 1982, toàn thành phố đã có 140.000 cháu đạt danh hiệu “Cháu ngoan Bác Hồ”. Tuy nhiên phong trào chưa đều khắp và còn một số mặt yếu, nên đã có một số cơ sở tôn giáo lợi dụng những thiếu sót sơ hở đó để tập hợp nhằm giành giật thế hệ trẻ.

5/ Hệ thống chính quyền các cấp từng bước được củng cố và trưởng thành.

Sinh hoạt của Hội đồng Nhân dân các cấp được bảo đảm đều đặn, nhiều đại biểu giữ được mối quan hệ thường xuyên với nhân dân, bước đầu phát huy vai trò kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước.

Ủy ban Nhân dân các cấp cùng với các ngành trong hệ thống chính quyền ngày càng có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng và Chính phủ. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, ngày càng thể hiện rõ nét hơn. Vai trò làm chủ tập thể của nhân dân lao động đã được phát huy trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong các phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, thực hành tiết kiệm, đấu tranh quản lý thị trường, chống văn hoá phản động đồi trụy, bảo vệ an ninh Tổ quốc, vì tuyến đầu Tổ quốc, nhân dân và Nhà nước cùng làm v.v…

Chính quyền thành phố mạnh dạn thực hiện chủ trương phân công, phân cấp quản lý nên đã phát huy được tính năng động, sáng tạo của nhiều đơn vị quận, huyện và cơ sở. Nhiều đơn vị quận, huyện, phường, xã, khu phố, tổ dân phố, tổ nhân dân đạt danh hiệu điển hình tiên tiến toàn diện và từng mặt.

Công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ chính quyền các cấp đã có tiến bộ. Công tác kiểm tra, thanh tra, giải quyết đơn khiếu tố, tổ chức xét xử ngày càng được tăng cường. Pháp chế xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố.

Công tác kết nghĩa với tỉnh Lê-nin-grát, tỉnh Lai-xích, thành phố Phnôm Pênh… và các hoạt động đối ngoại đã góp phần tích cực vào việc củng cố và tăng cường tình đoàn kết trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tình hữu nghị đối với nhân dân thế giới, đồng thời cũng nâng thêm một bước sự giác ngộ về tinh thần quốc tế vô sản của nhân dân thành phố.

Tuy nhiên hiệu lực của bộ máy chính quyền các cấp còn nhiều hạn chế. Một số chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước chậm được cụ thể hoá và chưa được chấp hành nghiêm túc. Chế độ trách nhiệm, chế độ kỷ luật chưa được thực hiện nghiêm minh và kịp thời. Công tác tổ chức và cán bộ thường không theo kịp yêu cầu của nhiệm vụ. Biên chế bộ máy chính quyền chưa được giảm nhẹ. Công tác thông tin chưa khoa học và chưa bảo đảm tốt. Cách làm việc còn phân tán, thủ công, giấy tờ, hội họp còn nhiều. Ra nhiều nghị quyết nhưng việc tổ chức thực hiện và kiểm tra còn nhiều thiếu sót. Tệ quan liêu, cửa quyền, ức hiếp quần chúng, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, lãng phí còn khá nặng. Hội đồng nhân dân cấp quận, huyện và phường, xã, nhiều nơi chưa phát huy đầy đủ vai trò là một cơ quan quyền lực của địa phương. Công tác thanh tra, tư pháp, kiểm sát, tòa án còn yếu và rất thiếu cán bộ. Các vụ án còn ứ đọng nhiều. Công tác xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện chưa được các ban, ngành, sở và các đoàn thể quan tâm đúng mức.

6/ Phong trào hành động cách mạng của quần chúng đã diễn ra liên tục, các đoàn thể đã được củng cố và phát triển.

Đây là đặc điểm nổi bật của tình hình thành phố trong những năm qua. Nhân dân lao động thành phố không ngừng phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thiếu thốn, liên tục dấy lên các phong trào hành động cách mạng với nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Đoàn thể nào, giới nào, địa phương nào, ngành nào cũng có phong trào, với nhiều sắc thái riêng biệt. Quy mô phong trào bao gồm nhiều giai cấp, từng lớp, từng quần chúng cơ bản đến các giới bên trên, từ các cụ phụ lão đến các cháu thiếu niên nhi đồng.

Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, phong trào dần dần đi vào chiều sâu, gắn với đời sống, sản xuất và chiến đấu, tổ chức chăm lo đời sống của nhân dân lao động trên địa bàn dân cư, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất, xây dựng đất nước, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Phong trào quần chúng ngoại thành đang có bước phát triển mới, sôi nổi, ngày càng vững chắc. Phong trào thi đua học tập, đuổi kịp và vượt điển hình tiên tiến đã trở thành nếp sinh hoạt thường xuyên của các địa phương, các ngành, các cấp.

Với bản chất cách mạng, tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân đã vượt qua nhiều khó khăn trong đời sống, khắc phục những thiếu thốn về vật tư, nguyên liệu, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, liên tục hoàn thành kế hoạch Nhà nước. Các phong trào luyện tay nghề, thi thợ giỏi, tiết kiệm nguyên vật liệu, năng lượng… đã góp phần tích cực vào thắng lợi trong sản xuất công nghiệp của thành phố. Lực lượng Công đoàn đã không ngừng phát triển từ 79% năm 1981 lên 92% đầu năm 1983 so với tổng số công nhân viên chức.

Nông dân lao động ngoại thành phát huy truyền thống cách mạng, tích cực thực hiện đường lối của Đảng, tham gia đấu tranh xóa bỏ các hình thức bóc lột, hoàn thành điều chỉnh ruộng đất trước thời hạn, làm tốt hơn nghĩa vụ lương thực và bán nông sản cho Nhà nước. Đã mạnh dạn ứng dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Hội Liên hiệp nông dân tập thể đã có nhiều cố gắng vận động nông dân đi vào làm ăn tập thể, giáo dục nông dân lao động về khối đoàn kết liên minh công nông. Vận động nông dân tham gia vào các phong trào làm thủy lợi, làm phân hữu cơ, xây dựng nông thôn mới và phong trào tiếng hát nông thôn v.v… Đến nay 42% nông dân đã gia nhập vào Hội Liên hiệp nông dân tập thể.

Lực lượng thanh niên đã thực hiện được vai trò xung kích trong nhiều mặt hoạt động, nhất là trong sản xuất công nghiệp, trong phân phối lưu thông, trong việc giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn đã có nhiều hình thức tập hợp sinh động, phát động được nhiều phong trào xung kích làm chủ tập thể của thanh niên như các công trình thanh niên, nhà máy thanh niên, cánh đồng mẫu cao sản, bảo vệ an ninh Tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ quân sự, phong trào văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, xây dựng những tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa… Các cháu thiếu niên nhi đồng đã từng bước trưởng thành thông qua phong trào kế hoạch nhỏ, công tác Trần Quốc Toản và được giáo dục theo 5 điều Bác Hồ dạy, số đông được tập họp vào Đội, hàng chục vạn cháu đạt danh hiệu Cháu ngoan Bác Hồ.

Lực lượng phụ nữ đã hăng hái tham gia các hoạt động sản xuất, xã hội, phân phối lưu thông, làm công tác hậu phương quân đội, xây dựng gia đình văn hoá mới, chăm sóc và bảo vệ bà mẹ trẻ em. Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp đã tăng cường giáo dục chính trị, nâng cao nhiệt tình cách mạng, đồng thời kiện toàn, củng cố tổ chức Hội từ cơ sở, ra sức phát triển lực lượng. Đến nay đã có 65% phụ nữ được tổ chức vào Hội.

Đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa ngày càng tích cực phát huy vai trò của mình, nhất là trong khoa học, kỹ thuật, đóng góp ngày càng có hiệu quả trong công cuộc cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của thành phố và cả nước.

Mặt trận Tổ quốc các cấp có nhiều cố gắng trong việc tập hợp giáo dục, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng kể cả đồng bào các tôn giáo, dân tộc, đã động viên các lực lượng tham gia tích cực vào nhiều phong trào chung của thành phố.

Công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ thiếu niên nhi đồng ngày càng được đông đảo quần chúng hưởng ứng và đang trở thành phong trào sâu rộng.

Qua các phong trào hành động cách mạng của quần chúng, đã xuất hiện hàng vạn lao động tiên tiến, trên 7.000 chiến sĩ thi đua, 60 đơn vị được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng huân chương, 90 đơn vị được Hội đồng Bộ trưởng tặng bằng khen; gần 1.000 tổ lao động xã hội chủ nghĩa và hàng trăm tổ dân phố, tổ nhân dân tiên tiến cấp thành phố.

Tuy nhiên, nhận thức của Đảng bộ về công tác vận động quần chúng trong giai đoạn cách mạng mới chưa thật sâu sắc. Các cấp ủy Đảng chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo công tác quần chúng trong điều kiện Đảng cầm quyền. Các cấp chính quyền chưa chú ý vận dụng thường xuyên và đầy đủ cơ chế Đảng lãnh đạo nhân dân làm chủ và chính quyền quản lý. Các đoàn thể và mặt trận cũng còn nhiều lúng túng trong việc thực hiện chức năng và nội dung công tác của mình trong hệ thống chuyên chính vô sản. Quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động chưa được phát huy mạnh mẽ, có nơi còn bị vi phạm nghiêm trọng. Cốt cán ở cơ sở còn mỏng, nhất là ở các nơi tập trung người Hoa và đồng bào Thiên chúa giáo.

7/ Là trọng điểm của cuộc chiến tranh phá hoại về nhiều mặt của địch, thành phố vẫn giữ vững được an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Thực hiện các chủ trương của Đảng và Chính phủ, nhất là Nghị quyết 03 của Bộ Chính trị, thành phố đã phát động rộng rãi phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, liên tục tấn công các đối tượng phản cách mạng và bọn tội phạm hình sự, kết hợp đánh địch thường xuyên với mở các đợt truy quét có trọng điểm trong từng thời gian ở từng khu vực. Trong các năm 1981, 1982 và 9 tháng đầu năm 1983 đã khám phá và trừng trị trên 50 nhen nhóm chính trị phản động, tổ chức vượt biên và trên 18.000 vụ phạm pháp hình sự. Đã bắt giữ, xét xử và cưỡng bức lao động hàng trăm tên đầu sỏ phản động, trong đó có một số tên phản động trong các tôn giáo. Hàng vạn các tệ nạn xã hội được đưa vào các trường trại cải tạo để giáo dục, chữa bệnh, dạy nghề và lao động sản xuất. Số khác được cải tạo tại chỗ. Nhiều người trong số này đã trở thành những công dân tốt.

Trong xây dựng lực lượng đã chú ý kết hợp việc xây dựng lực lượng công an, quân đội với các lực lượng dân quân tự vệ, dân phòng, thanh niên xung kích và phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc ở từng phường, xã, nhà máy, cơ quan, xí nghiệp và đường phố. Đến nay trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc của thành phố đã có 27% phường đạt loại khá toàn diện; 53% phường đạt loại khá một số mặt; nhiều cơ quan, xí nghiệp đang có chuyển biến tốt.

Công an và quân đội đang tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “xây dựng lực lượng công an trong sạch vững mạnh”, “phát huy bản chất và truyền thống tốt đẹp của lực lượng vũ trang”. Đã thực hiện có kết quả chỉ thị 01 Liên Bộ Nội vụ - Quốc phòng, tăng cường mối quan hệ đoàn kết hiệp đồng chặt chẽ hơn giữa lực lượng công an, quân sự địa phương và Đoàn thanh niên thành phố; giữa thành phố với các tỉnh trong khu vực. Trong ba năm liền thành phố đã đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch gọi thanh niên nhập ngũ.

Việc chăm lo đời sống tinh thần và vật chất cho lực lượng vũ trang, thực hiện chính sách hậu phương quân đội được các cấp ủy Đảng, ban, ngành, đoàn thể quan tâm hơn. Nhiều hoạt động phong phú, thiết thực đã trở thành phong trào quần chúng rộng rãi như “Phong trào Vì tuyến đầu Tổ quốc”, “Phong trào đền ơn đáp nghĩa”. Đã vận động xây cất được 65 nhà “tình nghĩa” cho các gia đình trong diện chính sách. Những việc làm thiết thực đó đã có tác dụng tốt trong việc động viên thanh niên lên đường bảo vệ Tổ quốc. Lực lượng vũ trang thành phố ba năm liền được Bộ Quốc phòng tặng cờ luân lưu và được biểu dương là lá cờ đầu của Quân khu 7. Công an thành phố được tuyên dương là đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1981), được Hội đồng Bộ trưởng và Bộ Nội vụ tặng cờ luân lưu (1980, 1981, 1982) và đã được Hội đồng Nhà nước tặng Huân chương quân công hạng nhất (1983).

Nhìn chung, tình hình an ninh chính trị tuy có được ổn định, nhưng chưa thật sự vững chắc; cảnh giác chưa cao. Chưa gắn liền cuộc đấu tranh chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch với công tác cải tạo. Hoạt động của công an chưa tương xứng với yêu cầu đánh địch, nhất là trong việc khám phá các tổ chức của bọn tay sai Bắc Kinh đang lẩn lút đánh phá ta về kinh tế, văn hoá và tư tưởng… Đảng bộ cũng như nhân dân lao động chưa được giáo dục cụ thể và sâu sắc về âm mưu, thủ đoạn đánh phá của địch đối với thành phố và đất nước ta. Phạm pháp hình sự còn nhiều, tính chất gây tội còn nghiêm trọng. Các trường trại cải tạo chưa biết phát huy đúng mức lao động tay nghề của tội phạm để vừa tự cải thiện đời sống cho họ, vừa qua lao động mà cải tạo họ. Quản lý nhân hộ khẩu và người học tập cải tạo về chưa chặt chẽ. Các địa bàn trọng điểm chưa được quan tâm đúng mức. Mối quan hệ hợp đồng giữa các lực lượng trong nội bộ ngành công an, giữa công an và quân đội còn nhiều mặt chưa thật tốt. Công tác gọi thanh niên nhập ngũ chưa bảo đảm chất lượng. Việc chuẩn bị toàn diện để sẵn sàng đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược trên những quy mô khác nhau chưa đáp ứng theo yêu cầu của quốc phòng. Một số chế độ, chính sách đối với lực lượng vũ trang, bán vũ trang cần được đề nghị bổ sung.

8/ Tình trạng tiêu cực trong nội bộ và ngoài xã hội từng nơi từng lúc có giảm, nhưng nhìn chung vẫn còn rất nghiêm trọng.

Để chống tiêu cực, thành phố chủ trương lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực. Đã liên tục phát động phong trào cách mạng của quần chúng, nêu gương người tốt việc tốt, đồng thời cũng thực hiện một số biện pháp kỷ luật nghiêm ngặt. Từ năm 1980 đến nay đã thi hành kỷ luật trên 3.900 đảng viên, truy tố trên 4.000 cán bộ, công nhân viên vi phạm pháp luật; tiến hành thanh tra, kiểm tra hàng vạn vụ, việc.

Tuy nhiên, công tác phòng và chống tiêu cực chưa đạt kết quả mong muốn. Tình trạng xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, hối lộ, ức hiếp quần chúng, làm ăn phi pháp vẫn còn rất nghiêm trọng. Tình trạng vô trách nhiệm, kỷ luật lỏng lẻo, việc chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng và pháp luật Nhà nước không nghiêm vẫn chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Công tác đấu tranh phá án, tuy có cố gắng nhưng kết quả còn hạn chế. Việc xử lý từ cơ sở lên chưa tốt. Việc chống tiêu cực chưa trở thành Phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Đây là thiếu sót lớn của Đảng bộ trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ II.

9/ Đảng bộ đã được củng cố và trưởng thành thêm một bước về tư tưởng, tổ chức và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo. Nhưng công tác xây dựng Đảng còn tồn tại nhiều vấn đề lớn, nhất là xây dựng Đảng trong giai cấp công nhân và việc quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ.

Đến nay, Đảng bộ thành phố có số đảng viên đông hơn 11 lần so với hồi giải phóng và tăng hơn 20% kể từ Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ II. Số đông đảng viên đã giữ được phẩm chất, nêu cao tinh thần cách mạng tiến công và ý thức gắn bó với quần chúng. Trên 95% đảng viên đã được nhận thẻ Đảng.

Việc giáo dục lý luận cơ bản cho cán bộ, đảng viên được chú ý hơn trước. Đặc biệt trong các đợt sinh hoạt Nghị quyết Đại hội V, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 và 4 của Trung ương, Nghị quyết 01 và kết luận của Bộ Chính trị về công tác thành phố, nhận thức tư tưởng của Đảng bộ về những vấn đề cơ bản đã được nâng cao thêm một bước vững chắc.

Trong ba năm, Đảng bộ đã kết nạp 7.881 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên mới kết nạp từ sau ngày giải phóng đến nay lên 13.183 đồng chí, chiếm hơn ¼ tổng số đảng viên của Đảng bộ. Trong các xí nghiệp đã nâng tỷ lệ đảng viên trực tiếp sản xuất từ 14% lên 27% (chỉ tiêu Đại hội lần thứ II là 35%). Hầu hết các khu phố đều có chi bộ và tổ Đảng. Đã xóa trên 50 ấp trắng ở nông thôn. Đã phát triển thêm được 38.000 đoàn viên thanh niên cộng sản, nâng tổng số đoàn viên ở thành phố hiện nay lên 116.424, trong đó có 4.626 đoàn viên ưu tú được kết nạp vào Đảng.

Thông qua cuộc vận động xây dựng cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, số cơ sở Đảng yếu kém thu hẹp dần, số cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh tăng từ 74 đơn vị năm 1980 lên 117 đơn vị năm 1981 và 175 đơn vị năm 1982. Đã tăng cường cho các ngành sản xuất, kinh doanh và những nơi trọng yếu khác một số cán bộ trẻ, có năng lực, có văn hoá, có trình độ chuyên môn.

Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức còn nhiều thiếu sót và tồn tại. Chưa làm tốt việc giáo dục những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa xã hội cho đảng viên. Chưa gắn thật chặt việc giáo dục chính trị tư tưởng với việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của thành phố. Do chưa tập trung đúng mức trong việc phân bổ đảng viên và phát triển đảng viên mới, nên ở một số khu vực trọng yếu, nóng bỏng chưa có được một tỷ lệ đảng viên tương ứng. Đảng viên trong công nhân trực tiếp sản xuất, trong các ngành thương nghiệp, thuế, giáo dục, trong hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp… còn quá ít. Ở khu vực sản xuất tiểu, thủ công nghiệp có trên dưới 180.000 lao động, nhưng chỉ có 42 đảng viên. Số cơ sở Đảng yếu còn chiếm 20% trong tổng số cơ sở Đảng toàn thành phố. Ý thức tự phê bình và phê bình, nhất là tự phê bình của cán bộ, đảng viên chưa mạnh, thường nói nhiều các khuyết điểm thiếu sót của bên trên, của người khác và ngành khác. Kỷ luật Đảng chưa nghiêm, còn có hiện tượng nể nang, xuê xoa trong việc xử lý sai lầm, khuyết điểm của một số đảng viên có chức, có quyền. Việc bố trí cán bộ còn bị động, chắp vá giải quyết chậm và nhiều trường hợp chưa sát, nên chưa phát huy tốt năng lực cán bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa được quy hoạch và chưa có kế hoạch thật cụ thể. Chưa chú ý tạo nguồn cán bộ từ công nhân trực tiếp sản xuất. đối với cán bộ trẻ, cán bộ nữ vẫn còn thành kiến hẹp hòi. Còn có biểu hiện đánh giá cán bộ nặng về trình độ chuyên môn, chưa thật coi trọng lập trường, quan điểm chính trị và phẩm chất cách mạng. Đối với cán bộ phường, xã chưa có chính sách chế độ rõ ràng. Đối với số đồng chí đã có nhiều cống hiến và cán bộ hưu trí, chưa có chính sách thích đáng, chưa tạo mọi điều kiện để phát huy những đồng chí còn nhiều khả năng đóng góp cho sự nghiệp cách mạng. Một số nơi chưa kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không còn đủ tư cách.

Công tác tổ chức thực hiện là khâu còn nhiều mặt yếu kém: hội họp nhiều, thời gian hội họp kéo dài nhưng chất lượng chưa tốt, nghị quyết nhiều, dồn dập nhưng tổ chức thực hiện chưa bảo đảm, thiếu kiểm tra và sơ kết, tổng kết. Tác phong chỉ đạo và lề lối làm việc còn quan liêu, giấy tờ, hành chính nặng, chưa thật sát cơ sở.

Thưa các đồng chí,

Kiểm lại các mặt hoạt động của Đảng bộ kể từ Đại hội lần thứ II đến nay nổi rõ các mặt ưu, khuyết điểm chủ yếu sau đây:

Ưu điểm:

1/ Trong hoàn cảnh khó khăn chung của đất nước, Đảng bộ, chính quyền và đoàn thể các cấp thành phố đã nỗ lực tìm mọi biện pháp để tạo việc làm, chăm lo và cải thiện đời sống cho cán bộ, công nhân viên chức, những người trong diện chính sách, nhân dân lao động nghèo, các cháu thiếu niên và nhi đồng. Sự chăm lo này chỉ mới giải quyết được một phần nào nhu cầu bức bách về đời sống, nhưng đã thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm và mối quan tâm thường xuyên của Đảng bộ đối với nhân dân thành phố. Qua đó đã củng cố và nâng cao được lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Luôn gắn bó và dựa vào quần chúng, Đảng bộ thành phố đã phát động được các phong trào hành động cách mạng sôi nổi và liên tục. Những mô hình tiên tiến đã xuất hiện và được nhân rộng ra ngày càng nhiều. Thành phố đã giữ vững được nền nếp phát động và tổng kết phong trào. Từ đó mà phong trào được phát triển rộng rãi với nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Ngành nào, đoàn thể nào, lĩnh vực công tác nào cũng gcó phong trào thi đua, nhất là các phong trào lao động sản xuất, an ninh quốc phòng, văn hoá văn nghệ quần chúng, phong trào Nhà nước và nhân dân cùng làm… Chính qua các phong trào này mà Đảng bộ và chính quyền thành phố đã thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đã đề ra và tích lũy được nhiều kinh nghiệm để nâng cao trình độ chỉ đạo của mình.

2/ Mặc dù tình tình chung còn nhiều khó khăn, phức tạp, nhưng sản xuất công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp của thành phố đã phát triển với tốc độ nhanh, tạo ra một khối lượng khá lớn tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, cung cấp cho thành phố, các tỉnh trong khu vực và một phần cho nước bạn Cam-pu-chia, tạo thêm việc làm cho hàng vạn người lao động. Sự phát triển của công nghiệp chẳng những đã hạn chế có hiệu quả tình trạng công nhân nghỉ việc hưởng 70% lương hoặc bỏ xí nghiệp ra làm bên ngoài, diễn ra vào những năm 1979 – 1980, mà còn tăng thêm thu nhập và ổn định đời sống cho công nhân, tích lũy vốn cho Nhà nước, mở rộng sự liên kết kinh tế với các tỉnh và nước bạn.

Thời gian gần đây công cuộc cải tạo và xây dựng nông thôn ngoại thành có những chuyển biến mới đáng phấn khởi, tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành và hoàn thành vược mức chỉ tiêu cải tạo và xây dựng nông thôn mới như Trung ương đã đề ra.

3/ Đảng bộ đã đánh giá đúng mức tầm quan trọng của công tác xuất nhập khẩu, coi đó là điều kiện bức thiết để đẩy mạnh phát triển công nghiệp, nông nghiệp và mở rộng liên kết kinh tế. Mặc dù còn có nhiều khuyết điểm, nhưng hoạt động xuất nhập khẩu đã góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển công nghiệp và nông nghiệp, xây dựng mới một số cơ sở sản xuất và chế biến, tích lũy vốn, tạo quỹ hàng hoá, dự trữ vật tư nguyên liệu, đóng góp vào việc phát triển vận tải biển của thành phố. Mặt khác, công tác xuất nhập khẩu đã góp phần mở rộng sự hợp tác kinh tế với các tỉnh.

4/ Là trọng điểm đánh phá trong kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, thành phố liên tục chủ động tiến công, trừng trị các loại đối tượng chính trị phản động và tội phạm hình sự, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và phong trào vì tuyến đầu Tổ quốc đã được phát động thường xuyên và rộng rãi. Công tác hậu phương quân đội đã được các ngành, các cấp, các đoàn thể quan tâm thực hiện. Lực lượng công an và quân đội của thành phố được củng cố, rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu và liên tục được Nhà nước và quân đội khen thưởng.

5/ Đảng bộ thành phố luôn luôn nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, nghiêm túc sửa chữa những khuyết điểm tự mình nhận ra hoặc do Trung ương chỉ rõ. Tích cực phát huy ưu điểm và mạnh dạn kiên trì để đề đạt những ý kiến mà Đảng bộ thấy là đúng. Chính nhờ có thái độ đúng đắn đó, Đảng bộ đã nghiên cứu, quán triệt nghị quyết Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ V, các nghị quyết Trung ương 3 và 4, đặc biệt Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị về công tác thành phố. Trình độ nhận thức của Đảng bộ cũng từ đó được nâng lên một bước cơ bản, làm cơ sở cho sự phát triển mạnh mẽ và vững chắc của thành phố trong thời gian tới. Mặc dù còn thấp so với yêu cầu, thời gian qua Đảng bộ cũng đã nâng được tỷ lệ công nhân trực tiếp sản xuất, thành phần trẻ, nữ và cán bộ khoa học, kỹ thuật trong số đảng viên mới kết nạp. Số cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh phát triển khá. Đảng bộ cũng đã một bước tăng cường, cải tiến công tác tổ chức thực hiện, đã hình thành phương thức chỉ đạo theo khối, thành lập Phân ban chỉ đạo nông thôn ngoại thành. Từ sau Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị, Đảng bộ thành phố đã ra được nhiều nghị quyết cơ bản, có tác dụng chỉ đạo trước mắt và lâu dài một số mặt hoạt động của thành phố.

Khuyết điểm:

1/ Nhận thức về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về thời kỳ quá độ chưa rõ. Chưa thấy hết tính chất gay go, phức tạp, lâu dài và quyết liệt của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Chưa đánh giá hết âm mưu và thủ đoạn thâm độc của bọn bành trướng bá quyền Trung Quốc câu kết với đế quốc Mỹ đang tìm mọi cách khai thác những sơ hở của ta, nên chưa gắn cuộc đấu tranh chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch với cuộc đấu tranh giai cấp trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Do đó đã lơi lỏng cải tạo, lơi lỏng cảnh giác để cho một bộ phận tư sản cũ ngóc đầu dậy, một số tư sản mới xuất hiện, gây rối thị trường, phá hoại ta. Chưa đi sâu điều tra, nghiên cứu để nắm chắc được hệ thống tổ chức và cách thức hoạt động của địch, nhất là của bọn phản động lẩn lút trong người Hoa. Đảng bộ chúng ta đã có lúc buông lơi chuyên chính vô sản trên một số mặt hoạt động, nhất là trên mặt phân phối lưu thông, xuất nhập khẩu, văn hoá văn nghệ. Đối với các thành phần sản xuất, kinh doanh tư nhân và cá thể, ta chưa chú ý giáo dục, cải tạo và quản lý chặt nên đã để cho tính tự phát tư bản chủ nghĩa phát triển.

2/ Sản xuất công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp tuy có phát triển nhanh so với những năm trước, nhưng trong công nghiệp cũng mới sử dụng được 40 – 50% công suất. Nhiều sản phẩm chủ yếu đạt thấp. Chất lượng sản phẩm chưa tốt. chưa coi trọng đúng mức ngành cơ khí. Chưa thực hiện tốt sự hợp tác các cơ sở công nghiệp trên địa bàn thành phố. Chậm cải tạo và sắp xếp công nghiệp theo ngànhkinh tế - kỹ thuật, theo hướng chuyên môn hoá và hợp tác hoá. Chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của trung tâm công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp, sớm hình thành cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp trên địa bàn thành phố và khu vực. Chậm củng cố và tăng cường bộ máy chỉ đạo và quản lý công nghiệp của thành phố.

Trong nông nghiệp, chưa phát huy tốt sức mạnh của nội thành kết hợp với ngoại thành để cải tạo và xây dựng nông thôn mới toàn diện một cách nhanh, mạnh và vững chắc. Chưa tập trung đúng mức cán bộ, khoa học kỹ thuật, vốn và vật tư cho nông nghiệp, nên việc khai thác sử dụng đất đai, lao động còn nhiều hạn chế.

3/ Tình hình an ninh chính trị được bảo đảm nhưng chưa thật vững chắc. Tình trạng mất mát tài sản xã hội chủ nghĩa còn xảy ra nghiêm trọng. Trọng án còn nhiều, tỉ lệ phá án thấp. Trật tự an toàn xã hội vẫn còn nhiều mặt đáng lo ngại. Quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động có nơi, có lúc còn bị vi phạm nghiêm trọng. Lực lượng công an và quân đội còn một số bộ phận chưa thật trong sạch, vững mạnh. Các cơ quan nội chính, tư pháp yếu, chậm được củng cố và tăng cường.

4/ Trong công tác xây dựng Đảng có thời gian chúng ta chưa coi trọng đúng mức việc giáo dục chính trị cơ bản nhất là những vấn đề cơ bản trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ của nước ta cho cán bộ, đảng viên. Việc giáo dục chính trị, xây dựng tổ chức, đặc biệt là tổ chức Đảng trong giai cấp công nhân chưa tương xứng với vị trí thành phố là một trung tâm công nghiệp. Cơ sở Đảng trong một số khu vực trọng yếu khác như phân phối lưu thông, tiểu, thủ công nghiệp, giáo dục v.v… còn quá yếu và ít. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và chuẩn bị đội ngũ kế cận chưa có quy hoạch, kế hoạch đồng bộ. Sinh hoạt chi bộ chưa bảo đảm đều đặn và chất lượng còn thấp. Trong Đảng bộ còn nhiều nơi chưa thật kiên quyết loại ra khỏi Đảng những phần tử không đủ tư cách.

5/ Công tác tổ chức thực hiện còn nhiều mặt yếu kém. Hội nghị nhiều, do chuẩn bị chưa tốt nên thường kéo dài, hiệu quả chưa cao. Nghị quyết nhiều, nhưng thiếu kiểm tra, thiếu sơ kết, tổng kết tốt. Do cách làm việc nặng hành chính, giấy tờ nên hạn chế việc sâu sát cơ sở. Chưa tăng cường, bồi dưỡng và phát huy tốt các lực lượng tham mưu. Tổ chức thông tin chưa khoa học, kịp thời và chính xác.

Trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, tình trạng hành chính bao cấp, tập trung quan liêu và tự do tùy tiện, vô trách nhiệm vẫn còn tồn tại và phải được tiếp tục khắc phục về cả hai mặt. Tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa chưa cao.

Nguyên nhân các ưu điểm:

Một: Đảng bộ đã chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Trung ương và vận dụng phù hợp với điều kiện và đặc điểm của thành phố. Đã chủ động xây dựng các cơ chế tổ chức cơ sở phường, xã, xí nghiệp theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà nước quản lý”. Đã mạnh dạn phân công, phân cấp quản lý cho quận, huyện và cơ sở. Đã phát huy sức mạnh tổng hợp trong việc thực hiện phương châm “Trung ương, địa phương, cơ sở và nhân dân cùng làm” để giải quyết những vấn đề bức bách về đời sống, tu bổ và xây dựng mới những công trình phúc lợi công cộng. Đã kết hợp ngày càng tốt hơn giữa ba lợi ích và coi trọng lợi ích chân chính của người lao động. Đã chú ý thực hiện việc kết hợp kế hoạch với thị trường và nhanh chóng mở rộng sự hợp tác kinh tế trên địa bàn khu vực. Sự vận dụng đúng đắn đó thể hiện được tính năng động, nhạy bén và ý thức quan tâm đến hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Hai: Đảng bộ đã giữ được nhiệt tình cách mạng và tinh thần cách mạng tiến công, luôn luôn phấn đấu vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ. Đảng bộ gắn bó với quần chúng, tin và dựa vào cơ sở, dựa vào quần chúng. Biết phát huy truyền thống cách mạng, sức mạnh tổng hợp và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động để thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Vừa chịu trách nhiệm với cấp trên, vừa chịu trách nhiệm trước quần chúng. Coi lợi ích của Đảng và lợi ích của quần chúng là thống nhất. Do đó mọi suy nghĩ và việc làm đều có quan tâm đến lợi ích của quần chúng.

Ba: Đảng bộ giữ được sự đoàn kết, nhất trí trong nội bộ cả về tư tưởng và hành động. Nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, nghiêm túc sửa chữa những khuyết điểm đã mắc phải. Đồng thời kiên trì đề đạt với cấp trên những ý kiến và việc làm đã xác định là đúng.

Bốn: Bộ chính trị, Ban Bí thư và Hội đồng Bộ trưởng đã thường xuyên quan tâm theo dõi chỉ đạo thành phố, đã chỉ đạo các bộ, ban ngành Trung ương tích cực hỗ trợ thành phố trong các mặt hoạt động và sự hợp tác ngày càng chặt chẽ của các tỉnh, thành trong cả nước, nhất là các tỉnh trong khu vực.

Nguyên nhân các khuyết điểm:

Một: Đảng bộ chưa chuẩn bị tốt cho bước chuyển biến chiến lược từ cách mạng dân tộc dân chủ sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ cả về nhận thức, tư tưởng và tổ chức.

Hai: Trước kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của nhân dân ta hiện nay là bọn bành trướng, bá quyền Trung Quốc đang ra sức câu kết với đế quốc Mỹ và các thế lực phản động khác tiến hành kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt đối với nước ta, mà thành phố là trọng điểm đánh phá, Đảng bộ lại chưa phân tích đầy đủ, giáo dục sâu sắc và thường xuyên cho cán bộ, đảng viên và quần chúng hiểu rõ một cách cụ thể các âm mưu thâm độc và thủ đoạn xảo quyệt của chúng. Do đó, chưa đề cao đúng mức tinh thần cảnh giác và ý chí chiến đấu, sẵn sàng đánh bại mưu mô của địch. Chưa gắn thật chặt nhiệm vụ cải tạo, xây dựng thành phố với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Ba: Đảng bộ chưa nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí và trách nhiệm của thành phố là trung tâm khu vực. Điều này chẳng những ảnh hưởng không tốt cho sự phát triển của các tỉnh mà còn ảnh hưởng trực tiếp đối với thành phố.

Bốn: Đảng bộ có một số nhược điểm chưa khắc phục được là: thành phần nông dân và những người sản xuất nhỏ khác chiếm một tỷ lệ khá cao (trên 70%) trong cơ cấu đảng viên. Nhưng chúng ta lại chưa quan tâm phân tích sâu sắc đặc điểm đó để có biện pháp giáo dục nâng cao quan điểm lập trường giai cấp công nhân, tác phong công nghiệp, kiến thức văn hoá, khoa học và kỹ thuật cho cán bộ, đảng viên nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng bộ ngang tầm với vị trí của thành phố là trung tâm công nghiệp, văn hoá, khoa học và kỹ thuật. Mặt khác đội ngũ cán bộ thành phố từ nhiều nguồn tập hợp về, nhưng chúng ta lại chưa tạo điều kiện tốt cho anh chị em hiểu rõ tình hình thành phố, lịch sử và truyền thống cách mạng của nhân dân lao động và những mặt tích cực cũng như tiêu cực của các tầng lớp quần chúng để làm tốt hơn nhiệm vụ của mình.

Năm: Đảng bộ chưa cảnh giác đầy đủ đối với những tàn dư xấu xa của xã hội cũ do địch để lại đang ảnh hưởng dai dẳng và rất phức tạp trong đời sống xã hội cũng như chưa cảnh giác đầy đủ đối với những âm mưu thủ đoạn mới của địch. Trong khi đó, có lúc có nơi và trên nhiều mặt chúng ta lại buông lơi cải tạo, buông lơi chuyên chính vô sản nên chưa ngăn chặn có hiệu quả các mặt tiêu cực trong xã hội cũng như trong nội bộ Đảng.

II. NHIỆM VỤ CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HAI NĂM 1984 – 1985 VÀ NHỮNG NĂM 80

Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị về công tác của thành phố đã khẳng định: “Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế lớn, một trung tâm giao dịch quốc tế và du lịch của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh có vị trí chính trị quan trọng sau thủ đô Hà Nội”… “Với những điều kiện khách quan đặc biệt thuận lợi mà không một tỉnh, thành phố nào khác ở nước ta quy tụ được nhiều ưu thế như vậy, thành phố Hồ Chí Minh có triển vọng rất tốt đẹp về phát triển công nghiệp, phát triển xuất khẩu, du lịch và dịch vụ quốc tế, có khả năng cùng với các tỉnh trong vùng sớm hình thành một cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp, kết hợp chặt chẽ kinh tế ngoài nước, đóng góp rất quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế chung của cả nước ta và các nước bạn Lào, Cam-pu-chia”.

Sự phát triển của thành phố cũng như sự phát triển của cả nước và ba nước Đông Dương có mối quan hệ gắn bó với nhau. Phục vụ sự phát triển kinh tế chung của cả nước và các nước bạn Cam-pu-chia và Lào càng tốt bao nhiêu thì thành phố càng phát triển nhanh bấy nhiêu. Đó vừa là trách nhiệm vừa là lợi ích của thành phố.

Sự phát triển của cả nước, ba nước Đông Dương và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhất là vùng Viễn đông Liên Xô đòi hỏi thành phố phải nhanh chóng đẩy mạnh sản xuất tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng, sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu.

Theo kế hoạch của Nhà nước, đến năm 1985, cả nước sẽ sản xuất được khoảng 20 triệu tấn lương thực, xây dựng các vùng cây công nghiệp lớn như cây cao su, dừa, đay, mía… Trên địa bàn các tỉnh xung quanh thành phố cũng sẽ xây dựng các công trình lớn như thủy điện Trị An, dầu khí Vũng Tàu… Tất cả những chương trình phát triển đó đòi hỏi thành phố đáp ứng các yêu cầu về lao động, khoa học kỹ thuật, kho tàng bảo quản, chế biến, bao bì, vận tải, v.v… và đòi hỏi rất nhiều đối với ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ hậu cần. Với tiềm năng phong phú về công nghiệp, khoa học và kỹ thuật, lao động có tay nghề và đất đai sông rạch của thành phố, chúng ta có nhiều khả năng đáp ứng được các đòi hỏi nói trên.

Chúng ta đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm phong phú về cải tạo, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ cán bộ đã có bước trưởng thành. Sự tín nhiệm của quần chúng đối với Đảng bộ được củng cố và nâng cao, Chúng ta lại được sự chỉ đạo chặt chẽ của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng và sự giúp đỡ tích cực của các Bộ, ban, ngành Trung ương, sự hợp tác ngày càng tốt hơn giữa thành phố với các tỉnh, thành trong cả nước và các nước bạn.

Mặc dầu còn không ít khó khăn, thậm chí còn có khó khăn to lớn và phải có thời gian để khắc phục, nhưng với những thuận lợi cơ bản đã nêu, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược và bốn mục tiêu kinh tế - xã hội trong chặng đường trước mắt do Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng đề ra.

Nhiệm vụ chủ yếu của thành phố trong hai năm 1984 – 1985 là:

1/ Phấn đấu từng bước ổn định đời sống của nhân dân lao động trên các mặt: việc làm, ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, sinh hoạt văn hoá và chữa bệnh theo phương châm “Trung ương, địa phương, cơ sở và nhân dân cùng làm”; trên cơ sở phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm” tiết kiệm, hạ giá thành và tăng hiệu quả kinh tế.

Mặt khác, để ổn định đời sống, phải phấn đấu ổn định cho được phân phối lưu thông, tập trung sức phát triển hệ thống dịch vụ và thương nghiệp xã hội chủ nghĩa đến tận cơ sở, cải tạo tốt tư tưởng, quản lý tốt thị trường.

2/ Đẩy nhanh tốc độ sản xuất công, nông nghiệp, gắn công nghiệp với nông nghiệp, sớm hình thành cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp trên địa bàn thành phố và khu vực. Cải tạo và tổ chức, sắp xếp lại công nghiệp trên địa bàn thành phố thành các các ngành kinh tế - kỹ thuật theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá. Phấn đấu phát huy được 60% công suất thiết bị hiện có. Đề nghị Trung ương, đồng thời thành phố dành vốn đầu tư chiều sâu, mở rộng ngành cơ khí, ngành hoá chất cơ bản và công nghiệp sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu.

Về nông nghiệp, phối hợp chặt chẽ giữa các quận và huyện, huy động mạnh mẽ mọi khả năng của nội thành và vốn đầu tư để đẩy nhanh tốc độ cải tạo và xây dựng vùng nông thôn ngoại thành. Thúc đẩy mạnh và nhanh hơn nữa tiến trình xây dựng vành đai thực phẩm, vành đai cây công nghiệp, cây chất đốt, cây thức ăn gia súc, vùng rau chuyên canh, vùng lúa cao sản. Phấn đấu không để đất hoang hoá.

Để thực hiện được nhiệm vụ sản xuất và ổn định đời sống, cần tích cực đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Phải coi “xuất khẩu là một mũi nhọn quyết định để phát huy hết năng lực hiện có của thành phố, để mở mang xây dựng công nghiệp và xây dựng thành phố, đồng thời để đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Thành phố Hồ Chí Minh phải lớn lên, phải giàu có bằng con đường phát triển xuất khẩu, du lịch và dịch vụ quốc tế. Trước hết, phải làm cho thành phố trở thành một thành phố xuất khẩu” như đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ thị.

3/ Đến năm 1985 hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp và nông nghiệp của thành phố. Củng cố và phát triển nhanh kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể. Đẩy mạnh hợp tác hoá nông nghiệp ngoại thành dưới hình thức tập đoàn sản xuất và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.

Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa phải quán triệt những quan điểm cơ bản của Đảng:

- Phải đồng thời tiến hành ba cuộc cách mạng, mà cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt.

- Cải tạo phải gắn chặt với xây dựng, lấy xây dựng làm chính.

- Cải tạo phải nhằm phát triển sản xuất, cải thiện đời sống và nâng cao quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.

- Cải tạo phải làm cho năm thành phần kinh tế không ngừng chuyển biến theo hướng: thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng được củng cố và phát triển; kinh tế quốc doanh ngày càng giữ vai trò chủ đạo vững chắc; kinh tế tư bản tư doanh ngày càng bị thu hẹp và cuối cùng bị xóa bỏ; đại bộ phận kinh tế cá thể sẽ được từng bước cải tạo và tổ chức lại để chuyển biến dần thành kinh tế tập thể.

4/ Đẩy mạnh cách mạng khoa học - kỹ thuật tương xứng với vị trí then chốt trong ba cuộc cách mạng và tương xứng với vị trí trung tâm khoa học và kỹ thuật của thành phố.

Phải làm cho khoa học và kỹ thuật giữ vai trò hàng đầu gắn bó chặt chẽ trong mọi hoạt động công tác của từng cấp, từng ngành.

Khoa học và kỹ thuật phải là bộ phận hữu cơ trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.

Phải sử dụng, bồi dưỡng, tạo mọi điều kiện cả vật chất lẫn tinh thần để phát huy mọi khả năng khoa học và kỹ thuật của thành phố.

Phải không ngừng nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật trong quần chúng, nhất là trong tầng lớp thanh niên và phát động thành phong trào tiến quân vào khoa học, kỹ thuật.

5/ Đẩy mạnh hơn nữa cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá. Gắn chặt cách mạng tư tưởng và văn hoá với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học – kỹ thuật để cải tạo và phát triển toàn diện thành phố. Liên tục tấn công, truy quét văn hoá phản động, đồi trụy, đẩy lùi tàn dư văn hoá cũ, xây dựng nền văn hoá mới, lối sống mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, làm cho cuộc sống của nhân dân thành phố ngày càng lành mạnh, văn minh, xứng đáng với thành phố mang tên Bác.

6/ Nâng cao cảnh giác cách mạng, phát động mạnh mẽ phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc; củng cố và tăng cường các lực lượng an ninh, quốc phòng, bảo đảm đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng trong mọi tình huống chiến tranh có thể xảy ra.

7/ Nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện của Đảng bộ. Tăng cường hiệu lực của bộ máy chính quyền trong việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội và tổ chức đời sống. Phát động mạnh mẽ phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Trên cơ sở phong trào cách mạng mà đẩy mạnh việc xây dựng, phát triển Đảng, Đoàn và các lực lượng cách mạng. Đặc biệt phát triển mạnh Đảng, Đoàn trong công nhân trực tiếp sản xuất, trong các khu vực trọng yếu khác như phân phối lưu thông, tiểu, thủ công nghiệp và giáo dục…

Nỗ lực khắc phục những mặt yếu kém của Đảng bộ, làm cho Đảng bộ xứng đáng với trách nhiệm lãnh đạo một trung tâm công nghiệp, văn hóa, khoa học và kỹ thuật của cả nước. Đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động xây dựng các cơ sở Đảng, Đoàn trong sạch và vững mạnh.


Phần II

NHỮNG CÔNG TÁC CỤ THỂ

I. TẬP TRUNG SỨC ỔN ĐỊNH MỘT BƯỚC NHỮNG NHU CẦU THIẾT YẾU VỀ ĐỜI SỐNG.

Ổn định và cải thiện đời sống là mục tiêu hàng đầu của Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng đề ra.

- Về việc làm: từ nay đến năm 1985, thành phố phải giải quyết ít nhất từ 15 vạn trở lên số người chưa có việc làm.

- Về thu nhập: Phấn đấu bảo vệ đời sống tối thiểu cho công nhân viên chức và gia đình bằng nhiều biện pháp tích cực. Đi đôi với khen thưởng tinh thần, phải chú ý đúng mức khen thưởng vật chất trên cơ sở tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm, hạ giá thành, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch, chẳng những trong khu vực sản xuất kinh doanh mà cả trong khu vực hành chính sự nghiệp và các lực lượng vũ trang.

Phấn đấu bảo đảm giữ được thu nhập thực tế bằng cách phát triển mạnh sản xuất, tổ chức thật tốt phân phối lưu thông. Hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phải nắm hàng phân phối trực tiếp đến người lao động để góp phần đấu tranh kềm giữ giá.

Khu vực sản xuất kinh doanh giải quyết tăng thu nhập bằng cách đẩy mạnh sản xuất, thực hiện lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng nhiều hình thức khen thưởng.

Đối với khu vực hành chính sự nghiệp, tăng thu nhập bằng các hình thức khen thưởng, phát triển kinh tế gia đình, nhất là chăn nuôi gia cầm. Các cơ quan đơn vị thuộc các ngành, các cấp có mức thu nhập thấp thì ngân hàng thành phố cho vay vốn với điều kiện ưu đãi để tổ chức sản xuất tập thể theo quy hoạch, kế hoạch chung, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên trong cơ quan, đơn vị mình. Các ngành sản xuất như công nghiệp, nông nghiệp… phải nghiên cứu tạo điều kiện như công cụ, con giống, thức ăn gia súc v.v… để thúc đẩy mạnh kinh tế gia đình góp phần tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên.

- Về ăn: Đối với cán bộ công nhân viên chức, người ăn theo và những đối tượng chính sách, việc bán chín mặt hàng theo giá cung cấp phải bảo đảm bằng hiện vật (nếu thiếu phải thay bằng mặt hàng khác có giá trị tương đương), bảo đảm chất lượng, kịp thời gian, không được để sang tháng sau. Ngành lương thực không được bán gạo kém phẩm chất cho các đối tượng được cung cấp, mà phải chà lại trước khi bán. Ngành thương nghiệp phải bảo đảm quỹ hàng hoá, có dự trữ; triển khai nhanh các cửa hàng bán lẻ, căn-tin để bán thêm lương thực, thực phẩm và các mặt hàng tiêu dùng khác cho cán bộ, công nhân viên, các đối tượng thuộc diện chính sách và người lao động nghèo với giá bảo đảm kinh doanh. Ngành ăn uống tổ chức bữa ăn trưa cho cán bộ công nhân viên thuộc khu vực hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang với giá được bù đắp từ lãi do kinh doanh giá cao.

- Về mặc: Bán đủ vải trong năm theo tiêu chuẩn Nhà nước quy định. Thành phố có kế hoạch nhập sợi để sản xuất các loại vải, bán thêm từ 2 – 2,5 mét/năm cho công nhân viên chức và những người thuộc diện chính sách theo giá bảo đảm kinh doanh. Riêng công nhân viên chức nữ ngoài số trên sẽ bán thêm 1,5 – 2 mét/năm.

- Về ở: Nghiêm túc thực hiện Quyết định 111/CP của Hội đồng Chính phủ về cải tạo nhà đất ở các đô thị phía Nam và Chỉ thị 216 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc điều chỉnh lại nhà ở. Phải huy động năng lực các ngành, các cấp, các cơ quan, xí nghiệp để sửa chữa, xây dựng thêm nhà ở cho công nhân viên và những người lao động nghèo chưa có nhà hoặc nhà quá rách nát. Đẩy mạnh sản xuất vật liệu xây dựng để bán cho dân sửa nhà. Có kế hoạch cụ thể từng năm giải quyết nhà ổ chuột trên các kinh rạch và khu lao động. Phấn đấu trong hai năm (1984 – 1985) điều chỉnh lại nhà ở, tận dụng diện tích nhà còn trống, xây đất mới và sửa chữa lớn để giải quyết khoảng từ 10.000 – 15.000 căn hộ cho các đối tượng thuộc diện nói trên. Đầu tư giải quyết nước sinh hoạt cho hai huyện Duyên Hải, Nhà Bè và bảo đảm nước sinh hoạt ổn định cho nội thành. Giải quyết thoát nước ở những khu vực bị ứ đọng. Xây dựng nhà vệ sinh công cộng ở những nơi tập trung đông người. Tăng diện tích cây xanh và triển khai các biện pháp bảo vệ môi trường của thành phố.

- Về học tập: Bảo đảm đủ vở học, giấy viết, sách giáo khoa và dụng cụ học tập cho học sinh. Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, phân công hợp lý giữa các cấp: thành phố, quận huyện, phường xã, hợp tác xã… tu sửa các trường lớp bị hư hỏng và xây cất thêm trường lớp mới, bảo đảm đủ lớp học cho các cháu tới độ tuổi đi học. Năm 1984 xóa bỏ tình trạng học 4 ca/ngày. Đến năm 1985 giảm đến mức thấp nhất tình trạng học 3 ca/ngày. Giải quyết chỗ ở, phương tiện đi lại cho giáo viên ở nội thành đi dạy các trường ngoại thành. Thi hành nghiêm túc Nghị quyết 73 của Hội đồng Bộ trưởng, hết sức chú ý vận dụng các chế độ khen thưởng hợp lý để vừa cải thiện đời sống vừa nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên.

- Về chữa bệnh: Bảo đảm đủ thuốc thông thường, thuốc phòng chống dịch, thuốc cấp cứu, các phương tiện và dụng cụ y tế nhất là ở các khâu: phẫu thuật, hộ sinh, nhi khoa, cấp cứu. Phát triển mạnh đông y dược và kết hợp tốt hơn nữa đông tây y.

Tổ chức tốt dịch vụ ăn uống để phục vụ bệnh nhân và người nuôi bệnh. Có kế hoạch sửa chữa ngay một số bệnh viện đang xuống cấp nhanh như: Bình Dân, Nhi Đồng 1 và 2. Tăng thêm giường nhi ở các bệnh viện đa khoa hoặc chuyên khoa, bảo đảm số lượng 3.000 giường nhi tại thành phố.

- Về đi lại: Đến cuối năm 1985, giải quyết cơ bản phương tiện đi lại công cộng trên những tuyến đường chính của thành phố. Tăng cường phương tiện đi lại giữa thành phố và các tỉnh. Đẩy mạnh sản xuất phụ tùng, vỏ, ruột xe đạp nhằm đáp ứng nhu cầu giao thông vận tải nhất là phụ tùng, vỏ, ruột xe đạp để phục vụ cho nhân dân thành phố và các tỉnh trong khu vực.

- Về dịch vụ: Cần quan tâm đúng mức việc triển khai hệ thống dịch vụ đến các cơ quan, xí nghiệp, phường, xã. Tổ chức các công ty dịch vụ quận, huyện để quản lý tốt giá cả và chất lượng các loại dịch vụ, nhất là dịch vụ thiết yếu đến đời sống.

II. ĐẨY MẠNH CẢI TẠO VÀ TĂNG NHANH TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1/ Sản xuất công nghiệp:

Để đáp ứng tốc độ phát triển nhanh của nông nghiệp ngoại thành, đồng bằng sông Cửu Long vùng cây công nghiệp miền đông và Tây nguyên, những công trình lớn như thủy điện Trị An, dầu khí Vũng Tàu… công nghiệp trên địa bàn thành phố phải được phát triển nhanh với tốc độ tương ứng.

Công nghiệp nhóm A phải nghiên cứu và sản xuất các loại máy canh tác, các phương tiện đánh bắt thủy hải sản, phương tiện vận tải, phụ tùng thay thế, phân bón (kể cả phân hữu cơ), thuốc trừ sâu, máy móc chế biến nông, lâm, hải sản. Trang bị các cụm cơ khí cho ngoại thành và các tỉnh phía Nam. Phải phát huy tối đa công suất và đầu tư xây dựng nhanh ngành cơ khí, nhất là cơ khí chế tạo. Đẩy mạnh sản xuất vật liệu xây dựng. Đề nghị với Trung ương khôi phục, sử dụng hết công suất và phát triển các xí nghiệp hóa chất, cơ sở luyện cán thép tại thành phố và khu công nghiệp Biên Hòa.

Đối với công nghiệp nhóm B, cần ra sức khôi phục nhanh công nghiệp, hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu về mặc, học tập, trị bệnh, dụng cụ gia đình… Các xí nghiệp sản xuất từ nguyên liệu trong nước phải phấn đấu sử dụng 70 – 80% công suất. Những ngành công nghiệp tạo được tích lũy nhanh như thuốc lá, bia, nước giải khát, các loại rượu, nước đá… phải được khôi phục hết công suất và do Nhà nước độc quyền sản xuất. Hết sức chú ý củng cố đầu tư chiều sâu và mở rộng thêm các cơ sở công nghiệp sản xuất và chế biến các mặt hàng xuất khẩu để tạo ra khối lượng sản phẩm ngày càng lớn, chất lượng ngày càng cao; ưu tiên cho năm mặt hàng: cao su, chế biến đồ gỗ, xe đạp, quạt điện, dệt – thêu – đan – may.

Từ nay đến 1985, công nghiệp trên địa bàn thành phố phải đạt tốc độ phát triển hàng năm từ 10 – 15% giá trị tổng sản lượng.

Đến năm 1985, nâng công suất sử dụng trong công nghiệp quốc doanh lên 50 – 60%. Phải phấn đấu đạt cho được chỉ tiêu kế hoạch đối với các sản phẩm chủ yếu. Trong kế hoạch phải bảo đảm những chỉ tiêu, yêu cầu về năng suất lao động, hiệu quả kinh tế, chất lượng sản phẩm.

Phải thực hiện tốt cơ chế quản lý xí nghiệp, phát huy quyền làm chủ tập thể của giai cấp công nhân, củng cố và tăng cường bộ máy quản lý công nghiệp từ thành phố đến cơ sở. Tổ chức nghiên cứu ứng dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong công nghiệp theo từng ngành, từng cấp.

Phải tập trung mọi khả năng để bảo đảm nguyên liệu vật tư từ 4 nguồn (tại chỗ, hợp tác với các tỉnh, nhập khẩu, cân đối của Nhà nước). Phải cải tiến và đề nghị Trung ương cải tiến việc cung ứng kịp thời, tiện lợi, vật tư nguyên liệu cho sản xuất. Bảo đảm đến năm 1985 hoàn thành về cơ bản việc cải tạo công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp thành phố, sắp xếp lại sản xuất công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp theo ngành kinh tế kỹ thuật và theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá. Công nghiệp quốc doanh phải được tăng cường để bảo đảm giữ vai trò chủ đạo. Phải củng cố và phát triển các hình thức làm ăn tập thể trong tiểu, thủ công nghiệp, bảo đảm cho được nội dung xã hội chủ nghĩa.

Thành phố phải tiếp tục phát động phong trào tiết kiệm điện. Kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng điện. Tăng cường sửa chữa bảo vệ tốt lưới điện và nguồn điện. Nhanh chóng tách riêng hệ điện cho sản xuất. Đề nghị Trung ương tăng Lượng điện cung cấp cho thành phố tương ứng với tốc độ phát triển sản xuất. Thành phố phải thực hiện tốt trách nhiệm đóng góp vào việc xây dựng công trình thủy điện Trị An. Đẩy mạnh nghiên cứu, sử dụng các nguồn năng lượng khác: gió, mặt trời, v.v…

Xây dựng cơ bản:

Coi trọng đầu tư chiều sâu, đồng bộ hoá và mở rộng để sử dụng tốt các cơ sở hiện có. Phấn đấu đến 1985 làm xong quy hoạch xây dựng và cải tạo thành phố. Ngoài nguồn vốn do Trung ương cấp và thành phố tự cân đối, cần tích cực vận động nhân dân đóng góp theo phương châm “Trung ương, địa phương, cơ sở và nhân dân cùng làm” bảo đảm cho được nhu cầu đầu tư cho sản xuất công nghiệp, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho các hợp tác xã để đáp ứng yêu cầu cải tạo nhanh nông nghiệp ngoại thành. Chú trọng các công trình thủy lợi. Tu sửa đường sá, cống rãnh, hệ thống nước, nhà cửa và công trình công cộng không để xuống cấp. Phát triển nhanh sản xuất vật liệu xây dựng các loại. Phát động phong trào xây dựng các công trình văn hoá, công trình di tích lịch sử đồng thời hoàn thành một số công trình di tích lịch sử cấp thành phố để chào mừng các ngày lễ lớn trong năm 1985.

Giao thông vận tải:

Hai năm 1984 – 1985 bảo đảm vận tải hàng hoá tăng từ 7 – 10%/năm về khối lượng vận chuyển và từ 20 – 30%/năm về khối lượng luân chuyển. Phấn đấu không ứ đọng hành khách tại các bến xe. Phải bảo đảm giao thông vận tải an toàn, phát động công nhân lái xe không chở hàng lậu, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực. Sắp xếp lại vận tải ô-tô, phát triển mạnh vận tải nửa cơ giới và thô sơ ở các huyện và vùng ven. Hạn chế việc phát triển xe xích lô ở nội thành. Phấn đấu đến năm 1985 tăng số lượng phương tiện vận tải công cộng thành phố để giải quyết cơ bản việc đi lại trên những tuyến đường chính. Tiếp tục phát triển vận tải đường sông, tăng gấp đôi số phương tiện vận tải biển hiện có. Nâng tỷ trọng vận tải sông biển hai năm 1984 – 1985 ít nhất từ 60% trở lên, trong đó vận tải sông chiếm 40% so với tổng khối lượng luân chuyển. Phối hợp với Bộ giao thông vận tải và các tỉnh trong khu vực tiến hành quy hoạch phát triển hợp lý mạng lưới vận tải, bến bãi, cơ khí sửa chữa và dịch vụ vận tải.

Thực hiện tốt phương châm “Trung ương, địa phương, cơ sở và nhân dân cùng làm” để tăng năng lực sửa chữa, bảo dưỡng hệ thống cầu đường, bến cảng, nạo vét luồng lạch, phấn đấu không để tiếp tục xuống cấp. Phát triển mạng giao thông nông thôn cả sông lẫn bộ, nhất là đối với huyện Duyên Hải. Đến năm 1985 làm xong nền đường Nhà Bè – Duyên Hải, củng cố xong tỉnh lộ 7 và 15 ở Củ Chi. Xây dựng hoàn chỉnh các bến bãi xe khách và một số bãi xe tải. Tổ chức lại và đẩy mạnh sản xuất phụ tùng, tân trang lại xe buýt, đóng mới một số phương tiện vận tải sông, bộ.

Phải khẩn trương cải tạo lực lượng vận tải chuyên dùng trên địa bàn thành phố, trước hết đối với lực lượng vận tải nhiên liệu, lâm nghiệp và chuyển toàn bộ lực lượng vận tải này lên quốc doanh. Đến cuối năm 1985 phải hoàn thành cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với ngành vận tải theo hai hình thức quốc doanh và hợp tác xã.

Bưu điện:

Ngành bưu điện cần phối hợp chặt chẽ với lực lượng an ninh quân đội, phường, xã bảo vệ tốt hệ thống đường dây điện thoại, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt và an toàn trong mọi tình huống. Phải bảo đảm sửa chữa tốt và kịp thời hệ thống điện thoại. Củng cố và quản lý chặt chẽ bộ phận liên lạc với nước ngoài của ngành bưu điện thành phố. Phấn đấu đến năm 1985 các xã ngoại thành có điện thoại hoặc bộ đàm. Ngoài việc bảo dưỡng duy trì cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, cố gắng thêm trang bị mới hiện đại cho ngành bưu điện và thông tin (hệ thống vi-ba…).

2/ Sản xuất nông nghiệp:

Phát huy sức mạnh tổng hợp, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, đẩy mạnh cao trào cải tạo và xây dựng nông thôn toàn diện. Huy động khả năng công nghiệp, khoa học và kỹ thuật, kết hợp nội ngoại thành thực hiện các Nghị quyết 19 và 21 của Thành ủy, tạo bước tiến mạnh mẽ về cải tạo, phát triển sản xuất và xây dựng nông thôn mới toàn diện. Phấn đấu đến hết năm 1985 hoàn thành cơ bản hợp tác hoá nông nghiệp với hai hình thức tập đoàn sản xuất và hợp tác xã, mỗi xã phải có ít nhất từ 1 hợp tác xã nông nghiệp trở lên.

Quy hoạch và xây dựng nhanh vành đai thực phẩm, cây công nghiệp, cây chất đốt, cây thức ăn gia súc, tập trung phát triển vùng lúa năng suất cao, đi đôi với thâm canh tăng vụ, bảo đảm đủ lương thực cho nhân khẩu nông nghiệp và một phần cho chăn nuôi, cung cấp thực phẩm, chất đốt cho nội thành và một phần nguyên liệu cho công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Quy hoạch lâu dài về chăn nuôi heo và gia cầm, giải quyết đồng bộ các yêu cầu về thức ăn gia súc, con giống, thuốc thú y… Phấn đấu đến năm 1985 giải quyết 80% yêu cầu về rau đậu, từ 25 – 30% thịt các loại, 30% về cá. Trong hai năm 1984 – 1985 ngoại thành tạo khối lượng hàng xuất khẩu: tôm, thơm, hạt điều, đậu phộng, rau đậu, thịt heo, thịt vịt… và một số sản phẩm tiểu, thủ công nghiệp có giá trị tương đương 30 triệu USĐ/R. Đến cuối năm 1985 phấn đấu không còn đất hoang hoá ở ngoại thành.

Nâng lượng điện phục vụ cho nông nghiệp ngoại thành lên khoảng 50 triệu Kwh, kéo thêm đường điện trung, hạ thế và xây dựng trạm biến thế. Tăng cơ giới hoá làm đất từ 20% năm 1982 lên 40% năm 1985. Trong ba năm 1983 – 1985 đầu tư 40 triệu đồng cho các công trình nghiên cứu khoa học phục vụ nông nghiệp. Vốn đầu tư cho ngoại thành trong hai năm 1984 – 1985 phải đạt từ 30 – 35% ngân sách xây dựng cơ bản của thành phố.

Hàng năm thành phố dành quỹ ngoại tệ nhập thêm khoảng một vạn tấn urê cho vùng lúa cao sản, vùng rau chuyên canh cây công nghiệp xuất khẩu. Phát động mạnh mẽ phong trào làm phân, bảo đảm 10 tấn phân hữu cơ trở lên cho một ha gieo trồng để tăng nhanh sản lượng và cải tạo đất.

Phấn đấu đến năm 1985 đạt năng suất bình quân từ 3,2 tấn/ha/năm trở lên trên toàn bộ diện tích 20.000 ha lúa cao sản. Tuyển chọn, bố trí cơ cấu giống lúa mới và giống địa phương thích hợp với từng mùa vụ. Đưa vào gieo trồng từ 40 – 50% giống lúa mới có năng suất cao cho vụ mùa, 100% cho vụ đông xuân và hè thu. Phát động mạnh mẽ phong trào nhân dân làm thủy lợi. Nhanh chóng phát triển thủy lợi nhỏ, nhất là thủy lợi nội đồng. Từng bước đồng bộ hoá để phát huy hệ thống thủy lợi hiện có. Quản lý và khai thác tốt nguồn nước ngầm thành phố. Phấn đấu đạt sản lượng quy thóc năm 1984 từ 250.000 tấn trở lên, năm 1985 từ 270.000 đến 280.000 tấn. Đẩy mạnh quy hoạch phát triển nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản, đặc biệt đầu tư nuôi tôm xuất khẩu. Tăng cường phương tiện đánh bắt cá sông biển cho lực lượng quốc doanh và hợp tác xã. Tận dụng mọi diện tích sông ngòi, ao hồ, ruộng trúng để có khoảng 10.000 ha mặt nước nuôi cá, tôm với sản lượng từ 5.000 – 6.000 tấn năm 1985. Đánh bắt cá biển năm 1984: 17.000 tấn, năm 1985: 21.000 tấn. Phát triển mạnh ngành nghề và kinh tế gia đình. Đẩy mạnh và kết hợp chặt chẽ chăn nuôi quốc doanh, tập thể và gia đình. Bảo đảm thức ăn gia súc, con giống, có chính sách giá cả hợp lý để năm 1984 có được đàn heo 250.000 con, năm 1985 từ 270.000 – 300.000 con, đáp ứng 20% - 25% nhu cầu thịt của thành phố và xuất khẩu. Phát triển nuôi gà, cá, v.v… ở nội thành để từng bước đưa chăn nuôi heo ra ngoại thành và vùng ven. Cần quan tâm đúng mức chăn nuôi gia súc ăn cỏ (bò, trâu, dê) và đẩy mạnh chăn nuôi bò sữa trong dân.

Phát động phong trào trồng cây để cải tạo môi sinh và cho chất đốt. Cần nghiên cứu và kết luận sớm việc trồng 2.000 ha cao su ở Củ Chi. Đến năm 1985 trồng 50 triệu cây các loại trong dân, dọc các bờ kênh và đường lớn. Trồng ít nhất 500 ha cây dược liệu, chú ý các loại cây có tinh dầu phục vụ xuất khẩu. Trồng 2.000 ha dừa nước ven sông. Xây dựng 200 ha rừng lịch sử ở Củ Chi. Hoàn chỉnh và bảo vệ tốt 20.000 ha rừng đước và trồng thêm 10.000 ha các loại cây làm chất đốt ở Duyên Hải. Ngành thủy sản, lâm nghiệp cùng với huyện Duyên Hải tổ chức kết hợp tốt kinh tế biển với kinh tế rừng. Chú ý cải tạo xã hội chủ nghĩa nghề cá. Làm tốt việc giao đất, giao rừng cho hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, các trường trại… để chăm sóc, khai thác, bảo vệ và trồng rừng mới theo quy định của Nhà nước.

Cần hợp tác tốt với các tỉnh có rừng, sử dụng cơ sở vật chất và lao động có tay nghề giỏi của thành phố, phát triển mạnh chế biến đồ gỗ xuất khẩu có giá trị cao. Năm 1984 khai thác từ 65.000 – 70.000 m3, năm 1985 từ 85.000 – 100.000 m3 gỗ; trong hai năm 1984 – 1985 mỗi năm khai thác 100.000 stères củi.

3/ Phát triển mạnh xuất nhập khẩu phục vụ kịp thời cho sản xuất và đời sống.

Trong những năm tới, thành phố phải nhanh chóng tổ chức tạo ra nguồn hàng xuất khẩu lớn với nhiều mặt hàng đa dạng và chất lượng ngày càng cao theo các hướng: áp dụng những tiến bộ kỹ thuật và phát huy sáng kiến đẩy mạnh phát triển những mặt hàng xuất khẩu từ thế mạnh công nghiệp thành phố và vành đai nông lâm ngư nghiệp ngoại thành. Tích cực mở rộng hợp tác, liên doanh với các tỉnh, đầu tư mạnh vào sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu và làm dịch vụ xuất khẩu. Xúc tiến nhanh việc hợp tác sản xuất và gia công cho nước ngoài, trước hết với Cam-pu-chia, Lào, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Mở rộng quan hệ giao dịch với Ấn Độ, các nước châu Phi, châu Mỹ la-tinh và một số nước khác. Phải có kế hoạch, chính sách và biện pháp cụ thể, phấn đấu tăng tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu của thành phố, như: xe đạp, quạt điện, các loại hàng dệt và may mặc sẵn, đồ dùng bằng cao su, đồ gỗ, thực phẩm chế biến… Phát triển công nghiệp bao bì, đóng gói, nhãn hiệu và giới thiệu hàng xuất khẩu. Phải ưu tiên tập trung vật tư nguyên liệu nhập cho khu vực quốc doanh, đồng thời phải hết sức hỗ trợ cho khu vực tiểu, thủ công nghiệp. Quản lý chặt hàng nhập khẩu cho tiêu dùng thiết yếu; cấm nhập hàng xa xỉ. Bảo hộ và khuyến khích tiêu dùng hàng sản xuất trong nước.

Để bảo đảm thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, phải khẩn trương chấn chỉnh và tăng cường Tổng công ty xuất nhập khẩu thành phố. Các cơ quan tổng hợp như: kế hoạch, tài chính, ngân hàng, giá… phải tăng cường quản lý và hỗ trợ đắc lực cho các hoạt động xuất nhập khẩu. Các cấp ủy Đảng phải lãnh đạo chặt chẽ các hoạt động ngoại thương.

Thành phố phải khẩn trương mở rộng hoạt động du lịch đối với khách nước ngoài và chú ý phát triển du lịch nội địa. Củng cố và đẩy nhanh các dịch vụ cung ứng tàu biến nước ngoài, kiều hối… để thu ngoại tệ.

Thành phố phải đạt kim ngạch xuất khẩu:

- Năm 1984: 120 triệu USĐ/R trở lên.

- Năm 1985: 160 triệu USĐ/R trở lên.

Kim ngạch nhập khẩu đạt:

- Năm 1984: 140 triệu USĐ/R trở lên.

- Năm 1984: 180 triệu USĐ/R trở lên.

4/ Tập trung sức phấn đấu để ổn định thị trường, thiết lập trật tự xã hội chủ nghĩa trên mặt trận phânp hối lưu thông.

Đây là mặt trận nóng bỏng cần tập trung đúng mức sức mạnh tổng hợp để củng cố và phát triển nhanh hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, nhằm chiếm ưu thế trên thị trường cả bán buôn và bán lẻ, phải coi trọng cả thương nghiệp và dịch vụ.

Đến năm 1985 hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phải nắm đại bộ phận bán buôn, nâng tỷ trọng bán lẻ của thị trường có tổ chức từ 60% trở lên so với thị trường xã hội. Các mặt hàng chủ yếu: gạo, rau, thịt, cá, chất đốt, đường, nước mắm, muối… phải chiếm tỷ trọng cao hơn. Phải triển khai đều khắp mạng lưới bán lẻ và hệ thống dịch vụ (các điểm bán lẻ của thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã, hệ thống đại lý, xe hàng lưu động, căn-tin…), đến tận khu phố, xóm ấp, cơ quan, xí nghiệp, trường học.

Mạnh dạn phân công, phân cấp nhằm bảo đảm phát huy khả năng địa phương và cơ sở trong hoạt động thương nghiệp và dịch vụ theo sự quản lý thống nhất về các mặt: chính sách, địa bàn, giá cả, mặt hàng, tỷ trọng, bán buôn và bán lẻ. Phải kết hợp chặt chẽ giữa thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã.

Ngành thương nghiệp thành phố phải cải tạo cho được 3 quỹ hàng hóa: quỹ hàng hoá cho các đối tượng được cung cấp; quỹ hàng hoá để hợp tác kinh tế và trao đổi hàng hoá với các tỉnh; quỹ hàng hóa để tham gia đấu tranh quản lý thị trường. Đến năm 1985, hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa thành phố phải tổ chức và có biện pháp nắm 70 – 80% các mặt hàng nông sản thực phẩm chủ yếu ở ngoại thành và 80 – 90% các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp sản xuất ở thành phố. Nâng tổng giá trị hàng hoá của thành phố trao đổi với các tỉnh trong khu vực năm 1984 lên gấp đôi so với năm 1983.

Đến hết năm 1985, phấn đấu hoàn thành cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp thành phố. Trước mắt phải xóa ngay tư sản thương nghiệp. Tổ chức, sắp xếp, cải tạo và sử dụng người buôn bán nhỏ dưới các hình thức tổ ngành hàng, đại lý và khuyến khích họ chuyển dần sang sản xuất. Trước hết nhằm vào các ngành hàng thiết yếu: lương thực, thịt, cá, rau, nước chấm, đường, chất đốt, vải, thuốc chữa bệnh…

Kết hợp chặt chẽ 3 biện pháp: giáo dục, kinh tế và hành chính trong công tác cải tạo. Phát động phong trào quần chúng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, dựa vào các đoàn thể, nhất là Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên cộng sản, Công đoàn để đấu tranh quản lý thị trường, chống các hành động tiêu cực trong thương nghiệp. Giáo dục tiểu thương chấp hành đúng luật lệ, chhính sách của Nhà nước. Nhanh chóng tăng cường cán bộ cho hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa và dịch vụ. Có chính sách thỏa đáng chăm lo đời sống cho cán bộ, nhân viên của ngành. Xây dựng và phát triển Đảng, Đoàn, lực lượng trung kiên ở các cửa hàng, trạm thu mua và các đơn vị cơ sở khác. Xây dựng và nhân điển hình tiên tiến trong hệ thống thương nghiệp và dịch vụ.

Các ngành ngân hàng, tài chính, giá phải làm tròn chức năng quản lý nhà nước để góp phần ổn định trật tự trong phân phối lưu thông, đồng thời phải phục vụ tốt nhất cho sản xuất và kinh doanh, bảo đảm vòng quay đồng tiền nhanh nhất và hiệu quả kinh tế cao. Hết sức giúp đỡ cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thực hiện được quyền chủ động về kế hoạch, tự chủ về tài chính. Mạnh dạn phân cấp quản lý tài chính. Vận dụng làm thử chế độ khoán thu, khoán chi đối với cấp quận, huyện, phường, xã có sự hướng dẫn, giám sát, kiểm tra chặt chẽ của ngành. Đề cao nghĩa vụ và kỹ luật nộp thuế, nộp tích lũy và các khoản nộp khác đúng chính sách. Đẩy mạnh phong trào nhân dân gởi tiền tiết kiệm, phát triển hợp tác xã tín dụng, quản lý chặt chẽ tiền mặt, mở rộng thanh toán bằng chuyển khoản. Trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1984 – 1985, các ngành tài chính, ngân hàng tìm mọi biện pháp cân đối ngân sách. Ngoài phần cân đối của Trung ương, đề nghị Hội đồng Bộ trưởng cho phép và hướng dẫn thành phố tạo các nguồn cân đối bổ sung cho phần còn thiếu. Củng cố, tăng cường và chỉ đạo chặt chẽ các cơ quan giá trên địa bàn thành phố. Bảo đảm thôgn tin về giá từng ngày một, chính xác, nhanh nhạy chẳng những trên địa bàn thành phố, khu vực và trong cả nước. Kiến nghị Trung ương và cùng các tỉnh khẩn trương tìm mọi biện pháp làm giảm hẳn sự chênh lệch giá quá đáng giữa giá gốc và giá ngọn.

5/ Bố trí sắp xếp lao động:

Đến năm 1985 phấn đấu giải quyết ít nhất từ 15 vạn trở lên số lao động chưa có việc làm theo hướng sau đây:

- Thu hút vào các ngành công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp của thành phố.

- Đi xây dựng các nông, lâm trường ở huyện Đắc Nông (Đắc Lắc).

- Đi khai hoang các huyện ngoại thành và tỉnh Long An.

Trong bố trí lao động phải ưu tiên sắp xếp việc làm cho bộ đội và thanh niên xung phong xuất ngũ; sử dụng hết và hợp lý số học sinh đại học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật đã ra trường; mở thêm các trường lớp dạy nghề để thu hút các cháu thi rớt cấp III và đại học. Cưỡng bức lao động đối với những người lười biếng, không chịu lao động.

Để thực hiện các mục tiêu trên, các ngành có liên quan cấp thành phố, quận, huyện, phường, xã cần kết hợp chặt với các đoàn thể nắm chắc và có kế hoạch giải quyết số lao động chưa có việc làm. Đoàn Thanh niên cộng sản tiếp tục vận động phong trào thanh niên xung phong đi xây dựng kinh tế mới. Cần nghiên cứu đề xuất một số chính sách có tác dụng khuyến khích những người đi xây dựng vùng kinh tế mới.

III. ĐẨY MẠNH CÁCH MẠNG KHOA HỌC - KỸ THUẬT TƯƠNG XỨNG VỚI VỊ TRÍ THEN CHỐT TRONG BA CUỘC CÁCH MẠNG

Nhiệm vụ công tác khoa học, kỹ thuật trong hai năm tới và những năm 80 là:

1/ Tập trung sức vào việc ứng dụng nhanh và rộng những thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật, nhằm góp phần tổ chức lại sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng nhanh hàng xuất khẩu có giá trị, xây dựng con người mới và nền văn hoá mới.

2/ Kết hợp nghiên cứu ứng dụng với nghiên cứu cơ bản trên một số hướng cần thiết, kết hợp nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật với nghiên cứu khoa học xã hội và khoa học quản lý, nhằm góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của thành phố, đồng thời tạo ra những khả năng mới cho sự phát triển của thành phố và khu vực.

3/ Thông qua các hoạt động nói trên mà tập họp lực lượng và rèn luyện đội ngũ trí thức cả về năng lực hoạt động và quan điểm phục vụ.

Mỗi ngành, mỗi cấp đều phải có kế hoạch tổ chức nghiên cứu ứng dụng trong mọi công tác của ngành và cấp mình, coi khoa học, kỹ thuật là một bộ phận hữu cơ trong kế hoạch kinh tế - xã hội, coi việc quản lý chất lượng sản phẩm là nhiệm vụ hàng đầu của công tác khoa học và kỹ thuật.

Để có cơ sở thuận lợi cho việc tiến hành các đề tài nghiên cứu và ứng dụng khoa học và kỹ thuật, hai năm tới phải đẩy công tác điều tra cơ bản, hình thành quy hoạch tổng thể các quận, huyện, các ngành kinh tế, văn hoá ở thành phố.

Trong công nghiệp: Phải tập trung mọi khả năng khoa học và kỹ thuật để nghiên cứu sắp xếp lại công nghiệp và xây dựng các mô hình theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá. Nghiên cứu để thay thế vật tư, nguyên liệu, phụ tùng, máy móc nhập từ nước ngoài. Nghiên cứu tiết kiệm năng lượng và tạo ra các nguồn năng lượng bổ sung. Nghiên cứu để tiến tới chế tạo một số thiết bị toàn bộ, các dây chuyền chế biến nông lâm hải sản, các biện pháp công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm. Nghiên cứu cải tiến quản lý công nghiệp trong từng ngành kinh tế - kỹ thuật.

Trong nông nghiệp: Nghiên cứu quy hoạch đất đai, cây, con, giống, bảo vệ thực vật và công tác thú y.

Trong thương nghiệp: Nghiên cứu tổ chức vận trù thương nghiệp hợp lý nhất để giảm phí lưu thông, tăng hiệu quả phục vụ; nghiên cứu bảo quản chất lượng hàng hoá.

Trong khoa học xã hội: Nghiên cứu những hiện tượng tiêu cực trong xã hội do chế độ cũ để lại và các biện pháp khắc phục. Nghiên cứu các phương pháp cải tạo các tệ nạn xã hội.

Trong quản lý: Nghiên cứu thực hiện quyết định 58 của Hội đồng Bộ trưởng về việc cải tiến bộ máy Nhà nước, từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ công nhân viên. Xây dựng các định mức kinh tế - kỹ thuật. Ứng dụng kỹ thuật điện toán vào các ngành trọng yếu và xử lý thông tin. Nghiên cứu bảo vệ môi trường, môi sinh, cải thiện điều kiện làm việc của người lao động. Triển khai công tác dự báo khoa học để phục vụ cho yêu cầu quản lý kinh tế, xã hội.

Phát động mạnh mẽ phong trào quần chúng, nhất là thế hệ trẻ tiến quân vào mặt trận khoa học, kỹ thuật. Phổ biến rộng rãi các kiến thức phổ thông về khoa học và kỹ thuật. Đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Tìm mọi biện pháp sử dụng và phát huy hết khả năng của lực lượng khoa học, kỹ thuật trên địa bàn thành phố. Bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết cho các hoạt động khoa học, kỹ thuật, xây dựng trung tâm thông tin khoa học, kỹ thuật của thành phố.

Xúc tiến thành lập Hội đồng khoa học cấp thành, các tổ khoa học, kỹ thuật ở quận, huyện. Thành lập Hội Liên hiệp khoa học - kỹ thuật thành phố và các hội chuyên ngành khoa học, kỹ thuật. Củng cố và tăng cường bộ máy quản lý khoa học và kỹ thuật các ngành, các cấp, trước hết là Ban Khoa giáo và Ủy ban Khoa học và kỹ thuật thành phố.

Các cấp ủy Đảng và chính quyền cần đi sâu lãnh đạo và chỉ đạo công tác khoa học và kỹ thuật, nắm chắc các vấn đề tổ chức, quản lý và chính sách khoa học, kỹ thuật. Khẩn trương xây dựng quy hoạch cán bộ khoa học, kỹ thuật cho từng cấp, từng ngành. Thực hiện các chế độ khuyến khích việc nghiên cứu sáng chế phát minh và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống.

IV. ĐẨY MẠNH CUỘC CÁCH MẠNG TƯ TƯỞNG VÀ VĂN HOÁ, THỰC HIỆN TỐT CÁC MẶT CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, VĂN HOÁ VÀ XÃ HỘI

Yêu cầu hàng đầu của cách mạng tư tưởng và văn hoá là xây dựng nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa. Không ngừng bồi dưỡng và phát huy lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa, tinh thần lao động sáng tạo, ý thức làm chủ tập thể. Nâng cao trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật, làm cho hệ tư tưởng Mác – Lê-nin giữ vị trí thống trị trong đời sống xã hội. Những yêu cầu ấy chỉ có thể đạt được thông qua việc thực hiện đồng thời ba cuộc cách mạng và phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Trong đó công tác tuyên truyền, giáo dục, phát động và tổ chức quần chúng hành động cách mạng có vị trí rất quan trọng.

1/ Phải thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho các tầng lớp nhân dân, trước hết cho công nhân và thanh niên. Nâng cao nhận thức về chủ nghĩa xã hội; về cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; về lao động và bóc lột, tập thể và cá thể; về truyền thống cách mạng, phẩm chất đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa; về ý thức cảnh giác và ý chí quyết tâm đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch.

Xây dựng lực lượng báo cáo viên ở các cơ quan thành phố, quận, huyện và mạng lưới tuyên truyền viên ở cơ sở. Tổ chức việc nắm dư luận xã hội để kịp thời giải đáp những vấn đề mới do cuộc sống đặt ra. Đặc biệt phải liên tục phát động các phong trào hành động cách mạng của quần chúng, phổ biến rộng rãi gương người tốt, việc tốt để giáo dục quần chúng một cách sinh động, thiết thực.

Báo chí phải nỗ lực nâng cao chất lượng bài vở, phải thường xuyên vạch trần những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, của bọn xấu, nhất là những âm mưu thủ đoạn cụ thể của chúng đang hàng ngày phá hoại ta về nhiều mặt, để giáo dục và nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho quần chúng. Nâng cao chất lượng in ấn và cải tiến công tác phát hành.

2/ Các hoạt động văn hoá, văn nghệ phải phát huy tinh thần trách nhiệm và sức mạnh tiến công tham gia trực tiếp vào cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường gắn chặt với cuộc đấu tranh địch – ta đang diễn ra quyết liệt ở thành phố hiện nay. Phải liên tục tiến công truy quét các loại văn hoá, văn nghệ phản động, đồi trụy. Phải nêu cao tinh thần cảnh giác đập tan mọi luận điệu chiến tranh tâm lý của địch. Phải thường xuyên đấu tranh đẩy lùi các tàn dư văn hoá cũ và các tập tục lạc hậu; chống khuynh hướng “thương mại” trong văn hoá – văn nghệ.

Đề tài sáng tác và tiết mục biểu diễn phải tập trung phản ánh cuộc đấu tranh cải tạo và xây dựng của nhân dân lao động thành phố hiện nay với nhiều thể loại, đạt chất lượng cao. Để kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm 1985, ngay từ bây giờ phải có kế hoạch thực hiện các đề tài về truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và các đoàn thể. Xây dựng một số công trình văn hoá gắn liền với lịch sử hoạt động cách mạng của Trung ương và Thành ủy trên địa bàn thành phố.

Đẩy mạnh phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng. Thường xuyên tổ chức các cuộc thi và hội diễn văn nghệ quần chúng để nâng cao chất lượng phong trào. Các ngành văn hoá, văn nghệ chuyên nghiệp có trách nhiệm giúp đỡ, bồi dưỡng phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng để học tập và phát hiện tài năng bổ sung cho lực lượng chuyên nghiệp.

Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa mới, mạng lưới nhà văn hoá, câu lạc bộ, thư viện, nhà truyền thống… đến tận phường, xã, xí nghiệp. Các cấp ủy đảng, nhất là ở cơ sở cần phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng các điển hình tiên tiến trong ngành văn hoá văn nghệ.

Nâng cao chất lượng công tác bảo tồn, bảo tàng, có nhiều hình thức phong phú, sinh động để giáo dục truyền thống.

Coi trọng xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên: sống bằng lao động chân chính của mình; có ý thức làm chủ tập thể; tôn trọng kỷ luật, pháp luật, bảo vệ của công; có nếp sống lành mạnh, giản dị. Phê phán lối sống xa hoa, trụy lạc, sống bám xã hội, sống bằng bóc lột, trốn tránh nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ công dân. Kiên quyết bài trừ mê tín, dị đoan và các tập tục lạc hậu.

Phải quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hoá, văn nghệ, cán bộ quản lý nghệ thuật. Phát hiện và bồi dưỡng mầm non nghệ thuật và văn nghệ sĩ trẻ. Nghiên cứu đề nghị bổ sung một số chính sách, chế độ, tạo điều kiện cho các ngành văn hoá, văn nghệ hoạt động. Quan tâm chăm sóc những nghệ sĩ đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, và những nghệ sĩ có nhiều cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, nghệ thuật chân chính.

Từng bước tổ chức sắp xếp và quản lý chặt chẽ các hoạt động văn hoá, văn nghệ trong khu vực Nhà nước, tập thể và tư nhân. Kết hợp tốt mục đích phục vụ và chế độ hạch toán để ngăn chặn kịp thời các hiện tượng tiêu cực.

Ra sức củng cố, xây dựng các tổ chức, Đảng, Đoàn, lực lượng trung kiên trong các cơ sở hoạt động văn hoá, văn nghệ. Coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ làm công tác văn hoá, văn nghệ. Sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trên mặt trận văn hoá, văn nghệ phải quán triệt đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng; bảo đảm sự phát triển đồng bộ, cân đối, các loại hình nghệ thuật và phải phù hợp với tính đặc thù của các hoạt động văn hoá, văn nghệ.

3/ Sự nghiệp giáo dục chăm lo cho gần 1 triệu các cháu thanh, thiếu niên và nhi đồng, nhất thiết phải được sự quan tâm thích đáng của các cấp Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố. Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục, phải ra sức nâng cao giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp. Triển khai tốt hơn nữa các lớp 1, 2, 3 cải cách giáo dục. Phải trả lại những trường lớp hiện đang sử dụng vào những việc khai thác để ngành giáo dục mở các lớp học cho trẻ em.

Củng cố và phát triển các nhà trẻ và trường lớp mẫu giáo nâng cao chất lượng nuôi dạy.

Tiến hành khẩn trương việc phổ cập cấp 1 và triển khai việc phổ cập cấp 2 theo từng bước vững chắc. Quan tâm giải quyết trường lớp cho trẻ em nghèo thất học, trước hết là ở cấp 1. Xóa bỏ tình trạng học 4 ca và giảm đến mức thấp nhất tình trạng học 3 ca. Phải bảo đảm đủ sách, vở, dụng cụ học tập cho học sinh và các phương tiện giảng dạy cho giáo viên. Giữ gìn tốt trường lớp.

Mở rộng hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật, dạy nghề theo các hình thức chính quy và tại chức. Phát triển các trường lớp đào tạo cán bộ quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ cho các ngành nghề, đặc biệt chú trọng đáp ứng các yêu cầu cấp bách của phong trào hợp tác hoá nông nghiệp. Các trường lớp dạy nghề và các lớp dạy văn hoá, sinh ngữ, luyện thi ngoài giờ phải do các cơ quan chức năng của thành phố tổ chức và quản lý chặt chẽ.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác bổ túc văn hoá. Đến 1985 thực hiện việc nâng cao trình độ văn hoá cho các đối tượng là cán bộ chủ chốt ở cơ sở và thanh niên theo đúng chỉ thị 15 của Thường vụ Thành ủy.

Để nâng cao chất lượng giáo dục, phải ra sức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, trước hết về nhận thức chính trị, tư tưởng và phẩm chất đạo đức. Chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên chính trị đủ về số lượng, bảo đảm tốt về chất lượng. Phải thay ngay những giáo viên không đủ chuẩn chất về chính trị. Thực hiện rộng rãi việc khen thưởng đối với các tập thể và cá nhân dạy tốt, công tác tốt theo nhiều hình thức và mức độ khác nhau, cả vật chất lẫn tinh thần để vừa nâng cao chất lượng giảng dạy, vừa cải thiện đời sống cho giáo viên. Đoàn Thanh niên Cộng sản và ngành giáo dục phải phối hợp chặt chẽ trong việc giáo dục thanh thiếu niên. Củng cố và phát triển các tổ chức Đảng, Đoàn, Đội trong trường. Xây dựng các mô hình kết hợp 3 môi trường giáo dục (gia đình, nhà trường và xã hội).

4/ Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao, nhất là trong thanh niên, học sinh, công nhân và lực lượng vũ trang. Tập trung sức xây dựng lực lượng nòng cốt cho các môn thể thao trọng điểm, đồng thời chú ý thích đáng các môn thể thao truyền thống của thành phố. Cố gắng trẻ hoá các đội thể thao. Coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng phong cách mới xã hội chủ nghĩa cho vận động viên. Coi trọng đào tạo bồi dưỡng đội ngũ huấn luyện viên và trọng tài. Xây dựng cho đông đảo quần chúng có quan điểm thể dục, thể thao xã hội chủ nghĩa. Tu sửa và củng cố các cơ sở tập luyện hiện có, nâng cao hiệu suất hoạt động. Xây dựng thêm một số cơ sở tập luyện cần thiết như khu thể thao Phú Thọ. Phải cải tạo và quản lý tốt các cơ sở thể dục, thể thao tập thể và tư nhân.

5/ Về y tế: Đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng bệnh rộng rãi trong nhân dân, ngăn ngừa và dập tắt kịp thời các dịch bệnh. Nâng cao chất lượng khám bệnh và điều trị. Hoàn thành cải tạo ngành dược và y, khẩn trương tổ chức và sắp xếp lại sản xuất ngành dược toàn thành phố theo hướng Nhà nước độc quyền quản lý việc sản xuất và phân phối thuốc. Khuyến khích phát triển dược liệu, nghiên cứu xây dựng một số cơ sở hoá dược. Đẩy mạnh sản xuất các loại thuốc bằng nguyên liệu trong nước, các loại thuốc đặc trị xuất khẩu. Quản lý chặt chẽ việc điều trị của tập thể, tư nhân còn được phép hành nghề. Tăng thêm giường nhi ở các bệnh viện đa khoa hoặc chuyên khoa, bảo đảm số lượng 3.000 giường nhi tại thành phố. Phát triển y tế dự phòng, đặc biệt chăm sóc sức khỏe cho trẻ em. Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, xây dựng trạm xá xã, bệnh viện huyện. Kết hợp chặt chẽ đông và tây y trong điều trị. Áp dụng nhiều hình thức khen thưởng để nâng cao chất lượng điều trị, phục vụ người bệnh và cải thiện một bước đời sống của cán bộ và nhân viên ngành y tế. Kết hợp với các ngành và đoàn thể các cấp làm tốt cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch để đến năm 1985 giảm tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên từ 1,9% xuống 1,7%. Năm 1985 thực hiện phong trào “5 dứt điểm” ở đại bộ phận phường, xã và trên quy mô toàn quận, huyện.

6/ Về các hoạt động thương binh, xã hội, bảo vệ bà mẹ và trẻ em.

Cần có biện pháp chăm sóc tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần đối với thương binh và gia đình liệt sĩ, cán bộ về hưu. Trước hết phải bảo đảm phát đủ và kịp thời tiền trợ cấp, bán đủ 9 mặt hàng định lượng; sửa chữa nhà ở cho anh chị em thương binh, cán bộ về hưu, và cấp nhà cho một số không có nhà ở. Tiếp tục phát động rộng rãi phong trào toàn dân chăm sóc thương binh, gia đình thương binh, liệt sĩ, xây cất các nhà tình nghĩa. Có kế hoạch mở rộng và xây dựng thêm một số cơ sở sản xuất cho anh chị em thương binh. Đối với anh chị em không còn điều kiện lao động, phải ưu tiên giải quyết việc làm cho gia đình. Cải thiện điều kiện sinh hoạt ở các khu điều dưỡng thương binh và câu lạc bộ hưu trí.

Sở Thương binh xã hội, các bộ chỉ huy quân sự trên địa bàn thành phố cùng các ngành liên quan và các đoàn thể phải phối hợp chặt chẽ để thực hiện các nhiệm vụ nói trên.

Phải tiếp tục chăm lo tốt hơn nữa các cháu thiếu niên và nhi đồng. Phát động rộng khắp phong trào toàn dân chăm sóc, giáo dục và bảo vệ thiếu nhi. Đẩy mạnh phong trào “nuôi con khỏe, dạy con ngoan”.

V. NÂNG CAO CẢNH GIÁC, QUYẾT TÂM ĐÁNH THẮNG KIỂU CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI NHIỀU MẶT CỦA ĐỊCH, GIỮ VỮNG AN NINH CHÍNH TRỊ, TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI, CỦNG CỐ VÀ TĂNG CƯỜNG LỰC LƯỢNG QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, BẢO ĐẢM SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU.

Phải thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Trung ương về an ninh quốc phòng, nhất là Nghị quyết 03 của Bộ Chính trị.

1/ Về công tác quân sự địa phương:

Vận dụng đường lối quốc phòng toàn dân của Đảng để xây dựng quận, huyện thành pháo đài bảo vệ Tổ quốc. Năm 1984 xây dựng thí điểm ở huyện Duyên Hải, Củ Chi và quận 3. Năm 1985 sẽ nhân rộng ra ở các quận, huyện khác.

Về bộ đội địa phương: Ra sức củng cố, xây dựng lực lượng đủ mạnh về số lượng lẫn chất lượng, bố trí thế đứng thích hợp để thực hiện tốt các nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Bảo đảm tuần tra canh gác 24/24 giờ và tham gia xây dựng kinh tế. Đặc biệt phải củng cố ngay huyện đội Duyên Hải và các địa bàn xung yếu. Tăng cường thêm ở mỗi quận, huyện một tiểu đội kiểm soát quân sự.

Về lực lượng hậu bị: phải tăng cường công tác tổ chức, quản lý và huấn luyện tốt, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu khi có chiến tranh xảy ra. Bộ Tư lệnh thành phố phải xây dựng chế độ định kỳ kiểm tra sẵn sàng chiến đấu. Hằng năm tổ chức huấn luyện cho các quân nhân dự bị theo Nghị định 164 của Hội đồng Bộ trưởng.

Về dân quân tự vệ: củng cố và xây dựng lực lượng ở các xí nghiệp, cơ quan, trường học, phường, xã, nhất là lực lượng dân quân tự vệ hoạt động trên sông, trên biển, các tuyến ven sông, ven biển và trên các địa bàn xung yếu ở nội ngoại thành. Đưa tỷ lệ dân quân tự vệ từ 4% lên 6% dân số, với chất lượng cao. Tổ chức lực lượng bán quân sự đến đâu, phải bảo đảm tổ chức Đảng, đoàn, tổ nòng cốt, trung kiên đến đó. Nắm chắc được lực lượng thì mới trang bị vũ khí. Tăng cường lực lượng đảng viên trong dân quân tự vệ từ 7,2% lên 8,5%; đoàn viên từ 17,4% lên 50% vào cuối năm 1985.

Để thực hiện được các nhiệm vụ nói trên, cần tiến hành các biện pháp:

- Không ngừng hoàn chỉnh và huấn luyện thành thạo các phương án tác chiến, phòng thủ, bảo vệ thành phố, đặc biệt là tuyến phòng thủ Duyên Hải. Xúc tiến tốt việc lập kế hoạch động viên nhân tài vật lực theo kế hoạch thời chiến.

- Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu” và phong trào thi đua quyết thắng trong lực lượng vũ trang, bán vũ trang nhằm xây dựng được nhiều đơn vị và cá nhân tiên tiến. Giữ vững chế độ sơ kết, tổng kết thi đua, khen thưởng kịp thời. Các lực lượng vũ trang, trực tiếp là dân quân tự vệ phải tích cực tham gia công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở cơ sở.

- Các cấp ủy Đảng phải luôn quan tâm xây dựng các tổ chức Đảng, Đoàn vững mạnh trong lực lượng vũ trang. Phấn đấu đến cuối năm 1984 có trên 40%, năm 1985 trên 60% tổ chức cơ sở trong Đảng bộ quân sự thành phố đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh, không còn chi bộ yếu kém và không có cán bộ chủ trì các cấp vi phạm kỷ luật nghiêm trọng. Chăm lo công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ làm công tác quân sự địa phương, để đủ sức làm tham mưu cho cấp ủy về công tác quân sự trong mọi tình huống.

- Kiện toàn tổ chức chỉ huy quân sự các cấp theo cơ chế lãnh đạo mới của Đảng trong lực lượng vũ trang, tuân thủ sự lãnh đạo của cấp ủy ở địa phương, củng cố ban quân sự ở các ngành, sở do thủ trưởng đơn vị phụ trách.

- Thành lập Hội đồng giáo dục quốc phòng thành phố và đưa các hoạt động giáo dục quốc phòng vào hệ thống giáo dục chung. Tổ chức học tập và tuyên truyền sâu rộng luật nghĩa vụ quân sự, đưa công tác gọi thanh niên nhập ngũ hàng năm vào nền nếp, đạt chỉ tiêu về số lượng và chất lượng quy định. Đối với những thanh niên không đủ tiêu chuẩn tham gia quân thường trực phải được tuyển vào các đơn vị thanh niên làm nghĩa vụ lao động. Có biện pháp giáo dục, xử lý nghiêm minh đối với những thanh niên trốn tránh nghĩa vụ quân sự và quân nhân đào bỏ ngũ.

- Các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể cùng nhân dân thực hiện tốt công tác hậu phương quân đội và đẩy mạnh phong trào “Vì tuyến đầu Tổ quốc”.

2/ Về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội:

Phát động rộng, mạnh và đều khắp hơn nữa phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Hết sức quan tâm củng cố và tăng cường lực lượng công an cơ sở.

Về an ninh chính trị, trong những năm tới không để xảy ra một vụ việc nào lớn về an ninh chính trị. Phải nắm chắc nhân hộ khẩu, nắm từng gia đình, từng người, phân loại và lên danh sách các loại đối tượng. Có kế hoạch truy quét bọn phản động ẩn nấp hoạt động bí mật, bọn tung tin tâm lý chiến xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây chia rẽ trong nội bộ và gây hoang mang trong nhân dân. Nắm chắc tình hình an ninh chính trị ở các địa bàn trọng điểm. Phải làm tốt công tác chống xâm nhập tình báo, gián điệp, biệt kích. Phải khám phá cho ra những đầu mối, hệ thống tổ chức các nhen nhóm chính trị phản động và tổ chức kích động đưa người trốn ra nước ngoài, đặc biệt là các tổ chức phá hoại kinh tế, bọn tàng trữ và gieo thành các chuyên án để xử lý. Tăng cường công tác bảo vệ nội bộ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong hai năm 1984 – 1985 cần làm chuyển hoá rõ rệt 69 địa bàn trọng điểm về an ninh chính trị và 21 địa bàn về những mục tiêu quan trọng ở nội ngoại thành.

Tranh thủ sự chỉ đạo của Trung ương để nắm tình hình và phối hợp đánh địch trên địa bàn khu vực.

Phải nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật và những kiến thức cần thiết về kinh tế, tâm lý học, xã hội học trong bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và trong làm án. Tăng cường cán bộ có năng lực ở các ngành tòa án, kiểm sát, tư pháp để bảo đảm thực hiện đúng luật pháp, phục vụ kịp thời các yêu cầu chính trị của thành phố.

Về trật tự an toàn xã hội, phải phấn đấu giảm từ 1/3 đến 1/2 các vụ việc vi phạm trật tự và an toàn xã hội, nhất là trọng án. Năm 1984 phải đưa mạnh số bụi đời, lưu manh vào các trường cải tạo tập trung ở cách xa thành phố. Phải tăng cường cán bộ tốt và đầu tư đúng mức vào các trường trại để qua lao động, giáo dục chính trị và học tập văn hoá cải tạo phạm nhân thành người lao động tốt. Phối hợp giữa thành phố với các tỉnh, các quận, huyện và ban, ngành có liên quan để giải quyết số người sống ở lòng lề đường. Nghiêm trị bọn phản cách mạng, bọn hoạt động tình báo, gián điệp, bọn phá hoại kinh tế, bọn tội phạm cướp của giết người, bọn đầu sỏ đầu cơ buôn lậu và trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Có kế hoạch từng bước giải quyết các tụ điểm phức tạp về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đến cuối năm 1985 phải có 50% phường, xã đạt tiêu chuẩn tiên tiến, 60% cơ quan xí nghiệp an toàn; 75% tổ ấp tiên tiến, không còn đơn vị kém. Năm 1984 xây dựng điểm về mô hình “phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc” tốt ở các quận 11, Gò Vấp và huyện Hóc Môn để nhân rộng ra đều khắp ở các quận, huyện của thành phố.

Về bảo vệ an ninh kinh tế, trước mắt cần hết sức chú ý gắn chặt với công tác cải tạo, quản lý thị trường, thực hiện pháp lệnh về thuế công thương nghiệp. Đi sâu nghiên cứu, nắm chắc tình hình hoạt động kinh doanh ở thành phố, nhất là đối với những thủ đoạn, tổ chức kinh doanh của tư sản và bọn gian thương. Từ đó mà nắm quy luật, tìm ra manh mối của bọn đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, mua bán hàng quốc cấm và những bí mật kinh tế của Nhà nước. Phải xây dựng quy chế bảo vệ an ninh kinh tế phù hợp với từng loại cơ quan, xí nghiệp, kho tàng và các khu vực kinh tế trọng yếu, nhất là lương thực, vật tư, giao thông vận tải, xăng, dầu, điện, nước… Thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết 128 của Hội đồng Bộ trưởng và các chế độ, nguyên tắc tài chính, quản lý tài sản, chống các hiện tượng tiêu cực trong sản xuất và kinh doanh. Tiến hành tổng kết tìm nguyên nhân và những sơ hở trong công tác bảo vệ tài sản để có kế hoạch cụ thể và có biện pháp kiên quyết ngăn chặn có kết quả tệ nạn tham ô, lãng phí, trộm cắp tài sản Nhà nước. Phấn đấu giảm ít nhất 50% tình trạng thất thoát tài sản xã hội chủ nghĩa và kiên quyết ngăn chặn không để xảy ra những vụ xâm phạm lớn.

Về xây dựng lực lượng: Đưa cuộc vận động xây dựng lực lượng công an trong sạch vững mạnh tiến lên một bước vững chắc trong toàn ngành. Thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy đối với công an nhân dân. Tập trung xây dựng, củng cố cơ sở, nhất là công an phường, xã và cảnh sát khu vực, bảo đảm nắm chắc tình hình và di biến động nhân hộ khẩu trong từng hộ gia đình.

Củng cố và huấn luyện tốt các lực lượng cảnh sát bảo vệ, cận vệ. Xây dựng lực lượng cảnh sát giao thông có trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, văn hoá, nắm vững luật pháp, có tác phong đúng đắn trong khi làm nhiệm vụ. Phấn đấu đến cuối năm 1984 có trên 40% và cuối năm 1985 có trên 60% tổ chức cơ sở Đảng trong lực lượng công an trong sạch vững mạnh; trên 90% đảng viên đủ tư cách và không còn tổ chức cơ sở Đảng yếu kém.

Kiện toàn ban chỉ huy các cấp, nhất là ở cơ sở. Chăm lo cải thiện đời sống vật chất lẫn tinh thần cho cán bộ và chiến sĩ. Kiên quyết đưa những người không còn đủ tư cách ra khỏi ngành, bảo đảm cho lực lượng công an thành phố thật sự trong sạch, vững mạnh.

VI. KIỆN TOÀN VÀ PHÁT HUY HIỆU LỰC CỦA BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN

Để hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã và an ninh quốc phòng của thành phố, phải tăng cường và củng cố hệ thống chính quyền các cấp, bảo đảm việc thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”. Trong những năm tới, công tác xây dựng và củng cố chính quyền cần tập trung vào những vấn đề trọng yếu sau đây:

Nêu cao vai trò của Hội đồng Nhân dân các cấp, củng cố các ban chuyên môn của Hội đồng Nhân dân. Bảo đảm cho Hội đồng Nhân dân các cấp, nhất là hội đồng nhân dân phường, xã hoạt động có hiệu lực, đúng chức năng, quyền hạn của cơ quan quyền lực, quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước, giữ mối liên hệ chặt chẽ và đều đặn với cử tri, tập hợp ý kiến, nguyện vọng chính đáng của nhân dân phản ảnh kịp thời cho các cơ quan có trách nhiệm giải quyết.

Kiện toàn Ủy ban Nhân dân các cấp, nhất là Ủy ban Nhân dân phường, xã. Kiện toàn các ban, ngành chuyên môn để đủ sức cụ thể hoá và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của các cấp ủy và chính quyền cấp trên. Phát triển rộng rãi các hình thức tổ chức kiểm tra nhân dân trong tất cả đơn vị kinh tếm, hành chánh cơ sở, bảo đảm điều kiện cho các tổ chức này hoạt động có hiệu quả thiết thực. Chấn chỉnh tổ chức và hoạt động của các cơ quan Thanh tra, Kiểm sát và Tòa án. Bảo đảm chức năng quản lý của chính quyền và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong quản lý kinh tế - xã hội.

Coi trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ chính quyền. Ra sức giáo dục cán bộ, nhân viên Nhà nước và nhân dân ý thức tôn trọng pháp luật, làm việc và sống theo pháp luật. Mở trường hành chính của thành phố để bồi dưỡng cho đại biểu Hội đồng nhân dân và cán bộ chính quyền quận, huyện, phường, xã. Phấn đấu đến 1985, các chức danh chủ chốt của quận, huyện, phường, xã phải qua lớp bồi dưỡng ngắn hạn. Phải chấp hành đầy đủ chế độ trách nhiệm trong các cơ quan theo Nghị định 217 của Hội đồng Chính phủ.

Tinh giản bộ máy hành chính các cấp. Bãi bỏ các tổ chức trùng lắp, các tổ chức trung gian không cần thiết. Tiếp tục phân công, phân cấp cho quận, huyện, phường, xã quản lý kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng.

Phải khẩn trương tổ chức thực hiện đầy đủ nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 3, Chỉ thị số 50 của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị quyết 21 của Thành ủy về việc phân cấp quản lý, xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện.

Đối với thành phố ta, quận và phường có vị trí rất quan trọng. Trong khi chờ đợi Nhà nước ban hành những quy định cụ thể về nhiệm vụ cấp quận và phường, thành phố cần xác định: quận là cấp quản lý kế hoạch toàn diện có ngân sách, phường và cấp quản lý hành chính – kinh tế, có ngân sách.

Xây dựng các mô hình quận, huyện và phường, xã vững mạnh. Trong năm 1984 tổng kết việc thực hiện các cơ chế phường, xã, xí nghiệp để bổ sung, sửa đổi và hoàn chỉnh. Kiến nghị với Trung ương xác định tổ chức, biên chế phù hợp với sự phân công, phân cấp đối với quận, huyện, phường, xã. Có chính sách cụ thể và chế độ phù hợp nhằm bảo đảm tăng cường cấp cơ sở, ổn định đời sống và quyền lợi của cán bộ phường, xã.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương, thành phố cần tích cực đóng góp vào sự tăng cường tình hữu nghị và hợp tác quốc tế, trước hết là đối với các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt đối với Liên Xô, Cam-pu-chia và Lào, củng cố và phát triển tốt hơn nữa mối quan hệ kết nghĩa anh em với các tỉnh và thành phố Lê-nin-grát, Lai-xích, Pra-tít-la-va, Phnôm-pênh v.v… Qua đó, giáo dục và nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản chân chính đối với nhân dân thành phố.

VII. PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ TẬP THỂ CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG, PHÁT ĐỘNG MẠNH MẼ PHONG TRÀO HÀNH ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA QUẦN CHÚNG

Song song với việc kiện toàn bộ máy chính quyền, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác vận động quần chúng, củng cố các tổ chức đoàn thể, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động nhằm tạo ra nhiều phong trào hành động cách mạng sôi nổi trong các tầng lớp nhân dân ở mỗi ngành, mỗi cấp, trên khắp các mặt hoạt động của thành phố. Tiếp tục phát triển mạnh mẽ phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, giữ vững nền nếp sơ kết, tổng kết, khen thưởng học tập và nhân điển hình tiên tiến.

Cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận, làm cho toàn Đảng bộ nhận rõ vai trò quần chúng, vị trí chiến lược và nội dung của công tác vận động quần chúng trong giai đoạn mới. Cán bộ đảng viên cư trú tại phường, xã phải tham gia sinh hoạt đều đặn tổ dân phố, tổ nhân dân, tích cực làm công tác dân vận ở cơ sở. Phải lãnh đạo và kiểm tra chặt chẽ công tác quần chúng của cán bộ, đảng viên. Bố trí cán có năng lực, có uy tín và có nhiệt tình phụ trách công tác dân vận. Kiện toàn Ban chấp hành các đoàn thể và ủy ban mặt trận, củng cố bộ máy làm công tác dân vận ở các cấp.

Công đoàn phải giáo dục công nhân viên chức ý thức giai cấp, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, nâng cao tinh thần làm chủ tập thể ở xí nghiệp, cơ quan, đồng thời tham gia làm chủ trên địa bàn dân cư, góp phần xây dựng cuộc sống mới nơi cư trú. Nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp cho công nhân viên chứa. Phát huy vai trò lãnh đạo, nòng cốt của giai cấp công nhân trong ba cuộc cách mạng, tích cực tham gia vào công cuộc cải tạo và xây dựng thành phố. Phải tiếp tục phát động các phong trào: nâng cao chất lượng sản phẩm, thực hành tiết kiệm, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa… Trên cơ sở các phong trào được phát động mà giáo dục, xây dựng, phát triển lực lượng, củng cố Công đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản và tổ chức Đảng trong giai cấp công nhân. Phấn đấu đến năm 1985 có 50% tổ chức công đoàn cơ sở đạt tiêu chuẩn vững mạnh. Cùng với chính quyền, Công đoàn có trách nhiệm tổ chức tốt đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân viên chức. Cần giáo dục, tổ chức công nhân trong các xí nghiệp tư nhân, đẩy mạnh sản xuất theo đúng pháp luật Nhà nước, đồng thời đấu tranh để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

Xây dựng và phát triển Hội lao động hợp tác để giáo dục, tập hợp lao động tiểu, thủ công nghiệp, động viên họ tham gia vào các hình thức làm ăn tập thể, đưa tiểu, thủ công nghiệp vào quỹ đạo xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực, làm hàng giả, hàng xấu, bớt xén nguyên liệu của Nhà nước, tuồn hàng hoá ra thị trường tự do.

Hội Liên hiệp nông dân tập thể cần ra sức giáo dục phát động nông dân thực hiện có kết quả ba cuộc cách mạng, đưa nông thôn ngoại thành tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội. Phát động rộng rãi phong trào sử dụng các giống lúa mới, áp dụng các quy trình kỹ thuật trong trồng trọt và chăn nuôi; phát triển kinh tế gia đình; đẩy mạnh phong trào làm thủy lợi, làm phân hữu cơ, cải tiến công cụ sản xuất, đưa công cụ nửa cơ giới và cơ giới vào sản xuất nông nghiệp. Vận động nông dân đấu tranh xóa bỏ bóc lột ở nông thôn, đi vào làm ăn tập thể. Đẩy mạnh phong trào xây dựng cuộc sống lành mạnh, có văn hóa, chống các tập tục lạc hậu, nâng cao trình động văn hoá ở nông thôn. Thu hút hầu hết nông dân vào hội, xây dựng tổ chứ chội đều khắp trong các cơ sở sản xuất tập thể, làm nòng cốt trong sản xuất, cải tạo và xây dựng nông thôn mới.

Nhiệm vụ trung tâm của đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh thành phố trong những năm tới là: giáo dục cho đoàn viên và thanh niên lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; đấu tranh giữa địch và ta; nhận rõ lao động và bóc lột, phân biệt lối sống cũ và lối sống mới; đẩy mạnh phong trào ba xung kích làm chủ tập thể.

Hết sức chú trọng nâng cao chất lượng đoàn viên, đẩy mạnh công tác phát triển Đoàn, nhất là trong khu vực xí nghiệp, trường học và các địa bàn trọng yếu về chính trị, kinh tế, quốc phòng. Nâng tỷ lệ đoàn viên lên 20% so với tổng số thanh niên thành phố.

Cần đổi mới một số nội dung, phương thức hoạt động và hình thức tập hợp để thu hút đông đảo thanh niên tham gia các phong trào xung kích trong ba cuộc cách mạng. Phát động phong trào tiến quân vào khoa học - kỹ thuật, phát huy sáng kiến, tăng năng suất lao động, thực hành tiết kiệm, phong trào xây dựng các công trình thanh niên, xây dựng cánh đồng mẫu, làm phân hữu cơ; phong trào thanh niên xung kích bảo vệ an ninh Tổ quốc, phong trào văn hoá, văn nghệ thể dục thể thao v.v…

Có kế hoạch duy trì và phát triển các phong trào tuổi nhỏ làm việc nhỏ, công tác Trần Quốc Toản, phong trào làm theo 5 điều Bác Hồ dạy… Coi trọng việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ thiếu niên nhi đồng. Đặc biệt cần chăm sóc các cháu con em của thương binh liệt sĩ, trẻ em tàn tật, trẻ em mồ côi. Đưa đại bộ phận các cháu thất học vào các lớp học văn hoá, các trường dạy nghề; kiên trì giáo dục và giảm tới mức thấp nhất số thanh, thiếu niên hư hỏng.

Củng cố và phát triển Đội Thiếu niên Tiền phong và Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh, đào tạo đủ cán bộ phụ trách, tăng thêm cơ sở vật chất cho hoạt động thiếu nhi.

Hội Liên hiệp Phụ nữ cần giáo dục, tổ chức, vận động các tầng lớp phụ nữ tiếp tục đẩy mạnh phong trào người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Huy động mọi khả năng của phụ nữ tham gia vào mặt trận phân phối lưu thông, quản lý thị trường, xây dựng và phát triển mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Động viên lực lượng phụ nữ làm tốt công tác hậu phương quân đội. Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hoá mới, sinh đẻ có kế hoạch, nuôi con tốt, dạy con ngoan. Phát triển mạnh kinh tế gia đình, góp phần chăm lo đời sống phụ nữ trẻ em trên địa bàn dân cư. Phát huy quyền làm chủ tập thể của phụ nữ, thực hiện nam nữ bình đẳng. Ra sức củng cố tổ chức Hội phụ nữ vững mạnh từ cơ sở theo cơ chế mới ở phường, xã. Nâng cao chất lượng hội viên và mở rộng mặt trận đoàn kết phụ nữ. Quan tâm nghiên cứu đề xuất các vấn đề về lao động nữ và chính sách đối với cán bộ nữ. Đấu tranh khắc phục những mặt tiêu cực trong giới nữ, thu hẹp diện chậm tiến và tệ nạn xã hội.

Trong năm 1984, các chi hội phụ nữ phường, xã phấn đấu bảo đảm điều tra và thống kê được lao động nữ, các hội viên phụ nữ ngoại thành có kinh tế gia đình, các chi hội phường, xã tham gia tổ chức màng lưới phân phối lẻ, và các chợ trong thành phố đều có chi hội phụ nữ và tập họp tiểu thương vào tổ ngành hàng. Trong hai năm 1984 – 1985, vận động khu vực ngoại thành bình quân mỗi hộ nuôi 1,5 con heo.

Mặt trận Tổ quốc các cấp phải tăng cường giáo dục và động viên các tầng lớp, giai cấp, tôn giáo, dân tộc ở thành phố và kiều bào ở nước ngoài tích cực góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đảng đề ra. Động viên lực lượng trí thức tham gia tích cực vào các hoạt động văn hoá, khoa học và kỹ thuật để góp phần cải tạo và xây dựng thành phố. Phát động phong trào yêu nước, yêu hòa bình trong quần chúng tín đồ các tôn giáo. Thường xuyên vạch trần âm mưu, thủ đoạn nhất là âm mưu thủ đoạn cụ thể của địch chia rẽ lương giáo, chia rẽ dân tộc, chống phá cách mạng. Phát động và giáo dục người Hoa đoàn kết trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, làm tròn nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ thành phố. Vận động trung, tiểu thương người Hoa chuyển mạnh sang sản xuất. Mặt trận các cấp thành phố phải tích cực tham gia và chăm lo tổ chức đời sống xã hội của nhân dân lao động trên các loại địa bàn dân cư khác nhau.


PHẦN III

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ, XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH VỮNG MẠNH, BẢO ĐẢM HOÀN THÀNH MỌI NHIỆM VỤ ĐỀ RA

Đảng bộ thành phố phải tiếp tục phát huy mạnh mẽ tinh thần cách mạng tiến công, tính tích cực, chủ động, ý thức trách nhiệm đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, dấy lên những phong trào cách mạng của quần chúng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, không ngừng vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mình.

Phải nâng cao tính giai cấp, tính tiên phong của Đảng, tăng cường bản chất cách mạng và tính khoa học trong việc vận dụng đúng đắn, sáng tạo và tổ chức chỉ đạo thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ tưrơng của Đảng. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức, có tác phong công nghiệp, có năng lực hoạt động thực tiễn, nhất là năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Phấn đấu xây dựng Đảng bộ thành phố trở thành Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

1/ Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng:

Tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, hiểu rõ tính chất gay go, phức tạp, quyết liệt và lâu dài của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, đấu tranh địch – ta trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Coi trọng giáo dục đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối kinh tế của Đảng.

Giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố hiểu sâu sắc và cụ thể âm mưu thâm độc và thủ đoạn xảo quyệt của bọn bành trướng, bá quyền Trung Quốc câu kết với đế quốc Mỹ chống phá nước ta.

Tiếp tục giáo dục lý tưởng cộng sản, bồi dưỡng phẩm chất và truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao ý chí chiến đấu, ý thức trách nhiệm, tinh thần hy sinh quên mình vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân. Nâng cao ý thức tổ chức, kỷ luật và xây dựng lối sống trong sạch, giản dị. Kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện sa sút ý chí chiến đấu, hoài nghi, bi quan, không chấp hành nghiêm túc đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chống tập trung quan liêu, hành chính bao cấp, đồng thời chống tự do, tùy tiện, vô kỷ lật, thiếu trách nhiệm. Chặn đứng và đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực trong Đảng và cơ quan Nhà nước.

Có quy hoạch và kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đảng viên. Đến cuối năm 1985 mỗi cán bộ, đảng viên phải học một lớp lý luận chính trị ở các trường Đảng (tập trung hoặc tại chức). Cần kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác giảng dạy ở các trường Đảng, gắn liền việc giảng dạy, học tập lý luận với thực tiễn.

2/ Xây dựng Đảng về mặt tổ chức:

a/ Trong ba năm tới, Đảng bộ thành phố phải phấn đấu từng bước tăng cường thành phần công nhân trực tiếp sản xuất. Chăm lo và đẩy mạnh việc đào tạo cán bộ từ giai cấp công nhân, để bổ sung cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành.

Phải tập trung phát triển và tăng cường đảng viên, đoàn viên, lực lượng nòng cốt cho những khu vực xung yếu và những nơi lực lượng còn quá mỏng như thương nghiệp, giáo dục, sản xuất, tiểu, thủ công nghiệp, lực lượng vũ trang và bán vũ trang ở cơ sở.

Cần đặc biệt coi trọng việc xây dựng và thực hiện tốt quy hoạch cán bộ. Có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ phù hợp với yêu cầu của từng đối tượng, từng loại cán bộ. Phải có kế hoạch phối hợp chặt chẽ về nội dung chương trình đối với tất cả các trường đào tạo cán bộ làm công tác Đảng, chính quyền và đoàn thể trong thành phố. Có phân công, phân cấp trong việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ. Ban Tổ chức, Ban Tuyên huấn và trường Đảng có nhiệm vụ tổng kết công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ của tất cả các ngành, các cấp trong thành phố và xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị hiện nay của Đảng bộ và chuẩn bị cho đội ngũ cán bộ kế thừa. Phát hiện và bồi dưỡng những cá nhân tiên tiến, có triển vọng, để kết nạp vào Đảng, Đoàn và đào tạo thành cán bộ. Mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ, nữ, qua thực tiễn công tác, chiến đấu tỏ rõ có phẩm chất và năng lực. Thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ lớn tuổi, có nhiều cống hiến.

Phải sử dụng và phát huy tốt đội ngũ cán bộ hiện có, từng bước chuyên môn hoá cán bộ, không để cán bộ kiêm nhiệm nhiều việc. Cần bố trí kết hợp cán bộ ở lứa tuổi khác nhau để bổ sung cho nhau. Cần xây dựng quan điểm đúng đắn trong việc đánh giá cán bộ, khắc phục những biểu hiện phiến diện chỉ coi trọng thành phần giai cấp, quá trình công tác, bằng cấp, học vị, mà xem nhẹ phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng hoặc ngược lại.

b/ Các cấp ủy Đảng phải tổ chức tốt công tác kiểm tra, sơ kết tổng kết, coi đó là một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng ở các cấp, các ngành; kiểm tra việc chấp hành Điều lệ Đảng, việc giữ gìn phẩm chất cách mạng và sự hoạt động của đảng viên. Kịp thời biểu dương, khen thưởng những tổ chức và cá nhân có thành tích xuất sắc, đồng thời phát hiện những phần tử thoái hoá biến chất và những người có sai lầm để giáo dục, hoặc xử lý kỷ luật. Cần thi hành kỷ luật và pháp luật nghiêm minh đối với tất cả mọi trường hợp vi phạm.

c/ Để làm tròn trách nhiệm của một Đảng bộ ở một thành phố là trung tâm công nghiệp, văn hoá và khoa học kỹ thuật, phải nhanh chóng nâng cao trình độ văn hoá, kiến thức quản lý khoa học kỹ thuật và tác phong công nghiệp cho đội ngũ cán bộ. Trong vài năm tới đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp các ngành từ cơ sở trở lên ít nhất phải học xong cấp II và phải được trang bị những kiến thức tối thiểu về quản lý kinh tế - xã hội. Đồng thời phải bảo đảm cung cấp thường xuyên tài liệu, sách báo và những lượng thông tin cần thiết phục vụ cho công tác.

d/ Qua phong trào cách mạng của quần chúng, đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên mới trong giai cấp công nhân, nông dân tập thể và cán bộ khoa học, kỹ thuật, chú ý lực lượng trẻ và nữ. Đặc biệt coi trọng phát triển đảng viên mới trong công nhân trực tiếp sản xuất. Phấn đấu trong hai năm tới phát triển được khoảng 3.000 đảng viên là công nhân trực tiếp sản xuất. Trong công tác phát triển Đảng phải vừa chống tư tưởng hẹp hòi, đồng thời chống khuynh hướng chạy theo số lượng, không bảo đảm chất lượng, phải nêu cao tinh thần trách nhiệm của các cấp ủy Đảng và mỗi đảng viên trong công tác phát triển Đảng.

Phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không còn đủ tư cách đảng viên, trước hết là số đảng viên còn để lại xem xét trong các đợt phát thẻ Đảng vừa qua. Tăng cường mọi mặt về công tác bảo vệ Đảng, bảo đảm không để kẻ địch và phần tử xấu chui vào Đảng và các cơ quan Nhà nước.

đ/ Tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, cải tiến nội dung sinh hoạt, nhất là sinh hoạt chi bộ. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng Đảng bộ cơ sở vững mạnh, trong sạch, kết hợp với việc thực hiện cơ chế tổ chức và phát huy phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, học tập và nhân điển hình tiên tiến.

Phấn đấu đến năm 1985 có trên 20% cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn vững mạnh, không có cơ sở yếu kém.

e/ Phấn đấu đến năm 1985, đưa số lượng đoàn viên lên khoảng 20% so với tổng số thanh niên, bảo đảm tất cả các cơ sở đều có tổ chức Đoàn, 50% tổ chức cơ sở Đoàn là cơ sở vững mạnh. Phấn đấu trong hai năm tới, giới thiệu cho Đảng 10.000 đoàn viên ưu tú để xem xét kết nạp vào Đảng, trong đó trên 50% là công nhân trực tiếp sản xuất.

3/ Nâng cao hiệu quả của công tác chỉ đạo thực hiện:

Để biến nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần này thành hiện thực, phải có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức chỉ đạo thực hiện.

a/ Trước hết, cần tổ chức triển khai tốt Nghị quyết Đại hội lần này đến tận cơ sở và đảng viên.

b/ Trên cơ sở đó, Đảng bộ, các ban, ngành và đoàn thể các cấp phải xây dựng chương trình hành động cụ thể để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ III. Trong chương trình hành động cần xác định rõ mục tiêu, chỉ tiêu phải hoàn thành; có những biện pháp đồng bộ, bước đi cụ thể; có chỉ đạo điểm rút kinh nghiệm, phân công trách nhiệm rõ ràng và ấn định thời hạn hoàn thành.

c/ Cần chấn chỉnh, kiện toàn các ban tham mưu của cấp ủy và ủy ban nhân dân các cấp. Kiện toàn và tăng cường cán bộ cho các bộ phận xung yếu hoặc thiếu cán bộ như nội, ngoại thương, tòa án, kiểm sát, tư pháp.

d/ Hình thành các tổ chức hợp tác kinh tế với các tỉnh, với các công trình trọng điểm trung ương đang triển khai gần thành phố, với nước bạn Cam-pu-chia, phát huy tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa với các ngành, bộ trung ương trên địa bàn thành phố.

e/ Cải tiến chế độ làm việc, hội họp của các cấp ủy Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng. Cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp, các ngành và đoàn thể cần đi sát cấp dưới, đi sát cơ sở, tiếp xúc với quần chúng để tự mình kiểm tra và xử lý công việc tại chỗ, khắc phục tệ quan liêu, xa thực tế, xa quần chúng. Dành một ngày trong tuần để tất cả cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp thành và quận, huyện đi công tác ở cơ sở. Chuẩn bị tốt các hội nghị, bảo đảm hội nghị ngắn, gọn, có chất lượng, bảo đảm thông tin kịp thời, chính xác, khoa học và từng bước đưa kỹ thuật điện toán vào công tác thông tin.

Phải thực hiện việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm trong việc thực hiện Nghị quyết, trên từng lĩnh vực, từng khâu công tác lớn, trong từng thời gian nhất định.

Các cấp, các ngành chú ý hoàn thành tổng kết lịch sử, tổng kết công tác 10 năm để kỷ niệm những ngày lễ lớn trong năm 1985.

Bảo đảm nữa năm sơ kết công tác một lần vào tháng 7 và cả năm tổng kết công tác vào tháng 1 ở tất cả các ngành, các cấp và cơ sở. Đẩy mạnh phong trào học tập và nhân điển hình tiên tiến, xây dựng nhiều mô hình tiên tiến trong các lĩnh vực hoạt động, xem đây là một biện pháp chỉ đạo quan trọng.

*

Đại hội lần thứ III của Đảng bộ thành phố chúng ta phải là đại hội nắm vững hơn nữa chuyên chính vô sản, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, phát động liên tục, sôi nổi phong trào hành động cách mạng của quần chúng, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, quyết tâm đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, tích cực phát huy vai trò, vị trí và trách nhiệm của thành phố, sớm hình thành cơ cấu công – nông nghiệp trên địa bàn thành phố và khu vực, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược và bốn mục tiêu do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đề ra.

Được sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Hội đồng Bộ trưởng, sự hướng dẫn của các bộ, ban, ngành, trung ương, sự hợp tác chặt chẽ của các tỉnh bạn, và với sự hưởng ứng nhiệt tình của nhân dân thành phố, chúng ta nhất định thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần này, góp phần tích cực vào sự nghiệp cách mạng chung của cả nước.


Thông báo